BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ HỒNG HUỆ
CHẤT TRÀO LỘNG
TRONG TRUYỆN NGẮN TÔ HOÀI SAU 1975
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại
Mã số: 60220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: TS Trần Hạnh Mai
HÀ NỘI-2014
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn thạc sĩ, bên cạnh nỗ
lực của bản thân, tôi đã luôn nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của
các thầy cô, gia đình, đồng nghiệp và các bạn.
Với lòng kính trọng cùng sự biết ơn sâu sắc, tôi xin được bày tỏ lời tri
ân chân thành nhất tới TS.Trần Hạnh Mai đã hết lòng giúp đỡ về mặt
chuyên môn cũng như động viên tôi về mặt tinh thần trong suốt quá trình học
tập và thực hiện viết luận văn.
Xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô trong khoa Ngữ
văn đã tận tình truyền đạt kiến thức, khơi gợi ý thức nghiên cứu khoa học, tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình tiếp thu tri thức và hoàn thành
luận văn.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, nhà trường nơi tôi đang công tác và
những người bạn thân thiết đã luôn cổ vũ, động viên tôi trong quá trình học
tập và thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
Hà Nội, tháng 07 năm 2014
Học viên thực hiện
Nguyễn Thị Hồng Huệ
MỤC LỤC
HÀ NỘI-2014 1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Tô Hoài là một trong số các nhà văn lớn của Việt Nam nhận giải
thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu. Ông là cây bút có sức viết bền bỉ, dẻo dai. Trên
hành trình sáng tác nghệ thuật hơn 60 năm không ngừng nghỉ, ông đã để lại
một gia tài đồ sộ với nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài, hồi kí,
kịch, kịch bản phim và dù viết ở thể loại nào “ngón nghề của ông cũng thật
là thiện nghệ”. Tô Hoài có một vị trí vững chắc trong nền văn học hiện đại
Việt Nam: “Nói đến Tô Hoài là nói đến một nhà văn có nghề nghiệp vững
vàng với một công phu rèn luyện dẻo dai, bền bỉ” (Trần Hữu Tá). Và nói đến
Tô Hoài là nói đến một nhà văn lớn - một nhà văn “Vừa vào nghề sớm lại vừa
kéo dài tuổi nghề - một sự kéo dài đàng hoàng chứ không lê lết trong tẻ nhạt”
[37]. Trước cách mạng, truyện của Tô Hoài in đậm cảm quan nghệ thuật và
giọng điệu riêng - một cây bút sung sức, đứng bên Nam Cao làm nên dấu ấn
đặc trưng cho trào lưu văn học hiện thực những năm tiền cách mạng. Sau cách
mạng, sáng tác của Tô Hoài quan tâm đến nhiều đề tài quan trọng của văn học
Việt Nam hiện đại: cách mạng và đời thường, hoà bình và chiến tranh, miền
núi và miền xuôi, nông thôn và thành thị
Qua sự trải nghiệm ở nhiều thể loại văn xuôi, dường như ngòi bút Tô
Hoài đã dành tình cảm ưu ái đặc biệt cho thể loại truyện ngắn. Với ông, nó
không chỉ là “một thể loại có tính chiến đấu mạnh” mà còn là “một thể văn
tập cho người viết nhiều nết quý” để nhà văn “biết tận dụng từng chữ, lo săn
sóc từng chữ”, “rèn luyện đến việc dùng từng dấu phẩy” và “thử tìm phong
cách cho mình”. Có thể nói, sức hấp dẫn trong truyện ngắn của ông bắt nguồn
từ tài quan sát và miêu tả, lời kể chuyện hóm hỉnh, cách thể hiện nhân vật
sống động với “một lối văn dí dỏm, tinh quái đầy phong vị và màu sắc thôn
quê”(Vũ Ngọc Phan). Thâm nhập tác phẩm của Tô Hoài, người đọc bao giờ
1
cũng có một cảm giác thích thú trước những chi tiết, sự kiện, nhân vật được
nhà văn miêu tả rất ngộ nghĩnh, hài hước. Tiếp nối mạch nguồn ấy, truyện
ngắn Tô Hoài sau 1975 vẫn đậm chất trào lộng. Có thể nói, đây là một thực tế
chứng minh cho nét đặc trưng nhất trong phong cách của ông. Đi sâu nghiên
cứu đề tài: Chất trào lộng trong truyện ngắn Tô Hoài sau 1975, chúng tôi
mong muốn tiếp tục khám phá, khẳng định vai trò, vị trí và những đóng góp
của nhà văn này trong nền văn xuôi Việt Nam nói riêng và văn học đương đại
nói chung.
Tô Hoài là một trong những tác giả quan trọng trong chương trình giáo
dục và học tập ở nhà trường. Sáng tác của ông được đưa vào giảng dạy từ tiểu
học cho đến bậc đại học và sau đại học, từ chú Dế mèn tinh nghịch, phóng
khoáng trong “Dế mèn phiêu lưu kí” đến cô Mị với sức sống tiềm tàng trong
“Vợ chồng APhủ”…luôn hấp dẫn với học sinh ở các độ tuổi khác nhau và ông
cũng là một trong số hơn 30 tác giả được lựa chọn trong bộ sách đồ sộ của nhà
xuất bản giáo dục. Vì vậy, tìm hiểu về tác phẩm của ông là một điều bổ ích và
thiết thực với chúng tôi - những người đang trực tiếp giảng dạy bậc THPT.
2. Lịch sử vấn đề
Tô Hoài bước vào con đường văn học khá sớm và đã được giới phê
bình văn học chú ý ngay từ những ngày đầu cầm bút, thế nên khối lượng
những công trình nghiên cứu về ông cũng đồ sộ, phong phú tương ứng với sự
nghiệp sáng tác của nhà văn. Nhiều ý kiến đã khẳng định Tô Hoài là cây bút
có phong cách nghệ thuật riêng. Chất hài hước là một trong những yếu tố làm
nên văn phong đặc biệt của ông. Người đầu tiên nhận ra giọng điệu hài hước
trong sáng tác của Tô Hoài là nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan. Theo ông, ngay
từ những tác phẩm đầu tay, Tô Hoài đã bộc lộ chất giọng độc đáo: “Tập O
chuột là tập truyện ngắn đầu tiên của Tô Hoài và cũng là tiêu biểu cho lối
2
văn đặc biệt của ông, một lối văn dí dỏm, tinh quái nhưng đầy phong vị và
màu sắc thôn quê”.
Đọc Tô Hoài, GS.Nguyễn Đăng Mạnh ấn tượng bởi “một cái tôi khôn
ngoan, tinh quái, thóc mách, lọc lõi, rất mực hiểu mình, hiểu người và có đá chút
khinh bạc”[35]. Vũ Quần Phương cho rằng: “Tôi có cảm tưởng chuyện gì ông
cũng biết… Trí nhớ tuyệt vời, quan sát tinh vi, lại có lối diễn đạt mộc, sắc, hóm.
Tô Hoài như một cuốn từ điển sống về nhiều sự kiện văn học và xã hội”.
GS. Hà Minh Đức trong “Lời giới thiệu tuyển tập Tô Hoài” cũng
khẳng định chất hài hước thể hiện ở giọng văn châm biếm, dí dỏm “Ông bày
tỏ thái độ một cách kín đáo, khi thì là một niềm vui hoà điệu với cảnh ngộ,
khi là một giọng văn châm biếm, dí dỏm”.
