Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

Ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến đời sống của người dân hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.3 KB, 75 trang )

ẢNH HƯỞNG CỦA XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG ĐẾN ĐỜI SỐNG
GIA ĐÌNH NÔNG THÔN HIỆN NAY
(Khảo sát tại: Huyện Hậu Lộc - Tỉnh Thanh Hóa)
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm là vấn đề vừa cấp bách, vừa lâu dài trong sự nghiệp đổi mới của
đất nước. Xuất khẩu lao động là một một hiện tượng tất yếu khách quan, là một
hình thức đặc thù của xuất khẩu nói chung, hàng hóa đem đi xuất khẩu là loại
hàng hóa đặc biệt đó là sức lao động của con người, sức lao động trở thành hàng
hóa còn khách mua sức lao động là chủ thể người nước ngoài. Xuất khẩu lao
động dựa trên mối quan hệ cung - cầu do sự mất cân đối các yếu tố trong các quá
trình sản xuất giữa các nước và chịu sự điều tiết của quy luật thị trường. Trong
những năm qua, xuất khẩu lao động có vai trò quan trọng trong sự phát triển của
nhiều địa phương, đã đem lại nhiều kết quả, vừa là phương tiện thu hút nguồn
ngoại tệ thông qua tiền gửi người lao đọng là việc ở nước ngoài. Mỗi năm lao
động nước ngoài gửi về nước 1.7 tỷ USD, vừa là cơ hội tăng giải quyết việc làm,
giảm thất nghiệp. Đây đươc coi là chiến lược phát triển của nhiều địa phương,
tăng khả năng tích lũy cho xã hội, đa dạng hóa việc làm và thu nhập cho người
lao động. Đặc biệt đối với những người lao động là nông dân thì xuất khẩu lao
động là một hướng đi gắn với xóa đói, giảm nghèo.
Hậu Lộc là một huyện ven biển thuộc tỉnh Thanh Hóa, cách trung tâm
thành phố Thanh Hóa khoảng 25 km về phía đông bắc; giáp huyện Nga Sơn, Hà
Trung về phía bắc, Hoằng Hóa về phía tây và nam; phía đông giáp với biển
Đông. Diện tích 141.5 km
2
có 27 xã, thị trấn. Dân số 162.971 người (2009). Cơ
1
cấu kinh tế của huyện chủ yếu là nông, lâm, ngư nghiệp, ngành công nghiệp và
dịch vụ chưa phát triển, năng xuất lao động và hiệu quả làm việc còn thấp, tình
trạng thiếu việc làm là phổ biến. Ở nông thôn 1/3 quỹ thời gian chưa được sử
dụng hết, tương đương với 5 triệu lao động, đời sống người dân hết sức khó
khăn, thu nhập thấp, nhu cầu việc làm là một thách thức lớn. Trong những năm


qua Thanh Hóa đã lựa chọn giải pháp xuất khẩu lao động để giải quyết việc làm,
xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập, tạo ra nguồn thu ngoại tệ mạnh để phát triển
kinh tế-xã hội trên địa bàn.
Gia đình có một vị trí hết sức quan trọng, là hạt nhân của xã hội, là nguồn
cung cấp lao động và tham gia tích cực vào thị trường lao động. Gia đình vận
động, biến đổi và phát triển cùng với sự thay đổi của xã hội. Gia đình là đơn vị
tiếp nhận, thực hiện, đồng thời chịu những hệ quả tích cực và tiêu cực của mọi
chính sách kinh tế, xã hội. Việc xuất khẩu lao động đã ảnh hưởng đến đời sống
hộ gia đình nông dân có người đi xuất khẩu lao động. Xuất phát từ thực tế khách
quan, tôi đã lựa chọn đề tài: "Ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến đời sống
gia đình nông thôn hiện nay" nghiên cứu trên địa bàn huyện Hậu Lộc tỉnh Thanh
Hóa làm đề tài nghiên cứu.
2. Tổng quan tài liệu
Xuất khẩu lao động là một trong các yếu tố thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội, giải quyết vấn đề việc làm. Do quy luật cung-cầu của thị trường về lực
lượng lao động làm nảy sinh vấn đề xã hội, nó ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp
đến đời sống gia đình có người đi xuất khẩu lao động.
2
Đề tài "Xuất khẩu lao động ở Chí Linh, thực trạng và giải pháp" của
Nguyễn Thị Mai đã mô tả được thực trạng xuất khẩu lao động thông qua các chỉ
báo số lượng, ngành nghề, thị trường, thu nhập, nêu ra những thuận lợi và khó
khăn, khẳng định xuất khẩu lao động là một trong những chiến lược giải quyết
việc làm, số lượng lao động tham gia xuất khẩu lao động ngày một tăng. Tuy
nhiên mới tác giả mới chỉ dừng lại ở việc thống kê ra các con số thông qua tài
liệu, báo cáo.
Đề tài nghiên cứu của Nguyễn Hà Đông "Vai trò của người chồng trong
gia đình có vợ đi xuất khẩu lao động". Tác giả đã tìm hiểu vai trò sản xuất và
tái sản xuất trong gia đình có người vợ đi xuất khẩu lao động. Ở đề tài này tác
giả nghiên cứu vai trò của người chồng trong gia đình có vợ đi xuất khẩu lao
động chứ chưa tìm hiểu được những biến đổi trong mối quan hệ trong gia đình,

