1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Từ mùa xuân năm 1975 đến nay, cả nước bắt tay vào công cuộc
xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự thay đổi
trên các lĩnh vực kinh tế văn hóa xã hội… văn học cũng có những chuyển
biến mạnh mẽ. Văn học Việt Nam đã được các nhà văn đào sâu hơn vào tất cả
các yếu tố thế sự, đời thường, chú ý đến nhiều mặt khác nhau của đời sống cá
nhân, thay đổi cách thể hiện trên mọi phương diện. Nhiều nhà văn đã kịp thời
nắm bắt được những vấn đề của cuộc sống sau chiến tranh, họ trăn trở háo
hức, khát vọng muốn được thể hiện năng lực khám phá và sáng tạo của mình.
Có thể nói, chưa bao giờ văn xuôi lại phát triển mạnh mẽ như bây giờ và cũng
chưa bao giờ nhà văn lại “thành thật” với cuộc sống với chính mình như bây giờ.
1.2. Cuộc chiến đã lui vào dĩ vãng, sau một quãng lùi lịch sử, nhưng
tiểu thuyết viết vế chiến tranh vẫn là đề tài thu hút rộng rãi lực lượng cầm bút.
Họ là những nhà văn đi từ trong chiến trường ra, đó là: Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Trọng Oánh, Khuất Quang Thụy, Ma Văn Kháng,
Hồ Phương, Nam Hà, Lê Lựu, Chu Lai… Các nhà văn đã góp phần quan trọng
tạo nên những đường nét chủ yếu của diện mạo nền văn học nước ta sau 1975.
1.3. Nhưng tạo nên những chấn động, cao trào văn học thì phải kể đến
tiểu thuyết Đất trắng (tập 1 - 1979) của Nguyễn Trọng Oánh. Tác phẩm xuất
hiện làm xôn xao dư luận bởi cái nhìn của nhà văn hướng thẳng, sâu vào sự
thật trần trụi của chiến tranh với tất cả sự bộn bề, phức tạp của nó. Và từ khi
Đất trắng (tập 1) xuất hiện đã có nhiều ý kiến, bài viết, đánh giá về mảng văn
học. viết về đề tài chiến tranh. Đáng chú ý là ý kiến của tác giả sau:
Nhà văn Chu Lai đã khẳng định:“Không phải chiến tranh biến con người
thành những chi tiết trong bộ máy bạo lực chỉ biết bấm cò và chém giết, chiến
2
tranh là điều kiện, là tình huống để đẩy suy nghĩ đời thường lên đến đỉnh đỉnh
điểm” [39].
Nhà nghiên cứu Đinh Xuân Dũng cũng cho rằng: “Các cây bút tiểu
thuyết viết vể chiến tranh thời kỳ đổi mới luôn có khát vọng đào sâu trực tiếp
vào tiến trình của cuộc chiến để trình bày, phát hiện mọi mặt của nó, chiều
sâu phức tạp và những điều chưa khám phá về nó” [14].
Nhà văn Hữu Mai cho rằng: “Tác phẩm viết về chiến tranh đã mang
những sắc thái mới. một số đi vào những đề tài của chiến tranh, một số lại có
xu hướng khai thác những bình diện chữ được đề cập đến nhiều trong những
tác phẩm trước đây như: Cái đau thương, cái mất mát, ác liệt, cái thấp hèn,
những vấn đề đạo đức trong chiến tranh… tiểu thuyết nay bám sát hiện thực
nhìn thẳng vào thực trạng, nói thẳng ra những điều mình và mọi người quan
tâm” [49].
Trong tạp chí Văn nghệ Quân đội số 4 - 1985, Nguyễn Văn Long đã
đưa ra nhận xét: “Sau cái không khí sôi động của năm 1975 lịch sử, nhiều
người viết tiểu thuyết muốn tìm trở lại với những mảng hiện thực chiến tranh
mà mình đã từng trải, những vốn sống quý báu được tích lũy và sàng lọc qua
ký ức và thời gian; trở nên rõ ràng và cô đọng. Những tác phẩm này thường
hướng về giai đoạn trước của cuộc chiến tranh, đặc biệt là những năm tháng
gay go quyết liệt nhất: Sao Mai của Dũng Hà, Biển Gọi của Hồ Phương, Đất
Miền Đông của Nam Hà, Mở Rừng của Lê Lựu, Đất trắng của Nguyễn Trọng
Oánh, v.v…” [47].
