Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

So sánh một số cách trồng ngô trong vụ Xuân năm 2013 tại vùng Gia Lâm, Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (943.71 KB, 90 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, em đã nhận được nhiều sự quan tâm
giúp đỡ của thầy cô giáo trong bộ môn Cây Lương Thực – Khoa Nông Học –
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội cùng toàn thể cán bộ, công nhân viên
trong trường, bạn bè và người thân.
Trước hết, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy PGS.TS Nguyễn
Thế Hùng, TS. Nguyễn Việt Long đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo và tạo mọi
điều kiện giúp đỡ em hoàn thành đợt thực tập này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô, các cán bộ trong bộ môn cây
Lương thực – Khoa Nông học đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ em trong thời gian
thực tập.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã ở bên cạnh
em trong suốt đợt thực tập.
Hà Nội ngày 20 tháng 07 năm 2013
Sinh viên
Đoàn Thị Yến
1
MỤC LỤC
L I C M NỜ Ả Ơ 1
M C L CỤ Ụ 2
DANH MôC B¶NG 5
DANH MôC §å THÞ 5
DANH M C CÁC T VI T T TỤ Ừ Ế Ắ 6
PHẦN I: MỞ ĐẦU 7
1.1 Tính c p thi t c a t iấ ế ủ đề à 7
1.2 M c tiêu c a t iụ ủ đề à 9
2.1. Tình hình s n xu t ngô trên th gi i.ả ấ ế ớ 10
2.2. Tình hình s n xu t ngô Vi t Namả ấ ở ệ 12
2.3. Tình hình nghiên c u v s d ng gi ng lai, phân bón cho ngô Vi t Namứ à ử ụ ố ở ệ
13
2.3.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng giống ngô lai ở Việt Nam 13


2.3.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng phân bón cho ngô ở Việt Nam 14
2.4. Các ph ng pháp tr ng ngôươ ồ 18
2.5. Hi u qu kinh t c a s n xu t ngôệ ả ế ủ ả ấ 21
PHẦN III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 24
3.1. V t li u, a i m v th i gian nghiên c uậ ệ đị để à ờ ứ 24
3.1.1 Vật liệu nghiên cứu 24
3.1.2 Ðịa điểm bố trí thí nghiệm 24
3.1.3 Thời gian tiến hành thí nghiệm 24
3.2. N i dung nghiên c uộ ứ 24
3.3. Ph ng pháp thí nghi mươ ệ 24
3.3.1. Sơ đồ thí nghiệm và phương pháp bố trí thí nghệm 25
3.3.2 Kỹ thuật canh tác 26
3.3.3 Các chỉ tiêu theo dõi: 29
3.3.4 Xử lý số liệu 31
PHẦN IV 32
2
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 32
4.1. nh h ng c a các cách tr ng t i sinh tr ng, phát tri n c a 2 gi ng ngô lai.Ả ưở ủ ồ ớ ưở ể ủ ố
32
4.1.1 Tỷ lệ nảy mầm 33
4.1.2 Giai đoạn từ gieo đến mọc 34
4.1.3 Giai đoạn từ gieo đến trỗ cờ 34
4.1.4. Giai đoạn từ gieo đến tung phấn 35
4.1.5. Giai đoạn từ gieo đến phun râu 35
4.1.6 Khoảng cách tung phấn - phun râu 35
4.1.7 Thời gian sinh trưởng 36
4.2. nh h ng c a các cách tr ng ngô n ng thái sinh tr ng v phát tri n c aẢ ưở ủ ồ đế độ ưở à ể ủ
2 gi ng ngô lai n.ố đơ 36
4.2.1. Ảnh hưởng của các cách trồng ngô đến động thái tăng trưởng chiều cao cây của
2 giống ngô 36

4.2.2. Ảnh hưởng của các cách trồng ngô đến động thái tăng trưởng số lá của 2 giống
ngô 39
4.3. nh h ng c a các cách tr ng n di n tích lá (m2 lá/cây) v ch s di nẢ ưở ủ ồ đế ệ à ỉ ố ệ
tích lá (LAI) 41
4.4. nh h ng c a các cách tr ng ngô n ch s m u xanh (ch s SPAD) c a láẢ ưở ủ ồ đế ỉ ố à ỉ ố ủ
ngô 44
4.5. nh h ng c a các cách tr ng ngô n c tr ng hình thái câyẢ ưở ủ ồ đế đặ ư 47
4.5.1.Chiều cao cây cuối cùng của 2 giống ngô với các cách trồng khác nhau trong thí
nghiệm 48
4.5.2.Chiều cao đóng bắp của 2 giống ngô với các cách trồng khác nhau trong thí
nghiệm 49
4.6. M t s ch tiêu v b p c a 2 gi ng ngô v i các cách tr ng khác nhauộ ố ỉ ề ắ ủ ố ớ ồ 50
4.7. Nh n xét v ánh giá v d ng h t, m u s c h t c a 2 gi ng ngô v i cácậ à đ ề ạ ạ à ắ ạ ủ ố ớ
cách tr ng khác nhau trong thí nghi mồ ệ 52
4.8. Kh n ng ch ng ch u c a 2 gi ng ngô v i các cách tr ng khác nhau trongả ă ố ị ủ ố ớ ồ
thí nghi mệ 52
4.8.1. Khả năng chống chịu sâu bệnh của 2 giống ngô với các cách trồng khác nhau
trong thí nghiệm 52
3
4.8.2. Khả năng chống đổ của 2 giống ngô với các cách trồng khác nhau trong thí
nghiệm 55
4.10. nh h ng c a các cách tr ng t i hi u qu kinh t c a 2 gi ng ngôẢ ưở ủ ồ ớ ệ ả ế ủ ố 60
PHẦN V 63
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 63
5.1. K t lu nế ậ 63
5.2. nghĐề ị 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 65
I. Tµi liÖu trong níc 65
II. T i li u n c ngo ià ệ ướ à 66
III. T i li u webà ệ 67

