Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời mở đầu
Cùng với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nớc, công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt của nền kinh
tế, đem lại cho nền kinh tế nớc ta một sinh khí mới và trong đó có ngành công
nghiệp dệt may với những động lực và hớng phát triển mới.
Cũng nh quá trình phát triển của nhiều nớc trên thế giới, trong giai đoạn
đầu của quá trình công nghiệp hoá, ngành dệt may đóng một vai trò quan
trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt
đợc, ngành dệt may của nớc ta còn bộc lộ nhiều yếu kém, đặc biệt, khả năng
cạnh tranh của hàng dệt may của Việt Nam còn yếu cả về chất lợng và giá cả.
Trớc những vấn đề trên, việc phân tích, đánh giá những thuận lợi và khó
khăn của hàng dệt may Việt Nam, từ đó đề xuất một số chính sách, giải pháp
hỗ trợ cho việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may trong nớc thời
gian tới là cần thiết. Chính vì vậy, em chọn đề tài: Một số biện pháp nâng
cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam .
Đề tài này bao gồm những nội dung chủ yếu sau :
Ch ơng 1 : Tổng quan về cạnh tranh.
Ch ơng 2 : Thực trạng hoạt động kinh doanh của ngành dệt may Việt
Nam.
Ch ơng 3 : Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt
may Việt Nam.
Đây là một đề tài với nội dung nghiên cứu rộng nên không tránh khỏi
những thiếu xót. Hy vọng sẽ nhận đợc sự góp ý của các thầy cô giáo và bạn
đọc để đề tài nghiên cứu này đợc hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
1
Đề án môn học - Kinh tế & quản lý công nghiệp
chơng i :Tổng quan về cạnh tranh
I. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trờng :
1. Khái niệm và đặc điểm vận động của thị trờng :
11. Khái niệm thị trờng :
Thị trờng đợc hiểu là nơi kết hợp giữa cung và cầu, trong đó ngời mua và
ngời bán cùng bình đẳng, cùng cạnh tranh với nhau. Số lợng ngời mua và ngời
bán nhiều hay ít phản ánh quy mô của thị trờng. Việc xác định nên mua hay
nên bán hàng hoá và dịch vụ với số lợng và giá cả bao nhiêu do cung cầu
quyết định.
12. Đặc điểm vận động của thị trờng :
Thị trờng gắn liền với quá trình sản xuất và lu thông hàng hoá, nó ra đời
và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất lu thông hàng hoá.
Nói tới thị trờng phải nói tới các nhân tố cơ bản cấu thành thị trờng, đó là hàng
và tiền, ngời mua và ngời bán. Từ đó, hình thành các quan hệ hàng hoá - tiền
tệ, mua - bán, cung cầu và giá cả hàng hoá. Thị trờng vận động dựa trên sự
vận động của các mối quan hệ trên. Các mối quan hệ trên đã trở thành những
quy luật hoạt động đan xen và có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thị trờng
hoạt động dựa trên những quy luật đó. Sau đây là một số quy luật vốn có của
thị trờng :
- Quy luật giá trị : quy luật hàng hoá sản xuất và trao đổi trên cơ sở hao
phí lao động xã hội cần thiết, tức là chi phí trung bình trong xã hội.
- Quy luật cung cầu : Nêu lên mối quan hệ giữa nhu cầu và khả năng của
nhà cung ứng trên thị trờng. Quy luật này quy định cung cầu luôn luôn có xu
hớng chuyển dịch lại gần nhau để tạo sự cân bằng trên thị trờng.
- Quy luật lu thông tiền tệ : xác định lợng tiền cần thiết trong lu thông.
Theo quy luật này, lợng tiền cần thiết trong lu thông bằng tổng số giá cả của
toàn bộ hàng hoá chia cho số lần luân chuyển trung bình của đơn vị tiền tệ
cùng loại.
- Quy luật cạnh tranh : thể hiện các hàng hoá đợc sản xuất và bán ra trên
thị trờng đều chịu sự cạnh tranh của hàng hoá khác cùng loại.