những thay đổi về phương diện vật chất cũng như tinh thần.
Đề tài: "Thực trạng xuất khẩu lao động ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay" của tác giả Phạm Thị Hường (năm 2009) đã đề cập đến vấn đề xuất khẩu
lao động hiện nay, các yếu tố tác động đến nhu cầu đi xuất khẩu lao động của
người lao động như cơ chế chính sách, đặc điểm về nhóm, giới tính, tuổi, thu
nhập nhưng đề tài mới chỉ dừng lại ở việc mô tả thực trạng XKLĐ mà chưa đề
cập đến những tác động từ hoạt động XKLĐ đến đời sống của người dân.
Công trình nghiên cứu của khoa học của tác giả Nguyễn Thị Lan " Vấn đề
việc làm cho người đi xuất khẩu lao động sau khi trở về nước" (2011) Ở đề tài
này, tác giả tập trung nghiên cứu, mô tả thực trạng vấn đề việc làm của nh người
đi xuất khẩu lao động sau khi trở về nước sinh sống. Có thể thấy đây cũng là một
vấn đề cần có sự quan tâm đúng mức của các cấp lãnh đạo, bởi phần lớn những
3
người đi xuất khẩu lao động đề là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo, sau khi
trở về nước muốn tìm một công việc phù hợp là rất khó trong khi điều kiện kinh
tế của địa phương và đất nước chưa cho phép và đây cũng là một trong những lý
do khiến cho tình trạng lao động ở Việt Nam cư trú bất hợp pháp tại các nước
bạn. Như vậy có thể thấy, đề tài đã đề cập đến một khía cạnh nhỏ trong đời sống
của người dân mà chưa bao quát tất cả những vấn đề của đời sống.
Như vậy có thể thấy có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề xuất
khẩu lao động, các tiểu luận, các công trình, bài viết đá đưa ra được thực trạng
hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam trong giai đoạn gần đây và một số biện
pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu lao động. Tuy nhiên có thể nhận thấy các đề
tài mới chỉ dùng lại ở việc mô phỏng thực trạng, bản chất hoạt động xuất khẩu
lao động mà chưa có công trình nào đi sau vào nghiên cứu cụ thể về sự tác dộng
của trở lại của hoạt động xuất khẩu lao động đến đời sống của người dân đối với
cả người lao động có nhu cầu đi XKLĐ hay gia đình, thân nhân có người đi
XKLĐ. Đây là một vấn đề mang tính kinh tế và xã hội bởi thực chất mỗi một
vấn đề đều có hai mặt của nó và hoạt động XKLĐ đang dần có ảnh hưởng mạnh
mẽ đến cuộc sống của người dân trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực.

Những kết quả của XKLĐ mang lại cho người lao động và đất nước deefdf nhìn
thấy rõ nhưng đằng sau nó là những hạn chế, tiêu cực, những mặt trái của hoạt
động này mang lại đang ngày càng ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người dân
và nó cũng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển chung của đất nước. Chính vì vậy,
với đề tài này, tác giả mong muốn kết quả nghiên cứu này có thể là những thông
tin cần thiết, cung cấp cho các nhà quản lý, cơ qua lãnh đạo trong quá trình nâng
cao đời sống của người dân, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước.
4
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
3.1 Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu dựa trên các biểu thức xã hội học chuyên ngành, xã hội học
đại cương và hệ thống lý thuyết trong xã hội học như lý thuyết cấu trúc chức
năng, lý thuyết sự lựa chọn hợp lý, lý thuyết hành động, lý thuyết về sự biến đổi
xã hội nhằm làm rõ "Ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến đời sống gia đình
nông thôn hiện nay" có người đi lao động ở nước ngoài. Qua nghiên cứu giúp
cho việc củng cố và bổ sung hệ thống lý luận xã hội học chuyên ngành như xã
hội học nông thôn, xã hội học gia đình, xã hội học kinh tế, xã hội học lao động
Đồng thời, khái quát hóa vấn đề mở ra một số khía cạnh tiếp cận nghiên cứu hoạt
động xuất khẩu lao động dưới góc độ xã hội học. Kết quả nghiên cứu góp phần
hình thành quan niệm khoa học về xuất khẩu laođộng giúp cho việc hoạch định
chính sách. Qua đó cho thấy vai trò đổi mới của Đảng và Nhà nước ta ta trong sự
phát triển kinh tế-xã hội.
3.2 Ý nghĩa thực tiễn
Dưới góc độ tiếp cận xã hội học giúp cho bản thân tác giả và những người
quan tâm hiểu rõ và sâu sắc thực trạng xuất khẩu lao động. Tìm ra những tác
động tích cực, tiêu cực của việc xuất khẩu lao động tác động đến mức sống, vai
trò và các mối quan hệ của gia đình người nông dân có người đi xuất khẩu lao
động. Những kết luận đánh giá sẽ làm tài liệu tham khảo cho các nhà khoa học,
nhà quản lý. Qua đó, đưa ra kết luận và khuyến nghị làm cơ sở cho việc ban
hành chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho công tác quản lý, chỉ

đạo thường ngày của có quan chức năng. Đồng thời giúp cho các nhà quản lý
5
hoạch định các chính sách, đề xuất giải pháp phù hợp khắc phục những tồn tại,
yếu kém để phát huy tiềm lực xuất khẩu lao động của huyện Hậu Lộc tỉnh Thanh
Hóa nói riêng và cả nước nói chung, nhằm gắn việc xuất khẩu lao động với xóa
đói giảm nghèo, xây dựng gia đình ấn no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
4. Đối tượng, khách thể, mục đích và phạm vi nghiên cứu.
4.1 Đối tượng nghiên cứu
• Ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến đời sống gia đình nông thôn hiện
nay.
4.2 Khách thể nghiên cứu
• Những hộ gia đình có người thân đang đi làm thuê ở nước ngoài hoặc đã
trở về nước dưới 1 năm tại huyện Hậu Lộc tỉnh Thanh Hóa.
• Cán bộ quản lý cấp xã, huyện nơi có người đi xuất khẩu lao động nước
ngoài
4.3 Mục đích nghiên cứu
Đề tài được thực hiện với mục đích là dựa trên cơ sở làm rõ thực
trạng đời sống của những gia đình có người đi xuất khẩu lao động trên các mặt:
Vật chất và tinh thần với những biến đổi trước và sau khi có người đi xuất khẩu
lao động để từ đó cung cấp cho các nhà quản lý, các cấp lãnh đạo đại phương có
cái nhìn khách quan, cụ thể về vấn đề này, bên cạnh đó tác giả cũng mạnh dạn đề
xuất giải pháp của mình, kiến nghị để giải quyết vấn đề hướng tới mục đích
chung là nâng cao cuộc sống của người dân thuộc huyện Hậu Lộc tỉnh Thanh
Hóa.
4.4 Mục tiêu nghiên cứu.
Để thực hiện được mục đích trên thì đề tài cần đạt được các mục tiêu sau:
6
 Mô tả và phân tích thực trạng xuất khẩu lao động của địa phương trong giai đoạn
hiện nay.
 Tìm hiểu những tác động tích cực và tiêu cực của việc xuất khẩu lao động đến