4
DANH MôC B¶NG
Bảng 2.1: Tình hình sản xuất ngô trên thế giới giai đoạn 2006 -2010 10
Bảng 2.2: Một số nước sản xuất nhiều ngô trên thế giới năm 2010 10
Bảng 2.3: Diện tích, năng suất và sản lượng ngô của Việt Nam 12
giai đoạn 2006 -2010 12
Bảng 2.4: Nhu cầu dinh dưỡng của cây ngô trong giai đoạn sinh trưởng (%) 15
Bảng4.1. Ảnh hưởng của các cách trồng tới sinh trưởng, phát triển của 2 giống ngô
lai trong vụ xuân năm 2013 tại Gia Lâm – Hà Nội 33
Bảng 4.2. Động thái tăng trưởng chiều cao cây của 2 giống ngô với các cách trồng
khác nhau thí nghiệm vụ Xuân năm 2013 tại Gia Lâm – Hà Nội 37
Bảng 4.3. Động thái tăng trưởng số lá của 2 giống ngô với các cách trồng khác nhau
thí nghiệm vụ Xuân năm 2013 tại Gia Lâm – Hà Nội 40
Bảng 4.4. Diện tích lá và chỉ số diện tích lá của 2 giống ngô với các cách trồng khác
nhau thí nghiệm vụ Xuân năm 2013 tại Gia Lâm – Hà Nội 42
Bảng 4.6. Đặc trưng hình thái cây của 2 giống ngô với các cách trồng khác nhau thí
nghiệm vụ Xuân năm 2013 tại Gia Lâm – Hà Nội 47
Bảng 4.7. Một số chỉ tiêu về bắp của 2 giống ngô với các cách trồng khác nhau thí
nghiệm vụ Xuân năm 2013 tại Gia Lâm – Hà Nội 50
Bảng 4.8: Mức nhiễm sâu bệnh của 2 giống ngô với các cách trồng khác nhau thí
nghiệm vụ Xuân năm 2013 tại Gia Lâm – Hà Nội 53
Bảng 4.9. Các yếu tố cấu thành năng suất lý thuyết và năng suất lý thuyết của 2 giống
ngô với các cách trồng khác nhau thí nghiệm vụ Xuân năm 2013 tại 56
Gia Lâm – Hà Nội 56
Bảng 4.10: So sánh năng suất thực thu của 2 giống ngô với các cách trồng khác nhau
thí nghiệm ở vụ Xuân năm 2013 Gia Lâm – Hà Nội 59
Bảng 4.11. Chi phí sản xuất cho 1 ha với các cách trồng khác nhau 61
Bảng 4.12. Hạch toán kinh tế ở các cách trồng khác nhau của 2 giống ngô 62
Bảng 4.13. Đơn giá của một số chi phí sản xuất 68
DANH MôC §å THÞ

Đồ thị 1: Ảnh hưởng của các cách trồng ngô đến động thái tăng trưởng chiều cao
thí nghiệm vụ Xuân năm 2013 tại Gia Lâm – Hà Nội 37
5
Đồ thị 2 Ảnh hưởng của các cách trồng ngô đến động thái tăng trưởng số lá thí
nghiệm vụ Xuân năm 2013 tại Gia Lâm – Hà Nội 40
Đồ thị 3: Diện tích lá của các cách trồng khác nhau thí nghiệm vụ Xuân năm 2013
tại Gia Lâm – Hà Nội 43
Đồ thị 4: Chỉ số diện tích (LAI) các cách trồng khác nhau thí nghiệm vụ Xuân năm
2013 tại Gia Lâm – Hà Nội 43
Đồ thị 5: Chỉ số màu xanh (chỉ số SPAD) của lá ngô với các cách trồng khác nhau
thí nghiệm vụ Xuân năm 2013 tại Gia Lâm – Hà Nội 46
Đồ thị 6: Đặc trưng hình thái cây của 2 giống ngô với các cách trồng khác nhau thí
nghiệm vụ Xuân năm 2013 tại Gia Lâm – Hà Nội 48
Đồ thị 7. Một số chỉ tiêu về bắp của 2 giống ngô với các cách trồng khác nhau thí
nghiệm vụ Xuân năm 2013 tại Gia Lâm – Hà Nội 51
Đồ thị 8 . Năng suất lý thuyết của các cách trồng khác nhau thí nghiệm vụ Xuân
năm 2013 tại Gia Lâm – Hà Nội 57
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
FAO : Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên Hợp Quốc
CIMMYT : Trung tâm cải tạo Ngô và Lúa mỳ Quốc tế
6
KHKTNN : Khoa học kỹ thuật nông nghiệp
KHKT :Khoa học kỹ thuật
NN&PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông thôn
MNPB : Miền núi phía bắc
BVTV : Bảo vệ thực vật
NCNNDH : Nghiên cứu nông nghiệp duyên hải
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
UBND : Ủy ban nhân dân
PHẦN I: MỞ ĐẦU

1.1 Tính cấp thiết của đề tài
7
Cây ngô (Zea mays L.) thuộc chi Maydeae, họ hòa thảo Gramineae, có
nguồn gốc từ Trung Mỹ, là cây lương thực quan trọng thứ 3 trên thế giới sau lúa
mì và lúa gạo. Ngô là cây thức ăn chăn nuôi quan trọng nhất hiện nay: 70% chất
tinh trong thức ăn tổng hợp là từ ngô, là thức ăn xanh ủ chua lý tưởng cho đại
gia súc, đặc biệt là bò sữa: 66% sản lượng ngô của thế giới được dùng làm thức
ăn cho chăn nuôi, trong đó các nước phát triển là 76% và các nước đang phát
triển là 57%. Gần đây, ngô còn được dùng làm thực phẩm, người ta dùng bắp
ngô bao tử làm rau vì nó cung cấp hàm lượng dinh dưỡng cao: ngô nếp, ngô
đường (ngô ngọt) được dùng làm quả ăn tươi (luộc, nướng) hoặc đóng hộp làm
thực phẩm xuất khẩu. Ngô là nguyên liệu cho ngành công nghiệp lương thực –
thực phẩm và công nghiệp nhẹ để sản xuất rượu, cồn, tinh bột, dầu, glucozo,
bánh kẹo…. Trong y dược ngô được dùng để trị áp huyết, râu ngô được dùng
làm thuốc.
Trên thế giới chỉ có 21% sản lượng ngô được dùng làm lương thực cho
con người, nhưng nhiều nước vẫn coi ngô là cây lương thực chính như: Mêxico,
Ấn Độ, Philipin. Ở Ấn Độ có tới 90% sản lượng ngô, ở Philippin 66% được
dùng làm lương thực cho con người. Trong những năm đầu thập kỷ 80 thế kỷ
XX đã có trên 800 sản phẩm được sản xuất từ ngô. Vai trò của cây ngô rất quan
trọng trong nền kinh tế thế giới nên diện tích trồng ngô ngày càng được mở
rộng. Năm 1987 diện tích trồng ngô chỉ đạt khoảng 127 triệu ha với tổng sản
lượng là 475,4 triệu tấn, đến năm2010 diện tích trồng ngô đạt 161,82 triệu ha
với sản lượng 844,35 triệu tấn (theo số liệu thống kê của FAO, 2011). Ngày nay
nhu cầu về ngô ở quy mô toàn cầu ngày càng tăng, bởi lẽ ngô không chỉ được
dùng làm lương thực thực phẩm cho con người và thức ăn trong chăn nuôi mà
ngô còn dùng để chế biến nhiên liệu sinh học (ethanol). Nếu vào năm 1990,
lượng ngô xuất nhập khẩu trên thế giới là trên 66 triệu tấn, đến năm 2000 đã
tăng lên 90 triệu tấn và đạt trên 100 triệu tấn vào năm 2005.
8