2. Quan niệm về cạnh tranh:
Đứng trên lập trờng của các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh là phơng thức
giải quyết mâu thuẫn về lợi ích tiềm năng giữa các nhà kinh doanh với vai trò
quyết định của ngời mua, ngời tiêu dùng. Nếu nhìn khái quát trên quy mô toàn
xã hội, cạnh tranh là phơng thức phân bố lại các nguồn lực một cách tối u, do
đó là động lực bên trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Điếu cần nhấn mạnh
là, cùng với mục đích tối đa hoá lợi nhuận của các Doanh nghiệp, cạnh tranh
đã thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung t bản diễn ra không đồng đều giữa
các ngành, lĩnh vực kinh tế khác nhau. Đây là tiền đề vật chất cho sự phát triển
không lành mạnh, các hành vi hạn chế cạnh tranh mà độc quyền là hình thái
phát triển cao nhất. Cạnh tranh còn là môi trờng đào thải các nhà kinh doanh
2
Đề án môn học - Kinh tế & quản lý công nghiệp
không thích nghi với các điều kiện của thị trờng. Về khía cạnh này, cạnh tranh
là nhân tố hiệu chỉnh bên trong của thị trờng.
Cạnh tranh là một quy luật khách quan của kinh tế thị trờng. Cạnh tranh
chỉ xuất hiện trong điều kiện của kinh tế thị trờng, nơi mà tự do kinh doanh và
quyền tự chủ của cá nhân đợc hình thành và đảm bảo. Cạnh tranh cũng chỉ
xuất hiện với tính cách là một cuộc tranh đua giữa các chủ thể kinh doanh khi
pháp luật thừa nhận và bảo vệ tính đa dạng của các loại hình thức sở hữu, coi
đó là nguồn gốc của cạnh tranh và thừa nhận kết quả của cạnh tranh. Cạnh
tranh cũng chỉ trở thành động lực phát triển của xã hội, là nhân tố làm lành
mạnh hoá các quan hệ xã hội khi Nhà nớc bảo đảm sự bình đẳng trớc pháp
luật của các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế.
3. Phân loại cạnh tranh :
Với mỗi vấn đề, đứng trên các giác độ khác nhau ngời ta có những cách
nhìn nhận khác nhau với những mục đích khác nhau. Với cách phân loại cạnh
tranh cũng vậy, với mỗi tiêu thức khác nhau ngời ta có cách phân loại khác
nhau:
Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế ngời ta phân loại cạnh tranh thành
cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành .
Căn cứ vào mức độ và tính chất của cạnh tranh trên thị trờng ta có cạnh
tranh hoàn hảo, cạnh tranh không hoàn hảo và cạnh tranh độc quyền .
Căn cứ vào chủ thể tham gia vào thị trờng, cạnh tranh đợc chia thành
cạnh tranh giữa ngời bán và ngời mua, cạnh tranh giữa những ngời mua với
nhau và cạnh tranh giữa những ngời bán với nhau.
II. Doanh nghiệp trong môi trờng cạnh tranh :
1. Khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp :
Bất kỳ một Doanh nghiệp nào đang hoạt động trên thị trờng có tính cạnh
tranh muốn tồn tại và phát triển đều phải có những vị trí nhất định, chiếm
những phần thị trờng nhất định. Sự tồn tại của Doanh nghiệp luôn bị các đối
thủ khác bao vây. Vì vậy, để tồn tại trong thị trờng Doanh nghiệp luôn phải
vận động, biến đổi ít nhất là với vận tốc ngang bằng với các Doanh nghiệp
khác trong ngành. Muốn vậy, ngoài những tác động bên ngoài thì bản thân
Doanh nghiệp cần phải có những năng lực nhất định.
Trên cơ sở đó, khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp đợc hiểu là năng
lực và tiềm năng mà Doanh nghiệp có thể duy trì vị trí của mình trên thơng tr-
ờng kinh doanh một cách lâu dài và có ý nghĩa.
2. Những nhân tố ảnh hởng tới khă năng cạnh tranh của Doanh
nghiệp :
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì hệ thống cơ sở lý luận về cạnh
tranh ngày càng đa dạng và phong phú. Trên thực tế, từ những cách nhìn nhận
vấn đề khác nhau, có nhiều quan điểm khác nhau về các nhân tố ảnh hởng tới
khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhìn chung ngời ta xem
xét những nhân tố ảnh hởng tới khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp theo
3
Đề án môn học - Kinh tế & quản lý công nghiệp
các nhân tố bên trong và bên ngoài Doanh nghiệp. Đây là quan điểm mang
tính khái quát và đầy đủ nhất.
21. Những nhân tố bên trong :
Những nhân tố bên trong ảnh hởng đến khả năng cạnh tranh của Doanh
nghiệp bao gồm : nề nếp hoạt động của Doanh nghiệp, sức sinh lời của vốn
đầu t, năng suất và khả năng tăng năng suất, lợi thế về chi phí và khả năng
giảm chi phí, khả năng đảm bảo và nâng cao chất lợng sản phẩm và dịch vụ,
khả năng kinh doanh trên thị trờng, sự linh hoạt và nhạy bén của ban Giám
đốc và cuối cùng là vị thế cạnh tranh của Doanh nghiệp.