Trong bài viết “Tô Hoài – văn và đời”, Nguyễn Văn Long cùng chung
quan điểm: “Tô Hoài có biệt tài miêu tả sinh hoạt và phong cảnh miền xuôi
cũng như miền núi và có một lối kể chuyện tự nhiên, dí dỏm và tinh quái”.
Đồng tình với ý kiến trên, Phan Cự Đệ trong bài viết “Tô Hoài, nhà văn Việt
Nam hiện đại ”(1979) một lần nữa khẳng định: “Tô Hoài có khả năng quan
sát đặc biệt thông minh, hóm hỉnh và tinh tế”.
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều chỉ ra nét nổi bật trong tác phẩm
Tô Hoài là tài quan sát sắc sảo, một lối kể chuyện dí dỏm, hóm hỉnh có phần
tinh nghịch với giọng điệu “hơi đá giọng trào lộng và khinh bạc”. Đúc kết lại
đặc sắc truyện ngắn Tô Hoài, chúng tôi xin mượn lời của giáo sư Phong Lê:
“Tô Hoài có cái nhìn tinh tế, sắc sảo, hóm hỉnh, lắm lúc như bông đùa, nghịch
ngợm…không lên giọng, không nhấn mạnh, thậm chí không có bất cứ sự can
thiệp nào của ý chí chủ quan, truyện của Tô Hoài cứ tự nhiên mà thủ thỉ cái
tiếng nói hồn nhiên của sự sống”[30]
Sau 1975, Tô Hoài tiếp tục sáng tác với bút lực dồi dào. Từ 1986, với
sự chuyển mình của văn xuôi ở cả lĩnh vực nội dung và hình thức nghệ thuật
3
thì “hình như ngòi bút Tô Hoài không có tuổi già”, ông vẫn tiếp tục đem đến
cho độc giả những sáng tác có giá trị. Sự trở lại của chất trào lộng trong sáng
tác của Tô Hoài giai đoạn này là một thực tế chứng minh cho một nét đặc
trưng, nhất quán trong phong cách của ông. Trong đà vận động chung của thể
loại, ông vẫn giữ cho mình phong độ nhất định khi viết truyện ngắn. Các tập
truyện: Tình buồn, Cái áo tế, Người một mình là sự tiếp nối hành trình sáng
tạo miệt mài, bền bỉ của nhà văn “hóm lẹm bậc nhất văn đàn Việt”.
Sự nghiệp văn học của Tô Hoài luôn là mảnh đất đầy tiềm năng để các
thế hệ sau tiếp tục tìm tòi, khám phá. Kế thừa kết quả của các công trình
nghiên cứu đi trước về ông, trong quá trình khảo sát ở tư liệu khoa Ngữ văn
trường Đại học sư phạm Hà Nội, chúng tôi nhận thấy vấn đề trào lộng trong
truyện ngắn Tô Hoài được đề cập đến nhiều lần.
.Trong khoá luận tốt nghiệp Chất hài hước trong tập truyện ngắn
Người một mình, tác giả Nguyễn Tuyết Mai đã tìm hiểu những phương thức
tổ chức, các phương tiện nghệ thuật để tạo nên hiệu quả hài hước. Theo tác
giả, ở phương diện xây dựng chi tiết hài hước, Tô Hoài đã đưa vô vàn những
cái tạp nham của cuộc sống đời thường vào trang văn của mình. Những chi
tiết đó tạo nên một đặc điểm riêng của cốt truyện trong truyện ngắn Tô Hoài
là cốt truyện giống như dòng chảy tự nhiên của cuộc sống đời thường. Khi chỉ
ra nghệ thuật xây dựng nhân vật hài hước, tác giả nhấn mạnh: Tô Hoài xây
dựng được một hệ thống nhân vật phong phú, đa dạng. Đó là thế giới của con
người bình thường, những con người với những cá tính, thói tật nhưng cũng
lại rất hồn nhiên tinh nghịch từ trong bản chất, từ điệu bộ đến suy nghĩ, lời nói
đến hành động. Ở khía cạnh nghệ thuật trần thuật hài hước, người viết phát
hiện: Dù là người trần thuật khách quan hay chủ quan, người kể chuyện trong
truyện ngắn Tô Hoài đều đem đến cho bạn đọc những tiếng cười thú vị thông
qua những lời bình luận gián tiếp hoặc trực tiếp hoặc xen vào ý thức nhân vật
để tạo nên mâu thuẫn hài hước.
4
. Năm 2013, với khóa luận Chất trào lộng trong tập truyện ngắn Tình
buồn, Cung Thị Kim Thành cho rằng: “Đọc Tình buồn, ta bắt gặp rất nhiều
tính cách “quen mà lạ”. Quen bởi dẫu có phần nhem nhọ và đời thường muốn
che đậy thì nó vẫn là thường gặp, còn lạ là ở cái giọng kể, giọng tả điềm nhiên
tinh quái đã biến nó thành câu chuyện hài hước, dí dỏm” [48,15]
Sự khám phá của các tác giả trong những khoá luận này đã góp một
tiếng nói trong việc khẳng định nét nhất quán trong phong cách nhà văn này.
Mặc dù thống kê của chúng tôi về những nhận xét, những ý kiến đánh
giá xung quanh truyện ngắn Tô Hoài sau năm 1975 là chưa đầy đủ nhưng có
thể nhận thấy, các bài viết đều đề cập đến ngôn ngữ, giọng văn, cách nhìn con
người, cuộc đời, cách xây dựng chân dung nhân vật … trong truyện ngắn của
ông đậm chất trào lộng. Tuy nhiên, các bài viết chủ yếu mới chỉ dừng lại ở
những cảm nhận, những nhận xét mang tính riêng lẻ mà chưa đi sâu nghiên
cứu một cách hệ thống, nhất là ở phương diện chất trào lộng và sự chi phối
của nó đến các phương tiện nghệ thuật thể hiện. Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn
xem những ý kiến ở các công trình ấy là những tiền đề, những gợi ý cần thiết
giúp chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu đề tài này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng là truyện ngắn của Tô Hoài sau 1975. Trong đó, chúng tôi
tập trung nghiên cứu chất trào lộng qua ba tập truyện ngắn: Tình buồn, Cái
áo tế và Người một mình.
4. Mục đích nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tập trung lý giải mối liên hệ giữa
nội dung trào lộng và thủ pháp nghệ thuật trào lộng trong truyện ngắn Tô
Hoài sau 1975, từ đó một lần nữa khẳng định phong cách nghệ thuật độc đáo
cũng như thêm một lần nữa khẳng định sự đóng góp của nhà văn “hóm lẹm”
này đối với văn học hiện đại Việt Nam.
5
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp hệ thống
5.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
5.3. Phương pháp so sánh
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3
chương:
Chương I: Những vấn đề chung
Chương II: Nội dung trào lộng trong truyện ngắn Tô Hoài sau
1975
Chương III: Một số thủ pháp nghệ thuật .
6
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Nhận thức các khái niệm cơ bản
Theo từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh thì:
“Trào” là cười, cười nhạo. “Lộng” tiếng Hán là ngắm nghía, chơi. Trào
lộng là cười có tính chất chế giễu để đùa cợt.