đời sống của hộ gia đình.
 Làm rõ sự quan tâm của chính quyền địa phương trong việc thúc đẩy hoạt động
XKLĐ của địa phương.
 Khuyến nghị về chính sách nhằm nâng cao chất lượng sống của người dân và gia
đình.
4.5 Phạm vi nghiên cứu
 Phạm vi không gian: Tại huyện Hậu Lộc - tỉnh Thanh Hóa
 Phạm vi thời gian: Từ tháng 01 năm 2015 đến tháng 5 năm 2015
 Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Mức sống (Thu nhập, chi tiêu, cơ sỏ vật chất, vui
chơi giải trí). Vai trò và các mối quan hệ cơ bản như quan hệ vợ - chồng, cha
mẹ và con cái, người cao tuổi và con cháu trong gia đình có người thân đi xuất
khẩu lao động.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi
Đây là phương pháp thu thập thông tin cơ bản của đề tài, xây dựng câu
hỏi dựa trên giả thuyết của đề tài đã đặt ra. Đơn vị lấy của 115 mẫu nghiên cứu là
người trong hộ gia đình có người thân đi xuất khẩu lao động và được xử lý qua
phần mềm SPSS 17.0 để cung cấp số liệu phục vụ cho đề tài.

5.2 Phương pháp phân tích tài liệu
Các văn bản liên quan đến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
các náo cáo của huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa về xuất khẩu lao động. Các kết
quả khảo sát, các công trình nghiên cứu, các bài viết trên báo, tạp chí, một số
trang web được sử dụng làm tài liệu tham khảo có sự tiếp thu, kế thừa chọn lọc,
7
đối chiếu, so sánh. Từ đó giúp cho quá trình nghiên cứu diễn ra một cách tổng
quát và có hiệu quả hơn.
5.3 Phương pháp quan sát
Quan sát các hộ gia đình thuộc địa bàn nghiên cứu gồm nhà ở, các điều
kiện sinh hoạt, cơ sở vật chất thái độ người dân khi trả lời, tình hình thực tế của

địa phương như môi trường sống, cách sinh hoạt của người dân.
5.4 Phương pháp phỏng vấn sâu
Phỏng vấn 5 cá nhân trong hộ gia đình có người đi lao động hoặc đã về
nước và đang ở nước ngoài.
5.5 Phương pháp chọn mẫu
Đề tài áp dụng công thức chọn mẫu trong điều tra xã hội học:
Nt
2
.0,25
n =
N
2
+ t
2
0,25
Trong đó: n: Cỡ mẫu
: Phạm vi sai số
N: Số lượng các đơn vị tổng thể
t
2
: Hệ số tin cậy
8
Chọn giả định với sai số ( ) là 0,1 và mức độ tin cậy là 99,7 tương ứng với hệ số
tin cậy là t = 3. Vì số lượng người trong hộ gia đình nông thôn của huyên Hậu
Lộc đi XKLĐ năm 2014 là 1094 người nên ta áp dụng công thức ta được:
1094.3
2
.0.25
n= = 187
1094.0.1

2
+3
2
.0.25
Như vậy cỡ mẫu là 187 nhưng do dung lượng mẫu lớn cũng với thời gian
nghiên cứu không có nhiều nên tác giả chỉ chọn 115 đối tượng để nghiên cứu
Sau khi tìm được dung lượng mẫu là 115, đề tài sử dụng phương pháp
chọn mẫu ngẫu nhiên theo cụm kết hợp với chọn mẫu ngẫu nhiên theo hệ thống
để chọn ra 115 hộ gia đình từ 1084 hộ có người đi XKLĐ để tiến hành nghiên
cứu.
6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết
6.1 Giả thuyết nghiên cứu
- Giả thuyết 1: Đa số những người đi xuất khẩu lao động đều giành một phần
thu nhập gửi về nên mức sống của gia đình họ được cải thiện.
- Giả thuyết 2: Mối liên hệ giữa các thành viên trong gia đình có sự thay đổi
theo cả hai hướng cả tích cực và tiêu cực dưới tác động của việc đi xuất khẩu lao
động.
6.2 Khung lý thuyết
9
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA XUẤT KHẨU
LAO ĐỘNG ĐẾN ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH HIỆN NAY
1.1 Các lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu
10
Nhu cầu xuất khẩu lao động
Hộ gia đình có người đi XKLĐ
Mối quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình
Vật chất
Thu
nhập