Nhà phê bình Tôn Phương Lan đã có đánh giá: “Quan điểm nhìn cuộc
sống trong sự phát triển đa chiều, và biện chứng của nó thể hiện trong các
tiểu thuyết gần đây là một khuynh hướng mới. Các nhà văn đã tả được cái
sống đang cưa quậy, cái ngổn ngang trần trụi của chiến trường, cái giản dị
mà quyết liệt của người lính hiện thực nghiệt ngã của chiến tranh trong Đất
3
trắng đâu có đơn giản làm người đọc hoang mang, bi lụy. Những chuyện đời
thường trong Biển gọi: chuyện tình yêu bị đánh lừa, hoặc phản bội, chuyện
hậu phương…cũng là một trong những nguyên nhân tạo nên sức hấp dẫn của
tác phẩm này” [44].
Nghiên cứu trực tiếp về tiểu thuyết Nguyễn Trọng Oánh, chúng tôi tìm
được các bài viết của Đặng Quốc Nhật, Trần Duy Thanh, Lê Quang Trang,
Thiếu Mai:
Đặng Quốc Nhật trong bài viết, Mấy nét về đề tài chiến tranh và tiểu
thuyết Đất Trắng - Văn nghệ quân đội, 1980 có đoạn: “Đất trắng đã gợi cho
chúng ta những suy nghĩ mới cho tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh lúc này.
Ở đây người đọc thấy được sự dữ dội của cuộc chiến đấu giữa ta và địch,
những thiệt hại nặng nề của ta, những vùng đất trắng, sự chịu đựng đến mức
ghê gớm. Cái giá của những chiến công và chiến thắng cuối cùng. Không né
tránh phản ánh cái đó, không thi vị nó, chất hiện thực của cuốn tiểu thuyết
khá đậm và chân thật…” [59].
Ý kiến của tác giả Thiếu Mai: “Đọc tác phẩm, người đọc có cảm tưởng
Nguyễn Trọng Oánh đã làm chủ được địa bàn chiến sự rộng lớn, đã điều binh
khiển tướng khá linh hoạt trên địa bàn hoạt động của mình. Như người ta
thường nói là vốn sống ngồn ngộn, tầng tầng, lớp lớp. Lại có cảm giác rằng
nếu không trực tiếp sống cảnh trên, e khó lòng miêu tả được sinh động đến
như vậy” [50].
Trần Duy Thanh đánh giá vai trò của Nguyễn Trọng Oánh như sau:
"Đất Trắng nằm trong số tiểu thuyết về chiến tranh xuất hiện sau chiến
tranh đã có chặng đường dài một thập kỷ. Một thử thách với tác giả cũng như
nhiều cây bút khác là: yêu cầu của các bạn đọc khắt khe hơn; không thể miêu
tả một cách dễ dãi, toàn những chuyện ngọt ngào, suôn sẻ. Và ai cũng thấy là
tiểu thuyết với đề tài chiến tranh năm 1975 đã có những khởi sắc. Nghĩ đến
4
những khởi sắc ấy người ta không thể không nghĩ đến Đất Trắng với những
nỗ lực của Nguyễn Trọng Oánh trên một phương hướng thể hiện hãy viết về
chiến tranh thật nghiêm túc và trung thực” [75].
