Tải bản đầy đủ (.pdf) (562 trang)

Lý luận của C.Mác về phân chia lợi nhuận giữa các loại tư bản trong điều kiện của thế giới hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.55 MB, 562 trang )


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ-HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH








BÁO CÁO
TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ NĂM 2011

Mã số: B11-09


Tên đề tài:
lý luËn cña C.m¸c vÒ ph©n chia lîi nhuËn
gi÷a c¸c lo¹i t− b¶n trong ®iÒu kiÖn cña thÕ giíi hiÖn nay







Cơ quan chủ trì : Viện Kinh tế
Chủ nhiệm đề tài : TS Đoàn Xuân Thủy
Thư ký đề tài : Th.S Nguyễn Thị Minh Tân






9112


Hà Nội - 2011

LỰC LƯỢNG NGHIÊN CỨU

Họ và tên Đơn vị công tác
1. CN Phạm Anh Học viên lớp cao học KTCT 17
2. CN Nguyễn Thành Chung Học viên lớp cao học KTCT 16 KTT
3. Th.S Nguyễn Thị Đa Trường Chính trị tỉnh Hòa Bình
4. CN Nguyễn Văn Đức Học viên lớp cao học KTCT 17 KTT
5. CN Hoàng Việt Đức Học viên lớp cao học KTCT 17 KTT
6. TS Phạm Ngọc Dũng Học viện CT-HCQGHCM
7. Th.S Phạm Mạnh Hà NCS Viện Kinh tế
8. PGS.TS Tô Đức Hạnh Đại học kinh tế quốc dân
9. PGS.TS Nguyễn Văn Hậu Học viện CT-HCQGHCM
10. CN Trương Diệp Hằng Học viện CT-HCQGHCM
11. Th.S Trần Thị Kim Hiền Đại học Hà Tĩnh
12. CN Phạm Văn Học Học viên lớp cao học KTCT 17 KTT
13. CN Nguyễn Thị Hồng Huệ Học viên lớp cao học KTCT 17
14.
CN Nguyễn Thị Hương Học viên lớp cao học KTCT 16
15. CN Hà Trung Kiên Học viên lớp cao học KTCT 17 KTT
16. Th.S Trân Thị Lan Học viện Báo chí và Tuyên truyền
17. CN Nguyễn Thị Hồng Lâm Học viên lớp cao học KTCT 17 KTT

18. CN Bùi Hồng Linh Học viên lớp cao học KTCT 17 KTT
19. PGS.TS Hoàng Thị Bích Loan Học viện CT-HCQGHCM
20. TS Đào Thị Ngọc Minh Đại học Sư phạm Hà Nội
21. TS Vũ Ngọc Minh Sở KH&ĐT tỉnh Lạ
ng Sơn
22. CN Tạ Văn Nam Học viên lớp cao học KTCT 17
23. CN Lê Thị Huyền Nga Học viên lớp cao học KTCT 17
24. TS Ngô Tuấn Nghĩa Học viện CT-HCQGHCM
25. CN Hoàng Mạnh Phú Học viên lớp cao học KTCT 17 KTT
26. CN Nguyễn Hoài Phương Học viên lớp cao học KTCT 15 KTT
27. TS Đinh Văn Phượng Trường Đại học chính trị Bắc Ninh
28. TS Trần Hoa Phượng Học viện CT-HCQGHCM
29. Th.S Nguyễn Thị Minh Tân H
ọc viện CT-HCQGHCM
30. Th.S Lê Bá Tâm Học viện CT-HCQGHCM
31. CN Nguyễn Phương Thảo Học viên lớp cao học KTCT 17 KTT
32. Th.S Tống Đức Thảo Học viện CT-HCQGHCM
33. Th.S Lê Thị Thúy Học viện Báo chí và Tuyên truyền
34. TS Đoàn Xuân Thủy Học viện CT-HCQGHCM
35. CN Dương Văn Toàn Học viên lớp cao học KTCT 16
36. Th.S Trương Nam Trung Học viện CT-HCQGHCM
37. TS Nguyễn Thị Tú Học viện Tài chính.

CÁC CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG ĐỀ TÀI


BĐS : Bất động sản
CNTB : Chủ nghĩa tư bản
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CTCP : Công ty cổ phần

CTTNHH : Công ty trách nhiệm hữu hạn
DN : Doanh nghiệp
DN FDI : Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
DNLD : Danh nghiệp liên doanh
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
DNNNĐP : Doanh nghiệp nhà nước địa phương
DNNNTW : Doanh nghiệp nhà nước trung ương
DNTN : Doanh nghiệp tư nhân
EU : Liên minh châu Âu
FDI : Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
GCNQSDĐ : Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
KH-CN : Khoa học - công nghệ
KTTT : Kinh tế thị trường
NHTW : Ngân hàng trung ương
ODA : Hỗ trợ phát triển chính thức
PERQ : Chương trình cải thiện chất lượng chính sách
PTTH : Phổ thông trung học
R&D : Nghiên cứu và triển khai
TBCN : Tư bản chủ nghĩa
TNC : Công ty xuyên qu
ốc gia
TTCK : Thị trường chứng khoán
TTTC : Thị trường tài chính
VCCI : Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
WB : Ngân hàng thế giới
WEF : Diễn đàn kinh tế thế giới
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
XDCB : Xây dựng cơ bản
XHCN : Xã hội chủ nghĩa

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1:
QUY LUẬT PHÂN CHIA LỢI NHUẬN GIỮA CÁC LOẠI TƯ
BẢN TRONG ĐIỀU KIỆN CHỦ NGHĨA TƯ BẢN TỰ DO
CẠNH TRANH

12
1.1. Bản chất quy luật phân chia lợi nhuận trong chủ nghĩa tư bản tự
do cạnh tranh
12
1.1.1. Lợi nhuận - hình thái chuyển hóa của giá trị thặng dư trong
chủ nghĩa tư bản 12
1.1.2. Lợi nhuận bình quân - quy luật điều tiết phân phối lợi nhuận
trong chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh 31
1.2. Sự phân chia lợi nhuận giữa các loại tư bản trong chủ nghĩ
a tư bản
tư do cạnh tranh
43
1.2.1 Các loại tư bản trong chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh và
mối quan hệ giữa chúng 43
1.2.2. Sự phân chia lợi nhuận giữa các loại tư bản trong chủ nghĩa
tư bản tự do cạnh tranh 56
Chương 2:
ĐẶC ĐIỂM MỚI TRONG PHÂN CHIA LỢI NHUẬN GIỮA
CÁC LOẠI TƯ BẢN TRONG ĐIỀU KIỆN THẾ GIỚI HIỆN NAY


75
2.1. Những đặc điểm cơ bản của thế giới hiện nay tác động tới sự phân
chia tư bản và quy luật phân chia lợi nhuận giữa các loại tư bản
75
2.1.1. Sự hình thành, phát triển của độc quyền tư bản 75
2.1.2. Sự phát triển của khoa học - công nghệ 84
2.1.3. Toàn cầu hóa kinh tế 95
2.1.2. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước 98
2.2. Đặc điể
m phân chia lợi nhuận giữa các loại tư bản trong điều kiện
thế giới hiện nay
101
2.2.1. Những đặc điểm chung 101
2.2.2. Phân chia lợi nhuận ở Việt Nam hiện nay 120
Chương 3:
VẬN DỤNG LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ PHÂN CHIA LỢI
NHUẬN GIỮA CÁC LOẠI TƯ BẢN VÀO ĐỀ XUẤT QUAN
ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