Ở Việt Nam, ngô được coi là cây lương thực thứ hai sau lúa nước và là
cây màu chính trong sản xuất nông nghiệp nước ta. Vì vậy, cây ngô được nhà
nước quan tâm phát triển về bề rộng lẫn chiều sâu, có sự chuyển biến rõ rệt về
diện tích, năng suất và sản lượng. Trong 30 năm (từ năm 1990 đến năm 2010),
sản xuất ngô ở nước ta đạt những thành tựu đáng ghi nhận. Năm2010, diện tích
(1126,9 nghìn ha), năng suất (40,9 tạ/ha) và sản lượng (4606,9 nghìn tấn) cao
nhất từ trước đến nay. So với năm 1990, diện tích và năng suất tăng 2.7 lần, sản
lượng tăng 7 lần (Tổng cục Thống kê, 2011). Tuy nhiên, đến nay sản xuất ngô ở
nước ta phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của nó. Sản lượng ngô không
đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước. Hàng năm, nước ta vẫn phải nhập
khẩu trên dưới 1 triệu tấn ngô hạt. Nguyên nhân chủ yếu là chi phí đầu tư cho
trồng ngô cao dẫn đến hiệu quả kinh tế của cây ngô thấp hơn so với một số cây
trồng khác chính vì vậy người dân chưa chú trọng vào trồng ngô. Có rất nhiều
phương pháp để tăng hiệu quả kinh tế của cây ngô: tạo ra các giống ngô lai có
năng suất cao, cải tiến quy trình trồng trọt. Khi chúng ta cải tiến quy trình trồng
trọt cần áp dụng: các cách trồng ngô kết hợp bón phân và lựa chọn loại phân bón
thích hợp. Các cách trồng ngô khác nhau cho năng suất ngô khác nhau, chi phí
đầu tư cho đầu vào khác nhau dẫn đến hiệu quả trồng ngô khác nhau. Vậy cách
trồng nào cho hiệu quả kinh tế của cây ngô là cao nhất?
Để trả lời cho câu hỏi trên chúng tôi tiến hành đề tài: “So sánh một số cách
trồng ngô trong vụ Xuân năm 2013 tại vùng Gia Lâm, Hà Nội”.
1.2 Mục tiêu của đề tài
 So sánh khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất của hai giống ngô
lai LVN99 và NK4300 khi trồng bằng các phương pháp khác nhau;
 Xác định hiệu quả kinh tế của từng cách trồng ngô.
PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
9
2.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới.
Theo tài liệu công bố của CIMMYT, diện tích trồng ngô tăng đáng kể
trong vòng 20 năm trở lại đây, tuy nhiên trong những năm gần đây thì diện tích

trồng ngô trên toàn thế giới biến động không nhiều (năm 2001 diện tích trồng
ngô trên thế giới là 139,4 triệu ha; năm 2004 là 145,1 triệu ha). Nguyên nhân
làm cho diện tích ngô hiện nay tăng chậm là do quỹ đất canh tác hạn hẹp, đất đai
bị sa mạc hoá, hạn hán, lũ lụt, xói mòn, rửa trôi mặc dù vậy năng suất và sản
lượng ngô vẫn tăng mạnh, do các nước đã đầu tư thích đáng cho việc phát triển
sản xuất ngô như: áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật về giống, phân bón, kỹ
thuật canh tác
Bảng 2.1: Tình hình sản xuất ngô trên thế giới giai đoạn 2006 -2010
Năm
Diên tích
(triệu ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
2006 148,41 4,76 706,81
2007 158,23 4,99 789,75
2008 161,19 5,13 827,48
2009 158,84 5,16 819,70
2010 161,82 5,21 844,35
Nguồn: FAOSTAT 23/2/2012
Qua số liệu bảng 2.1 cho thấy: trong 5 năm gần đây diện tích trồng ngô
trên thế giới biến động không đáng kể, nhưng năng suất và sản lượng liên tục
tăng. Sản lượng ngô thế giới năm 2010 đạt 844,35 triệu tấn tăng 137,54 triệu tấn
so với năm 2006.
Tuy nhiên thực tế cho thấy năng suất ngô cao (trên mức trung bình của
thế giới) chỉ tập trung ở những nước phát triển, vì các nước này đã sử dụng gần
như 100% diện tích để gieo trồng những giống ngô lai có năng suất cao, đồng
thời có điều kiện để đầu tư thâm canh cao.
Bảng 2.2: Một số nước sản xuất nhiều ngô trên thế giới năm 2010

Nước Diện tích
(triêu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
10
Mỹ 32,96 95,92 316,16
Trung Quốc 32,52 54,60 177,54
Brazil 12,81 43,75 56,06
Ấn Độ 7,18 19,58 14,06
Mêxicô 7,15 32,60 23,30
Indonesia 4,14 44,32 18,36
Argentina 2,90 78,12 22,68
Pháp 1,57 88,95 13,97
Hungari 1,06 65,69 6,97
Thái Lan 1,12 39,71 4,45
Chilê 0,12 110,81 1,36
Nguồn: FAOSTAT – 23/2/2012
Số liệu bảng 2.2 cho thấy: Mỹ là nước có diện tích trồng ngô nhiều nhất
trên thế giới, năm 2010 diện tích ngô của Mỹ là 32,96 triệu ha chiếm 20,37% diện
tích trồng ngô trên toàn thế giới, tiếp Mỹ là Trung Quốc với 32,52 triệu ha chiếm
20,1% diện tích trồng ngô trên thế giới, đứng thứ ba là Brazil (12,81 triệu ha).
Về năng suất thì Chi lê là nước đạt năng suất ngô cao nhất, năm 2010
năng suất ngô của Chilê đạt 110,81 tạ/ha, cao gấp 2,1 lần năng suất trung bình
của thế giới, tiếp đến là Mỹ (95,92 tạ/ha), Pháp (88,95 tạ/ha)…. Nhưng những
nước này có diện tích trồng ngô thấp, do vậy Mỹ, Trung Quốc và Brazil vẫn là 3
nước có sản lượng ngô lớn so với các nước khác trên toàn cầu.
Theo đánh giá của FAO, sự tăng trưởng về nhu cầu ngô trên thế giới giai
đoạn 2001- 2010 chậm, hàng năm tăng trưởng 1,9%. Năm 2000 lượng ngô xuất

khẩu của thế giới là 72,5 triệu tấn, giảm 0,2 triệu tấn so với năm 1996. Các nước
thuộc khu vực Đông Á là những nước nhập khẩu ngô chủ yếu, năm 2000 Nhật
Bản nhập khoảng 16 triệu tấn, chiếm 14% tổng lượng ngô nhập khẩu toàn thế
giới, Nam Triều Tiên nhập khẩu khoảng 8 triệu tấn và Đài Loan nhập khoảng
5,1 triệu tấn. Những nước xuất khẩu ngô chính là Mỹ, Pháp như vậy trên toàn
cầu trong những năm qua và thời kỳ sắp tới diện tích thị trường ngô không còn
nhiều biến động lớn, chỉ có năng suất ngô sẽ tăng tương đối nhanh ở nhiều quốc
11
gia. Năng suất ngô tăng mạnh sẽ đem lại sự tăng trưởng về sản lượng đặc biệt là
ở các nước đang phát triển.
2.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam
Ngô được trồng ở Việt Nam cách đây khoảng 300 năm nhưng đã nhanh
chóng trở thành một trong hai cây lương thực quan trọng nhất trong hệ thống các
cây lương thực ở Việt Nam.
Ngô là cây trồng có khả năng thích ứng rộng, trồng được nhiều vụ trong
năm, trồng được trên nhiều loại đất và địa hình khác nhau, điều kiện tự nhiên ở
nước ta rất thuận lợi cho cây ngô phát triển. Chính vì vậy, ở nước ta ngô được
trồng ở hầu hết các vùng trong cả nước, giai đoạn 1990 - 2000 tỷ lệ tăng trưởng
ngô ở nước ta khá cao đạt 3,7%/năm về diện tích, 5,5%/năm về năng suất,
9,2%/năm về sản lượng (theo số lượng thống kê năm 2000 của tổ chức
CIMMYT). Nhìn chung tiềm năng phát triển và sản xuất ngô ở nước ta còn rất
lớn cả về diện tích và thâm canh tăng năng suất.
Những năm trước đây, sản xuất ngô ở Việt Nam chưa được chú trọng
nên phát triển chậm chưa tương xứng với tiềm năng của nước ta. Theo
thống kê của những năm trước 1985 diện tích trồng ngô biến động từ
270.000 ha- 400.000 ha, năng suất khoảng 0,9 - 1,1 tấn/ha và sản lượng
không vượt quá 45 vạn tấn. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là
do tập quán canh tác lạc hậu, chưa đầu tư thích đáng cho việc phát triển sản
xuất ngô, cơ cấu mùa vụ chưa ổn định cho từng vùng sinh thái, do chưa có
chính sách của Nhà nước về đầu tư vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng còn