Qua những bài viết trên, chúng tôi nhận thấy những công trình nghiên
cứu một cách sâu sắc tỷ mỷ công phu về những tiểu thuyết của Nguyễn Trọng
Oánh còn ít ỏi, phần nhiều chỉ là những đánh giá chung chung chưa có tính hệ
thống. Vì vậy, chúng tôi đi đến quyết định chọn đề tài “Tiểu thuyết Nguyễn
Trọng Oánh” với hi vọng sẽ góp thêm một tiếng nói khẳng định vai trò vị trí
của ông trong nền văn xuôi Việt Nam sau 75 năm nói chung và tiểu thuyết
Việt Nam sau 75 năm nói riêng.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn chọn đề tài “Tiểu thuyết Nguyễn Trọng Oánh” nhằm góp phần
lý giải vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc nghiên cứu về một tác
giả tiêu biểu viết về đề tài chiến tranh của văn xuôi Việt Nam đương đại. Từ
đó chúng tôi muốn khẳng định những đóng góp của nhà văn trong nền văn
xuôi Việt Nam thời kỳ đổi mới.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1975 và sự xuất hiện của nhà văn
Nguyễn Trọng Oánh.
- Những đổi mới trong tiểu thuyết Nguyễn Trọng Oánh về phương diện
đề tài, cảm hứng sáng tạo, nhân vật.
- Ngôn ngữ, giọng điệu trong tiểu thuyết Nguyễn Trọng Oánh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn chọn đối tượng nghiên cứu là những đóng góp của tiểu
thuyết Nguyễn Trọng Oánh cho tiểu thuyết Việt Nam sau năm 75 ở các mặt:
đề tài, cảm hứng sáng tạo, nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu trong tiểu thuyết
của Nguyễn Trọng Oánh.
5
- Phạm vi khảo sát của đề tài gồm các tiểu thuyết của Nguyễn Trọng
Oánh: Đất trắng, Con tốt sang sông, Người thắng cuộc, Mây cuối chân trời.
- Bên cạnh đó, luận văn cũng so sánh với một số tác phẩm, tác giả cùng
thời: Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà (Nguyễn Minh Châu), Cha và con
và…(Nguyễn Khải), Năm 75 họ đã sống như thế (Nguyễn Trí Huân), Trong
cơn gió lốc (Khuất Quang Thụy).
5. Phương pháp nghiên cứu
Từ mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, trong quá trình thực hiện
đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
Thực hiện đề tài này,chúng tôi muốn cung cấp một cái nhìn toàn diện hệ
thống trên phương diện nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết Nguyễn Trọng
Oánh, qua đó, góp một phần nhỏ vào những thành tựu nghiên cứu về Nguyễn
Trọng Oánh, tiếp tục khẳng định vị trí đặc biệt của nhà văn trong tiến trình
lịch sử văn học Việt Nam.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn triển khai thành 3 chương.
Chương 1: Tiểu thuyết việt nam sau 1975 và sự xuất hiện của nhà văn
Nguyễn Trọng Oánh
Chương 2: Đề tài, cảm hứng sáng tạo, và nhân vật trong tiểu thuyết
Nguyễn Trọng Oánh
Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết Nguyễn Trọng Oánh
6
NỘI DUNG
Chương 1
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1975
VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN TRỌNG OÁNH
1.1. Quá trình đổi mới của văn học sau năm 1975
1.1.1. Những chuyển biến trong xã hội sau năm 1975 và sự tất yếu của
công cuộc đổi mới
Văn học là một hình thái ý thức xã hội, nhưng cũng là một loại hình
hoạt động tinh thần đặc thù, lấy con người làm đối tượng trung tâm, phản ánh
và nhận thức hiện thực đời sống theo những quy luật riêng và những sáng tạo
in đậm dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ. Như một lẽ tự nhiên, bất kỳ nhà văn
nào cũng tồn tại trong lịch sử như một yếu tố của quá trình lịch sử ấy và cũng
đồng thời là người tham gia vào quá trình ấy như một nhân tố đặc biệt. Trong
quá trình vận động của lịch sử, những nghệ sĩ chân chính bằng cách này hay
cách khác đều gắn với diễn biến chính của thời đại. Những vận động của lịch
sử đã ảnh hưởng lớn đến quá trình vật lộn, kiếm tìm một hướng đi mới ở nghệ sĩ.
Trước năm 1975, trong thời kỳ bão lửa sục sôi của dân tộc, đất nước
đứng trước những thách thức sống còn - nhiệm vụ cứu nước, số phận của toàn
dân, chủ nghĩa anh hùng cách mạng luôn được đặt lên hàng đầu thì đề tài
chiến tranh thu hút được sự quan tâm đông đảo của các nhà văn đương thời.