140
3.1. Quan điểm
140
3.2. Giải pháp
146
3.2.1. Tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu lý luận của C.Mác về phân
chia lợi nhuận giữa các loại tư bản để tìm ra và học hỏi kinh
nghiệm xác lập quan hệ sản xuất mới trong điều kiện nền
kinh tế thị trường 146
3.2.2. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa 149
3.2.3. Đẩy nhanh quá trình phát triển hệ thống thị trường,
đặc biệt
là thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường
khoa học công nghệ, thị trường lao động 158
3.2.4. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực phù
hợp với sự chuyển dịch cơ cấu ngành trong điều kiện kinh
tế thị trường, hội nhập và cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại 174
3.2.5. Tăng cường vai trò qu
ản lý giám sát của nhà nước đối với
phân chia lợi nhuận đảm bảo sự bình đẳng trong giải quyết
vấn đề lợi ích giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế 196
KẾT LUẬN
199
TÀI LIỆU THAM KHẢO
201
PHỤ LỤC
205





1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, việc nghiên cứu về chủ nghĩa Mác - Lênin nói
chung và học thuyết kinh tế của C.Mác nói riêng ở nước ta thường xuyên

được quan tâm chú trọng. Nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin với tư cách là
cơ sở lý luận khoa học, nền tảng tư tưởng cho phong trào công nhân, cho
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội không ngừng được bổ sung, hoàn thiện
và phát triể
n phù hợp với những điều kiện mới của thế giới và trong nước.
Nếu như trước đây, việc nghiên cứu và vận dụng lý luận kinh tế của
C.Mác chủ yếu được thực hiện theo hai hướng tương đối tách biệt: một là, sử
dụng những quan điểm của C.Mác về chủ nghĩa tư bản để phê phán chủ nghĩa
tư bản v
ới tư cách là một xã hội bóc lột, bất công và nhất thời; hai là, nghiên
cứu vận dụng những dự báo của C.Mác về xã hội tương lai trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì trong những năm gần đây đã xuất hiện xu
hướng mới trong nghiên cứu lý luận của C.Mác về nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa để vận dụng vào công cuộc đổi mới ở Việ
t Nam, đặc biệt là về học
thuyết giá trị thặng dư, trong đó có lý luận về sự phân chia lợi nhuận giữa các
loại tư bản.
Mặc dù vậy, cho đến nay việc nghiên cứu lý luận của C.Mác về sự
phân chia lợi nhuận giữa các loại tư bản vẫn chưa được quan tâm đúng mức.
Nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức phổ biến ngày nay về vấn đề này vẫ
n
chỉ dừng lại ở mức khẳng định rằng xã hội tư bản là xã hội bóc lột, các hình
thái thu nhập của các loại tư bản, mà C.Mác đã phân tích, chẳng qua chỉ là
biểu hiện của giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh. Hơn
thế nữa, chủ nghĩa tư bản ngày nay đã chuyển hóa thành chủ nghĩa tư bản độc
quyề
n với sự gia tăng vai trò kinh tế của nhà nước trong điều kiện toàn cầu
hóa và cách mạng khoa học - công nghệ đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
Tình hình đó đã gây ra nhận thức không đúng, rằng lý luận của C.Mác về sự


2
phân chia lợi nhuận giữa các loại tư bản không còn giá trị thời đại, những
nghiên cứu về lý luận này chủ yếu nhằm hiểu rõ thêm bản chất bóc lột của tư
bản nói chung và từng hình thái tư bản cụ thể nói riêng, vấn đề nghiên cứu để
vận dụng vào phát triển kinh tế ngày nay ở nước ta hầu như chưa được quan tâm.
Trong khi đó, việc hoạch định đường lố
i chính sách xây dựng chủ
nghĩa xã hội vẫn là công việc vô cùng khó khăn, phải vừa làm vừa rút kinh
nghiệm do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân không nhỏ là còn
thiếu cơ sở lý luận khoa học. Trong nghiên cứu lý luận ở nước ta đã gặp phải
không ít sai lầm nghiêm trọng như phủ nhận tính tất yếu khách quan của kinh
tế hàng hóa, kinh tế thị trường trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tư
duy mới kể từ khi đổi m
ới đã khẳng định rõ sự cần thiết phải sử dụng kinh tế
thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng cũng đang đặt ra không ít vấn
đề cần giải quyết cả trong lý luận và trong thực tiễn. Làm thế nào để xác lập
quan hệ sản xuất mới, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển
nền kinh tế thị tr
ường ở nước ta trong điều kiện đa sở hữu, thành phần kinh tế
và hội nhập, cho đến nay vẫn là những vẫn đề chưa tìm được lời giải đầy đủ.
Trong nghiên cứu và giảng dạy về lý luận của C.Mác tại hệ thống Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, trong hệ thống các viện
nghiên cứu về kinh tế và các trường đại học ở nướ
c ta, vấn đề phân chia lợi
nhuận giữa các loại tư bản, vẫn chủ yếu được đề cập tới theo phương diện
khẳng định rằng, các hình thái thu nhập của các loại tư bản trong chủ nghĩa tư
bản tự do cạnh tranh là biểu hiện của giá trị thặng dư, là biểu hiện cụ thể của
bản chất bóc lột của quan hệ sản xu
ất tư bản chủ nghĩa.
Sự phân tích của C.Mác về mối quan hệ giữa các hình thái tư bản và sự

phân chia lợi nhuận giữa chúng dưới tác động quy luật phân phối giá trị thặng
dư chưa được quan tâm đúng mức, từ đó lý luận về từng loại tư bản và từng
hình thái lợi nhuận tương ứng với chúng mới chỉ được nghiên cứu chủ yếu
theo góc
độ tương đối độc lập, riêng rẽ. Quá trình trở thành thống trị của quan

3
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thông qua kinh tế thị trường trong lý luận của C.Mác
vì thế chưa được nghiên cứu làm rõ để có hướng vận dụng cụ thể và có hiệu quả
vào phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Mặc dù thế giới hiện nay đã có nhiều thay đổi so với thời kỳ C.Mác
nghiên cứu về chủ
nghĩa tư bản, song việc nghiên cứu lý luận của C.Mác về
phân chia lợi nhuận giữa các loại tư bản và tác động của những điều kiện mới
tới sự phân chia lợi nhuận giữa các loại tư bản ngày nay vẫn là vấn đề có tính
thời sự, cấp thiết. Sự nghiên cứu sâu thêm về vấn đề này sẽ cho phép bổ sung
và hoàn thiện cơ sở khoa học để ti
ếp tục khẳng định những giá trị khoa học có
tính thời đại của chủ nghĩa Mác -Lênin, đồng thời đúc rút được những kinh
nghiệm quý cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Lý luận của C.Mác
về phân chia lợi nhuận giữa các loại tư bản trong điều kiện của th
ế giới
hiện nay” làm đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2011 theo Quyết định
Số: 2780/QĐ- HVCT-HCQG, ngày 15 tháng 11 năm 2010 của Giám đốc Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tác phẩm "Tư bản" nổi tiếng của C.Mác là một công trình nghiên cứu
kinh tế hết sức vĩ đại, đồng thời có ý nghĩa lý luận vô cùng to lớn cả trong
thời đại ngày nay. Trong tác phẩm này, C.Mác