Henri Bénac đã diễn giải một cách cụ thể, rõ ràng: Theo tác giả, trào
lộng bắt nguồn từ tiếng Latinh “Burla = đùa bỡn” chỉ một hình thức đặc biệt
của lối diễn đạt có trong tất cả các nghệ thuật xuất hiện ngay từ thời Cổ đại
trong văn học “Trào lộng về cơ bản là nói bằng những lời lẽ thô tục và cổ lỗ
về những chuyện nghiêm túc”[4,10]. Vì thế, từ này cũng có thể dùng để chỉ
thể loại trái ngược với thể loại nói bằng những lời đẹp đẽ, trau chuốt về những
sự vật thô thiển, tầm thường. Cũng theo tác giả, trong khi hài hước giữ sự tiếp
xúc với con người thì trào lộng linh hoạt hơn. Mục đích của trào lộng không
chỉ để mua vui, chế nhạo bằng nhại tiếng mà còn châm biếm xã hội và làm
con người thay đổi bản chất bằng cách thức nhẹ nhàng nhất.
Trên cơ sở của những tiền đề giới thuyết nêu trên chúng tôi nhận thức
về khái niệm này với ý nghĩa: trào lộng là một yếu tố, một phương diện quan
trọng của bản thân nội dung tác phẩm nghệ thuật. Trào lộng chính là tiếng
cười, đồng nghĩa với cái hài. Cái hài – một phạm trù mĩ học “phản ánh hiện
tượng phổ biến của thực tế đời sống có khả năng tạo ra tiếng cười ở những
cung bậc và sắc thái khác nhau. Đó là sự mâu thuẫn, sự không tương xứng mà
người ta có thể cảm nhận được về phương diện xã hội”[11]. Cái hài trong
quan hệ thẩm mỹ chính là cái xấu giả danh cái đẹp và khi bị phát hiện thì tạo
ra tiếng cười mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, tiếng cười của sự chiến thắng cái
xấu. Bản chất của cái hài chính là tiếng cười với nhiều cung bậc phong phú,
đa dạng: cười thiện cảm, cười khinh bỉ, cười chua chát, chán nản, cười
7
nghiêm khắc, cười vui, cười đùa Và như vậy, hệ quả tất yếu của chất trào
lộng là tiếng cười và đối tượng mà nó hướng tới là con người hoặc những gì
liên quan đến con người bởi “cười là đặc tính của con người” (Rabơle). Tuy
nhiên, tiếng cười chỉ bộc lộ khi chủ thể phát hiện ra đối tượng gây cười, tiếng
cười nổ ra như là dấu hiệu của sự thân mật, “suồng sã” với đối tượng. Theo
M.Bakhtin: “Tiếng cười xóa bỏ nỗi sợ hãi và thái độ tôn kính trước khách thể,
trước thế giới, biến nó thành đối tượng của sự tiếp xúc thân mật và bằng cách
đó, chuẩn bị cho việc nghiên cứu nó một cách hoàn toàn tự do”. Do đó, trào
lộng chỉ thực sự xuất hiện và phát triển khi tư duy văn học mang đậm tinh
thần dân chủ, tự do của một ý thức cá nhân hoàn toàn được giải phóng.
Có thể thấy, ở một phương diện nào đó, trào lộng gần với khái niệm
trào phúng. Tuy nhiên giữa chúng có sự khác nhau về mức độ, mục tiêu. Nếu
trào phúng sử dụng các yếu tố của tiếng cười (mỉa mai, châm biếm, phóng
đại, khoa trương, hài hước ) để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng những
cái tiêu cực, xấu xa, lỗi thời, độc ác trong xã hội, nghĩa là nó mang tính công
kích bút chiến một cách mạnh mẽ những khiếm khuyết, những thói hư tật
xấu thì trào lộng uyển chuyển, mềm mại và linh hoạt hơn trong mức độ và
mục tiêu sử dụng tiếng cười. Trào lộng cũng gần nghĩa với khái niệm “châm
biếm” và “giễu nhại”. Chúng chỉ khác nhau ở mức độ, tính chất phê phán và
các phương thức biểu hiện
Với ý nghĩa đó, luận văn của chúng tôi tập trung tìm hiểu chất trào lộng
trong truyện ngắn Tô Hoài sau 1975 theo hướng nhận diện, khám phá tiếng
cười với những biểu hiện phong phú, đa dạng trong sáng tác của ông giai
đoạn này, coi đó là một yếu tố góp phần khẳng định phong cách độc đáo của
nhà văn có một hành trình sáng tác đầy dẻo dai và sung sức bậc nhất của văn
học Việt Nam hiện đại.
8
1.2. Trào lộng trong văn học Việt Nam sau 1975
Dòng chảy của văn học Việt Nam chưa bao giờ thiếu vắng tiếng cười.
Tuy nhiên, tùy từng giai đoạn, từng thời kỳ lịch sử mà mức độ, mục đích
tiếng cười khác nhau. Có khi nó bùng nổ mạnh mẽ thành cao trào nhưng cũng
có khi tiếng cười tạm lắng xuống để nhường chỗ cho những cảm hứng sôi nổi
hơn để rồi sau đó lại càng tái sinh mạnh mẽ.
Trong văn học dân gian, tiếng cười có nhiều cấp độ khác nhau với mục
đích tương ứng: Tiếng cười hồn nhiên thoải mái, vui vẻ nhằm mục đích giải
trí, cũng có khi đó là tiếng cười mỉa mai châm biếm, giễu cợt…nhằm mục
đích giáo dục và đấu tranh chống thói hư tật xấu. Có thể nói, tiếng cười là
phương tiện, là cứu cánh để giúp họ đối diện, vượt lên và chiến thắng hoàn
cảnh sống vốn dĩ còn lắm gian truân, nhọc nhằn, vất vả và đầy rẫy những bất
công, ngang trái
Đến văn học trung đại, cảm hứng trào lộng tiếp tục xuất hiện và phát
triển mạnh mẽ, đặc biệt là từ sau thế kỷ XVIII – khi chế độ phong kiến Việt
Nam đi từ khủng hoảng đến suy thoái, những giá trị, những chuẩn mực đạo
đức bị đổ vỡ đảo lộn. Đấy chính là mảnh đất để tiếng cười xuất hiện và phát
triển. Đó là tiếng cười chua xót, mỉa mai, chế giễu của Trạng Trình Nguyễn
Bỉnh Khiêm trước sự đổi trắng thay đen của lòng người bởi sức mạnh của
đồng tiền. Là tiếng cười phê phán, đả kích mạnh mẽ giống như một cái tát
thẳng thừng không hề nể nang sợ hãi vào mặt bọn phong kiến thống trị trong
thơ Hồ Xuân Hương. Là tiếng cười trào phúng thâm trầm mà sâu sắc trong
thơ Nguyễn Khuyến hay tiếng cười sắc nhọn, cay độc, bốp chát khi tố cáo, đả
kích hoặc hài hước dí dỏm trong những vần thơ tự trào của Tú Xương …
Giai đoạn văn học 1930 – 1945 đã chứng kiến sự phát triển chưa từng có
của văn thơ trào phúng. Riêng ở bộ phận văn xuôi hiện thực, tiếng cười bật lên
từ những sáng tác của hàng loạt cây bút: Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan,
9
Ngụ Tt T, Tuy sc thỏi v cng khỏc nhau nhng cỏc cõy bỳt ny u
phờ phỏn xó hi ng thi bng mt v khớ li hi vụ cựng: Ting ci.
