Phát triển kỹ năng thực hiện phép tính ở lớp 3
Cô Dương Thị Thu. Giáo viên trường Tiểu học Ngọc Hà - Ba Đình
1. GIỚI THIỆU VỀ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Học toán và giải toán có vị trí rất quan trọng trong chương trình toán tiểu
học, do đó học sinh cần phải học và có được phương pháp học tập và có
phương pháp giải toán độc đáo. Muốn vậy học sinh cần phải được phát triển
kỹ năng thực hiện phép tính, vận dụng phương pháp giải toán một cách tốt
nhất nhanh nhất, hay nhất tạo thói quen thành thạo và phát triển tư duy và trí
thông minh cho trẻ.
2. MỤC ĐÍCH
Giúp học sinh tính nhanh chính xác, tạo thói quen cho học sinh biết cách so
sánh, nhận xét trước khi tìm ra cách giải và biết giải bằng nhiều cách nhanh
hơn, hay hơn. Từ đó học sinh ham thích và hứng thú với môn toán.
3. Ý TƯỞNG VIẾT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Dựa trên kiến thức cơ bản học sinh đã nắm được, giáo viên đưa ra các bài
toán từ dễ đến khó phù hợp với trình độ học sinh; đưa ra các dạng toán đòi
hỏi tư duy trìu tượng gắn liền với trò trơi để giup học sinh lĩnh hội được tri
thức một các mền dẻo, từ đó phát triển tư duy học sinh. Ví dụ:
a. Dạng bài tập điền số
Trước tiên học sinh làm bài đơn giản
17 + = 20
Khi học sinh đã giải được giáo viên đưa ra bài khác
17 + ………. -6 =13
ở bài này ta tìm ngược từ kết quả đi lên
số nào trừ 6 bằng 13 số 19
17 + = 19 từ đó tìm ra số cần điềm
- Dạng phức tạp hơn: Điền số vào ô trống để tổng các số trong 3 ô liên nhau
bằng 20
Nhận xét các số trong 3 ô liền nhau thứ nhất với các số trong 3 ô liền nhau
thứ 2 đều giống nhau là các số 5,6,9 được lặp lại.
Từ đó học sinh tìm được số ở các ô còn lại.
b. Dạng bài tập tính nhanh
Tính nhanh kết quả biểu thức
1 – 2 + 3 – 4 + 5 – 6 + 7 – 8 + 9 =
Cách 1: Học sinh phải biết ghép tất cả các số đem cộng với nhau và trừ với
nhau:
(1+9) + (3+7) - (2+8) - (4+6) + 5 =
10 + 10 - 10 - 10 + 5 =
20 - 20 + 5 = 5
Cách 2. Học sinh có thể tìm kết quả bằng cách
(9-8) + (7-6) + (5-4) + (3-2) + 1 =
1 + 1 + 1 + 1 + 1 = 5
Tính giá trị biểu thức
18 x 3 +12 x 3 =
Cách 1: Học sinh biết tìm kết quả theo cách thông thường (nhân trước, cộng
sau)
18 x 3 + 12 x 3 =
54 + 36 = 90
Cách 2:
18 x 3 + 12 x 3 =
3 x (18 + 12) =
3 x 30 = 90
Trong quá trình dạy về biểu thức ngoài việc giúp học sinh nắm vững các quy
tắc tính giá trị biểu thức, giáo viên còn giúp học sinh củng cố lại kỹ năng
tính nhẩm, biết tìm ra cách giải hợp lý, biết so sánh, nhận xét để khiểm tra
lại kết quả. Cụ thể ở tiết luyện tập về tính giá trị biểu thức
Ví dụ : Biểu thức 1 (421 – 200) x 2 =
Sau khi học sinh đã tìm ra kết quả, giáo viên yêu cầu học sinh nhận xét xem
phét tính trong ngoặc có gì đặc biệt:
Tìm nhanh kết quả bằng cách nhẩm : Lấy 400 – 200 = 200 còn hàng chục và
hàng đơn vị giữ nguyên
Vậy: 421 -200 = 221
Biểu thức 2: 90 + 9 : 9 =
Có bạn lấy 90 + 9 = 99 99 : 9 = 11
Làm như vậy đúng hay sai? Vì sao?