Trong những nhân tố trên, đáng chú ý là nhân tố sức sinh lời của vốn đầu
t. Đây là nhân tố khái quát nhất thể hiện hiệu quả của mọi hoạt động trong
Doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cao chứng tỏ các hoạt động của Doanh nghiệp là
có hiệu quả và khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp là mạnh vì có khả năng
thu hồi vốn nhanh hơn, đạt tỷ suất lợi nhuận cao hơn và có khả năng chiến
thắng các Doanh nghiệp khác trong chiến lợc nhấn mạnh chi phí ở pha cuối
của chu kỳ sống, mở rộng quy mô, tạo lợi thế vợt trội so với các đối thủ khác.
22. Các nhân tố bên ngoài ảnh hởng tới khả năng cạnh tranh của
Doanh nghiệp :
221. Các nhân tố thuộc môi trờng nền kinh tế :
Các nhân tố này bao gồm năm nhân tố cơ bản : các nhân tố kinh tế, nhân
tố chính trị và pháp luật, nhân tố khoa học, kỹ thuật, nhân tố văn hoá- xã hội,
các nhân tố thuộc về tự nhiên. Các nhân tố này tác động đến Doanh nghiệp
theo hớng tích cực hay tiêu cực tuỳ theo những điều kiện cụ thể.
Các nhân tố kinh tế và các nhân tố chính trị và pháp luật là các nhân tố
chủ yếu tạo nên môi trờng kinh doanh, thông qua môi trờng kinh doanh, các
nhân tố này tác động tới khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp. Môi trờng
kinh tế, chính trị ổn định, hệ thống luật pháp rõ ràng sẽ tạo ra một môi trờng
kinh doanh thuận lợi với sự công bằng và bình đẳng cho các Doanh nghiệp,
các nỗ lực của các Doanh nghiệp đợc ghi nhận và bảo hộ tốt khuyến khích các
Doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh.
222. Các nhân tố thuộc môi trờng ngành :
Theo M.Porter thì trong ngành luôn có 5 lực lợng cạnh tranh đó là: khách
hàng, nhà cung ứng, các đối thủ cạnh tranh hiện tại, các đối thủ cạnh tranh
tiềm ẩn và các đối thủ sản xuất sản phẩm thay thế. Các lực lợng này tác động
qua lại lẫn nhau và quyết định cờng độ cạnh tranh trong ngành và cùng với tốc
độ tăng trởng của ngành ảnh hởng tới khả năng cạnh tranh của các Doanh
nghiệp trong ngành.
Khách hàng ở đây chính là ngời mua, ngời mua tạo ra áp lực bằng cách
ép giá giảm xuống, mặc cả để có chất lợng tốt hơn và đợc phục vụ nhiều hơn,
đồng thời còn làm cho các đối thủ chống lại nhau, tất cả đều làm tổn hao mức
lợi nhuận trong ngành. Do đó, điều quan trọng nhất đối với các Doanh nghiệp
muốn nâng cao khả năng cạnh tranh đối với khách hàng là phải chủ động thiết
lập các mối quan hệ với khách hàng thông qua các biện pháp khác nhau để
giành thế chủ động.
Các đối thủ của Doanh nghiệp cũng là những Doanh nghiệp tham gia vào
thị trờng cùng với mục đích là lợi nhuận và phát triển. Sự phân loại các đối thủ
4
Đề án môn học - Kinh tế & quản lý công nghiệp
của Doanh nghiệp thành các đối thủ hiện tại, tiềm ẩn và các đối thủ sản xuất
các sản phẩm thay thế là sự phân chia có tính tơng đối, tuỳ điều kiện cụ thể mà
bản thân Doanh nghiệp phải nhận biết để có những ứng xử phù hợp.
3. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của Doanh
nghiệp:
31. Thị phần của Doanh nghiệp :
311. Thị phần tuyệt đối :
Đây là những chỉ tiêu phản ánh quy mô thị trờng của Doanh nghiệp, cho
thấy đợc phần nào khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp :
- Thị phần tuyệt đối của Doanh nghiệp tính theo doanh thu :
Doanh thu của doanh nghiệp
Thị phần của doanh nghiệp =
Tổng doanh thu tiêu thụ trên thị trờng
- Thị phần tuyệt đối của Doanh nghiệp tính theo khối lợng hàng hoá
bán ra :
Lợng bán ra của Doanh nghiệp
Thị phần của Doanh nghiệp =
Tổng lợng tiêu thụ trên thị trờng
Độ lớn của chỉ tiêu này nói lên quy mô thị trờng của Doanh nghiệp. Tuy
nhiên, để thấy đợc mối quan hệ tơng quan về quy mô thị trờng giữa Doanh
nghiệp và các đối thủ khác này ta phải dựa vào các chỉ tiêu thị phần tơng đối.