đã vận dụng những luận điểm
và khái niệm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử vào nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ông đã phân
tích khoa học và triệt để chủ nghĩa tư bản với tư cách là một hình thái kinh tế
- xã hội có tính lịch sử, đã vạch ra được các quy luậ
t ra đời, phát triển và diệt
vong của nó. Trong tác phẩm này, từ phân tích nguồn gốc và bản chất giá trị
thặng dư, C.Mác đã dành một dung lượng rất lớn để trình bày về sự phân phối
lợi nhuận giữa các loại tư bản thông qua mối quan hệ giữa các hình thái tư
bản và sự hình thành các hình thái chuyển hóa của giá trị thặng dư tương ứng,

4
từ đó ông đã khái quát được logic phát triển của chủ nghĩa tư bản trong sự kết
hợp phân tích logic với góc độ lịch sử.
Từ đó đến nay, trải qua đã hơn một thế kỷ, nền kinh tế - xã hội thế giới
có nhiều đổi thay. Chủ nghĩa tư bản, do thích ứng với những tác động của
cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển như
vũ bão, do sự chi phối
của lực lượng sản xuất đang phát triển ở trình độ cao đã đạt được năng suất
lao động cao, tạm thời kìm giữ được những mâu thuẫn kinh tế - xã hội ở một
giới hạn nhất định, nên hiện nay chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn còn tiềm năng
để phát triển. Trong khi đó, chủ nghĩa xã hội là mộ
t chế độ xã hội tiến bộ, là
tương lai của loài người, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử bị sụp đổ,
thất bại bởi duy trì một mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao
cấp Dựa vào đó, những thế lực thù địch dưới nhiều dạng thức khác nhau tiếp
tục tìm cách chia rẽ, tấn công, phản bác lý luận kinh tế của Mác, trong đó có lý
luận về
sự phân chia lợi nhuận giữa các loại tư bản cả trực tiếp và gián tiếp.
Để khẳng định sức sống và sự trường tồn của học thuyết giá trị thặng

dư nói chung và lý luận phân chia lợi nhuận giữa các loại tư bản nói riêng đã có
khá nhiều đề tài, công trình nghiên cứu liên quan tới lý luận của C.Mác về phân
chia lợi nhuận giữa các loại tư bản trong điều kiệ
n của thế giới hiện nay như:
2.1. Các công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu trong nước có liên quan
tới lý luận của C.Mác về phân chia lợi nhuận giữa các loại tư bản trong điều
kiện thế giới hiện nay, tiêu biểu là:
Thứ nhất, Đề tài khoa học cấp nhà nước giai đoạn 2001-2005 KX01.10
“Vấn đề phân phối nhằm đảm bảo phát triển kinh tế và th
ực hiện công bằng
xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” do GS.TS Nguyễn
Công Nghiệp làm chủ nhiệm.
Đề tài, từ xác định đối tượng phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã khẳng định lợi nhuận là hình thái thu

5
nhập quan trọng, có vai trò động lực trong hoạt động sản xuất kinh doanh và
cần phát huy vai trò đó của lợi nhuận trong nền kinh tế nước ta. Từ đó, đề tài
đã đề xuất quan điểm rằng phải xử lý hài hòa lợi ích giữa ba chủ thể là nhà nước,
doanh nghiệp, người lao động. Để lợi nhuận phát huy vai trò động lực thúc đẩy
kinh doanh hiệu quả đề tài đã đề xuất giải pháp ch
ống độc quyền, tạo sự công
bằng trong sự phát triển. Những kết quả nghiên cứu đó cho thấy tầm quan trọng
của lý luận phân chia lợi nhuận giữa các loại tư bản đối với phát triển kinh tế
nước ta ngày nay, song những phân tích đánh giá này chưa thực sự dựa vào lý
luận của C.Mác, do đó chưa luận giải rõ quy luật phân phối thu nhập giữa các
loại tư bản d
ưới hình thái lợi nhuận và vai trò của nó ở nước ta ngày nay.
Thứ hai, Đề tài KX01.02 “Kinh tế chính trị Mác - Lênin, những giá trị

và những vấn đề đặt ra” do GS, TS Chu Văn Cấp làm chủ nhiệm.
Đề tài đã khái quát những giá trị khoa học cơ bản của học thuyết kinh
tế của C.Mác về chủ nghĩa tư bản. Lý luận phân chia lợi nhuận giữa các loại
tư bản được nghiên cứu thông qua sự biểu hi
ện của giá trị thặng dư dưới các
hình thức lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức cho vay và địa tô tư bản chủ nghĩa.
Cùng với việc nhấn mạnh mặt giá trị khoa học của từng lý luận của C.Mác, đề
tài đã bước đầu phân tích một số nhân tố tác động tới sự phân chia lợi nhuận
giữa các loại tư bản ngày nay như sự phát triển củ
a các loại thị trường và sự
gia tăng của chi phí lưu thông, đặc biệt là chi phí lưu thông thuần túy…Đó là
những đóng góp không nhỏ trong nghiên cứu về lý luận phân chia lợi nhuận
giữa các loại tư bản, Tuy nhiên, những luận giải đó mới bước đầu đi vào phân
tích, khái quát, cần được tiếp tục nghiên cứu bổ sung hoàn thiện.
Thứ ba, đề tài khoa học cấp bộ năm 2007, “Những vấn đề
cần làm rõ
trong lý luận kinh tế chính trị Mác - Lênin về địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư
bản độc quyền”do PGS.TS Nguyễn Khắc Thanh làm chủ nhiệm.
Đề tài đã phân tích và khái quát được những nội dung cơ bản của học
thuyết của V.I.Lênin về chủ nghĩa tư bản độc quyền và chỉ ra tác động của

6
quá trình hình thành độc quyền tư bản, trở thành lực lượng kinh tế chi phối
những quan hệ kinh tế chủ yếu trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, từ đó đã
phân tích đánh giá tác động của độc quyền tư bản tới sự phân chia lợi nhuận
giữa các loại tư bản trong chủ nghĩa tư bản độc quyền. Kết quả nghiên cứu
củ
a đề tài này đã góp phần khẳng định những giá trị khoa học về lý luận và
phương pháp luận nghiên cứu kinh tế của C.Mác được V.I.Lênin kế thừa và
phát triển, tạo căn cứ khoa học và cơ sở phương pháp luận cho nghiên cứu

hoàn thiện lý luận của C.Mác về phân chia lợi nhuận giữa các loại tư bản
trong điều kiện thế giới ngày nay.
Thứ tư, đề tài khoa học c
ấp bộ năm 2009 “Lý luận của C.Mác về giá trị
thặng dư trong điều kiện của thế giới hiện nay" do TS Nguyễn Minh Quang
làm chủ nhiệm
Đề tài đã phân tích và khái quát được những nội dung cơ bản của học
thuyết giá trị thặng dư của C.Mác và bước đầu đề cập tới tác động của những
thay đổi về quan hệ sản xuất tương thích vớ
i sự phát triển của lực lượng sản
xuất mới của chủ nghĩa tư bản hiện đại và tác động của cách mạng khoa học -
công nghệ tới sự phân phối giá trị thặng dư trong điều kiện ngày nay. Kết quả
nghiên cứu của đề tài đã góp phần tạo cơ sở ban đầu cho phân tích lý luận của
C.Mác về phân chia lợi nhuận giữa các loại tư b
ản trong điều kiện của thế giới
hiện nay, tuy nhiên cần tiếp tục bổ sung, phát triển, đặc biệt là về hoạt động
của quy luật phân chia lợi nhuận giữa các loại tư bản trong nền kinh tế nước
ta hiện nay thông qua sự vận động của các hình thái cụ thể của lợi nhuận.
Thứ năm, các bài viết “Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác: Tính
khoa h
ọc và tính thời sự”; “Những nhận thức về chủ nghĩa tư bản hiện đại
dưới góc độ kinh tế chính trị” trong Sách tham khảo: "Những nhận thức kinh
tế chính trị trong giai đoạn mới ở Việt Nam” do PGS, TS Nguyễn Đình Kháng
và TS Vũ Văn Phúc, chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
Các công trình nghiên cứu trên đã phân tích việc ứng dụng thành tựu
khoa học - công nghệ hiện đại đã thúc đẩy l
ực lượng sản xuất các nước tư bản