Nhà văn sáng tác là để biểu dương, ca ngợi Tổ quốc, nhân dân và biểu dương
tất cả những gì tiêu biểu cho nhân dân, cho tổ quốc. Rất nhiều tác phẩm viềt
về đề tài chiến tranh với một niềm say mê lạc quan và nhiệt tình cách mạng
cháy bỏng. Có thể nói các nhà văn kháng chiến đã dựng lên một tượng đài kỳ
vĩ về người lính, ghi lại những tháng ngày hào hùng nhất trong lịch sử oanh
liệt của dân tộc qua từng trang viết của mình.
7
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử
dân tộc chấm dứt hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, dân tộc ta đã dành được
thành quả to lớn, giải phóng hoàn toàn Miền Nam bảo vệ vững chắc chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Miền Bắc, thống nhất đất nước. Đất nước hoà bình, cả nước
tập trung khắc phục những hậu quả nặng nề do cuộc chiến tranh để lại và tiếp
tục phải đương đầu với những thử thách mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước nhân dân hai miền bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới
với ý chí và quyết tâm cao độ. Công cuộc ấy là cả một quá trình với đầy biến
động, chất chứa những suy tư, trăn trở của Đảng trong việc tìm tòi bước đi,
hình thức phù hợp để đưa đất nước tiến lên. Đại hội toàn quốc lần thứ IV của
ĐCSVN (1976) đã nêu rõ đường lối lãnh đạo đất nước đi lên chủ nghĩa xã
hôi. “Có chủ nghĩa xã hội, Tổ quốc ta mới có kinh tế hiện đại do đó đảm bảo
cho đất nước ta vĩnh viễn độc lập tự do và ngày càng phát triển phồn vinh”.
Trong đại hội cũng đề ra phương hướng nhiệm vụ và mục tiêu của kế hoạch
nhà nước 5 năm (1976 - 1980). “Xây dựng một bước cơ sở vật chất kỹ thuật
của CNXH, bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước với bộ
phận chủ yếu là cơ cấu công - nông nghiệp, cải thiện một bước đời sống vật
chất và văn hoá của nhân dân lao động” [17].
Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng: một mặt, do nền kinh tế vốn nghèo
nàn, lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá liên miên, do chính sách cấm vận của
Mỹ. Mặt khác, do sự sai lầm chủ quan trong đường lối, chủ trương cải tạo,
xây dựng kinh tế - xã hội đất nước chưa thoát khỏi tình trạng khủng hoảng.
Đời sống văn hoá trong đó có văn học cũng chịu tác động mạnh mẽ bởi tình
hình này.
Năm 1982, Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa đã
vạch ra từ Đại hội IV đến đại hội này, đường lối xây dựng XHCN đã có sự
8
điều chỉnh để phù hợp hơn với điều kiện mới. Trong kế hoạch 5 năm (1981 - 1985),
Đảng ta chủ trương đẩy mạnh cải tạo XHCN phát triển một bước và sắp xếp
lại cơ cấu kinh tế nhằm đạt được sự ổn định tình hình kinh tế xã hội, đáp ứng
những nhu cầu cấp bách thiết yếu nhất của đời sống nhân dân. Trên phương
diện đời sống văn hoá, tư tưởng xây dựng nền văn hoá mới, con người mới
được quán triệt. Tuy nhiên, cũng như nhiều mặt khác của đời sống xã hội, đời
sống văn hoá chưa thực sự được hình thành.
Để khắc phục tình trạng khủng hoảng do cả nguyên nhân khách quan
và chủ quan, nhằm đưa đất nước tiếp tục con đường cách mạng XHCN, đại
hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) với những chủ trương đổi mới toàn
diện, đồng bộ từ kinh tế, chính trị đến tư tưởng xã hội đã trở thành một mốc
quan trọng mở đầu cho một thời kỳ đổi mới thực sự. Và trong quá trình đổi
mới ấy, đối mới tư duy là vấn đề cốt tử văn kiện nêu rõ: “phải đổi mới, trước
hết là đổi mới tư duy, chúng ta mới vượt qua khó khăn. Phải đổi mới cách
làm, cách nghĩ sao cho đúng với quy luật khách quan vốn có của nó”[19].