312. Thị phần tơng đối :
Thị phần tơng đối của một Doanh nghiệp là tỷ lệ về thị phần của Doanh
nghiệp so với thị phần của đối thủ khác :
Thị phần của Doanh nghiệp
Thị phần tơng đối của DN =
Thị phần của đối thủ
32. Tỷ suất lợi nhuận :
Chỉ tiêu này có thể đợc tính cho từng sản phẩm hay toàn bộ sản phẩm
hàng hoá tiêu thụ trong từng giai đoạn cụ thể :
- Nếu tính cho từng đơn vị sản phẩm ta có :
Giá bán Giá thành
Tỷ suất lợi nhuận =
Giá bán
- Nếu tính cho toàn bộ sản phẩm tiêu thụ trong kỳ ta có :
5
Đề án môn học - Kinh tế & quản lý công nghiệp
Tổng doanh thu Giá vốn hàng bán
Tỷ suất lợi nhuận =
Tổng doanh thu
ý nghĩa của chỉ tiêu : chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh thu tạo ra đợc
bao nhiêu đồng lợi nhuận.
33. Tỷ lệ giữa tốc độ tăng chi phí Marketing và tốc độ tăng doanh
thu do tăng chi phí Marketing :
Tốc độ tăng chi phí Marketing
Tỷ lệ tăng chi phí Mar =
và tăng doanh thu Tốc độ tăng doanh thu do tăng chi phí
Marketing
Chỉ tiêu này cao chứng tỏ là hoạt động Marketing của Doanh nghiệp đang
đợc đầu t một cách hiệu quả.
34. Các chỉ tiêu mang tính định tính :
Các chỉ tiêu này bao gồm : khả năng phản ứng nhanh trớc các tình huống
bất ngờ : chỉ tiêu này có thể đợc tính bằng tỷ lệ giữa các lần phản ứng nhanh
có hiệu quả trên tổng số lần phản ứng nhanh của công ty ; khả năng trả đũa
ngay lập tức các đối thủ ; khả năng chịu đựng của công ty ; khả năng đa ra các
thông điệp có ý nghĩa tới các Doanh nghiệp khác trong ngành.
4. Một số công cụ cạnh tranh chủ yếu của các Doanh nghiệp:
Các Doanh nghiệp khi tham gia cạnh tranh thì điều đầu tiên cần phải
quan tâm là xác định chính xác các đối thủ, tiến hành phân tích các đối thủ và
lựa chọn cách thức cạnh tranh phù hợp, tiến hành xây dựng lợi thế cạnh tranh
và tập chung cố gắng nỗ lực để giữ vững những lợi thế đó. Để cạnh tranh,
thông thờng, các Doanh nghiệp thờng sử dụng một số công cụ chủ yếu sau :
41. Cạnh tranh bằng sản phẩm :
Chất lợng của sản phẩm, dịch vụ quyết định chữ tín của Doanh nghiệp và
tạo ra lợi thế có tính quyết định trong cạnh tranh, do đó, cạnh tranh bằng sản
phẩm đòi hỏi Doanh nghiệp phải chú trọng thích đáng đến các khâu, các qúa
trình có tính quyết định đến chất lợng sản phẩm. Nội dung của cạnh tranh
bằng sản phẩm bao gồm : Cạnh tranh về trình độ, chất lợng, bao bì, nhãn mác
sản phẩm và khai thác tốt chu kỳ sống của sản phẩm.
42. Cạnh tranh bằng giá cả :
6
Đề án môn học - Kinh tế & quản lý công nghiệp
Cạnh tranh bằng giá cả hiện nay vẫn đợc sử dụng nhiều do tính cha ổn
định trong hoạt động của các Doanh nghiệp cũng nh trong nền kinh tế nớc ta
hiện nay. Cạnh tranh về giá cả thờng chỉ đợc sử dụng trong giai đoạn đầu khi
Doanh nghiệp mới bớc vào thị trờng mới và trong giai đoạn cuối của chu kỳ
sống của sản phẩm. Cạnh tranh về giá cả đợc thể hiện ở những nội dung nh :
kinh doanh với chi phí thấp, bán với mức giá hạ và với mức giá thấp,
43. Cạnh tranh trong thiết lập mạng lới kênh phân phối :
Thiết lập mạng lới kênh phân phối hợp lý hiệu quả sẽ là yếu tố rất có lợi
để cạnh tranh với các Doanh nghiệp khác. Một Doanh nghiệp mà có khả năng
cung cấp hàng hoá, dịch vụ đúng nơi, đúng lúc, kịp thời đáp ứng nhu cầu
khách hàng một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất thì sẽ tạo đợc lòng tin, uy tín
đối với khách hàng và sẽ đợc khách hàng lựa chọn.