7
chủ nghĩa phát triển, nhờ đó các tập đoàn tư bản độc quyền thu được lợi

nhuận siêu ngạch cao. Luận giải chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn dựa trên sự bóc
lột giá trị thặng dư, song hình thức, phương pháp, quy mô của sự bóc lột có sự
biến đổi, ví dụ như khoa học hoá, quốc tế hoá sự bóc lột; trong chủ nghĩa tư
bản vẫn tồn tại những bất bình đẳng, tệ nạn xã hội ngày càng phát triển với
trình độ và quy mô mới, thất nghiệp, khủng hoảng vẫn tồn tại dưới hình thức
mới. Từ đó, chứng minh mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại và
khẳng định sự thay thế tất yếu bằng một hình thái kinh tế - xã hội cao hơ
n.
Những kết quả nghiên cứu này có thể kế thừa để phân tích tác động của độc
quyền tư bản và cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại tới sự phân chia lợi
nhuận giữa các loại tư bản trong thế giới ngày nay.
Thứ sáu, bài viết của PGS, TS Mai Hữu Thực, “Phải chăng, lý luận giá
trị thặng dư của C.Mác đã lỗi thời”, Tạp chí Cộng sản 1995, số
5; các bài
viết của GS, TS Đỗ Thế Tùng: “Vận dụng học thuyết giá trị thặng dư và sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân,
9/1997; “Quan điểm của C.Mác về sự phát triển của hệ thống máy móc và ý
nghĩa của nó đối với nền kinh tế tri thức”, Hội thảo khoa học: "Kinh tế tri
thức và công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn ở Việ
t Nam", Hà Nội, 2003;
bài viết của PGS.TS Nguyễn Khắc Thanh “Một số vấn đề trong tư duy, nhận
thức về phát triển thị trường sức lao động”, Tạp chí cộng sản 2007, số 23.
Nội dung các bài viết đã nêu lên những luận điểm cốt lõi của lý luận
sản xuất giá trị thặng dư, phân tích tác động của cách mạng khoa học - công
nghệ hiện đại. tới sản xuất và phân phố
i giá trị thặng dư. Các tác giả đã nêu
một số quan điểm tư tưởng mơ hồ, hoài nghi về những nhận định của C.Mác
về trong điều kiện hiện nay, sau đó phân tích, phê phán , chỉ ra một số hướng
vận dụng lý luận giá trị thặng dư vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội ở
nước ta, qua đó, khẳng định sức sống và tính khoa học về những n

ội dung mà
C.Mác đã trình bày và sự biểu hiện trong thời đại ngày nay để củng cố niềm
tin về chân lý khoa học và cách mạng của học thuyết kinh tế C.Mác.

8
2.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài liên quan đến đề tài
Joseph Schumpeter trong tác phẩm “Lý thuyết phát triển kinh tế”
(1912) đã lần đầu tiên xây dựng lý luận lợi nhuận với tư cách là kết quả ứng
dụng khoa học - công nghệ, cho rằng chủ thể ứng dụng khoa học công nghệ
nhờ sử dụng hợp lý sự kết hợp giữa các yếu tố sản xuất sẽ thu được lợi nhuận
siêu ng
ạch. Ông nêu ra 5 kiểu ứng dụng công nghệ mới để thu được lợi nhuận
siêu ngạch là: sản xuất hàng hóa, dịch vụ mới hay là tạo ra chất lượng mới
của hàng hóa; xâm nhập và khai thác thị trường mới; ứng dụng công nghệ
mới để sản xuất hàng hóa và các phương pháp kinh doanh mới tiết kiệm và
hiệu quả hơn; nhận được những nguồn cung cấp nguyên vật liệu mới rẻ
hơn;
áp dụng phương thức quản lý mới hiệu quả hơn.
Tác giả Frank Knight trong cuốn sách “Rủi ro, tính không xác định và
lợi nhuận” (1921) trên cơ sở phân tích sâu sắc lý luận cạnh tranh hoàn hảo
cho rằng chủ thể chủ yếu của nền kinh tế thị trường là các nhà kinh doanh mà
hoạt động của họ dựa trên cơ sở mục tiêu lợi nhuận, từ đó cho rằng cần hiểu
bản chất của lợi nhuận với tư các là phần thưởng cho sự chấp nhận rủi ro của
các chủ thể kinh tế trong điều kiện cạnh tranh để tạo lập cơ chế phân phối lợi
nhuận phù hợp.
Hai học giả người Nga T.A.Isnailov và G.C.Gamidov trong "Bàn về
nền kinh tế dựa trên sơ đồ tri thức", (2002) cho rằng: trong điều kiện ngày
nay, tri thức trở thành nguồ
n lực hàng đầu mà mọi chủ thể đều phải cố gắng
chiếm hữu và phát triển nó. Từ đó, phân phối lợi nhuận sẽ trở nên có lợi cho

các chủ thể nắm giữ được tri thức.
Tác giả Evdokimova C.C. trong tác phẩm “Sự hình thành và phân chia
lợi nhuận doanh nghiệp trong điều kiện chuyển sang các biện pháp kinh
doanh thị trường” (2000) cho rằng, nhận thức đúng về bản chất, nguồ
n gốc
của lợi nhuận là chìa khóa cho sự phân chia lợi nhuận một cách công bằng,
hợp lý. Tính phức tạp của vấn đề hình thành và sử dụng lợi nhuận với tư cách
là phạm trù kinh tế ngày nay phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố gắn với trình độ

9
phát triển của quan hệ hàng hóa - tiền tệ, các hình thức sở hữu và cả xu thế
vận động của nền kinh tế thế giới. Tốc độ vận động nhanh của tư bản quốc tế,
sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia đã dẫn tới cần thiết phải tạo lập
những hệ thống tài chính hiệu quả, từ đó cần có phương pháp luận mới để
nghiên cứu về các hình thức, phạm vi tạo ra và sử dụng lợi nhuận.
Tác giả Malsheva E.C. trong tác phẩm “Sự hình thành và phân chia lợi
nhuận doanh nghiệp trong các hệ thống kinh doanh khác nhau” (2005), trên
cơ sở phân tích các quan điểm của các học giả trước đây về vấn đề lợi nhuận
và phân chia lợi nhuận trong các hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, kế hoạch
hóa tập trung, hỗn hợ
p, cho rằng cần tập trung phân tích sâu hơn về vị trí, vai
trò, chức năng của lợi nhuận doanh nghiệp trong các hệ thống kinh tế khác
nhau, đặc biệt trong hệ thống kinh tế hỗn hợp và hoạch định cơ chế, chính
sách tác động của nhà nước tới quá trình hình thành và phân phối lợi nhuận
phù hợp với những điều kiện đặc thù hiện nay của nền kinh tế nước Nga.
- David C.Korten trong tác phẩm "Bước vào th
ế kỷ XXI - Hành động tự
nguyện và chương trình nghị sự toàn cầu" đã nêu ra những dự báo xu hướng
phát triển cách mạng khoa học - công nghệ trong thế kỷ XXI, những ngành
kinh tế tri thức có tốc độ phát triển nhanh. Kéo theo đó, xu hướng toàn cầu