Giai on 1945 1975 l giai on c thự ca lch s dõn tc: C
nc tin hnh hai cuc chin tranh chng Phỏp v chng M. Trong hon
cnh y, vn hc hng v im nhỡn s thi vi nhng vn trang nghiờm,
cao c. Văn học tập trung đề cập đến những vấn đề trọng đại, liên quan đến lợi
ích của dân tộc và cộng đồng, hiện thực cuộc sống trong văn học đều dờng
nh chỉ có một màu hồng, không có hoặc rất ít những tiêu cực, mâu thuẫn.
Văn học dng nh ch có ngợi ca, độc giả theo đó cũng trở thành thói quen
và thờng biết trớc đợc kết thúc của các tác phẩm bao giờ cũng có hậu, cái
thiện, cái cao cả, cái tốt đẹp bao giờ cũng chiến thắng Chớnh vỡ th, ting
ci trong vn hc giai on ny dng nh b t góy vi truyn thng. Cm
hng anh hựng v ging iu ngi ca l nột ch o trong cỏc tỏc phm thi
k ny.
Vi i thng mựa xuõn nm 1975, cuc khỏng chin chng M cu
nc ca nhõn dõn ta ó kt thỳc thng li. Mt k nguyờn mi c m ra
cho dõn tc Vit Nam: K nguyờn c lp, thng nht cựng i lờn ch ngha
xó hi. Ngh quyt i hi ng ton quc ln th VI ó ch rừ: i mi nc
ta, i mi ang l yờu cu bc thit ca s nghip cỏch mng, l vn cú ý
ngha sng cũn, phi i mi, trc ht l i mi t duy chỳng ta mi cú th
vt qua khú khn. T nm 1986, t nc bc vo cụng cuc i mi mt
cỏch mnh m, ton din, sõu sc. Trờn tinh thn dõn ch ca thi i, quan
im ch o vn ngh thụng thoỏng v ci m hn ó thi mt lung giú
mi vo i sng vn hc ngh thut nc nh. Cựng vi cm hng s thi,
cm hng v cỏi bi l s tri dy ca cm hng tro lng ó lm thay i cn
bn din mo vn xuụi thi k i mi. S phc sinh ca cm hng tro lng
khụng ch ỏp ng nhu cu i mi, t ci trúi ca vn hc v gúp phn lm
10
cho diện mạo của văn học Việt Nam sau 1975 có những chuyển biến mạnh
mẽ nhất là sự hình thành loại hình văn xuôi trào lộng mà còn là điểm tựa, là
điều kiện cần thiết để thức tỉnh ý thức cá nhân, cá tính sáng tạo của người cầm
bút, giúp họ có bản lĩnh, có dũng khí hơn trong cách nhìn nhận, miêu tả, đánh
giá sự vật, hiện tượng, con người trong đời sống xã hội từ đó mà các giá trị
của đời sống được nhận thức lại, đánh giá lại theo những chuẩn mực riêng của
kinh nghiệm cá nhân và bộc lộ những vênh lệch, sự không tương hợp so với
những chuẩn mực cũ từ kinh nghiệm cộng đồng. Tiếng cười trào lộng, vì thế
càng có điều kiện phát triển một cách mạnh mẽ. Sự biểu hiện của nó trong
sáng tác của các tác giả cũng trở nên nhiều màu vẻ và sâu sắc hơn. Các nhà
văn hướng ngòi bút vào mọi vấn đề của đời sống xã hội kể cả những vấn đề
lâu nay được chôn sâu cất kĩ hoặc được tránh né vì ngại va chạm để vạch trần
những phi lý, bất cập, những sai lầm, lệch lạc của nó và làm bật lên tiếng cười
với những sắc thái thẩm mĩ đa dạng, tinh tế, qua đó các tác giả giúp cho người
đọc nhận chân các giá trị thật - giả, tốt - xấu, cao cả - thấp hèn của đời sống
xã hội trong thời đại mới.
Cũng cần phải nói thêm rằng, từ sau công cuộc đổi mới của Đảng, đời
sống vật chất của toàn xã hội đã thay đổi nhanh chóng theo chiều hướng tốt
đẹp hơn. Tuy nhiên, khi đất nước chuyển từ chế độ bao cấp sang cơ chế thị
trường, bậc thang của nhiều giá trị bị thay đổi, sự phân hoá giàu nghèo ngày
càng rõ ràng, đặc biệt đồng tiền đã bộc lộ vai trò ma quái và “sức mạnh vạn
năng” của nó. Đồng tiền len lỏi vào mọi ngõ ngách, mọi mối quan hệ thiêng
liêng nhất trong đời sống xã hội để xâu xé và làm biến dạng chúng. Đó là mặt
trái của cơ chế thị trường và cũng là mảng hiện thực bộn bề, phức tạp để tiếng
cười xuất hiện và phát triển trong văn học nhất là văn xuôi.
Nhìn trên đại thể có thể thấy tiếng cười trào tiếu, giễu nhại đã thực sự
trở thành tiếng nói nghệ thuật của văn xuôi thời kỳ đổi mới. Nó thể hiện sự
11
chiếm lĩnh các giá trị đời sống một cách dân chủ, cởi mở của các nhà văn, tiêu
biểu như trong sáng tác của: Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy
Thiệp, Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái… Dường như các tác giả muốn thông
qua tiếng cười để “cảnh tỉnh nhân loại và báo hiệu trước những tai họa”
(Nguyễn Minh Châu). Đó cũng chính là giá trị sâu sắc của tiếng cười. Các nhà
văn đã thể hiện tiếng cười đa dạng và khác biệt với các cung bậc trào lộng
khác nhau. Với Nguyễn Khải, đó là nụ cười giễu cợt vừa thâm thuý, vừa tinh
quái của một trí thức lịch lãm, trải đời, luôn tỉnh táo trước mọi biến động dâu
bể của thế thái nhân tình. Không phải ngẫu nhiên mà trong sáng tác của ông
hầu hết đều là kiểu nhân vật tư tưởng thích suy nghĩ, ham tranh luận, ưa đối
thoại để xác định lại những giá trị thực của đời sống theo quan điểm cá nhân.
Nhà văn không áp đặt mà tạo không khí cởi mở “đùa giỡn tí chút” để đánh
thức trí tuệ của người đọc. Thượng đế thì cười là ví dụ điển hình.
Trong văn Nguyễn Huy Thiệp, người đọc lại bắt gặp sự hợp lưu giữa
mạch nguồn dân gian và tinh thần hiện đại. Truyện ngắn của ông phơi bày
đến tận cùng một hiện thực đang ly tán, phân rã, mất đi tính bản nguyên thống
nhất, vẹn toàn, một xã hội phi lý, đầy bất cập với cơ chế thị trường thực dụng
tha hoá bản chất người khiến con người trở nên cô đơn, lạc lõng, không còn
mối dây ràng buộc với truyền thống. Tiếng cười trào lộng trong văn Nguyễn
Huy Thiệp vì thế, thường mang âm hưởng giễu nhại sâu cay. Dường như qua
đó nhà văn muốn hướng đến việc xoá bỏ khoảng cách sử thi nhằm mục đích
giải thiêng để đối thoại với độc giả, để nhận thức lại các giá trị đời sống. Một
loạt các tác phẩm như: Tướng về hưu, Không có vua, Những người thợ xẻ,
Vàng lửa, Kiếm sắc thể hiện rất rõ điều đó.