Thiết lập mạng lới kênh phân phối phải căn cứ vào đặc điểm của hàng
hoá dịch vụ và yêu cầu của khách hàng. Lựa chọn hình thức bán cũng là một
trong những vấn đề quyết định đến hiệu quả cạnh tranh của Doanh nghiệp vì
nó tác động rất lớn đến tâm lý của khách hàng. Kinh nghiệm kinh doanh của
nhiều nớc đã cho thấy, bán hàng thông qua các hình thức nh gọi điện thoại
(bán hàng từ xa), bán hàng qua các nhân viên tiếp thị,... là những hình thức rất
hiệu quả.
44. Cạnh tranh về thời cơ thị trờng :
Cạnh tranh về thời cơ thị trờng thể hiện ở chỗ các Doanh nghiệp dự báo
trớc đợc những thay đổi của thị trờng, từ đó đa ra đợc các chính sách khai thác
thị trờng hợp lý và sớm hơn các đối thủ. Một trong những yêu cầu của việc
cạnh tranh về thời cơ thị trờng là khả năng phán đoán và khả năng thích ứng
của Doanh nghiệp vơí các thay đổi của môi trờng kinh doanh.
45. Cạnh tranh về không gian và thời gian :
Trong trờng hợp mà giá cả sản phẩm của các Doanh nghiệp trên thị trờng
chênh lệch không lớn, chất lợng sản phẩm tơng đối đồng đều và ổn định thì
yếu tố không gian và thời gian đóng vai trò quan trọng quyết định đến khả
năng tiêu thụ của sản phẩm hàng hoá. Những Doanh nghiệp nào có qúa trình
buôn bán trao đổi nhanh, thuận tiện sẽ giành thắng lợi trong cạnh tranh.
7
Đề án môn học - Kinh tế & quản lý công nghiệp
CHƯƠNG 2 : Thực trạng hoạt động kinh
doanh của ngành dệt may Việt Nam
I. Vai trò và đặc điểm của ngành Dệt May Việt Nam:
1. Vai trò của ngành dệt may :
Công nghiệp dệt may là ngành có ý nghĩa trọng tâm trong giai đoạn
chuyển đổi của Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh
tế thị trờng. Dệt may là một phần cấu thành quan trọng trong chính sách địng h-
ớng xuất khẩu của đất nớc, và nói một cách chung hơn, là một trong những nỗ lực
của Việt Nam để hòa nhập vào nền kinh tế quốc tế.
Công nghiệp dệt may tất yếu là một trong các ngành chủ yếu xuất khẩu
trong giai đoạn đầu phát triển của các nớc, xuất khẩu hàng dệt may đem lại
nguồn thu ngoại tệ để mua máy móc thiết bị, hiện đại hoá sản xuất làm cơ sở
cho nền kinh tế cất cánh.
Sự thành công về xuất khẩu trong ngành này thờng mở đờng cho sự xuất
hiện của một chiến lợc phát triển định hớng xuất khẩu có cơ sở rộng hơn. Sự
thất bại về xuất khẩu của ngành này bao giờ cũng là triệu chứng của những trở
ngại có tính thâm căn cố đế trong nớc và sự bất lực, không phát huy đợc lợi thế
so sánh tiềm năng.
Quá trình công nghiệp hóa ở nhiều nớc, trong giai đoạn phát triển dệt
may thờng đóng vai trò chủ đạo, nó có khả năng tạo nhiều công ăn việc làm
cho ngời lao động, tăng thu lợi nhuận để tích luỹ làm tiền đề cho phát triển các
ngành công nghiệp khác, góp phần nâng cao mức sống và ổn định tình hình
chính trị xã hội.
Ngành dệt may là ngành có liên quan chặt chẽ tới sự phát triển của các
ngành công nghiệp khác, khi dệt may là một trong những ngành hàng đầu của
nền kinh tế nó sẽ cần một lợng lớn nguyên liệu là sản phẩm của các lĩnh vực
khác và vì thế sẽ tạo điều kiện để đầu t phát triển các ngành công nghiệp này.