Nói về vấn đề này, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ đã đưa ra một quan niệm mới
có cơ sở lý luận và ý nghĩa thực tiễn như sau: “Đối với tư duy là nhiệm vụ cấp
thiết trước mắt nhưng đồng thời cũng là một công việc lâu dài, phải tiến hành
một cách khoa học nghiêm túc… Trong quá trình đối mới tư duy, tất nhiên
không chỉ có phê phán mà chủ yếu là phải suy nghĩ, khám phá, sáng tạo, cá
nhân và tập thể cùng đổi mới và sáng tạo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội
đảng toàn quốc lần thứ VI” [24].
Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng XHCN vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước là
một quyết sách đúng đắn, có tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã
hội, trong đó có văn hoá, văn học.
Bởi vậy chiến tranh vẫn là đề tài phong phú của các nhà văn, việc trở lại
đề tài chiến tranh trong văn xuôi sau 1975 cũng là một quy luật, sự tiếp tục tự
9
nhiên các thành tựu đã được ghi nhận trước đây. Với âm hưởng hào hùng và
quy mô sử thi tương ứng và tương xứng với cuộc chiến đấu vĩ đại của dân tộc,
cuộc sống và số phận con người gắn với số phận đất nước vẫn cần được viết
tiếp trong mọi khoảng lùi thời gian. Kể từ cuối thập niên 70, đầu 80, một số
tác phẩm ký và tiểu thuyết đã dần dần chuyển vào quỹ đạo mới: Ký sự miền
đất lửa (1978) của Vũ Kỳ Lân và Nguyễn Sinh, Đất trắng, 2 tập (1974 - 1984) của
Nguyễn Trọng Oánh, Đất miền Đông, 2 tập (1984) của Nam Hà, Lửa từ
những ngôi nhà (1977) Những người đi từ trong rừng ra (1982) và Cỏ Lau
(1989) của Nguyễn Minh Châu… Đó là sự soi rọi vào nhiều góc khuất của
đời sống mà trước đây do yêu cầu lịch sử người viết phải lảng tránh hoặc lướt
qua. Đó là một âm điệu khác, không chỉ là hào hùng, thậm chí là rất ít dấu ấn
hào hùng mà là bi tráng. Thế giới nhân vật, vẫn cứ là hai tuyến nhưng đã thay
đổi cả hình hài và cốt cách để thực hơn, đời hơn và do thế mà đúng hơn. Bên
cạnh cái được lớn là chiến thắng của dân tộc, đó là những thương tích, những
mất mát và đau khổ của nhân dân như một cái giá phải trả. Một chân dung
đầy đặn hơn, nhiều chiều hơn và do vậy mà chân thực hơn của những con
người thuộc về chiến thắng, trong bao bất hạnh và bi kịch của nó. Đây là
hướng viết sẽ được tiếp tục mạnh mẽ, dồi dào hơn ở các thế hệ đến sau. Sự
chuyển đổi trong tiểu thuyết đã thực sự diễn ra ở cả bề rộng lẫn bề sâu. chưa
bao giờ dân tộc ta lại có một nền văn xuôi phát triển mạnh mẽ như bây giờ,
chưa bao giờ nhà văn được thành thực như bây giờ. Tiểu thuyết thực sự đã có
những đổi mới trên nhiều phương diện từ quan niệm nghệ thuật, cảm hứng
sáng tạo, đề tài, ngôn ngữ nhân vật …chưa bao giờ dân tộc lại có một nền văn
học phát triển toàn diện và sâu sắc như ngày nay. Thể loại nào cũng đều có
những đỉnh cao, ngay trong mỗi thể loại cũng có sự phát triển đa dạng của
phong cách, cá tính.
Như vậy, những chuyển động trong đời sống xã hội sau năm 1975, nhất
là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 là sự đổi mới mang tính tất yếu.
Sự đổi mới này là cơ sở, là tiền đề cho sự đổi mới đời sống văn học nghệ thuật.