Đọc Phạm Thị Hoài chúng ta nhận thấy sự chua chát, mỉa mai, hài
hước lại nổi lên như là âm hưởng chủ đạo trong sáng tác của nhà văn. Qua cái
nhìn mang tính giễu nhại của bà, dường như mọi chuyện trong cõi nhân sinh
12
từ chuyện yêu đương, ma chay, cưới hỏi, chuyện dạy học, thơ phú, quan
trường đều trở nên vô nghĩa, thiếu nghiêm túc. Thậm chí con người cũng bị
mô hình hoá, số hoá trở thành những “người không mặt”, bị bào mòn cá tính,
cạn kiệt khả năng yêu thương. Thiên sứ, Man Nương, Kiêm ái, Tiệm may Sài
Gòn là những tác phẩm tiêu biểu cho tiếng cười giễu nhại trong văn chương
Phạm Thị Hoài, thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn.
Đến với các tác phẩm của Hồ Anh Thái: Cõi người rung chuông tận
thế, Mười lẻ một đêm , Đức Phật, SBC là săn bắt chuột người đọc lại có cảm
giác mỗi tác phẩm của ông đều là một tiếng nói, một cách nhìn đời, nhìn
người nhằm cảnh tỉnh “cõi người” hôm nay trước nguy cơ nhân tính bị băng
hoại, những nền tảng đạo đức, những giá trị văn hoá truyền thống bị phá huỷ.
Do đó, vừa tưng tửng, vừa cười cợt, báng bổ là giọng điệu chủ đạo mà ta bắt
gặp trong sáng tác của nhà văn. Ngôn ngữ trong văn ông cũng vì thế mà mang
tính giễu nhại với sự tổng hoà nhiều sắc độ: lúc suồng sã, thân mật; lúc bặm
trợn, chao chát; lúc lại hoài niệm, triết lý Điều đó làm nên cái duyên, cái
riêng của Hồ Anh Thái.
Là một thuộc tính của hiện thực khách quan, vì thế cái hài trở thành đối
tượng được nhận thức, được phản ánh trong sáng tác của rất nhiều nhà văn
thời kỳ đổi mới. Không chỉ có Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị
Hoài, Hồ Anh Thái mà còn rất nhiều nhà văn khác cũng thể hiện cảm hứng
đặc biệt đối với phạm trù này như: Ma Văn Kháng, Đoàn Lê, Nguyễn Thị Thu
Huệ, Nguyễn Quang Thân, Chính điều đó góp phần tạo nên diện mạo mới
đầy thú vị và ấn tượng của văn xuôi Việt Nam sau 1975. Thông qua tiếng
cười, truyện ngắn sau 1975 đã thể hiện sự phong phú trong quan niệm về con
người và tư tưởng về hiện thực. Cảm hứng anh hùng trong văn học dần
nhường chỗ cho cảm hứng phê phán và cảm hứng nhân văn. Hình ảnh con
người đơn trị, một chiều, hào hùng, vĩ đại, bách chiến bách thắng dần nhường
13
chỗ cho con người bé nhỏ, con người tự nhiên với nhiều phức tạp như nó vốn
có. Quan niệm về con người, vì thế cũng gần gũi hơn, thật hơn và sinh động
hơn. Đó cũng chính là tư tưởng về hiện thực. Không còn một hiện thực tươi
rói màu hồng nữa mà thay vào đó là một hiện thực gai góc, phức tạp còn
nhiều bí ẩn, nhất là hiện thực của đời sống nội tâm con người với nhiều ẩn ức,
vô thức, tâm linh đầy rẫy những xung đột, những giằng xé Đó mới thực sự là
mảnh đất cần được khai vỡ của văn học như cách nói của Chế Lan Viên: “Đi
tìm sự vật ở cái bề chưa thấy, ở cái bề sâu, bề sau, ở cái bề xa” hay lời tâm sự
của Nguyễn Khải: “Tôi yêu mến cái hôm nay, cái ngổn ngang, bề bộn, bóng
tối lẫn ánh sáng, màu đỏ và màu đen, đầy rẫy những xung đột, những bất
ngờ Đó là mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thỏa sức khai vỡ”.
1.3. Trào lộng trong hành trình sáng tác của Tô Hoài
Sớm đến với văn chương, ban đầu Tô Hoài chịu ảnh hưởng của xu
hướng sáng tác lãng mạn đương thời nhưng rồi ông nhanh chóng nhận ra đó
không phải là sở trường của mình nên đã chuyển hướng. Với ý thức nghề
nghiệp cao và bản lĩnh nghệ thuật đáng nể, Tô Hoài đã sớm hình thành cho
mình một phong cách nghệ thuật riêng. Ngay sau khi chuyển hướng sáng tác,
Tô Hoài đã “thuộc loại tả chân” có “tính chất xã hội” (Vũ Ngọc Phan). Cảm
hứng chủ đạo trong sáng tác của ông là cảm hứng hướng về cuộc sống hiện
thực “muôn mặt đời thường”. Căn cứ xuất phát của ngòi bút Tô Hoài là
những gì thân thuộc nhất, gần gũi nhất với nhà văn. Tô Hoài gần như dị ứng
với lối viết về xã hội thượng lưu với những con người sang trọng có thứ ngôn
ngữ “sạch sẽ” của Tự Lực Văn Đoàn. Ông viết về những con người ông gặp
hàng ngày, những chuyện diễn ra thường ngày mắt thấy tai nghe. Ông đi vào
khai thác đời thường, vào mạch sống thực của đời sống – mạch sống của cuộc
đời táp nham. Nhà văn tự nhận thấy rằng: “Đời không suông nhạt ở một mảnh
cổ tích nhăng cuội, ở những câu chuyện trai gái thông thường đem bôi nhèm
14
trên giấy… Xưa nay, tôi chỉ quen viết về những gì vụn vặt, nhem nhọ”. Quan
niệm viết trên của Tô Hoài đã nhất quán trong cả đời viết. Có biến đổi nhưng
mang ý nghĩa tích cực mới.
Cuộc đời và văn nghiệp của Tô Hoài gắn liền với những biến cố trọng
đại của đất nước: hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
giai đoạn hoà bình và xây dựng đất nước đổi mới. Ở mỗi giai đoạn, ông đều
tham gia như một nhân chứng lịch sử. Và ở mỗi giai đoạn ta đều thấy toát lên
cách nhìn đời tinh quái, đậm chất hài hước trong việc phát hiện, xây dựng
nhân vật tuy màu sắc đậm nhạt ở mỗi thời kỳ khác nhau.