thấp, tiêu thụ không ổn định. Tình hình sản xuất ngô của Việt Nam trong
những năm gần đây được thể hiện qua bảng 2.3
Bảng 2.3: Diện tích, năng suất và sản lượng ngô của Việt Nam
giai đoạn 2006 -2010
Năm
Diện tích
( 1000 ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(1000 tấn)
2006 1033,1 37,3 3854,6
12
2007 1096,1 39,3 4303,2
2008 1140,2 40,1 4573,1
2009 1089,2 40,1 4371,7
2010 1126,9 40,9 4606,9
Nguồn: Nguồn FAOSTA , 2011 và Niên giám thống kê, 2011
Số liệu bảng 2.3 cho thấy diện tích trồng ngô của Việt Nam tăng dần
trong 5 năm gần đây, biến động từ 1033,1 nghìn ha (2006) lên 1126,9 nghìn ha
(2010), năng suất tăng không đáng kể từ 37,3 tạ/ha (2006) lên 40,9 tạ/ha (2010).
Hiện nay diện tích ngô của nước ta chiếm 10% diện tích canh tác và
chiếm 0,7% diện tích ngô của thế giới. Năng suất ngô của Việt Nam cũng tăng
dần trong 5 năm qua, nhưng nếu so với năng suất trung bình của thế giới thì
năng suất ngô của nước ta còn rất thấp, năm 2010 năng suất ngô của thế giới là
52,1 tạ/ha, còn ở Việt Nam là 40,9 tạ/ha. Tuy nhiên, do người dân vẫn còn
trồng ngô theo các phương pháp truyền thống, chi phí đầu tư cho trồng ngô cao
nên hiệu quả kinh tế mà ngô đem lại thấp chính vì vậy chúng ta cần tìm được
những cách trồng đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
2.3. Tình hình nghiên cứu và sử dụng giống lai, phân bón cho ngô ở Việt Nam

2.3.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng giống ngô lai ở Việt Nam.
Ngay từ những năm 1972 – 1973, các nhà nghiên cứu ngô Việt Nam đã
bắt đầu chuẩn bị cho chương trình tạo giống ngô lai và được tập trung cao độ từ
năm 1990 đến nay. Năm 1992 – 1994, Viện Nghiên cứu Ngô đã lai tạo ra 5
giống ngô lai không quy ước là: LS-3, LS-5, LS-6, LS-7, LS-8. Bộ giống ngô lai
này gồm giống chín sớm, chín trung bình và chín muộn, có năng suất từ 3-7
tấn/ha đã được mở rộng nhanh chóng trên phạm vi toàn quốc, mỗi năm gieo
trồng trên 80.000ha, tăng năng suất 1 tấn/ha so với giống ngô thụ phấn tự do
(Trần Hồng Uy,1997)(1).
Từ những năm đầu thập kỷ 90, công tác tạo dòng thuần và giống ngô lai
được chú trọng. Trong tập đoàn dòng, phần lớn dòng thuần được tạo ra từ giống
địa phương , giống thụ phấn tự do và quần thể, tuy có độ đồng đều cao nhưng
sức sống yếu, năng suất thấp, một số giống lai được tạo ra nhưng khó có thể sản
13
xuất hạt giống lai thương mại. Những năm gần đây, các nhà chọn giống sử dụng
nguồn nguyên liệu là giống lai, dạng F2 và Backcross để rút dòng đã đạt hiệu
quả cao hơn, tạo ra nhiều dòng ưu tú cho công tác tạo giống lai. Hàng loạt giống
lai quy ước đã được tạo ra và đưa vào sản xuất như: LVN10, LVN5,LVN12,
LVN4 (giống lai đơn cải tiến), LVN20, LVN17, LVN23 (ngô rau). Những giống
lai này có tiềm năng năng suất từ 5 – 12 tấn/ha, không thua kém các giống ngô
lai của nước ngoài và của Trung Quốc. Đặc biệt, giống lai LVN10 đã được trồng
hàng trăm nghìn hecta mỗi năm trên khắp cả nước. Năm 1999, bốn giống ngô lai
chín sớm và chín trung bình là: LVN24, LVN25, LVN32, LVN33 được cho
phép khu vực hóa rộng (trong đó LVN33 là giống lai ba cải tiến). Như vậy
chương trình tạo giống ngô lai của Việt Nam đứng trong hàng ngũ các nước tiên
tiến ở châu Á. Tỉ lệ diện tích trồng giống lai ở Việt Nam tăng từ 0.1% (năm
1990) lên gần 95% (năm 2010); đưa năng suất bình quân từ 1.5 tấn/ha (năm
1990) lên 4.09 tấn/ha (năm 2010); tổng sản lượng ngô từ trên 700.000 tấn (năm
1990) lên 4.606.900 tấn (năm 2010) (FAO 2011).
Hiện nay, những giống ngô lai Việt Nam chiếm trên 50% thị phần ngô lai

trên toàn quốc (khoảng gần 200.000 ha) làm tăng năng suất ngô rõ rệt. Mỗi năm
Việt Nam có khả năng sản xuất 4000 -5000 tấn hạt giống ngô lai chất lượng cao,
đáp ứng đủ cho nhu cầu sanr xuất trong nước (Trần Hồng Uy,1999)(2).
Để đưa ngành sản xuất ngô của Việt Nam theo kịp các nước tiên tiến và đạt
năng suất trung bình của thế giới cần phải đẩy mạnh công tác tạo giống ngô lai,
không ngừng mở rộng diện tích trồng ngô lai và tăng cường đầu tư thâm canh. Đến
năm 2020, phấn đấu đưa diện tích trồng ngô lên 1,3 – 1,4 triệu ha, đạt năng suất
trung bình 60 - 65 tạ/ha để đáp ứng nhu cầu 7 - 8 triệu tấn ngô vào năm 2020.
2.3.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng phân bón cho ngô ở Việt Nam
Trong phạm vi nghiên cứu thuộc chương trình phát triển lương thực (Tạ
Văn Sơn, 1995) (3) đã nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng cây ngô ở vùng Đồng
bằng sông Hồng, thu được kết quả như sau:
14
 Để tạo ra 1 tấn ngô hạt, ngô lấy đi từ đất trung bình một lượng đạm, lân,
kali là: N = 22,3 kg; P
2
O
5
= 8,2 kg; K
2
O = 12,2 kg.
 Lượng NPK tiêu tốn để sản xuất ra 1 tấn ngô hạt là: N = 33,9 kg; P
2
O
5
=
14,5 kg; K
2
O = 17,2 kg.
 Tỉ lệ nhu cầu dinh dưỡng NPK là: 1: 0,35: 0,45