10
1.1.2. Những vận động trong đời sống văn học
Trong chiến tranh văn học Việt Nam đã giữ đúng vai trò và chức năng
xã hội - lịch sử của nó. Nó đã tỏ rõ năng lực phục vụ những mục tiêu cao cả
của cách mạng, phục vụ cuộc chiến đấu sống còn của dân tộc. Lúc này, văn
nghệ phục vụ chính trị, phục vụ công - nông binh đã được giới văn nghệ tự
nguyện chấp nhận và coi đó là trách nhiệm công dân và lương tâm nghệ sỹ
của mình. Khi hoà bình, mục tiêu phục vụ cách mạng không thể tồn tại. Vì
vậy, văn học phải thay đổi, phát triển lên một tầm cao mới, để hoà nhập vào
tiến trình văn học thế giới. GS. Phong Lê đã từng có lời phát biểu: "Văn
chương cần đổi mới và đổi mới trở thành nhu cầu tự thân nó không hoàn toàn
chỉ vì một đòi hỏi, một sức ép bên ngoài. Hoặc nếu có sức ép thì cũng phải
tìm thấy sự thống nhất hoặc thông qua đòi hỏi bên trong. Và như vậy với công
cuộc đổi mới đất nước văn học đang đứng trước nhu cầu mạnh mẽ của sự
biến đổi” [45-198].
“Thời kỳ đổi mới” ở nước ta được tính từ năm 1986. Đây là năm diễn
ra đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trên diễn đàn của đại hội này,
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố “cởi trói”, “đổi mới tư duy” với rất
nhiều việc cần làm ngay. Hàng chục năm trước đó, người ta đã thấy xuất hiện
nhiều truyện ngắn tiểu thuyết, kịch, thơ bút ký thể hiện sự đổi mới sâu sắc đời
sống của văn học nghệ thuật. Vì vậy, “văn học đổi mới” là một cao trào sáng
tác có quá trình hình thành, phát triển và kết thúc. Có thể tạm chia cuộc vận
động văn học thành 3 giai đoạn 1975 - 1985; 1986 - 1991; 1992 đến nay.
Giai đoạn 1975 - 1985. Đây là giai đoạn “khởi động của văn học thời
đại mới". Mặc dù chiến tranh đã đi qua nhưng văn học vẫn theo quán tính của
văn học thời chiến. Đề tài về chiến tranh và người lính vẫn là đề tài cơ bản
của nhiều sáng tác văn học. Các sáng tác ấy vẫn thể hiện nhãn quan giá trị và
nguyên tắc tư duy nghệ thuật của nền văn học sử thi. Nhưng hình như giới
sáng tác đã cảm nhận thấy không thể tiếp tục viết văn như trước.
11
Nguyên Ngọc từng thừa nhận rằng: "Càng viết tay nghề càng cao"
nhưng những trang văn của ông thì hình như càng ngày càng mất dần độc giả
Và thế là sự đổi mới bắt đầu được khởi động. Sau năm 1975 cảnh tượng văn
học dịch hoàn toàn thay đổi. Sôi nổi nhất là hoạt động dịch, giới thiệu nền văn
học đương đại Âu - Mỹ. Hầu hết các tác phẩm được giải Nobel những tác
phẩm ưu tú của các tác giả đương đại thuộc các trường phái nghệ thuật hết
sức khác nhau như: tượng trưng, siêu thực, hiện sinh, trường phái hiện đại,
hậu hiện đại… đã được dịch ra tiếng Việt, bày bán tràn ngập trong các cửa
hàng sách. Người ta còn tổ chức dịch những tác phẩm văn học của các nước
XHCN mà trước đó bị cấm đoán, ví như thơ của Akhmatova và tiểu thuyết
Bác sĩ Zhivago của Pastenac. Mảng văn học dịch này có tác động vô cùng lớn
lao tới quá trình đổi mới của văn học Việt Nam. Nó làm thay đổi thị hiếu nghệ
thuật của tầng lớp thanh niên. Các nhà văn từng sáng tác trong thời kỳ chiến
tranh đều nhận ra nếu tiếp tục viết như cũ, họ sẽ tự đánh mất độc giả. Nghĩa là
văn học dịch đã buộc các nhà văn Việt Nam phải đổi mới cách viết.