1.3.1.Từ những sáng tác thời kỳ đầu
Tô Hoài đến với nghề văn ở tuổi mười bảy, mười tám. Tuy xuất hiện ở
giai đoạn cuối của thời kì 1930 - 1945 nhưng Tô Hoài đã sớm khẳng định được
vị trí của mình trong đội ngũ nhà văn thời kì này bằng một loạt tác phẩm độc
đáo, đặc sắc như : Dế mèn phiêu lưu kí (1941), Quê người (1941), O chuột
(1942), Giăng thề (1943), Nhà nghèo (1944 )…Từ các tác phẩm này, người đọc
dễ nhận thấy sức sung mãn dồi dào trong lao động nghệ thuật của ông. Sau
này, Tô Hoài đã bộc bạch chân thành qua Tự truyện về việc ông đến với nghề
văn, ông viết : “Tôi vào nghề văn có trong ngoài ba năm trước Cách mạng
tháng Tám, 1945 mà tôi viết như chạy thi được năm truyện dài, truyện vừa, ba
tập truyện ngắn, còn truyện thiếu nhi như Dế mèn thì mấy chục truyện…Cũng
chẳng có gì lạ. Viết để kiếm miếng sống lúc ấy tất phải cuốc khỏe như vậy
đấy”. Tác phẩm của Tô Hoài trước cách mạng có thể phân thành hai loại chính:
truyện về loài vật và truyện về nông thôn trong cảnh đói nghèo.
Trước hết, với Dế Mèn phiêu lưu kí, tài năng nghệ thuật của Tô Hoài
được bộc lộ ở nhiều phương diện. Bằng tài quan sát, cái nhìn tinh tế về loài
vật kết hợp với những nhận xét thông minh, hóm hỉnh, nhà văn đã lôi cuốn
các em vào thế giới loài vật bé nhỏ gần gũi, hấp dẫn và kì thú qua hình ảnh
15
của Dế Mèn, Dế Trũi…Họ như anh em kết nghĩa vườn đào, sẵn sàng quên
mình vì bạn, vì nghĩa lớn. Xiến Tóc trầm lặng, vừa yêu đời vừa chán đời. Chị
Cào Cào ồn ào và duyên dáng. Bọ Ngựa kiêu căng, ngạo mạn. Cóc huênh
hoang, dở hơi. Ếch thông thái giả. Anh chàng Kỉm Kìm Kim hèn đớn. Cậu
công tử bột Chim Chả Non có mẽ mà đầu óc lại rỗng tuếch, Từ đời sống và
tính cách của từng con vật, nhà văn nhằm bày tỏ quan niệm của mình về nhân
sinh, về khát vọng chính đáng của người lao động, về một cuộc sống hòa
bình, yên vui, về tình thương, lòng chân thành và sự đoàn kết. Bởi thế, câu
chuyện về chú Dế Mèn không chỉ có ý nghĩa dành cho trẻ em, mà còn cả cho
người lớn và cho cả xã hội. Nó thực sự mang giá trị lâu bền trong đời sống
tinh thần của con người, cũng vì thế, dù ở đâu và ở thời kì nào, người đọc vẫn
tìm thấy bao điều thú vị, bao bài học ý nghĩa từ tác phẩm này.
Viết về loài vật, Tô Hoài đã dành khá nhiều trang để thể hiện chân thật,
sinh động họ nhà chuột. Các chủng loại chuột như: chuột nhắt, chuột cống,
chuột cộc, chuột bạch, chuột xù, xuất hiện trong các tác phẩm của ông với
những đặc điểm, thói quen riêng và cả những mối quan hệ của chúng. Trong
số những truyện viết về chuột thì Gã chuột bạch đã để lại cho người đọc bao
điều suy nghĩ. Cuộc sống của vợ chồng chuột bạch là “vẩn vơ tìm những hạt
gạo tẻ mà người ta rắc vào một cái đĩa ở đáy lồng”, là “đánh vòng”, dựa vào
lồng “ngủ đứng”. Ngay cả khi có dịp ra khỏi lồng chúng vẫn không lấy gì làm
thích thú mà “ngơ ngác nhìn quanh quẩn. Như là họ hít phải cái không khí lạ.
Như là họ chẳng quen bò giữa nơi khoáng đãng. Và họ lại nối đuôi nhau, tha
thẩn, từ từ bò vào, cũng như lúc bò ra”. Có thể nói, qua cảnh sống của vợ
chồng chuột bạch, Tô Hoài đã phê phán cách sống nhàm chán, buồn tẻ và vô
vị cũng như tâm lí chấp nhận, lệ thuộc của một lớp người trong xã hội, đồng
thời muốn thức tỉnh những ai đang lâm vào cảnh sống đó.
16
Nhiều loài vật khác qua cách miêu tả của Tô Hoài tạo cho người đọc
dấu ấn lâu bền. Đó là gã mèo mướp “lừ đừ nghiêm nghị tựa một thầy dòng,
trên mình có khoác bộ áo thâm. Hắn có cái cốt cách quý phái và trưởng giả.
Lúc nào cũng nghĩ ngợi như sắp mưu toan một việc gì ghê gớm lắm”. Đó là
cậu gà trống gi “bé nhỏ sống côi cút một thân, một mình” thuở nhỏ, nhưng
khi lớn lại có “bộ mặt khinh khỉnh ta đây” và cũng rất đa tình, “có tật mê gái”
như cái tính chung của loài gà - cả của loài người khi mới lớn lên “bỏ nhà ra
đi vì ái tình” hay dễ quên đi ái tình cũ để “lần mò đi tìm một vài ái tình khác”.
Với chàng gà chọi “nhất sinh chỉ có một nghề đi đánh lẫn nhau cho người ta
xem”, “lúc nào cũng chỉ ngứa ngáy chân tay”, quả không đủ chữ nghĩa để “tả
cái oai lẫm liệt của chàng”. Chàng ta không thiết gì đến con cái, trong đầu
“chỉ đen những ý tình ma chuột”, hay “đi ve gái”, thế mà khi Một cuộc bể
dâu xuất hiện, họ nhà gà chết dần, chết mòn, chàng gà chọi dù anh hùng, lẫm
liệt nhưng rồi cũng “tắt thở” để lại “một mình chị mái già, ra lại vào, ngẩn
ngơ”. Vợ chồng Đôi gi đá lại “tựa vợ chồng quê mới rủ nhau lên tỉnh. Họ lờ
khờ, ngẩn ngơ, xấu xí - nghĩa là đặc nhà quê”. Chúng cần mẫn xây tổ ấm,
sống “bình lặng, chịu khó, ít ồn ã”, chờ ngày đẻ trứng, chờ ngày trứng nở, chờ
những đứa con lớn lên từng ngày ”. Thế rồi, Tết đến, tiếng pháo nổ đón xuân
về vô tình đã làm tan tác gia đình chúng. Nghe tiếng pháo “kinh khủng nổ
vang động trong cây, cả nhà cuống cuồng bay đi”. Cuộc sống của đôi vợ
chồng chim gi đá rồi sẽ như thế nào trong cảnh tan tác đó đã khiến cho người
đọc phải ngậm ngùi, xót xa. Còn Mụ ngan với “cái tính ngu tối, chậm chạp”
đến mức những đứa con của mình gặp nạn, hay bị chết vẫn vô tình, thản
nhiên. Kể cả khi bị đá, bị đuổi đánh,“bị bỏ tù” thì “chúng vẫn không hiểu
chi”. Hơn thế nữa, khi “chồng” mụ bị làm thịt, mụ vẫn “thản nhiên”, mụ ngan
chỉ nhớ rõ “khi có hạt ngô đo đỏ, hạt thóc vàng vàng, tàu lá xanh xanh thì xô
đến mà khởi sự ăn”.[30]. Cùng với hình ảnh của những loài vật trên là của
17
chú chó Đực ham vui, “la cà” với “hàng tá nhân tình” nên bị người ta thiến.