Chi tiêu Cơ sở vật
chất
Quan hệ
vợ chồng
Quan hệ
người cao
tuổi - con
cháu
Quan hệ
cha mẹ -
con cái
1.1.1 Lý thuyết cấu trúc - chức năng
Theo Tallcott Parsons (1902-1979) nhà xã hội học người Mỹ trong tác
phẩm "Cấu trúc hành động xã hội -1939" Ông đã đưa ra lý thuyết về hành động
xã hội để mô tả mối quan hệ giữa cấu trúc và chức năng và xã hội. Giữa cấu trúc
và chức năng có mối quan hên biện chứng với nhau, trong đó cấu trúc giữ vai trò
quan trọng chi phối chức năng. Sự thay đổi về chức năng có thể làm biến đổi cấu
trúc xã hội.
Vận dụng lý thuyết này để phân tích sự thay đổi các chức năng, phân công
lao động giữa vợ và chồng trong gia đình. Nếu các thành viên trong gia đình
không thực hiện đúng chức năng gia đình như một hệ thống sẽ bị rối loạn chức
năng có thể gây ra quan hệ không có lợi cho sự tồn tại cấu trúc gia đình.
1.1.2 Lý thuyết hành động xã hội
Hành động xã hội là loại hành vi có mục đích. Hành động xã hội là hành
động của con người trong xã hội có quan hệ đến người khác trong một tổ chức,
tập thể trong xã hội. M.Weber cho rằng hành động xã hội là loại hành vi chủ yếu
bị chỉ đạo bởi ý chí chủ quan trong mối tương quan với hành vi của những người
đến sự hiện diện trực tiếp hoặc gián tiếp của người khác. Hành động của con
người phải hiểu và đáp ứng hành động của người khác. Hành động được coi là
hành động xã hội khi nó tương quan và định hướng và hành động của những

người khác theo cái ý đã được nhận thức bởi chủ thể hành động. M.Weber đã xây
dựng một hệ thống kiểu mẫu hành động gồm 4 dạng hành động cơ bản sau:
Hành động hợp lý so với mục đích (Hành động duy lý công cụ): Hành
động này cho thấy sự nỗ lực của cá nhân trên cơ sở phân tích, định hướng vào
11
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để xác định sự hợp lý về mục đích hành động của
mình. Tính hợp lý của mục đích thỏa mãn trên cả hai phương diện; Hợp lý về
mặt nội dung của chính mục đích, hợp lý về phương diện đã được chủ thể lựa
chọn. Hành động hợp lý về mục đích đòi hỏi chủ thể hành động cần có những
cân nhắc, tính toán hợp lý để có những phản ứng phù hợp, đồng thời tận dụng
hành vi của con người xung quanh để đạt được mục đích của mình đã đặt ra.
Theo M.Weber, hành động hợp lý về mục đích có ưu điểm lớn về phương pháp
luận, nó đóng vai trò mô hình mà theo đó các loại hành vi được hình thành và
xây dựng trên cơ sở của những hoàn cảnh cụ thể.
Hành động hợp lý so với giá trị (hành động duy lý giá trị): Là hành động
được thực hiện vì bản thân chủ thể hành động. Chủ thể hành động buộc phải cân
nhắc, lựa chọn những gì nó cho là có ý nghĩa, có giá trị. Hành vi hợp lý về mặt
giá trị là loại hành vi đúng mực, hành vi chuẩn mực được thực hiện bởi niềm tin
của chủ thể vào giá trị đã được hình thành trong đời sống xã hội thông qua các
hoạt động của các thiết chế chủ thể như gia đình, kinh tế, xã hội Khi hành
động chủ thể nhận thức được nghĩa vụ của mình, lúc đó nó thực hiện nghĩa vụ
phù hợp với những đòi hỏi được đo bằng thang giá trị mà cá nhân lĩnh hội được,
chỉ khi đó hành động cá thể hợp với giá trị theo sự phán xét của cá thể đó.
Hành động cảm xúc: Là hành động do trạng thái cảm xúc, tình cả gây ra
không có sự cân nhắc, xem xét, phân tích mối quan hệ công cụ, phương tiện và
mục đích hành động, là trạng thái cảm xúc nhất định của chủ thể, làm thế nào
thỏa mái cái đam mê nhanh nhất đó là cái khát vọng, xu hướng phục thù, muốn
tháo gỡ căng thẳng.
12
Hành động truyền thống: Là hành động hình thành trên cơ sở của viecj bắt

chước những mô hình hành vi nào đó đã được củng cố, khẳng định trong truyền
thống văn hóa và được chấp nhận. Là hành vi lặp đi, lặp lại làm theo thói quen,
nghi lễ, phong tục, tập quán đã truyền lại từ đời này sang đời khác.
Bốn loại hành động này không tách rời nhau một cách rõ ràng.
Trong số hành động của con người có hành động vì mục đích, có hành động vì
giá trị nào đó, có hành động theo cảm xúc và có hành động theo một giá trị truyề
thống nào đó. Trên thực tế cho thấy, hành động của con người không thuần túy
thuộc về một loại hành động nào đó mà thường là sự kết hợp các hành động với
nhau. Trong quá trình hành động, con người luôn lựa chọn các phương án hành
động để thể hiện những mong muốn của mình, các hành động luôn có mối quan
hệ qua lại với nhau. Quan điểm của M.Weber về hành động xã hội mang tính
chất chủ quan "Hành động xã hội là hành vi mà chủ thể gắn cho ý nghĩa chủ
quan nhất định", động cơ bên trong là nguyên nhân hành động của chủ thể, nhu
cầu tạo ra động cơ. Trong điều kiện kinh tế xã hội nhất định của chủ thể sẽ phải
lựa chọn phương án tốt nhất nhằm đạt được mục đích.
Bốn loại hành động trên không tách rời nhau một cách rõ ràng. Trên thực
tế, khi hành động thường là sự kết hợp các loại hành động với nhau.
Tóm lại: Hành động được gọi là hành động xã hội khi chủ thể hành động
đặt cái ý chủ quan đã được lường trước về hành vi tương quan với những hành
động của ngươi khác. Đồng thời định hướng vào hành động của họ.
Quan điểm của Durkheim mang tính chất khách quan, nó xác định tính
chất của hành động trên cơ sở những cưỡng bức bên ngoài đối với chủ thể hành
13
động. Con người hành động ra bên ngoài do sự cưỡng bức của bên ngoài đối với
chủ của hành động. M.Weber nhấn mạnh sự tác động tương hỗ của con người
với nhau trong quá trình hành động còn Durkheim xác định vị trí của hành động
xã hội của con người trong môi trường xã hội nhất định. Nó nhận ra một hiện
thực vừa bên ngoài, vừa bên trong cá nhân đang hành động, đó là cái mà
Durkheim gọi là ý thức tập thể.
Vận dụng lý thuyết hành động xã hội, tác giả có thể hiểu hơn về bản chất,