 Tỉ lệ N : P : K thay đổi trong quá trình sinh trưởng phát triển như sau:
Bảng 2.4: Nhu cầu dinh dưỡng của cây ngô trong giai đoạn sinh trưởng (%)
Nguyên tố 6-7 lá Trỗ cờ Thu hoạch
N 51,7 47,4 52,2
P
2
O
5
8,3 9,8 19,1
K
2
O 40,0 42,7 28,7
( Nguồn Tạ Văn Sơn, 1995)(3)
Kết quả này thể hiện rõ quá trình hút kali được hoàn thành sớm trước phun
râu, còn các chất dinh dưỡng khác như đạm và lân còn tiếp tục đến lúc ngô chín.
Theo Đường Hồng Dật, 2003 trung bình với năng suất 60 tạ/ha ngô hạt,
cây ngô lấy từ đất 155kg N, 60kg P
2
O
5
, 115kg K
2
O (tương đương 337kg ure,
360kg supe lân, 192kg clorua kali).
Theo tác giả Ngô Hữu Tình, 1995(1) trên đất phù sa sông Hồng tỉ lệ nhu
cầu dinh dưỡng của N, P, K cho cây ngô đạt năng suất cao là 1 : 0,35 : 0,45 và
lượng bón phân cho năng suất cao là 180N :60P
2
O
5

: 120 K
2
O; ở Duyên hải
miền Trung: 120N : 90P
2
O
5
: 60 K
2
O; miền Đông Nam Bộ: 90N : 90P
2
O
5
: 30
K
2
O; Đồng bằng sông Cửu Long: 150N : 50P
2
O
5
: 0 K
2
O.
Khi nghiên cứu về phân bón cho ngô trên đất bạc mầu, Nguyễn Thế
Hùng (1996)(4), đã chỉ ra rằng phân N có tác dụng rất rõ đối với ngô trên đất
bạc mầu, song lượng bón tối đa là 225 kg/ha, ngưỡng bón N kinh tế là 150 kg/ha
trên nền cân đối P - K.
Kết quả nghiên cứu của Lê Quý Kha (2001)(5) đã chỉ ra rằng mặc dầu trong
điều kiện ít có khả năng đầu tư đạm và thiếu nước, ví dụ như nhờ nước trời, tốt
hơn hết vẫn phải chia nhỏ lượng đạm làm nhiều lần để bón thì hiệu quả sử dụng

đạm của cây ngô mới cao.
15
Theo tác giả Lê Văn Khoa cho rằng vai trò của lân đối với sự sống có một
nghĩa lớn vì lân tồn tại trong tế bào của động thực vật, nó có trong nhân tế bào,
enzim, vitamin.Lân tham gia vào
việc tạo thành và chuyển hoá Hidrat Cacbon,
chất chứa nitơ, tích luỹ năng
lượng tế bào sống.Lân còn đóng vai trò quan trọng
trong hô hấp và lên men.Hiệu lực phân lân đối với ngô bội thu 8 - 10 kg ngô hạt/kg
P2O5, trong nhiều trường hợp hiệu lực lân không rõ hoặc làm giảm năng suất do
kỹ thuật
bón không phù hợp hoặc nhất là lượng bón lân quá cao so với lượng
đạm
hoặc bón không kèm kali (Nguyễn Văn Bộ, 1993) (6)
Theo Nguyễn Vy (1998)(7), Vũ Hữu Yêm và CS (1999)(8), trên đất phù sa
Sông Hồng hiệu lực phân kali tăng dần chứng tỏ việc trồng ngô liên tục trong đất
phù sa trong đê làm đất kiệt dần kali.
Ngô rất cần bón kali, kali trong đất rất linh
động, đất trồng ngô liên tục thường bị thiếu, bởi kali có mặt chủ yếu trong
thân,
lá ngô sẽ bị lấy đi khi người dân thu hoạch cây ra khỏi ruộng. Trên đất bạc màu
ngô rất cần bón kali, bón đến 150 kg/ha hiệu suất vẫn còn cao.
Trên đất bạc màu,
không bón kali, cây trồng chỉ hút được 80 - 90 kg
N/ha trong khi đó bón kali
làm cây trồng hút được tới 120 - 150 kg N/ha (Nguyễn Văn Bộ, 2007)(9).
Theo tác giả Đỗ Tuấn Khiêm (1996)(10), thí nghiệm ở vùng Đông Bắc
cho
thấy sử dụng các chế phẩm phân bón sinh học như Komix BFC, Thiên
Nông,

Agrofil có tác dụng làm tăng năng suất ngô từ 8 - 14%.
Theo hướng dẫn của Cục Trồng trọt (2006)(11), để đạt năng suất ngô
trên
7 tấn/ha ở các tỉnh miền Bắc, thì lượng phân bón như sau:
- Đối với loại đất tốt: 10 - 15 tấn phân chuồng; 150 - 180 kg N; 100 - 120 kg
P2O5; 80 - 100 kg K2O/ha.
- Đối với đất trung bình: 10 - 15 tấn phân chuồng; 180 - 200 kg N; 120
-140 kg P2O5; 100 - 120 kg K2O/ha.
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long, theo Nguyễn Công Thành, Nguyễn Thị
Cúc và Dương Văn Chín (1995) thì mức kinh tế tối ưu bón cho ngô trên đất lúa
miền Tây sông Hậu là 270 kg N + 50 kg