Đực “buồn thỉu, buồn thiu, đi lừ khừ quên cả ăn uống”. Tuổi xuân của Đực
qua nhanh, nó trở nên “lạnh lùng với cuộc đời và lạnh lùng với tháng ngày”,
nó “lặng lẽ sống cái cuộc đời tàn cục buồn thiu”, “héo hắt dần”. Tác phẩm kết
thúc với sự xuất hiện của một con chó khác cũng “khỏe và béo lẳn” nhưng rồi
thân phận của nó chắc gì đã khác với con Đực.
Tóm lại, thế giới loài vật trong tác phẩm của Tô Hoài thật độc đáo. Thế
giới ấy gợi lên ở người đọc sự liên tưởng về nhiều vấn đề trong đời sống xã
hội. Ông nói về mèo, chó, chuột, gà chọi, ngan,…với những tật xấu, những vui
buồn, những tính nết riêng vốn có của mỗi loài mà như đang nói về con người.
Có lẽ, từ trước cho đến nay, trong văn học Việt Nam chưa có nhà văn nào viết
về loài vật nhiều và đặc sắc như Tô Hoài. Quả thực, với “cái nhìn tinh tế, sắc
sảo, hóm hỉnh lắm lúc như bông đùa nghịch ngợm…không lên giọng, không
nhấn mạnh kết hợp với những nhận xét thông minh, hóm hỉnh, nhà văn đã lôi
cuốn người đọc vào thế giới loài vật gần gũi mà hấp dẫn, kì thú.
Bên cạnh truyện viết về loài vật, mảng truyện viết về cảnh sống đói
nghèo cũng được nhà văn đã miêu tả chân thật và sinh động. Tuy nhiên, viết
về cái nghèo, cái khổ nhưng những trang văn của ông không phải lúc nào
cũng toát lên không khí thê lương, u ám. Ở đó niềm vui thường đơn sơ mà cái
buồn cũng không quá nặng nề. Cái nghèo làm vợ chồng Duyện lục đục, xô
xát lại được tác giả “tường thuật” bằng giọng kể như châm chọc, giễu cợt:
“Thế này thì Duyện uất đến chết được. Nó cứ núp ngoài kia mà dội vào từng
tiếng. Anh đuổi, nó lại chạy. Anh uất quá, uất quá. Uất run mười đầu ngón tay
bần bật. Anh phải đập một cái gì cho đã. Trong nhà chẳng còn cái gì khả dĩ
đập được. Cái giường, cái án thư, cái cột toàn những đồ gỗ đau tay. Có con
dao, thì anh đã đập lên đập xuống nhiều bận rồi”. Cơn giận lôi đình khiến
người bố từ chỗ đe giết lũ vợ con chuyển sang đe đốt nhà nhưng “loanh quanh
18
mãi vẫn chưa thấy anh Duyện đốt nhà được”. Thì ra, nhà không có một chút
lửa. Đã hai năm nay, chưa mua được một bao diêm nhỏ. Mỗi bận thổi cơm,
cái Gái vẫn ra tận đầu xóm xin lửa. Và tối thì đi ngủ cùng mặt trời. Bất ngờ
cơn mưa đổ xuống. Mưa làm dịu cơn xô xát và cả nhà Duyện cùng xách giỏ
chạy túa ra đường (Nhà nghèo). Giữa những “nhem nhọ” đời thường vẫn
luôn có sự hiện diện của một cách nhìn đời hài hước, dí dỏm, lạc quan đến
thế.
Sống chung dưới một mái nhà nên chuyện va chạm là không thể tránh.
Khi mâu thuẫn xảy ra, mỗi người có một cách xử lí. Riêng bà Móm lại lựa
chọn cách đi tự tử. Thực ra bà Móm giả bộ tự tử để dọa con trai và con dâu
mình. Thông thường khi người ta rơi vào tình cảnh phải đi tự tử là lúc họ rất
tuyệt vọng, bế tắc, lựa chọn cách ấy để giúp người ta giải thoát khỏi cuộc
sống hiện tại. Vì lẽ đó, họ thường làm việc này một cách lặng lẽ không để ai
hay biết. Nhưng ngược lại, bà Móm lại cố tình làm ầm lên để cả làng cả xóm
biết việc bà đang đi tự tử. Vì vậy, việc tự tử của bà Móm thật hài hước.
“Chẳng biết có một điều gì bực dọc, bà Móm giận con trai và nàng dâu.
Không giận vừa vừa, mà lại giận quá. Thế là cơn tức bừng bừng lên. Bà xắn
hai mép váy, xăm xăm chạy ra ngoài ao giếng. Bà la vang cho bốn bên hàng
xóm và cho vợ chống thằng cả Mí biết rằng bà đương đi đầm đầu xuống ao
đây. Không có ai ra can bà. Vậy bà nhảy phóc xuống ao thực. Đánh ùm một
cái. Rồi bà bíu hai tay vào cái cọc cầu ao. Bà rúc đầu vào giữa bụi cây cúc tần
mọc lòa xòa xuống vệ nước. Mồm bà ngoác ra kêu thực to. Kêu không phải vì
sặc nước. Không phải để hắt hơi. Bà ngoác ra kêu thực to. Kêu như có nhà ai
cháy ở trong xóm (…) Ai cũng tưởng bà lão chỉ kêu được có vài câu thì chối
cổ, phải lóp ngóp bò lên. Chẳng ngờ họng bà khoẻ quá. Bà lão vẫn kêu rầm.
Mãi sau, có người sốt ruột xuống kéo bà lão lên, đưa hộ về nhà. Bà lão liền
lên ngay. Ở dưới nước một lúc đã thấy chán.” Hành động tự tử của bà Móm
19
rất mau lẹ, nực cười: bà xắn mép váy-> xăm xăm chạy -> nhảy phóc, ùm->
rúc đầu -> kêu to, kêu rầm-> (có người kéo lên) lên ngay vì ở dưới nước thấy
chán. Ngay cả lí do bà được cứu lên cũng thật buồn cười: bà kêu to quá, họng
khoẻ quá nên ảnh hưởng đến hàng xóm làm người ta sốt ruột đành kéo bà lên,
còn bà được dịp là leo lên ngay vì ở dưới thấy chán quá. Để châm biếm, tác
giả đã nêu ra hàng loạt những mâu thuẫn: tự tử >< tự lên ngay vì dưới ấy chán
quá, tự tử thường âm thầm >< cố tình cho hàng xóm biết, bà lão >< họng
khoẻ quá.