Học sinh: Làm như vậy là sai vì biểu thức có cộng và chia phải làm chia
trước, cộng sau:
Đưa ra 2 biểu thức : 48 x 4 : 2 =
và 48 x (4 : 2) =
Có nhận xét gì về 2 biểu thức trên
- Tại sao 2 biểu thức trên về số và dấu phép tính như nhau mà kết quả lại
khác nhau
(Vì thứ tự thực hiện các phép tính ở 2 biểu thức này khác nhau)
4. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Sau 1 năm thực hiện giảng dạy tôi nhận thấy học sinh vừa nắm chắc được
kiến thức cơ bản vừa phát triển được kỹ năng thực hiện phép tính, rèn cho
học sinh có có khả năng suy nghĩ độc lập, khắc phục cách nghĩ dập khuôn,
máy móc, đồng thời xây dựng lòng say mê tìm tòi sáng tạo của học sinh ở
mức độ khác nhau.
5. Ý NGHĨA THỰC TIỄN
Với học sinh tiểu học việc kích thích sự say mê ham học toán là tiền đề rất
quan trọng cho trẻ trong quá trình xây dựng hành trang kiến thức để bước
đời, để cho trẻ có được sự say mê, sự ham học toán thì giáo viên giảng dạy
đóng vai trò rất quan trọng là làm thế nào để giúp học sinh có được sự say
mê đó. Việc giúp học sinh phát triển kỹ năng thực hiện các phép tính đã đem
lại kết quả: học sinh vừa nắm chắc được kiến thức cơ bản vừa phát triển
được kỹ năng thực hiện phép tính, rèn cho học sinh có có khả năng suy nghĩ
độc lập, tạo thói quen thành thạo và phát triển tư duy và trí thông minh cho
trẻ.
Một cách khác nữa, khi dạy thì giáo viên cần phát huy học sinh có thói quen
đặt câu hỏi “tại sao” và tự suy nghĩ để trả lời các câu hỏi đó. Trong nhiều
tình huống giáo viên còn có thể đặt ra câu hỏi “Tại sao làm như vậy? Có
cách nào khác không? Có cách nào hay hơn không?”. Các câu hỏi của giáo
viên như “tại sao”, “vì sao” đã thôi thúc học sinh phải suy nghĩ tìm tòi giải
thích. Đó là chỗ dựa để đưa ra cách làm hoặc cách giải sự lựa chọn trong
vốn kiến thức đã học để trả lời.
Khi dạy toán cho học sinh lớp 2, việc tập cho học sinh có thói quen đặt ra
câu hỏi “tại sao” và tìm cách giải thích làm cho vấn đề được sáng tỏ là
nhiệm vụ của người giáo viên. Từ thói quen trong suy nghĩ ta hình thành và
rèn luyện thói quen đó trong diễn đạt, trong trình bày.
Qua những năm giảng dạy ở tiểu học tôi nhận thấy học sinh có nhiều tiến bộ.
Với cách dạy và học trên học sinh chăm chú say mê học toán, các em hứng
thú với các phép toán, giải các bài toán có nội khác nhau. Nhờ điều này mà
học sinh đã tích cực, chủ động tìm tòi, sáng tạo xây dựng kiến thức của bài
học. Do vậy mà học sinh nắm bài nhanh, nhớ kiến thức lâu hơn, chắc hơn và
tự tin, không khí tiết học trở nên sôi nổi, không gò bó, học sinh được thực sự
bộc lộ hết khả năng của mình. Từ đó học sinh có hứng thú học toán, tạo
thành thói quen tự suy nghĩ, chủ động làm bài để tìm ra cách giải hay và
nhanh nhất.
Trên đây chúng tôi đã giới thiệu sơ lượt SKKN của cô giáo Dương Thị
Thu. Để xem bản chi tiết các bạn tải tại trang
web trong chuyên mục dành cho giáo viên hoặc liên
hệ Phòng KH-CNTT Sở GD&ĐT. ĐT:04.39363257.