hoá làm tăng cường mối quan hệ phụ thuộc giữa các quốc gia. Quá trình sản
xuất và phân phối được chi phối bởi những nhân tố có tính toàn cầu. Vì vậy,
mỗi chính ph
ủ cần phải có chính sách phù hợp
Tác giả Thomas L. Friadman
trong tác phẩm “Thế giới phẳng - Tóm
lược lịch sử thế giới thế kỷ XXI” (Nxb Trẻ, 2006) đã phân tích một cách độc
đáo về qua trình toàn cầu hóa. Theo học giả, sự dỡ bỏ các rào cản về chính trị
những tiến bộ vượt bậc của cách mạng số đang làm giảm những trở ngại về địa
lý, đã và đang mở ra cho các nước những phương thứ
c sản xuất kinh doanh,
những tình thế địa chính trị và địa kinh tế hoàn toàn mới, tạo ra điều kiện thuận
lợi mới để thế giới làm ra những giá trị gia tăng lớn hơn, đồng thời cũng làm
cho việc phân phối kết quả đó trở nên phức tạp và khó khăn hơn.

10
Michael E. Porter trong các tác phẩm “Chiến lược cạnh tranh”, “Lợi
thế cạnh tranh” và “Lợi thế cạnh tranh quốc gia” (Nxb Trẻ, 2009), đã phân
tích sự phức tạp của cạnh tranh ngành, chỉ ra công cụ cạnh tranh mạnh mẽ
nhất để tối đa hóa lợi nhuận cho doanh nghiệp gồm ba chiến lược cạnh tranh
phổ quát: chi phí thấp, khác biệt hóa và trọng tâm, những chiến lược đã biến
định vị
chiến lược trở thành một hoạt động có cấu trúc. Từ phân tích chuỗi giá
trị đã chỉ ra phương thức xác định những nguồn lực tiềm ẩn của doanh nghiệp
để nâng cao năng lực cạnh tranh dựa trên năng suất nhằm thu lợi nhuận cao.
Tóm lại, từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, các công trình, đề tài nghiên
cứu đều đã có những cố gắng nhất định trong việc luận gi
ải về sự phân chia
lợi nhuận trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và toàn
cầu hoá kinh tế. Ở những mức độ nhất định, các công trình nghiên cứu đã

luận giải và phân tích được một số biểu hiện của phân chia lợi nhuận giữa các
loại tư bản trong điều kiện thế giới hiện nay và các nhân tố tác động tới quá
trình này. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn ch
ưa có một đề tài nào nghiên cứu một
cách toàn diện và có hệ thống lý luận của C.Mác về phân chia lợi nhuận giữa
các loại tư bản trong điều kiện của thế giới hiện nay. Vì vậy, đề tài nghiên cứu
không có sự trùng lặp với các công trình, đề tài đã được công bố.
3. Mục tiêu của đề tài
Làm rõ những nội dung cơ bản lý luận của C.Mác về phân chia lợi
nhuận giữa các lo
ại tư bản; phân tích đánh giá các nhân tố tác động tới quy
luật phân chia lợi nhuận giữa các loại tư bản, những đặc điểm chung của sự
phân chia lợi nhuận cùng những đặc điểm đặc thù ở Việt Nam trong điều kiện
của thế giới hiện nay; đề xuất quan điểm và các giải pháp vận dụng lý luận
này vào phát triển nền kinh tế thị trườ
ng định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục tiêu đó, đối tượng nghiên cứu của đề tài này là phạm
trù lợi nhuận và quy luật phân chia lợi nhuận. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

11
là biểu hiện của quy luật phân chia lợi nhuận trong chủ nghĩa tư bản tự do
cạnh tranh trước đây, trong điều kiện thế giới hiện nay nói chung và tại Việt
Nam nói riêng nhằm đề xuất hệ thống quan điểm, giải pháp nhằm tiếp tục
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
- S
ử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử để phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn;

- Sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, lôgíc kết hợp với lịch sử,
tổng kết, đánh giá tình hình phân phối lợi nhuận trên thế giới và ở Việt Nam;
- Trong quá trình nghiên cứu, đề tài chủ yếu dựa vào lý luận của C.Mác
về phân chia lợi nhuận giữa các lo
ại tư bản, đồng thời kế thừa một cách có
chọn lọc kết quả của các công trình nghiên cứu có liên quan đã công bố và
cập nhật những thông tin mới về chủ đề nghiên cứu.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Hệ thống hoá những nội dung cơ bản của lý luận của C.Mác về phân
chia lợi nhuận giữa các loại tư bản với tư cách là c
ơ sở khoa học cho phân
tích đánh giá về phân chia lợi nhuận trong điều kiện thế giới hiện nay;
- Phân tích, đánh giá các nhân tố tác động tới phân chia lợi nhuận và
động thái phân chia lợi nhuận trong điều kiện thế giới hiện nay nói chung và
tại Việt Nam nói riêng để bổ sung thêm căn cứ khoa học cho việc hoạch định
chính sách phát triển kinh tế ở nước ta thời gian tới;
- Vận dụng lý luận của C.Mác v
ề phân chia lợi nhuận giữa các loại tư
bản trong điều kiện thế giới hiện nay đề xuất các quan điểm, giải pháp thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam thời gian tới.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu và giảng dạy các chuyên đề
về chủ nghĩa tư bản hiện đại, quan
hệ kinh tế quốc tế cho các đối tượng học viên hệ cao cấp lý luận chính trị - hành
chính và đặc biệt là cho các học viên hệ sau đại học thuộc các chuyên ngành
kinh tế trong hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

12
Chương 1

QUY LUẬT PHÂN CHIA LỢI NHUẬN GIỮA CÁC LOẠI TƯ BẢN
TRONG ĐIỀU KIỆN CHỦ NGHĨA TƯ BẢN TỰ DO CẠNH TRANH

1.1. BẢN CHẤT QUY LUẬT PHÂN CHIA LỢI NHUẬN TRONG CHỦ
NGHĨA TƯ BẢN TỰ DO CẠNH TRANH
1.1.1. Lợi nhuận - hình thái chuyển hóa của giá trị thặng dư trong
chủ nghĩa tư bản
1.1.1.1. Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận trong nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa
Lợi nhuận là phạm trù đã được đề cập nghiên cứu từ rất sớm, tuy nhiên,
nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận chỉ được làm sáng tỏ dần cùng với
nh
ững nghiên cứu về bản chất kinh tế của CNTB với tư cách là môt phương
thức sản xuất xã hội được hình thành trên cơ sở phát triển của kinh tế hàng
hóa. Những quan niệm đầu tiên về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận được
phản ánh trong các nghiên cứu của các tác giả thuộc trường phái kinh tế chính
trị tư sản cổ điển như Trọng thương, Trọ
ng nông, Tư sản cổ điển Anh, Kinh tế
chính trị tư sản tầm thường.
Theo trường phái Trọng thương, lợi nhuận là nguồn chủ yếu để gia tăng
sự giàu có quốc gia. Nguồn gốc chủ yếu của lợi nhuận là từ lưu thông, đặc
biệt là ngoại thương. Vì vậy, để thu lợi nhuận cao, ổn định, cần phát triển
mạnh ngoại thương vớ
i sự điều tiết chặt chẽ chặt chẽ của nhà nước.
Đối lập với chủ nghĩa Trọng thương, các đại biểu của trường phái
Trọng nông mà đứng đầu là F.Quesnay cho rằng sự gia tăng của cải của quốc
gia phụ thuộc vào “sản phẩm ròng” do sản xuất nông nghiệp tạo ra. Lưu thông
chỉ phân phối lại giá trị của cải chứ không tạo ra củ
a cải, do đó muốn làm cho
quốc gia trở thành giàu có phải tập trung phát triển nông nghiệp.