Cái nhìn tinh tế, hóm hỉnh, lắm lúc như bông đùa nghịch ngợm cũng rất
thích hợp với Tô Hoài cả ở sự miêu tả những chuyện tình cảm lứa đôi. Đó là
những cuộc tình tưởng như “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” nhưng
rồi cũng dần theo gió bay: “Không ai nghĩ đến chuyện đi đâu. Vào Sài Gòn
đường xa lăng lắc. Đi tu phải cạo trọc đầu mà cũng khổ lắm. Những lời cả
quyết kia cả hai người đã quên”. Ở truyện “Vàng phai”, nhà văn chế giễu các
cô gái quê vì chuộng giàu sang của người thành thị mà phụ tình những chàng
trai quê mùa, chất phác. Nhà văn đã kết hợp lối so sánh với những từ mang
sắc thái biểu cảm “Quyền ta cúi xuống hôn đánh choét một cái vào má Mây”,
“Công việc cứ xuôi nhẹ như nước sông Tô Lịch chảy”.
Với cách nhìn đời tinh quái kết hợp giọng văn vừa da diết với cuộc đời
chung vừa nhẹ nhàng, châm biếm, ở đề tài nào và đối tượng khám phá nào,
thế giới nghệ thuật của Tô Hoài trước cách mạng đều thấm đượm tính nhân
văn với tiếng cười nhẹ nhàng, hóm hỉnh. Tiếng cười ấy xuất phát từ những
thói tật hàng ngày. Bên cạnh đó, những truyện viết về loài vật của Tô Hoài đa
phần đều mang giọng dí dỏm, hài hước biểu hiện sinh động thế giới loài vật.
Ông nói về mèo, chó, chuột, gà chọi, ngan…với những tật xấu, những vui
buồn, những tính nết riêng vốn có của mỗi loài mà như đang nói về con
người. Giọng văn nhẹ nhàng, dí dỏm trong mảng truyện viết về loài vật của
20
Tô Hoài đã rất hấp dẫn bạn đọc nhỏ tuổi. Với chất giọng này, Tô Hoài đã thể
hiện thành công những chủ đề xã hội qua các câu chuyện về loài vật.
1.3.2.Đến những sáng tác thời kỳ 1945 -1975.
Nhìn một cách đại thể, văn học thời kỳ này dường như không thể hiện
cảm hứng trào lộng. Hai cuộc kháng chiến vĩ đại đã hút văn học về điểm nhìn
sử thi với những vấn đề trang nghiêm, cao cả. Âm vang thời đại thúc giục các
nhà văn cùng nhìn về một hướng, cùng hoà giọng trong bản trường ca ca ngợi
Tổ quốc, quê hương anh hùng, dân tộc kiên cường và nhân dân anh dũng.
Trong hoàn cảnh đó, tiếng cười xuất hiện thưa thớt và càng ít có cơ hội lộ diện.
Với Tô Hoài – nhà văn đi nhiều, đi khoẻ vào dạng bậc nhất của văn học
Việt, ở lứa tuổi thanh niên giàu nhiệt huyết, tâm hồn ông mở ra chào đón cuộc
đời mới và ngòi bút của ông xông xáo vào những miền đất lạ của hiện thực
cách mạng. Ông say sưa tái hiện không khí sục sôi của thời đại và ngợi ca
những phẩm chất tốt đẹp của con người, đặc biệt là con người miền núi Tây
Bắc với Truyện Tây Bắc, Núi Cứu quốc, Miền Tây, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ,
Họ Giàng ở Phìn Sa, Nhớ Mai Châu,
Bên cạnh đó, ở thời kỳ này, sự quan tâm đến thế giới loài vật vẫn là
một mạch ngầm tuôn chảy để đến sau 1960 ông viết tiếp “Con mèo lười”, “Ò
ó o”, “Đàn chim gáy”, “Cá đi ăn thề”… Vẫn ở Tô Hoài sự quan sát thấu
đáo, sắc sảo, khó ai sánh được. Nhưng với bối cảnh xã hội mới, thế giới loài
vật ấy, tuy quen thuộc lại có thêm một sức sống khác, vui nhộn, bất ngờ mà tự
nhiên góp phần vào bức tranh đời sống ấm áp, tươi vui của buổi đầu miền Bắc
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đi sâu vào miêu tả cuộc sống đời thường, Tô Hoài
phát hiện ra nhiều thói tật khó cải tạo của người lao động. Nhà văn đã dùng
giọng điệu dí dỏm, hài hước thể hiện sống động những thói tật ấy: “Buổi trưa
hôm ấy văng vẳng có tiếng mõ, người ta thấy bà Ba đi giữa đường, một tay
cầm ống tre, một tay cầm cái dùi. Đằng sau một lũ trẻ đi theo. Mỗi khi đến
21
một ngã ba, bà đứng dừng lại, gõ một hồi mõ, rồi chắp hai tay ra sau lưng,
cất cao tiếng chửi rủa: Ới thằng liền ông! Ới con liền bà! Ới đứa già! Ới đứa
trẻ! Ới đứa nào dỏng mái tai, gài mái tóc, gọi ông bà, ông vải cụ kị nhà nó
lên để nghe bà chửi, để bà ỉa vào cái đầu lâu hoa cái nhà nó…Đã lâu, giờ
mới lại nghe bà Ba chửi rủa con cà, con kê, có ngành có ngọn. Đứa nào vô
phúc dán cái giấy kia. Nó chưa biết cái tài chửi rủa của bà hay sao. Bà có thể
trồng cây chuối ngược lên mà chửi suốt tháng. Bà có thể chửi cho đứa nào
đứa ấy và cơm vào miệng rồi mà còn phải nôn tháo ra. Bà chửi từ đầu làng
đến cuối làng, khắp các ngã ba ngã tư. Lũ trẻ rều rễu họp thành một cái đuôi
dài….Thành thử khắp làng cứ nhộn lên” (Mười năm). Nhà văn như một
người quay phim gia nhập vào “đám hội” để đem đến cho người đọc những
thước phim đặc sắc nhất. Có khi nhà văn như một người trần thuật với điểm
nhìn có sự dịch chuyển linh hoạt để đem đến những cung bậc cảm xúc trong
lời chửi của bà Ba. Lời chửi rất bài bản, rất chuyên nghiệp, có vần có điệu
nhịp nhàng. Hình ảnh bà Ba chẳng khác gì thằng mõ chỉ có điều thằng mõ đi
rao việc làng việc nước còn bà Ba đang xỉa xói đứa trót dại nào nhỡ “dán cái
giấy kia”. Nhà văn đã kết thúc bằng lời bình luận hóm hỉnh “Kể bà chửi cũng
hay thực …chắc có nhiều bà và nhiều cô gái cố gắng nghe học lỏm lấy những
câu hiểm hóc để nhỡ ra có bận nào chửi nhau với ai chăng”
Tính cách hóm hỉnh, tinh quái sẵn có trong con người Tô Hoài đã giúp
ông rất nhiều trong việc dựng lên những bức chân dung biếm họa, nực cười.
Miêu tả ngoại hình của Chúc, Tô Hoài đã lựa chọn những chi tiết đắt giá để
làm bật lên ở con người này sự nhếch nhác, thảm hại: “Chúc cởi trần, gầy rạc
như con nhái bén, quần quấn cái xà lỏn hoa xòe tròn giống như cái váy của bà
lão quê…Chúc đang mặc cái quần tây đen thủi hai miếng mông vá, lúc nào
cũng phải ngồi đứng ngoảnh đít ra phía không có người. Cái áo sơ mi còn sót
lại một khuy, đã giắt kĩ trong cạp mà vẫn banh cái ngực gầy hõm ra”. Hình
22