Tại các nớc đang phát triển hiện nay, công nghiệp dệt may đang góp phần
phát triển nông nghiệp và nông thôn qua việc sản xuất các loại nguyên liệu dệt
nh bông, đay, tơ tằm và là phơng tiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế
nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, ở các nớc công nghiệp phát triển, công
nghiệp dệt may đã phát triển đến trình độ cao hơn, đáp ững nhu cầu ngày
càng cao, đa dạng, phong phú của ngời tiêu dùng.
2. Đặc điểm :
Công nghiệp dệt may đã có ở Việt Nam khoảng một thế kỷ nay. Theo
một số tài liệu ghi chép thì sự phát triển chính thức của ngành công nghiệp dệt
may này bắt đầu từ khi khu công nghiệp dệt Nam Định đợc thành lập vào năm
1889. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, ngành công nghiệp này phát triển nhanh
hơn, đặc biệt là ở miền Nam, tại đây các hãng dệt may với máy móc hiên đại
của Châu Âu đã đợc thành lập. Trong thời kỳ này, tại miền Bắc, các Doanh
nghiệp Nhà nớc sử dụng thiết bị Trung Quốc, Liên Xô và Đông Âu cũng đã đợc
8
Đề án môn học - Kinh tế & quản lý công nghiệp
thành lập. Mặc dù từ những năm 1970, sau khi thực hiện công cuộc đổi mới thì
thời kỳ phát triển quan trọng hớng về xuất khẩu mới bắt đầu.
Công nghiệp dệt may có những đặc điểm cơ bản sau :
- Về tiêu thụ: Trong buôn bán thế giới, sản phẩm của ngành dệt may là
một trong những hàng hoá đầu tiên tham gia vào mậu dịch quốc tế. Hàng dệt
may có những đặc trng riêng biệt ảnh hởng rất nhiều đến sản xuất và buôn
bán. Một số đặc trng đó là :
+ Hàng dệt may có yêu cầu phong phú và đa dạng tuỳ thuộc vào đối t-
ợng tiêu dùng - ngời tiêu dùng khác nhau sẽ có nhu cầu rất khác nhau về trang
phục.
+ Hàng dệt may mang tính thời trang cao, phải thờng xuyên thay đổi
mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng đợc nhu cầu thích đổi mới,
độc đáo và gây ấn tợng của ngời tiêu dùng.
+ Vấn đề nhãn mác cũng là một trong những đặc trng nổi bật trong
buôn bán hàng dệt may trên thế giới. Mỗi nhà sản xuất cần tạo đợc nhãn hiệu
hàng hoá của riêng mình, đó thờng là sự chứng nhận chất lợng hàng hoá và uy
tín của ngời sản xuất.
+ Trong buôn bán các sản phẩm dệt may cần chú ý đến yếu tố thời vụ,
phải căn cứ vào chu kỳ thay đổi thời tiết trong năm ở từng khu vực thị trờng
mà cung cấp hàng hoá cho phù hợp.
- Về sản xuất : Công nghiệp dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động
giản đơn, vốn đầu t ban đầu không quá lớn nhng lại có tỷ lệ lãi cao. Chính vì
vậy, sản xuất dệt may thờng phát triển mạnh và có hiệu quả rất lớn đối với các
nớc đang phát triển và đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá.
Nh vậy, không có nghĩa là sản xuất dệt may không còn tồn tại ở những nớc công
nghiệp phát triển mà thực tế ngành này tiến đến giai đoạn cao hơn, sản xuất các
sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
- Về thị trờng : Các sản phẩm dệt may là một trong những mặt hàng đợc
bảo hộ chặt chẽ. Trớc khi Hiệp định về hàng dệt may - kết quả quan trọng của
vòng đàm phán Uruguay ra đời và phát huy tác dụng, việc buôn bán quốc tế
các sản phẩm dệt may đợc điều chỉnh theo các thể chế thơng mại đặc biệt và
nhờ đó phần lớn các nớc nhập khẩu thiết lập các hạn chế số lợng để hạn chế
hàng dệt may nhập khẩu. Mặt khác, mức thuế phổ biến đánh vào hàng dệt may
còn cao hơn so với các hàng hoá công nghiệp khác. Tất cả những rào cản đó
ảnh hởng rất lớn đến sản xuất và buôn bán hàng dệt may thế giới.
II. Thực trạng của ngành dệt may Việt Nam :
Theo ớc tính, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2000 có thể đạt
1650 1700 triệu USD, tăng 22% so với năm 1999. Với tốc độ phát triển của
ngành dệt may nh hiện nay thì việc đạt kim ngạch xuất khẩu từ 2000 2150
triệu USD vào năm 2002 là có thể trở thành hiện thực.