động cơ, mục đích, nhu cầu hành động của những người đi xuất khẩu lao động .
Điều kiện kinh tế - xã hội của Thanh Hóa có mối quan hệ tác động qua lại với
những hộ gia đình. Người lao động luôn có nhu cầu tham gia vào một quan hệ
lao động nào đó, được làm việc đó là nhu cầu xuyên xuốt cuộc đời người lao
động. Sự vận dụng chính sách xuất khẩu lao động ở Hậu Lộc - Thanh Hóa là
công cụ, phương tiện để người lao động thỏa mãn nhu cầu và đạt được mục đích
của họ. Đối với các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động là hành duy lý
hướng đến mục đích, nó là nhu cầu gồm có nhu cầu về vật chất và nhu cầu về
tinh thần tạo ra động cơ thúc đẩy hành động đi xuất khẩu lao động nhằm thỏa
mãn nhu cầu đó. Nó cũng là hành động duy lý hướng đến giá trị.
Hành động xã hội chịu sự quy định bởi một số yếu tố sau: Quá trình xã hội
hóa và cơ cấu xã hội. Quá trình xã hội hóa là quá trình mà chúng ta tiếp nhận
được của nền văn hóa xã hội mà chúng ta sinh ra, nhờ đó chúng ta đạt được
những đặc trưng xã hội của bản thân, học được cách suy nghĩ và ứng xử được
coi là thích hợp trong xã hội của chúng ta.
Cơ cấu xã hội là một tập hợp phức tạp các quan hệ xã hội, vị trí xã hội và
tương ứng với chúng ta là các vị thế, vai trò . Mỗi cá nhân trong xã hội có nhiều
14
vị trí xã hội khác nhau, cá nhân đứng ở vị trí nào thì đóng vai trò đó. Cá nhân
luôn có xu hướng hành động phù hợp với vị thế, vai trò của họ trong từng mối
quan hệ của cơ cấu xã hội.
Hành động xã hội là sự trao đổi xã hội, khi hành động cá nhân luôn hướng
tới một lợi ích nhất định, chính những lợi ích, phần thưởng, hình phạt quy định
hành động xã hội.
Hành động xã hội là sự tuân theo: Cá nhân luôn hành động theo số động
và họ có cảm giác yên tâm khi họ có hành động giống với người khác và được
coi đó là chuẩn, là đúng. Khi họ có hành động khác với số đông, họ có xu hướng
thay đổi quan điểm, hành động của mình cho phù hợp với số đông đó. Có những
hành động của cá nhân chịu sự tác động của các chủ thể khác. Do đó, có những
yếu tố chủ quan như trình độ học vấn, thu nhập, chi tiêu, nghề nghiệp, và các

điều kiện khách quan của việc xuất khẩu lao động như đơn vị sử dụng lao động,
chủ trương chính sách, ảnh hưởng đến đời sống hộ gia đình nông ở nông thôn.
Hành động xã hội là sự phản ứng với người xung quanh: Theo quan điểm
cua E.Goffman, các cá nhân họ hành động rất khác nhau khi họ ở trước các chủ
thể đó.
Khi nghiên cứu mức sống của gia đình nông thôn ta phải thấy được cấu
trúc của hành động, những yếu tố quy định hành động, những lý do chủ quan và
khách quan của hành động, động cơ mong muốn khá giả, giải thích mối quan hệ
giữa các thành viên trong gia đình.
1.1.3 Lý thuyết hành trao đổi và sự lựa chọn hợp lý
15
Theo G.Homans, nhà xã hội học người Mỹ thì các cá nhân hành động tuân
theo nguyên tắc trao đổi giá trị vật chất và tinh thần như lợi ích, sự ủng hộ, danh
dự Ông đã đưa ra 4 nguyên tắc giữa các cá nhân như sau:
Nếu một hành vi được thưởng hay được lợi thì hành vi đó có xu hướng
hợp lại. Hành vi được thưởng hay được lợi trong hoàn cảnh nào thì cá nhân sẽ có
xu hướng lặp lại trong hoàn cảnh tương tự.
Nếu phần thưởng, mối lợi đủ lớn thì cá nhân sẵn sàng bỏ ra nhiều chi phí
về vật chất và tinh thần để đạt được nó.
Mức độ hài lòng, thỏa mãn với những phần thưởng, mối lợi cá nhân giành
được cao nhất ở lần đầu và có xu hướng giảm dần. Chủ thể hành động luôn đặt
ra các mục đích và họ hành động để hướng đến các mục đích đó. Hành động đó
có sự lựa chọn để đem lại lợi ích nhiều nhất và giảm thiểu các thiệt hại, rủi ro.
Thei Fredman và Hechter các chủ thể hành động được xem là những nhân
tố hành động có mục đích, mục tiêu phù hợp với hệ thống sở thích của chủ thể
hành động. Trong quá trình hành động chủ thể chịu sự tác động của các nhóm
yếu tố:
- Sự hiếm hoi của tiềm năng: Mỗi chủ thể hành động có những tiềm năng
khác nhau. Tiềm năng đó được hiểu là mức sống, điều kiện kinh tế, thời gian,
trình độ văn hóa, nghề nghiệp. Đối với những người có tiềm năng, họ dễ dàng