Các nhà kinh tế thuộc trường phái kinh tế chính trị Tư sản cổ điển Anh
đã đưa ra cách nhìn mới về nguồn gốc của sự giàu có. Bằng lý luận giá trị lao

13
động, từ W.Petty, A.Smith, đến D.Ricardo đã hình thành và củng cố quan
điểm tương đối nhất quán rằng, chỉ có lao động sản xuất mới là nguồn gốc
thực sự của của cải, do đó, muốn gia tăng sự giàu có của quốc gia phải tập
trung phát triển sản xuất theo hướng kinh tế thị trường. Tuy nhiên, bên cạnh
quan điểm khẳng định rằng, giá trị do lao động hao phí để sả
n xuất ra hàng
hóa quyết định, A.Smith cũng đã đặt nền móng cho quan điểm khác về nguồn
gốc của giá trị hàng hóa từ các yếu tố sản xuất.
Kế thừa quan điểm thứ hai của A.Smith, các học giả thuộc trường phái
Kinh tế chính trị tư sản Tầm thường, mà đặc biệt là J.Say đã xây dựng lý luận
về các yếu tố sản xuất và các nguồn thu nhập, trong đ
ó lợi nhuận được luận
giải là do tư bản sinh ra.
Kế thừa có phê phán những quan điển của các học giả đi trước, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã tạo ra cuộc cách mạng về kinh tế chính trị. Nhờ hoàn chỉnh
học thuyết giá trị lao động và sáng tạo ra học thuyết giá trị thặng dư, C.Mác
đã đưa ra kiến giải khoa học về lợi nhuận trong nền kinh tế TBCN, nhờ
đó
vấn đề nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận về cơ bản đã được làm sáng tỏ.
Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận được C.Mác phân tích dựa trên
kết quả nghiên cứu về bản chất của tư bản với tư cách là quan hệ sản xuất đặc
trưng của nền kinh tế TBCN, nguồn gốc của giá trị thặ
ng dư là lao động
không công của giai cấp công nhân làm thuê và quá trình vận động của tư
bản, giá trị thặng dư trong kinh tế thị trường. Từ nghiên cứu quan hệ sản xuất
TBCN ở cấp độ trừu tượng nhất trong quá trình sản xuất trực tiếp, đến phân

tích sự vận động của nó thông qua lưu thông về phương diện là một quá trình
trung gian của tái sản xuất xã hội, C.Mác đã khẳng định: “quá trình sả
n xuất
tư bản chủ nghĩa, xét toàn bộ, là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất và quá
trình lưu thông”
1
. Từ đó Ông đã đặt ra nhiệm vụ logic tiếp theo là: “phải tìm
ra và mô tả được những hình thái cụ thể đẻ ra từ quá trình vận động của tư

1
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập. Nxb: CTQG, 1995, T.25, P.I tr.47.

14
bản với tư cách là một chỉnh thể”
2
. Ông cho rằng cần, nghiên cứu những hình
thái đó theo trình tự cụ thể hóa dần thể hiện quá trình “từng bước một tiến gần
đến cái hình thái mà chúng thể hiện ra ở bề mặt của xã hội, trong sự tác động
qua lại giữa các tư bản khác nhau, trong sự cạnh tranh và trong ý thức thông
thường của bản thân những nhân viên sản xuất”
3
.
Phạm trù xuất phát trong nghiên cứu về các hình thái cụ thể đẻ ra từ quá
trình vận động của tư bản với tư cách là một chỉnh thể, theo C.Mác là phạm trù
lợi nhuận với tư cách là hình thái chuyển hóa của giá trị thặng dư. Để làm rõ khái
niệm lợi nhuận, Ông đã phân tích khái niệm chi phí sản xuất và mối quan hệ
giữa chi phí sản xuất với giá trị hàng hóa trong nền kinh tế TBCN.
Trong nền kinh tế TBCN, nhà tư bản là chủ thể kinh tế chủ yếu với tư
cách là hiện thân của tư bản, đã sử dụng các quy luật của kinh tế hàng hóa để
sản xuất kinh doanh và thu lợi. Với tư cách là chủ thể sản xuất hàng hóa, nhà

tư bản cần đầu tư tư bản để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh, số tư bản
đầu tư sẽ được chi phí trong quá trình này để s
ản xuất và tiêu thụ hàng hóa.
Kết quả là sau khi thực hiện giá trị hàng hóa, nhà tư bản thu được lượng giá
trị lớn hơn so với lượng tư bản đã chi phí để sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Từ
đây, việc phân phối lượng giá trị thu được phải được chia thành hai phần là
chi phí sản xuất và lợi nhuận.
Theo quan niệm của C.Mác, chi phí sản xuất là phần giá trị của hàng
hóa, “bù lại giá cả của nh
ững tư liệu sản xuất đã tiêu dùng và giá cả của sức
lao động đã được sử dụng, - chỉ bù lại số chi phí mà bản thân nhà tư bản đã bỏ
ra để sản xuất hàng hóa”
4
. Như vậy, chi phí sản xuất là phạm trù của quan hệ
phân phối xuất phát từ tính chất của nền kinh tế TBCN trong sự so sánh với
nền sản xuất hàng hóa giản đơn. Nếu như trong nền sản xuất hàng hóa giản
đơn, chủ thể sản xuất hàng hóa, đồng thời vừa là chủ sở hữu tư liệu sản xuất
và là người lao động, phải chi phí lao động để sản xuấ
t hàng hóa, thì trong

2
Sđd, tr.48.
3
Sđd, tr.48.
4
Sđd, tr.50-51.

15
nền kinh tế TBCN, nhà tư bản là người không lao động, đối với anh ta để sản
xuất hàng hóa quan trọng không phải là chi phí lao động, mà là phải chi phí tư