P
2
O
5
+ 80 kg K
2
O. Nhưng quy trình
16
bón phân cho ngô nói chung ở vùng đồng bằng sông Cửu Long thường áp dụng
mức 200 kg N + 100 kg P
2
O
5
+ 100 kg K
2
O
Nguyễn Như Hà (2006): Khi đạm được bón sâu 5 – 10 cm vào tầng khử
của đất thì hiệu quả sử dụng đạm cao hơn. Bón đạm vào tầng khử, đạm được

các keo đất giữ dưới dạng NH
4
+
, cung cấp dần cho cây, ngăn chặn việc hình
thành NO
3
+
, hiệu lực của đạm có thể tăng lên gấp đôi. Bón đạm sâu còn ngăn
chặn việc bốc hơi NH
3
vào tầng khí quyển (Nguyễn Ngọc Nông, 1999).Tuy
nhiên phương pháp này chỉ phù hợp cho bón lót.
Theo Nguyễn Văn Bộ, 2007(9), lượng phân bón khuyến cáo cho ngô phải
tùy thuộc vào đất, giống trồng ngô và thời vụ. Giống có thời gian sinh trưởng
dài hơn, năng suất cao hơn cần phải bón lượng phân cao hơn.Đất chua phải bón
nhiều lân hơn, đất nhẹ và vụ gieo trồng có nhiệt độ thấp cần bón nhiều kali hơn.
Cây ngô là loại cây cần nhiều dinh dưỡng do đó để đạt năng suất cao nhất
thiết phải bón đầy đủ và cân đối, đặc biệt là N : P : K. Hiện nay ở nước ta trong
vùng Trung du và miền núi phía Bắc, người đan vẫn còn tập quán sử dụng phân
bón lượng thấp và chủ yếu bón phân đạm mà không bón lân và kali. Đây là một
nguyên nhân thứ yếu làm cho năng suất ngô trong vùng rất thấp.Vì vậy việc
khuyến cáo và hướng dẫn kĩ thuật bón phân cho ngô đạt hiệu quả cao là rất cần
thiết và cấp bách.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón, những nhà khoa học đã nghiên
cứu ra nhiều loại phân bón mới.Thông qua việc sử dụng phân bón mới hạn chế
tối đa việc bay hơi, rửa trôi và khắc phục nhược điểm bón phân dựa vào thời tiết
của nông dân trong đó có phân viên nén chậm tan.
Theo PGS.TS Nguyễn Tất Cảnh, đề tài nghiên cứu sử dụng phân viên nén
trong thâm canh ngô trên đất dốc tại tỉnh sơn Sơn La, làm tăng năng suất 17%
đối với sản xuất ngô giống và tăng 11% đối với ngô thương phẩm.

Theo Phạm Sỹ Tâm (Viện lúa Đồng bằng Sông Cửu Long). Hiện nay, các
nhà khoa học đang tập trung chủ yếu nghiên cứu và đề xuất hướng nghiên cứu để
17
làm tăng hiệu quả của sử dụng phân bón cho cây trồng theo phương pháp như:
- Sử dụng phân urê chậm tan.
- Dùng các chất phụ gia bọc urê để ngăn không cho urê tan nhanh trong nước.
- Dùng urê viên bón chôn sâu trong đất để giảm thiểu bốc hơi amonia.
- Dùng các chất ức chế men urease hoạt động để hạn chế thất thoát do bốc
hơi amonia.
- Dùng các chất ức chế vi sinh vật phản nitrat hoá hoạt động để hạn chế
thất thoát nitrat trong đất.
- Bón chia nhỏ ra làm nhiều lần, mỗi lần bón một lượng nhỏ cho cây sử
dụng triệt để sẽ hạn chế sự thất thoát
Một trong các hướng đó là dựa theo nguyên lý: phân được giải phóng
chậm (CRN) có tác dụng thúc đẩy tối đa sinh trưởng và làm giảm sự mất đạm đã
được nghiên cứu nhiều trong hai thập kỷ gần đây.
2.4. Các phương pháp trồng ngô
Cây ngô là cây chịu lạnh kém nên ở khu vực ôn đới người ta trồng ngô vào
mùa xuân. Cây ngô có hệ thống rễ nói chung là nông vì thế ngô phụ thuộc nhiều
vào độ ẩm đất. Ngô là một loại thực vật quang hợp theo chu trình C4 nên hiệu quả
sử dụng nước cao hơn so với thực vật C3 như: các loại cây lương thực nhỏ, cỏ linh
lăng hay đậu tương. Ngô nhạy cảm nhất với khô hạn khi trổ bắp, lúc hoa (râu) ngô
đã sẵn sàng cho việc thụ phấn. Tại Hoa Kỳ, vụ thu hoạch bội thu theo truyền thống
được dự đoán là khi ngô “cao ngang đầu gối vào ngày 4 tháng 7”, mặc dù các
giống ngô lai ghép hiện nay nói chung đều vượt quá tỷ lệ phát triển này.
Tại Hoa Kỳ, ngô đã từng được thổ dân gieo trồng trên các mô đất,trong
một hệ thống phức tạp gọi là “ Ba chị em”. Các loài đậu, đỗ được sử dụng thân
cây ngô để lấy chỗ dựa, còn các loại bí thì có tác dụng che chắn cỏ dại. Phương
pháp này đã bị thay thế gieo trồng đơn loài trên các mô đất trong đó mỗi mô đất
cách nhau khoảng cách 60 – 120 cm (2 – 4 fit) được gieo 3 hay 4 hạt giống, một

phương pháp hiện nay vẫn còn được những người làm vườn tại gia sử dụng. Các
kỹ thuật muộn hơn là ngô ca rô, trong đó các mô đất cách nhau khoảng 1m (40
18
inch), cho phép các máy xới chạy trên đồng theo cả hai hướng ngang và dọc. Tại
các khu vực đất đai khô cằn hơn thì điều này bị thay thế và hạt được gieo tại đáy
các rãnh sâu khoảng 10 – 12 cm (4-5 inch) để có thể lấy được nhiều nước hơn.
Kỹ thuật hiện đại gieo trồng ngô thành các hang để cho phép việc chăm sóc non
được thuận tiện hơn, mặc dù kỹ thuật gieo trồng trên các đống đất vẫn còn sử
dụng tại các cánh đồng ngô trong một số khu bảo tồn của thổ dân châu Mỹ. Tại
Bắc Mỹ, các cánh đồng được gieo trồng theo phương pháp luân canh cây trồng
với các cây trồng có tác dụng cố định đạm, thường là cỏ linh lăng ở khu vực có
khí hậu lạnh hơn và đậu tương ở khu vực có mùa hè dài hơn. Đôi khi, cây trồng
thứ ba lúa mì mùa đông, cũng được thêm vào trong vòng luân canh. Các cánh
đồng thông thường được cày xới mỗi năm, mặc dù kiểu canh tác không cày xới
ngày càng gia tăng. Hầu hết các giống ngô được trồng tại Hoa Kỳ và Canada là
các giống ngô lai. Trên một nửa diện tích gieo trồng ngô tại Hoa Kỳ là các giống
ngô biến đổi gen bằng cách sử dụng công nghệ sinh học để có những đặc tính tốt
như kháng sâu bệnh hay sức kháng chịu thuốc diệt cỏ.(12)
Có rất nhiều phương pháp trồng được sủa dụng ở nước ta nhằm năng cao
năng suất của cây ngô
Thu hẹp khoảng cách hàng và tăng mật độ hợp lý được coi là giải pháp cần
được ưu tiên hàng đầu trong chủ trương cũng như chính sách đầu tư hiện nay
Sử dụng phân bón và bón phân một cách hợp lý, quan tâm đến nguyên tố
trung lượng và vi lượng, chế phẩm phun qua lá (Bùi Huy Hiền)(13).
Canh tác ngô với bảo vệ môi trường bền vững: canh tác ngô ở vùng đất dốc
(ThS. Hà Đình Tuấn)(14).
Mở rộng phương pháp làm đất tối thiểu hoặc không làm đất- thế giới đang
mở rộng rất nhanh, giúp chống xói mòn, giữ độ phì, giữ ẩm, tranh thủ thời vụ,
đặc biệt là vụ đông và những vùng ven sông sau mưa lũ, tiết kiệm công lao
động. Ở Mỹ mặc dầu ngô không trồng ở những vùng quá dốc như Việt Nam