đạt được mục đích hơn so với những người ít tiềm năng. Tùy theo tiềm năng của
chủ thể có thể theo đuối mục đích của mình ở mức độ khác nhau. Nếu tiềm năng
không đáng kể, cơ may quá ít àm vẫn cố gắng để đạt được mục đích thì chủ thể
16
hành động hủy hoại cơ may có giá trị cao hơn kế tiếp của mình. Các chủ thể
hành động luôn tối đa hóa lợi cho mình.
Các thiết chế xã hội: Theo Friedman và Hechter thì các thiết chế xã hội
luôn ấp đặt khuôn mẫu hành động cho các cá nhân thông qua các tiêu chí, các
nguyên tắc, các quy luật tạo ra các sự ảnh hưởng có hệ thống với các kết quả xã
hội. Do đó, hành động đi xuất khẩu lao động duy lý có sự lụa chọn , tính toán,
cân nhắc dựa trên cơ sở khả năng, tiềm năng của mỗi cá nhân, họ phải chịu
những chi phí về vật chất và tinh thần để đạt được những lợi ích từ xuất khẩu lao
động mang lại. Hành động xuất khẩu lao động phụ thuộc vào tính bắt buộc của
điều kiện hoàn cảnh, thu nhập và họ đặt ra các mục đích đó nhưng mức độ hài
lòng với mục đích đã đặt ra ở mức độ khác nhau, nó tùy thuộc vào khả năng của
mỗi người.
1.1.4 Lý thuyết biến đổi xã hội
Xã hội luôn vận động, mỗi cá nhân trong quá trình tương tác có sự biến
đổi của các quan hệ con người, các tập thể, các nhóm với nhau. Những biến đổi
diễn ra theo không gian, thời gian xác định trong mỗi hoàn cảnh, tình huống cụ
thể. Sự biến đỏi do con người tạo ra có biến đổi có hoạch định và biến đổi không
hoạch định.
-Biến đổi có hoạch đinh: Là sự chuẩn hóa các chương trình dựa trên mục
đichs trước nhằm đáp ứng nhu cầu khách quan và chủ quan của xã hội.
-Biến đổi không có hoạch đinh: Là những biến đổi bất ngờ không biết
trước (thiên tai, hạn hán )
+Các nhân tố của biến đổi xã hội
17
- Chủ thể tác động là cá nhân hoặc nhóm
- Các chiều hướng, xu thế thay đổi xã hội tạo ra cho cá nhân, tập thể định

hướng xã hội nhằm biến đổi mình cho phù hợp để đạt được mục đích đặt ra. Xu
hướng có tính chất tích cực hoặc tiêu cực. Những biến đổi tích cực là những cá
nhân, nhóm xã hội có quan điểm đồng nhất có xư hướng sâm nhập vào những
trào lưu xã hội, ngược lại xu hướng tiêu cực là những hệ tư tưởng hoặc những hệ
tư tưởng hoặc những quan hệ xã hội nhằm đi ngược với trào lưu xã hội biến đổi
hoặc đường lối chủ trương chính sách của Nhà nước.
- Những yếu tố dân số: Sự bùng nổ dân số ảnh hưởng trực tiếp đến những
người cư trú trong một nước làm giảm lợi ích của cá nhân và xã hội theo xu
hướng chung, biến đổi cơ cấu xã hội (dân số tăng làm thu nhập bình quân đầu
người thấp).
- Vấn đề di cư là sự thay đổi chỗ ở, hiện tượng di cư diễn ra liên tục trong
xã hội xuất phát từ trong nghiên cứu đời sống kinh tế-xã hội cho tới vấn đề chính
trị, hệ tư tưởng người ra chia làm hai loại di cư là di cư hợp pháp và di cư bất
hợp pháp. Các hình thức di cư như di cư theo địa lý, di cư tạm thời, di cư ra nước
ngoài.
Vận dụng lý thuyết biến đổi xã hội để giải thích sự di cư và sự di động về
vị trí, địa vị của các thành viên trong gia đình theo chiều dọc.
1.2 Các khái niệm công cụ
1.2.1 Khái niệm gia đình
18
Gia đình là một phạm trù xuất hiện rất sớm trong lịch sử xã hội mà các
thành viên của hộ gắn bó với nhau bằng các quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết
thống hoặc quan hệ nhận con nuôi. Các thành viên trong gia đình đều sinh hoạt
chung về văn hóa, tình cảm, kinh tế Gia đình tồn tại nhằm thỏa mãn nhu cầu
riêng của các thành viên, vừa đáp ứng yêu cầu của xã hội trong việc tái sản xuất
dân số cả về vật chất và tinh thần. Gia đình còn đảm bảo chức năng khôi phục
sức khỏe cho các thành viên trong gia đình sau thời gian lao động.
Gia đình được Liên hợp quốc coi như một thiết chế xã hội, là đơn vị tự
nhiên cơ bản của xã hội, một đơn vị sản xuất cơ bản, chúng ta nhấn mạnh gia
đình như đơn vị kinh tế xã hội cơ bản. Là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm

xã hội mà các thành viên gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết
thống hoặc quan hệ nhận con nuôi bởi tính cộng đồng và trách nhiệm đạo đức
với nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của các thành viên và thực hiện tính tất yếu của
xã hội về tái sản xuất.
Gia đình trong xã hội học được định nghĩa như sau: "Gia đình là gồm một
nhóm xã hội gồm hai hay nhiều người được gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn
nhân, quan hệ huyết thống (hoặc nhận con nuôi) vừa đáp ứng nhu cầu riêng tư
của họ vừa nhằm thỏa mãn những nhu cầu của xã hội về tái sản xuất dân cư ở
cả về thể xác lẫn tinh thần"
Theo từ điển xã hội học của Nguyễn Khắc Việt: "Gia đình là một nhóm
người gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân, huyết thống hay việc nhận con
nuôi. Có sự tác động qua lại giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái, giữa anh chị em
trong gia đình, giữa anh chị em họ hàng xa hơn. Gia đình dù ít hay nhiều, quan
trọng đến mức nào đối với sự phát triển kinh tế xã hội, luật phát, chính trị, có
19
những liên hệ ở các chừng mực khác nhau với tôn giáo. Để đạt được sự bền
vững, gia đình phải thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, sinh đẻ và nuôi dạy con cái"
1.2.2 Khái niệm xuất khẩu lao động
Theo dân số học xuất khẩu lao động là sự di dân quốc tế, vừa mang ý
nghĩa di chuyển lao động vừa mang ý nghĩa xuất khẩu vì nó là sự di chuyển lao
động qua đường biên giới.
Theo thuật ngữ của Bộ lao động, Thương binh và xã hội: "Xuất khẩu lao
động là việc đưa người lao động đi làm thuê có thời hạn ở nước ngoài theo quy
định của pháp luật".
Xuất khẩu lao động, xét về mặt kinh tế: Là một loại hình xuất khẩu dịch
vụ cung cấp một loại hành hóa đặc biệt (sức lao động). Nó chứa đựng đầy đủ
tính chất, yêu cầu của loại hàng hóa đặc biệt: Hoạt động của con người, tổng
quan về các mối quan hệ xã hội. Giá cả của sức lao động này phụ thuộc vào chất
lượng của lao động, trước là các yếu tố về trình độ chuyên môn, tay nghề được
đào tạo, mức độ giao tiếp về ngoại ngữ, văn hóa và khả năng hội nhập, giao lưu