Hiện nay, hàng dệt may Việt Nam đợc xuất khẩu sang hơn 40 nớc trên
thế giới. Trong đó, xuất khẩu sang các nớc EU chiếm 34% đến 38% trong tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nớc ta. Trong 9 tháng đầu năm 1999, kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may tại thị trờng hạn ngạch chiếm khoảng 39% tăng
9
Đề án môn học - Kinh tế & quản lý công nghiệp
hơn 3% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó kim ngạch sang EU chiếm tới 80%
trong tổng thị trờng có hạn ngạch.
Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU đợc ký kết ngày
15/12/1992 và có hiệu lực từ 1/1/1993 đã đánh dấu một bớc tiến quan trọng
trong phát triển ngành dệt may nớc ta, thể hiện rõ trong kim ngạch xuất khẩu
sang thị trờng EU liên tục tăng trong giai đoạn 1993-1997 (tốc độ tăng bình
quân hơn 20%/năm), tiếp đến là hiệp định buôn bán dệt may Việt Nam EU
giai đoạn 1998 2000 đợc ký kết ngày 17/11/1997 cho phép nâng hạn ngạch
dệt may từ Việt Nam sang EU tăng lên 40% so với giai đoạn 5 năm 1993-1997
với mức tăng trởng 3%-6%/năm.
Từ 1995 trở lại đây, trong những thị trờng lớn nhập khẩu hàng dệt may
Việt Nam, loại thị trờng cần hạn ngạch gồm có 10 nớc, trong đó có 9 nớc
thuộc EU. Những nớc trong EU nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam là Đức
(40%-45%), Pháp (12%-14%), Anh (7%-9%), Hà Lan (10%-14%), Bỉ (4%-
5%), Italia (6%-7%),
Trong những năm qua, thực trạng của ngành dệt may Việt Nam đợc tổng
hợp qua ngững vấn đề sau :
1. Về sản lợng :
Số liệu có đợc chỉ ra rằng ngành công nghiệp dệt may chiếm khoảng 9%
tổng sản lợng công nghiệp năm 1996, thấp hơn năm 1990. Mặc dù ngành dệt
may đang tăng rất chậm, tỷ lệ ngành dệt trong tổng sản lợng của ngành công
nghiệp (6,1%) lớn hơn ngành may (2,7%).
Ngoài ra, số liệu cũng cho thấy sản lợng sợi tăng chậm, mặc dù sản lợng
năm 1996 thấp hơn năm 1990, sản lợng vải thể hiện một xu hớng cũng không
sáng sủa, và bắt đầu từ năm 1993, sản lợng đã tăng lên một cách rõ rệt nhng
đến năm 1996 cũng chỉ đạt 75% của năm 1985 và chỉ bằng 90% của năm
1990. Sản lợng ngành may tăng vững chắc hơn, mặc dù tốc đọ tăng thấp hơn
so với tỷ lệ tăng trởng đợc thể hiện thông qua các số liệu xuất khẩu.
2. Về loại hình sở hữu :
Đối với ngành dệt, Doanh nghiệp Nhà nớc chiếm khoảng 60% tổng sản l-
ợng của ngành năm 1996, trong khi đó Doanh nghiệp t nhân chiếm khoảng
24% và đầu t nớc ngoài chiếm khoảng 16%.
Ngành may, đầu t nớc ngoài chiếm một tỷ lệ tơng tự là 15 %, trong khi
đó Doanh nghiệp t nhân có vị trí quan trọng hơn chiếm 49% và Doanh nghiệp
Nhà nớc chiếm 36%. Nét đặc trng không bình thờng của tỷ trọng chia theo
loại hình sở hữu đó là khu vực t nhân chiếm tỷ trọng nhỏ bé trong ngành dệt
may của Việt Nam. Nh vậy, việc cải cách Doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện
cho khu vực t nhân phát triển một cách hiệu quả là một trong những thách
thức lớn của ngành dệt may trong giai đoạn hiện nay.