bản. Do đó, sự chuyển hóa của sản xuất hàng hóa giản đơn sang sản xuất hàng
hóa TBCN đã làm xuất hiện phạm trù chi phí sản xuất, có nội hàm khác với
chi phí lao động cả về lượng và về chất:
- Về lượng, chi phí sản xuất về nguyên tắc ph
ải nhỏ hơn chi phí lao
động, vì chi phí lao động quyết định lượng giá trị hàng hóa, còn chi phí sản
xuất chỉ là một phần của giá trị đó mà thôi.
- Về chất, mặc dù chi phí sản xuất là phạm trù thể hiện tất yếu kinh tế
trong quá trình tái sản xuất của tư bản do “việc tách riêng yếu tố giá trị ấy
trong thực tiễn không ngừng biểu hiện ra trong quá trình sản xuất thực tế của
hàng hóa, b
ởi vì từ hình thái hàng hóa của nó, thông qua quá trình lưu thông,
bộ phận này luôn luôn phải được chuyển hóa trở lại hình thái tư bản sản xuất,
và do đó, chi phí sản xuất của hàng hóa phải luôn luôn mua lại được những
yếu tố sản xuất đã tiêu dùng trong việc sản xuất ra hàng hóa”
5
, nhưng phạm
trù này “không có quan hệ gì tới sự hình thành giá trị hàng hóa, cũng như
không có quan hệ gì tới quá trình làm cho tư bản tăng thêm giá trị”
6
. Sở dĩ chi
phí sản xuất không quyết định giá trị hàng hóa bởi lượng giá trị dùng để mua
sức lao động và lượng giá trị do sử dụng sức lao động tạo ra là hai đại lượng
khác nhau, không có quan hệ nội tại trực tiếp với nhau. Hơn thế nữa, giá trị
hàng hóa được quyết định bởi thời gian lao động xã hội cần thiết, trong khi
việc chi phí tư bản phụ thuộc vào nhiều tình hình ngẫ
u nhiên, đặc biệt là trình
độ tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh của nhà tư bản.
Tuy nhiên, sự hình thành của phạm trù chi phí sản xuất đã tạo ra những
trở ngại rất lớn cho việc nhận thức phạm trù giá trị thặng dư. Nếu như khi

phân tích quá trình sản xuất trực tiếp của tư bản, có thể thấy rõ giá trị thặng
dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị s
ức lao động, là lao động không
công của công nhân làm thuê mà nhà tư bản chiếm đoạt, nên có bản chất bóc

5
Sđd, tr.51-52.
6
Sđd, tr.52.

16
lột, thể hiện quan hệ bóc lột của nhà tư bản đối với lao động làm thuê, thì với
sự xuất hiện của phạm trù chi phí sản xuất, giá trị thặng dư chỉ biểu hiện ra
như là “phần dôi ra của giá trị - hàng hóa ngoài chi phí sản xuất của nó.
Nhưng vì chi phí sản xuất là bằng giá trị của tư bản đã chi phí, - chi phí sản
xuất này không ngừng chuyển hóa trở lại thành nhữ
ng yếu tố vật chất của tư
bản đó, - nên phần giá trị dôi ra ấy là cái phần lớn thêm lên của số tư bản đã
được chi phí vào việc sản xuất hàng hóa và từ lưu thông của hàng hóa đó
quay trở về”
7
, nguồn gốc của nó từ đâu mà ra đã hoàn toàn trở nên không rõ.
Từ đây, đã xuất hiện những cách hiểu khác nhau về nguồn gốc của giá
trị thặng dư, như: do lưu thông sinh ra; do chi phí sản xuất sinh ra, do toàn
bộ tư bản ứng trước sinh ra. Trong đó quan niệm phổ biến không những đối
với các nhà tư bản mà cả đối với các nhà lý luận tư sản là giá trị thặng dư
do toàn bộ tư bản ứng trước sinh ra. Như vậy, sự xuất hiện của phạm trù
chi phí sản xuất đã làm cho giá trị thặng dư được biểu hiện ra dưới hình
thái khác so bản thân nó. Giá trị thặng dư, do đó đã chuyển hóa thành lợi
nhuận. Từ đây C.Mác đã nêu ra khái niệm lợi nhuận: “Giá trị thặng dư,

được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trướ
c, mang hình thái
chuyển hóa là lợi nhuận”
8
.
Với tư cách là hình thái chuyển hóa của giá trị thặng dư, lợi nhuận
không đồng nhất với giá trị thặng dư:
- Về lượng, lợi nhuận có thể là đại lượng ngang bằng hoặc là đại lượng
khác so với với giá trị thặng dư. Lợi nhuận ngang bằng giá trị thặng dư về
lượng nếu giá cả của hàng hóa ngang bằng giá trị của nó và sẽ khác khi giá cả
l
ệch so với giá trị.
- Về chất, giá trị thặng dư phản ánh quan hệ bóc lột giữa hai giai cấp,
trong đó nhà tư bản bóc lột công nhân làm thuê, còn lợi nhuận chỉ phản ánh
sự lời lãi của đầu tư tư bản hay hiệu quả kinh doanh của nhà tư bản.

7
Sđd, tr.61-62.
8
Sđd, tr.65

17
Trong thực tiễn kinh doanh, các nhà tư bản cũng không coi lợi nhuận là
một cái gì đồng nhất với giá trị thặng dư, tức là lao động thặng dư không được
trả công. C.Mác đã chỉ ra những lý do chủ yếu của quan niệm trên
9
, bao gồm:
Một là, việc thực hiện giá trị của hàng hóa, trong đó gồm cả việc thực
hiện giá trị thặng dư chứa đựng trong hàng hóa, đối với nhà tư bản là sáng tạo
ra giá trị thặng dư đó.

Hai là, tỷ suất lợi nhuận vẫn có thể rất khác nhau tùy theo nguyên liệu
đắt hay rẻ và người ta có khéo mua hay không; tùy theo máy móc sử dụng có
năng suất cao hay thấp, có thích hợp hay không và đắt hay rẻ; tùy theo s
ự tổ
chức chung của quá trình sản xuất ở các giai đoạn khác nhau hoàn bị nhiều
hay ít, những sự lãng phí về vật liệu được loại trừ hay không, việc quản lý và
việc kiểm soát có đơn giản và có hiệu quả hay không, vv
Ba là, do tài khéo léo trong việc điều khiển xí nghiệp và tình hình đó
làm cho nhà tư bản nghĩ rằng, - làm cho hắn ta tin chắc rằng, - lợi nhuận của
hắn không phải do bóc lột lao động mà có, mà ít ra m
ột phần cũng là do
những trường hợp khác không liên quan gì tới việc bóc lột lao động cả, nhất
là do sự hoạt động cá nhân của hắn.
Bốn là, sự tăng lên của tỷ suất lợi nhuận bao giờ cũng là do chỗ giá trị
thặng dư tăng lên tương đối hay tuyệt đối so với chi phí sản xuất của nó, tức
là so với tổng tư bản đã ứng ra.
N
ăm là, giá trị của mọi hàng hóa - và do đó giá trị của những hàng hóa
cấu thành tư bản cũng vậy - không phải là do thời gian lao động cần thiết
chứa đựng trong bản thân hàng hóa đó quyết định, mà là do thời gian lao động
xã hội cần thiết để tái sản xuất ra hàng hóa đó quyết định.
Từ phân tích về khái niệm lợi nhuận, C.Mác đã đi tới phân tích khái
niệm tỷ suất lợ
i nhuận với tư cách là hình thái chuyển hóa của tỷ suất giá trị
thặng dư. Từ quan niệm rằng, “tỷ số giữa giá trị thặng dư và tổng tư bản gọi là tỷ