nhưng giảm năng suất do xói mòn (8%) gần tương đương với hạn(10%) và cao
hơn sâu đục thân 5%
19
Có rất nhiều mô hình trồng cây họ đậu, lạc trồng xen ngô được áp dụng ở
rất nhiều nơi mang lại những kết quả tốt cho thu nhập cây ngô vừa cho thu nhập
từ cây trồng phụ, phần thân lá cây trồng xen trả lại cho đất một phần dinh dưỡng
đã bị lấy đi.
Sử dụng thuốc trừ cỏ: được dùng từ những năm 1950, ở Mỹ hiệu quả của
việc sử dụng thuốc trừ cỏ còn cao hơn hơn hiệu quả của phân đạm và tăng mật
độ (23% so với 19% và 21%). Ở nước ta việc sử dụng thuốc trừ cỏ đã phổ biến
đối với lúa, còn với ngô thì khá phổ biến ở phía Nam, còn phía Bắc, đặc biệt là
ngô trên đất lúa thì hầu như chưa được sử dụng. Đây có lẽ là một nguyên nhân
chính làm cho năng suất ngô vụ đông ở miền bắc còn rất thấp, mặc dầu đã trồng
các giống tốt nhất hiện có ở nước ta… Sử dụng thuốc trừ cỏ sẽ mở rộng được
phương thức canh tác với làm đất tối thiểu, thu hẹp khoảng cách hàng, và cũng
là một biện pháp hạn chế rử trôi dinh dưỡng do xới xáo nhiều (báo cáo của Bộ
môn BVTV).
Khử cờ đúng phương pháp: có một thực trạng là hiện nay nhiều vùng ngô ở
đồng bằng bị chặt bỏ thân lá phía trên bắp khi ngô chưa chín. Điều này mâu
thuẫn với nỗ lực của các nhà tạo giống là tạo ra bộ lá xanh bền (bắp chín lá vẫn
còn xanh) nhằm phát huy tối đa hiệu quả tích lũy dinh dưỡng ở hạt, từ đó tăng
năng suất và chất lượng hạt, đồng thời tận dụng được thân lá xanh làm thức ăn
cho gia súc. Theo kết quả nghiên cứu thì nếu khử bỏ cờ trước khi tung phấn và
không làm mất lá thì có thể tăng năng suất đến 13.5%, còn nếu làm mất 3 trên
thì không còn hiệu quả, còn nếu cắt phần lớn lá phía trên bắp khi ngô chưa chín
thì không chỉ làm ngô chín ép chứ không phải chín sớm hơn như mong muốn
mà còn giảm năng suất và chất lượng rất nhiều.
Nhóm các nhà khoa học thuộc viện KHKT Nông lâm miền núi phía Bắc,
Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam đã tiến hành thử nghiệm biện pháp kết
hợp che phủ đất sau đó trồng ngô tại một số điểm của miền núi phía Bắc. Kết

quả cho thấy, với biện pháp canh tác này đã hạn chế xói mòn đất rất lớn, chỉ
20
0,53 tấn/ ha đất bị trôi tức là giảm 84,5% so với đối chứng. Ngoài ra, biện pháp
canh tác này cũng thể hiện tác dụng rất tích cực đối với sinh trưởng và phát triển
của cây ngô, tăng chiều cao cây từ 9,1cm (đối chứng) lên 19,1 cm và 24,1 cm
(che phủ đất), đồng thời khắc phục được các yếu tố hạn chế của đất dốc và tăng
năng suất ngô từ 10,6% đến 31,9%. Do đó thu nhập của người nông dân cũng
tawng 390.000 – 2.724.000 đồng/ ha. Đồng thời giảm nhẹ lao động nặng nhọc
như từ làm đất, làm cỏ (giảm 25% - 91,7% công làm cỏ); góp phần cải thiện đời
sống nông dân vùng cao mà vẫn bảo tồn được tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ
môi trường sinh thái.
2.5. Hiệu quả kinh tế của sản xuất ngô
Số liệu thống kê của FAO cũng cho thấy, giá ngô thế giới trong đầu năm
2011 đã đạt kỷ lục mọi thời đại 304 đô la Mỹ/tấn. Trong khi đó, so sánh với giá
gạo trắng 100% B của Thái Lan hiện ở mức 531 đô la/tấn, tuy cao hơn chút ít so
với mức bình quân 518 đô la/tấn trong năm 2010, nhưng đã giảm liên tiếp trong
ba tháng qua và giảm mạnh so với mức bình quân 695 đô la/tấn của năm 2008.
“Độ nóng” của giá ngô mới là điều đặc biệt đáng ngại của thế giới. Nếu tính
bình quân từ năm 2000 trở lại đây, giá ngô giao dịch hàng tháng trên thị trường
thế giới chỉ bằng 38,5% giá gạo, nhưng đầu năm 2011 đã được đẩy lên 57,3%
(tăng 18,8%).So với trồng các loại lúa và hoa màu khác thì giá trị kinh tế mà cây
ngô mang lại hơn hẳn, với giá thị trường hiện nay mỗi héc ta trồng ngô thâm
canh sau 3 tháng có thể mang về cho người nông dân nguồn lợi không dưới 15
triệu đồng (sau khi đã trừ các chi phí), đó là chưa nói thân ngô còn có thể sử
dụng làm thức ăn cho gia súc, làm chất đốt rất tốt.
Theo dự báo của FAO, thay vì bằng 38,5% giá gạo như trong 11 năm gần
đây, bình quân giá ngô thế giới từ nay tới cuối thập kỷ sẽ bằng 44,3% so với giá
gạo. Nói cách khác, từ nay tới cuối thập kỷ, ngô sẽ là loại lương thực đắt giá
nhiều nhất. Trong điều kiện như vậy, Việt Nam không nên tiếp tục phát triển cây
ngô theo kiểu “được chăng hay chớ” như những năm gần đây. Ngược lại, cần