với các nền văn hóa khác.
*Đặc điểm xuất khẩu lao động:
Sự hình thành và phát triển của thị trường hàng hóa sức lao động quốc tế:
Xuất khẩu lao động là đem sức lao động của quốc gia này đến quốc gia khác
nhằm mục đích kinh tế nhưng có sự khác nhau về chất, lúc đầu mang tính tự
20
phát, về sau mang tính tự giác, có tổ chức. Là hình thức đặc thù của xuất khẩu
nói chung, hàng hóa đi xuất khẩu sức lao động.
Xuất khẩu lao động là sự phân công và hợp tác quốc tế Theo Mác, khi lực
lượng sản xuất phát triển vượt ra ngoài phạm vi của một quốc gia thì tất yếu sẽ
dẫn đến sự phân công lao động và hợp tác quốc tế và sự phân công lao động xã
hội ngày càng hoàn thiện hơn. Sự phát triển không đồng đều về trình độ phát
triển kinh tế-xã hội cũng như sự phân bố không đồng đều về tài nguyên, dân cư,
khoa học công nghệ giữa các vùng, khu vực và giữa các quốc gia dẫn đến không
có một quốc gia nào có đầy đủ, đồng bộ các yếu tố cần thiết cho sản xuất và phát
triển kinh tế. Để giải quyết tình trạng mất cân đối cung cầu lao động, tất yếu dẫn
đến việc các quốc gia phải tìm kiếm và sử dụng nguồn nhân lực từ bên ngoài để
bù đắp phần thiếu hụt các yếu tố cần thiết cho sản xuất và phát triển kinh tế của
nước mình. Thông thường các nước xuất khẩu là các nước kém phát triển hoặc
đang phát triển, dân số đông, thiếu việc làm ở trong nước hoặc thu nhập thấp
không đảm bảo cho cuộc sống của gia đình và chính bản thân người lao động.
Trong khi đó các nước phát triển họ lại ít dân, không đủ nhân lực để sản xuất
hoặc những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại, không hấp dẫn họ dẫn
đến thiếu hụt lao động cho sản xuất. Để duy trì sản xuất phải đi thuê lao động từ
các nước có khả năng cung ứng lao động làm thuê. Xuất hiện nhu cầu trao đổi
giữa một bên là và một bên là đi thuê lao động. Điều này đồng nghiax với việc
hình thành nên một loại thị trường đó là thị trường hàng hóa lao động quốc tế.
Đối tượng trao đổi là sức lao động, thỏa thuận giá cả, một loại hàng hóa vô hình
và tuân theo quy luật khách quan của thị trường: Quy luật cung - cầu, quy luật
giá cả, quy luật cạnh tranh, Tuy nhiên, không chỉ có những quốc gia dôi dư lao

động mới xuất khẩu mà ngay cả những quốc gia thiếu lao động họ cũng xuất
21
khẩu những lao động lành nghề, công nhân kĩ thuật cao và nhập khẩu lao động
có trình độ thấp để thu nguồn ngoại tệ. Điều đó, xảy ra hiện tượng di cư lao động
giữa các nước (Di cư quốc tế) Đi lao động nước ngoài có thời hạn là hình thức di
cư hợp pháp, một giải pháp tạo việc làm giảm sự căng thẳng việc làm tại địa
phương, là hành vi xuất khẩu lao động.
1.2.3 Khái niệm nông thôn
"Nông thôn là một hình thức cư trú mang tính không gian - lãnh thổ - xã
hội của con người, nơi sống của những người chủ yếu làm nghề nông và những
nghề khác có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động sản xuất nông
nghiệp. Mật độ dân cư thường thấp và kết cấu cơ sở hạ tầng kém tiện nghi"
(Theo tập bài giảng Xã hội học, trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công
an Nhân dân, Hà Nội, 2006, tr292)
1.2.4 Khái niệm đời sống
Đời sống là tổng thể các hiện tượng phát sinh do sự tác động lẫn nhau của
các chủ thể trong xã hội và cộng đồng tồn tại trong những không gian và thời
gian nhất định, là tổng thể hoạt động của con người để nhằm đáp ứng các nhu
cầu của chính bản thân.
Bản chất của đời sống chính là thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi của con người,
có 5 nhu cầu cơ bản:
+ Nhu cầu sinh lý: Là những đòi hỏi về vật chất nhằm đảm bảo sự tồn tại
và phát triển của con người. Đó là nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại Đây là nhu cầu
cơ bản, hàng đầu đảm bảo sinh tồn cho mỗi cá nhân.
22
+ Nhu cầu an toàn: Là nhu cầu về sự bình an, ổn định trong cuộc sống
+Nhu cầu xã hội: Là nhu cầu giao tiếp xã hội để mỗi cá nhân thể hiện vị
trí, vị thế, vai trò xã hội của mình.
+Nhu cầu tôn trọng: Là những đòi hỏi của mình nhận biết về người khác
và người khác nhận biết về mình.