9
Xem: Sđd, tr.209-214.

18

suất lợi nhuận”
10
, C.Mác khẳng định rằng, hai chỉ tiêu này chăng qua chỉ “là hai
cách đo lường khác nhau đối với cùng một lượng”
11
, đó là giá trị thặng dư.
Nếu so sánh tỷ suất lợi nhuận với tỷ suất giá trị thặng dư, có thể thấy sự
khác biệt đã tăng thêm cả về lượng và chất so với khi so sánh lợi nhuận với
giá trị thặng dư. Kể cả trong trường hợp lợi nhuận ngang bằng giá trị thặng dư
thì nhìn chung tỷ suất lợi nhuận vẫn khó có thể ngang b
ằng tỷ suất giá trị
thặng dư, ngoại trừ trường hợp tư bản bất biến bằng không. Nếu như tỷ suất
giá trị thặng dư phản ánh trình độ bóc lột lao động làm thuê của tư bản, thì tỷ
suất lợi nhuận đã che đậy hoàn toàn bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất
TBCN. Trong tỷ suất lợi nhuận, chỉ có thể thấ
y mức độ hiệu quả kinh tế của
đầu tư tư bản mà thôi.
C.Mác khẳng định, “mặc dầu tỷ suất lợi nhuận khác với tỷ suất giá trị
thặng dư về mặt biểu hiện bằng con số, trong khi giá trị thặng dư và lợi nhuận
thực tế là một và bằng nhau về mặt số lượng, nhưng lợi nhuận vẫn là một hình
thái chuy
ển hóa của giá trị thặng dư; dưới hình thái đó, nguồn gốc của nó và
điều bí ẩn về sự tồn tại của nó bị che lấp và lu mờ đi. Sự thực thì lợi nhuận là
hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư và chỉ thông qua sự phân tích người ta
mới có thể tách được giá trị thặng dư ra khỏi cái vỏ lợi nhuận. Trong giá trị
thặng dư, quan hệ gi
ữa tư bản và lao động đã được bóc trần; trong tỷ lệ giữa
tư bản và lợi nhuận, - nghĩa là giữa tư bản và giá trị thặng dư, giá trị thặng dư
này một mặt biểu hiện ra là một phần dôi ra so với chi phí sản xuất của hàng
hóa và được thực hiện trong quá trình lưu thông, mặt khác lại biểu hiện thành

một số dôi ra được tỷ số giữa lợ
i nhuận và toàn bộ tư bản quy định mà một
cách cụ thể hơn, - tư bản biểu hiện ra là một quan hệ với bản thân nó, trong
quan hệ ấy về phương diện là tổng số những giá trị ban đầu, thì tư bản khác
với một giá trị mới do bản thân nó tạo nên. Tư bản đã sản sinh ra giá trị mới
ấy trong thời gian vận động của nó qua quá trình sả
n xuất và lưu thông, điều

10
Sđd, tr.74.
11
Sđd, tr.74.

19
đó ai cũng rõ. Nhưng việc đó diễn ra như thế nào, thì giờ đây đã bị thần bí hóa
và hình như giá trị thặng dư bắt nguồn từ những đặc tính bí ẩn vốn có của bản
thân tư bản”
12
.
Nghiên cứu về lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận trong nền kinh tế TBCN
với tư cách là “quá trình làm cho tư bản tăng thêm giá trị thì càng thấy quan hệ
tư bản chủ nghĩa bị thần bí hóa đi và bí mật của cơ cấu nội tại của nó càng trở
nên khó hiểu”
13
. Lợi nhuận và giá trị thặng dư khác nhau về hình thái ngay cả
khi chúng bằng nhau về lượng. Sự khác nhau đó sẽ rõ rệt hơn khi lợi nhuận biểu
hiện ra thành một đại lượng khác với giá trị thặng dư, ngay cả về mặt số lượng.
Nếu như lợi nhuận thể hiện sự lời lãi của đầu tư tư bản thì tỷ suất lợi
nhuận ph
ản ánh rõ nét hơn mức độ hiệu quả của đầu tư tư bản, do đó “đối với

nhà tư bản cá biệt, thì rõ ràng là việc duy nhất mà hắn quan tâm chính là cái tỷ
số giữa giá trị thặng dư, hay phần giá trị dôi ra mà hắn thu được khi bán hàng
hóa của hắn, với tổng tư bản mà hắn đã ứng ra để sản xuất hàng hóa; trái lại,
tỷ số đích xác giữa cái phần dôi ra ấ
y với các bộ phận riêng biệt của tư bản và
mối quan hệ bên trong cái phần dôi ra ấy với những bộ phận này, thì không
những hắn không quan tâm đến một chút nào, mà chính hắn lại còn có lợi
trong việc thả ra một tấm màn khói để che đậy cái tỷ số đích xác ấy và mối
quan hệ bên trong ấy”
14
.
Khi phân tích về mối quan hệ giữa tư bản và lợi nhuận, C.Mác chỉ rõ:
“Tự bản thân nó, lượng giá trị của tổng tư bản không có quan hệ nội tại gì với
lượng của giá trị thặng dư”
15
. Lợi nhuận là phạm trù thuộc lĩnh vực phân phối
lượng giá trị thu được. Thực tiễn kinh doanh trong nền kinh tế TBCN lợi
nhuận “được tính bằng hai cách. Thứ nhất, được tính như một lượng đơn
thuần: số dôi ra so với chi phí sản xuất. Trong cách tính thứ nhất này, toàn bộ
tư bản lưu động nằm trong chi phí sản xuất, còn về tư bản cố định thì chỉ có

12
Sđd, tr.82.
13
Sđd, tr.83.
14
Sđd, tr.75.
15
Sđd, tr.79.


20
phần hao mòn là gia nhập chi phí sản xuất mà thôi. Thứ hai, người ta tính tỷ lệ
giữa phần giá trị dôi ra ấy và toàn bộ giá trị của tư bản ứng ra”
16
.
Như vậy, theo quan điểm của C.Mác, lợi nhuận là phạm trù của nền
kinh tế thị trường TBCN, về bản chất đó là giá trị thặng dư, song đã che khuất
bản chất thực sự, bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất TBCN. Từ đây đã
xuất hiện quan điểm cho rằng lợi nhuận là phạm trù phản ánh sự bóc lột
TBCN, do đ
ó trong xây dựng xã hội mới, công bằng, cần tìm mọi cách để xóa
bỏ lợi nhuận.
Rõ ràng, phạm trù lợi nhuận được C.Mác nghiên cứu với tư cách là
hình thái chuyển hóa của giá trị thặng dư trong nền kinh tế TBCN, do đó có
thể hiểu rằng, hình thái biểu hiện giản đơn đầu tiên của giá trị thặng dư chính
là lợi nhuận. Tuy nhiên, từ phân tích sự khác nhau giữa lợi nhuận và giá trị
thặng dư theo quan
điểm của C.Mác có thể thấy rõ không phải toàn bộ các
hình thái lợi nhuận đều là giá trị thặng dư với tư cách là lao động không công
của công nhân làm thuê. Do vậy, không thể đồng nhất lợi nhuận với giá trị
thặng dư, với bóc lột. Cần phân tích phạm trù lợi nhuận trong phạm vi rộng hơn
so với nền kinh tế TBCN thuần túy mà C.Mác đã sử dụng phương pháp trừu
tượng hóa khoa học để nghiên c
ứu. Nhận thức về sự không đồng nhất giữa lợi
nhuận và giá trị thặng dư là cơ sở khoa học để làm rõ vai trò to lớn của lợi nhuận
đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
1.1.1.2. Vai trò của lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận đối với hoạt động
sản xuất kinh doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa
Giá trị thặng dư là cơ sở tồn tại và làm giàu của các nhà tư bản. Các
hoạt động sản xuất kinh doanh theo kiểu TBCN đều hướng tới chiếm đoạt giá

trị thặng dư. Tuy nhiên giá trị thặng dư lại biểu hiện ra thông qua hình thái
chuyển hóa là lợi nhuận. Kết quả cuối cùng thể hiện kinh doanh có hiệu quả là
phải thu được lợi nhuận, cho nên lợi nhuận chính là mục tiêu, động c
ơ, động
lực của hoạt động sản xuất, kinh doanh TBCN.

16
Sđd, tr.81.

×