21
quyết liệt tăng tốc sản xuất ngô chí ít là đủ đáp ứng nhu cầu trong nước để tránh
phải gia tăng nhập khẩu. Không chỉ trước mắt mà lâu dài thị trường tiêu thụ ngô
vẫn còn rất rộng mở, bởi lẽ ngô không chỉ là lương thực, nguyên liệu cơ bản để
chế biến thức ăn gia súc mà còn là nguồn nguyên liệu cho năng lượng sinh học –
nguồn năng lượng sạch.
Theo TS.Lê Quốc Doanh, 2004, thì ở miền núi phía Bắc Việt Nam có tới
62% hộ nông dân có thu nhập từ sản xuất ngô và bình quân cây ngô chiếm tới
15% thu nhập của họ.
Năm 2005, trong khuôn khổ của Dự án Đa dạng hóa nông nghiệp, hướng
tới chương trình canh tác bền vững, Trung tâm NCNNDH Nam Trung bộ (nay là
viện NCNNDH Nam Trung bộ) đã trình diễn mô hình trồng đậu tương ĐT 12
xen cây ngô trên đất đỏ bazan thuộc xã Ia Phang, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.
Với giống ngô lai 171 (của công ty Monsanto), trồng trong điều kiện nắng hạn
không được tưới tiêu. Cây ngô cho năng suất 40 tạ/ ha, cây đậu tương cho năng
suất 25 tạ/ ha. Hiệu quả kinh tế mô hình đem lại tại thời điểm đó lên tới 21 triệu
đồng/ ha.
Từ các mô hình thử nghiệm tại các tỉnh, các huyện và các xã cho ta thấy
hiệu quả kinh tế của sản xuất ngô đem lại rất lớn
Năm 2010, ở xã vùng cao Tả Sìn Thàng, bình quân mỗi ha trồng ngô, trừ
chi phí sản xuất mỗi ha người dân thu lãi trên dưới 10 triệu đồng. Hiện nay, cây
ngô đã trở thành loại cây hàng hóa đem lại nguồn thu nhập chủ yếu giúp người
dân xóa đói giảm nghèo. Một số hộ dân đã có đời sống kinh tế khá từ sản xuất
kinh doanh ngô.
Năm 2010, Trung tâm Khuyến nông - Khuyến lâm tỉnh Bắc Kạn đã triển
khai thực hiện mô hình sản xuất ngô lai với tổng diện tích 4 ha, với 20 hộ dân
tham gia tại thôn Bản Sáp - xã Xuân La - huyện Pác Nặm. Ngày 22/7/2010,
Trung tâm Khuyến nông - Khuyến lâm tỉnh phối hợp với UBND xã Xuân La -
huyện Pác Nặm tổ chức hội nghị tổng kết mô hình: Sản xuất cây ngô lai tại thôn
22

Bản Sáp - xã Xuân La để đánh giá kết quả và nghiệm thu mô hình.Kết quả của
mô hình sản xuất ngô lai cho thấy với giá bán 4.500đ/kg như hiện nay, mỗi ha
ngô lai cho thu nhập 25 - 30 triệu đồng. Thành công của mô hình đã giúp bà con
nông dân nắm vững kỹ thuật, tiếp cận giống mới, mạnh dạn đầu tư thâm canh để
đạt hiệu quả kinh tế cao hơn, giúp kinh tế gia đình phát triển và tăng thu nhập.
Vụ Xuân năm 2013, Trung tâm Khuyến nông Hải Dương phối hợp với công
ty TNHH Hai Mũi Tên Đỏ và Trạm Khuyến nông một số huyện như Kim Thành,
Nam Sách, Kinh Môn, Cẩm Giàng… triển khai mô hình trình diễn giống ngô lai F1
tím ngọt 099 theo quy mô nhỏ, sau khi trừ chi phí lãi 2.474.500 đồng/ sào.
Để hạt ngô trở thành hàng hoá có giá trị trên thị trường thì ngay từ bây giờ
người quản lý cũng như người sản xuất cần phải nắm bắt xu hướng giá cả lương
thực thế giới tăng cao không chỉ trước mắt mà còn trong lâu dài để có nhận thức
về tầm quan trọng của việc phát triển cây ngô trong chiến lược phát triển cây
lương thực nói chung. Mặt khác, muốn cây ngô mang lại giá trị kinh tế cao cần
phải thay đổi thói quen canh tác đã quá lạc hậu của người dân, nhất là đồng bào
ở các địa bàn vùng cao, nơi cây ngô có nhiều cơ hội phát triển do tiềm năng đất
đai dồi dào và điều kiện thời tiết khí hậu phù hợp. Chúng ta nên sử dụng giống
mới có năng suất cao, chất lượng tốt vào sản xuất.
23
PHẦN III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Vật liệu, địa điểm và thời gian nghiên cứu
3.1.1 Vật liệu nghiên cứu
STT TÊN GIỐNG NGUỒN GỐC GHI CHÚ
1 NK4300 Công ty TNHH Syngenta
Việt Nam
Thời gian sinh trưởng 110
-115 ngày, năng suất trung
bình 8-9 tấn/ ha
2 LVN99 Viện nghiên cứu ngô Thời gian sinh trưởng 115
-120 ngày, năng suất khoảng

9- 12 tấn/ ha

Các loại phân bón: Đạm Urê (46%), Supe lân Lâm Thao (16%), KCl
(60%), phân viên nén.
3.1.2 Ðịa điểm bố trí thí nghiệm.
 Địa điểm: đề tài nghiên cứu được bố trí trên khu đất thí nghiệm thuộc bộ
môn Cây lương thực – Khoa Nông học – Trường ĐH Nông nghiệp Hà Nội, Trâu
Quỳ - Gia Lâm – Hà Nội.
 Thí nghiệm được tiến hành trên đất phù sa thuộc Đồng Bằng Sông Hồng
không được bồi đắp hàng năm. Đất thịt nhẹ và tơi xốp.
 Đất được đảm bảo làm kỹ, sạch cỏ dại, lên luống và chia ô đúng thiết kế
của thí nghiệm.
3.1.3 Thời gian tiến hành thí nghiệm.
Thời gian nghiên cứu: tiến hành trong vụ Xuân nãm 2013
3.2. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng phát triển, tính chống chịu, năng suất và
các yếu tố cấu thành năng suất khi tiến hành trồng ngô bằng các cách khác nhau
trong vụ Xuân năm 2013.
3.3. Phương pháp thí nghiệm
24
3.3.1. Sơ đồ thí nghiệm và phương pháp bố trí thí nghệm
3.3.1.1. Công thức thí nghiệm
Thí nghiệm gồm 2 nhân tố
 Nhân tố chính là 6 cách trồng khác nhau kí hiệu từ C1 – C6
C1: Trồng ngô theo quy trình thông thường - bón phân thúc 3 lần (3-4 lá + 7-9
lá + trước trỗ 15 ngày) (đối chứng).
C2: Trồng ngô theo quy trình thông thường - bón phân thúc 2 lần (7-9 lá +
trước trỗ 15 ngày).
C3: Trồng ngô theo quy trình thông thường - bón phân thúc 1 lần (7-9 lá)
C4: Trồng theo quy trình công ty Syngenta kết hợp sử dụng phân nén : Bón lót

phân vi sinh + Bón phân viên nén ở giai đoạn 3-5 lá + Vun ngô ở 1 giai đoạn 7-
9 lá + Phun thuốc trừ cỏ
C5: Trồng ngô theo quy trình cải tiến sử dụng phân viên nén – bón lót 1 lần
C6: Trồng ngô bằng bầu công nghiệp + chăm sóc theo quy trình cải tiến sử
dụng phân viên nén - bón lót 1 lần.
 Nhân tố phụ là 2 giống ngô lai:
G1 là giống LVN99
G2 là giống NK4300
Thí nghiệm gồm 12 công thức:
CT1: G1C1 CT7: G1C1
CT2: G1C2 CT8: G1C2
CT3: G1C3 CT9: G1C3
CT4: G1C4 CT10: G1C4
CT5: G1C5 CT11: G1C5
CT6: G1C6 CT12: G1C6
25

×