+Nhu cầu tự khẳng định mình: Là những đòi hỏi của cá nhân đối với
những vấn đề có liên quan đến khả năng trong việc bộc lộ vai trò của mình trong
xã hội. Thể hiện nhu cầu này là năng lực bà thành tích.
Ở đề tài này, với việc nghiên cứu ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến
đời sống gia đình nông thôn hiện nay thì đề tài đề cập đến cả hai mặt của đời
sống là: Vật chất và tinh thần thông qua tìm hiểu, điều tra qua các hu cầu về sinh
lý, nhà ở, ăn uống, đi lại, các phương tiện sinh hoạt, đồ dùng trong nhà Nhu
cầu về an toàn: Trật tự an ninh, nhu cầu xã hội: Giao tiếp, được tiếp cận các dịch
vụ xã hội về chăm sóc sức khỏe, giáo dục, giao lưu văn hóa nghệ thuật, du lịch
Thông qua tìm hiểu thực tế đời sống của người dân để thấy rõ những tác động,
ảnh hưởng của hoạt động XKLĐ trên cả hai phương diện là tích cực và tiêu cực
từ đó có những chính sách điều chỉnh kịp thời.
Tiểu kết chương 1
Để đánh giá một cách khách quan nhất, tác giả đã vận dụng, trình
bày các khái niệm, lý thuyết, định nghĩa xã ội học. Đồng thời sử dụng các
phương pháp, định nghĩa, áp dụng các lý thuyết xã hội học đó xuyên xuốt toàn
23
bài luận văn để tìm hiểu, xem xét, đánh giá một cách khách quan nhất về ảnh
hưởng của xuất khẩu đến chính đời sống về các mặt kinh tế, xã hội, quan hệ giữa
các thành viên trong gia đình có người đi xuất khẩu lao động tại nước ngoài.
Với tư cách là một khoa học nghiên cứu ảnh hưởng của xuất khẩu lao động
trong đời sống hiện thực cũng như đời sống thường. Là một vấn đề nổi cộm
được xã hội quan tâm. Ngoài ra trên cơ sở khoa học và thực tiễn khách quan tác
giả còn áp dụng các lý thuyết, định lý, định nghĩa để áp dụng vào thực tế khi
phân tích, giải thích thực trạng các vấn đề phát sinh từ xuất khẩu lao động tác
động ngược trở lại đến đời sống, tâm lý của người lao động, của những thành
viên khác trong gia đình, ngoài những ưu điểm từ xuất khẩu lao động mang lại,
cái được trước mắt, tác giả còn vận dụng các lý thuyết các định nghĩa và các bài
viết từ sách, báo, tạp chí, những nghiên cứu như luận văn, luận án tiến sỹ để có
thêm thông tin, kiến thức, vận dụng các nghiên cứu đi trước để đưa ra các luận

cứ, luận chứng phản hồi hoặc chứng minh một cách thiết thực để bài luận văn
này có tính thực tế cao.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA XUẤT KHẨU LAO
ĐỘNG ĐẾN ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH NÔNG THÔN HIỆN NAY
2.1 Điểm kinh tế - xã hội của địa bàn nghiên cứu
2.1.1 Đặc điểm tự nhiên
24
Hậu Lộc là một huyện ven biển thuộc tỉnh Thanh Hóa, cách trung tâm
thành phố Thanh Hóa khoảng 25 km về phía đông bắc; giáp huyện Nga Sơn, Hà
Trung về phía bắc, Hoằng Hóa về phía tây và nam; phía đông giáp với biển
Đông. Diện tích 141.5 km
2
có 27 xã, thị trấn. Dân số 162.971 người (2009). Theo
số liệu điều tra 01/04/2009, toàn huyện có tất cả 163.971 người. Giá trị tổng sản
phẩm GDP năm 2005 đạt 755 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm
(2000-2005) đạt 9,6%. Cơ cấu kinh tế năm 2005. Nông–Lâm-Ngư nghiệp:
55,0%; Công nghiệp–Tiểu thủ công nghiệp–Xây dựng (CN-TTCS-XD): 14,2%;
Thương mại – Dịch vụ: 30,8%.
Huyện Hậu Lộc có tổng diện tích đất nông nghiệp 7.227,74 ha, trong đó
diện tích đất nhiễm mặn hơn 2.768 ha gồm các xã vùng Đông - Tây kênh De của
huyện, như: Đa Lộc, Minh Lộc, Hưng Lộc, Hải Lộc, Liên Lộc, Quang Lộc, Hoa
Lộc, Hòa Lộc, Phú Lộc, trong đó có hàng trăm ha bị nhiễm mặn nặng. Để khắc
phục tình trạng này, huyện đã có nhiều giải pháp để chuyển đổi, sử dụng có hiệu
quả diện tích đất nhiễm mặn như chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản
xuất hàng hóa gắn với điều kiện đất đai thổ nhưỡng, phù hợp với đất nhiễm mặn,
như: Mô hình trồng cây dưa hấu Hắc Mỹ Nhân có giá trị kinh tế đạt 150 - 200
triệu đồng/ha/vụ thu hoạch; mô hình trồng cây ớt xuất khẩu tại các xã vùng ven
biển của huyện đạt giá trị từ 200 - 250 triệu đồng/ha, mô hình trồng khoai tây Hà
Lan Solara, cây ngô ngọt, cây dưa bao tử, dưa hồng Vụ đông năm 2014, toàn
huyện đã trồng được 362 ha cây hàng hóa trên các vùng đất nhiễm mặn ở các xã

ven biển, trong đó có 125 ha ngô ngọt, tập trung ở các xã: Phú Lộc, Hoa Lộc,
Liên Lộc, Minh Lộc; 153 ha ớt xuất khẩu tại các xã Phú Lộc, Liên Lộc, Quang
Lộc, Đa Lộc, Minh Lộc, Hưng Lộc
25

×