3. Đầu t nớc ngoài :
Từ năm 1998, sau khi Việt Nam bớc đầu thực hiện tự do hai chính sách
về FDI, các dự án đầu t nớc ngoài đợc phê duyệt tăng lên nhanh chóng. Từ
năm 1993 trở lại đây, đầu t nớc ngoài đạt trên 100 triệu USD/năm, nhng năm
1997 và năm 1998 nguồn vốn này đã giảm. Hình thức 100% sở hữu nớc ngoài
đã hấp dẫn các nhà đầu t. Kéo sợi, dệt vải và may mặc đợc coi là những bộ
phận chính thu hút đợc nguồn vốn đầu t nớc ngoài. Các nớc và vùng lãnh thổ
10
Đề án môn học - Kinh tế & quản lý công nghiệp
Đông á là những nhà đầu t chủ yếu, trong đó lớn nhất là Hàn Quốc, Malaysia,
và Đài Loan chiếm 90% tổng đầu t vào ngành dệt may.
Sau 10 năm ban hành Luật đầu t nớc ngoài, tính đến cuối năm 1998, 178
dự án dệt may đợc cấp giấy phép với vốn đầu t đăng ký là 1.794,65 triệu USD,
trừ 33 dự án đã giải thể trớc thời hạn còn 145 dự án đang hoạt động với tổng
số vốn đầu t là 1.628,192 triệu USD.
Về hình thức đầu t, số dự án 100% vốn nớc ngoài có xu hớng tăng lên
trong những năm gần đây, trong khi số dự án theo hình thức hợp tác kinh
doanh trền cơ sở hợp đồng giảm đi.
Các dự án may cũng nằm chủ yếu ở các tỉnh phía Nam, trong đó thành
phố Hồ Chí Minh đứng đầu với 40 dự án với tổng số vốn đầu t 104, 397 triệu
USD; Đồng Nai 12 dự án với tổng số vốn đầu t 36,679 triệu USD; Bình Dơng
8 dự án với số vốn đầu t 16,2 triệu USD,...
4. Về thiết bị :
Phần lớn số thiết bị ngành dệt hầu hết đã rất cũ và sự thiếu đồng bộ giữa
các khâu. Thiết bị dệt còn quá ít so với thiết bị kéo sợi, phần lớn lại là máy dệt
thoi khổ hẹp, chủng loại nghèo nàn, vải làm ra không đáp ứng nhu cầu thị tr-
ờng, Về thiết bị kéo sợi cũng có tới hơn 60% là cọc sợi chải thô, chỉ số chất
lợng bình quân thấp chỉ có khoảng 26-30% là cọc sợi chải kỹ chỉ số cao dùng
cho dệt kim và vải cao cấp, dây chuyền nhuộm hoàn tất cũng đã lạc hậu phần
lớn là thiết bị khổ hẹp, tiêu hao nhiều hoá chất, thuốc nhuộm, dẫn đến chi phí
cao.
Trong khi đó, trang thiết bị ngành may đã tăng nhanh cả về số lợng và
chất lợng, nhất là về tính năng công dụng, từ máy đạp chân C22 của Liên Xô
cũ, máy 8322 của Đức đến JUKI của Nhật Bản và FFAP của CHLB Đức. Số
máy chuyên dùng cũng tăng lên đáng kể để đáp ứng với yêu cầu của sản xuất
và của chủng loại mặt hàng nh máy vắt năm chỉ, máy thùa đính, trần dầy
pasant, may cạp bốn kim, bàn là treo, bàn là hơi có đệm hút chân không,...
5. Về lơng :
Đầu những năm 1990, mức lơng trong ngành công nghiệp dệt là một
trong những mức lơng thấp nhất ở các nớc Châu á. Tuy nhiên, hiện nay tỷ lệ l-
ơng ở Việt Nam đã tăng (lơng TB là 58USD/ tháng ), cao hơn Trung Quốc.
Gần đây, sự giảm giá của một số đồng tiền tại Đông Nam á làm cho mức lơng
của một số nớc trở nên thấp hơn mức lơng của Việt Nam, đặc biệt năm 1998,
mức lơng của Inđônêxia thấp hơn một nửa mức lơng của Việt Nam.
6. Về năng suất :
Năng suất trong ngành dệt may Việt Nam đợc tính bằng giá trị gia tăng
theo lao động là rất thấp trong đầu những năm 1990 so với các nớc trong
nghiên cứu, đặc biệt so với Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore. Trong những năm
gần đây, giá trị gia tăng theo lao động của nớc ta đã đuổi kịp Trung Quốc.
Cuộc khủng hoảng tài chính làm thay đổi giá trị gia tăng tính theo USD trong
năm 1997 và 1998, đặc biệt đối với Inđônêxia, năng suất lao động đợc tính giá
trị gia tăng theo lao động bằng USD đã giảm đột ngột .
Chỉ số về chi phí cho một lao động có thể đợc xem nh là đại diện cạnh
tranh quốc tế về chi phí. Chỉ số này của Việt Nam cao hơn so với Trung Quốc,
11