Và như vậy nhu cầu đổi mới xuất phát từ phía chủ thế sáng tạo. Sự đổi
mới của đời sống xã hội sau năm 1975 khiến các nhà văn thành thực nhận
thấy không thể viết theo lối cũ, phải đổi mới, sáng tạo ngay trong cách viết,
cách tư duy tư tưởng nghệ thuật và phương thức thể hiện. Có thể nói, Nguyễn
Minh Châu là nhà văn đi tiên phong trong công cuộc đổi mới lớn lao này.
Ngay những năm chiến tranh, nhà văn đã phát hiện ra những bất cập và hạn
chế của văn học cách mạng, văn học kháng chiến. Trong trang sổ viết tay và
in trên báo Quân đội nhân dân năm 1971 nhà văn đã từng nêu rõ: “Hình như
cuộc chiến đấu sôi nổi hiện nay đang được văn xuôi và thơ ca tráng lên một
lớp men trữ tình hơi dầy cho nên ngắm nghía nó thấy mỏng manh bé bỏng,
óng chuốt quá, khiến người ta ngờ vực” [10].
Tiếp theo Nguyễn Minh Châu, nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến với
bài viết “Về một đặc điểm của văn học ta trong giai đoạn vừa qua" (Báo Văn
12
nghệ số 1 năm 1998) cũng chỉ rõ những bất cập, hạn chế của văn học giai
đoạn này và gọi đó là “nền văn học phải đạo”. Nhà nghiên cứu yêu cầu một
sự đổi mới thực sự về tư duy, tư tưởng nghệ thuật và đổi mới về đường lối
lãnh đạo, chỉ đạo phát triển văn nghệ.
Nhà văn Nguyễn Khắc Trường thì bày tỏ: “Tôi muốn mỗi quyển sách
phải phát hiện, phải nói được cái gì đó trong phần sâu kín tâm linh của cuộc
sống, của con người”[trả lời phóng viên Văn nghệ, số 21].
Cùng với Nguyễn Minh Châu, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Khắc
Trường, các nhà văn khác hoặc bằng lối phát biểu trực tiếp hoặc bằng sáng tác
đều thể hiện nhu cầu đổi mới sâu sắc. Nhà văn Nguyễn Khải gọi những sáng
tác văn học của giai đoạn trước 1975 là “Cái thời lãng mạn”, Lê Lựu gọi các
sáng tác của ông trong thời kỳ văn học kháng chiến là “văn học công việc”,
“Văn học phục vụ” hay trong sáng tác của một loạt các nhà văn cũng thời
như: Chu Lai, Khuất Quang Thuỵ, Ma Văn Kháng, Nguyễn Trọng Oánh, Bảo
Ninh… chúng ta đều thấy có sự đổi mới rõ rệt trong cả nhận thức và quan
niệm nghệ thuật.
Như vậy nhu cầu đổi mới văn học từ phía các nhà văn đã trở nên hết
sức bức xúc. Và đây chính là yếu tố cơ bản, là động lực chính cho sự đổi mới
văn học trong mấy chục năm gần đây.
Thứ hai: Sự tác động từ phía độc giả đòi hỏi văn học phải tự đổi mới.
Theo lý thuyết tiếp nhận thì tiếp nhận văn học là khâu cuối cùng của
việc sáng tác tác phẩm và người đọc cũng là yếu tố bên trong của quá trình
sáng tác. Bởi đối với nhà văn, người đọc bao giờ cũng là hiện thân của nhu
cầu xã hôi. Trong mọi trường hợp, mỗi khi nói đến người đọc các nhà văn đều
cảm thấy họ “yêu cầu”, “đòi hỏi”, “tin cậy”, “hứng thú”, “phê bình”. Người
đọc có mặt ngay khi nhà văn có ý đồ sáng tạo ra tác phẩm. Cũng chính từ
người đọc mà các nhà văn tạo ra quan niệm nghệ thuật, định hình cách viết, vì
13
vậy mà sinh thời Bác Hồ luôn nhắc nhở những người cầm bút trước khi viết
bao giờ cũng phải xác định “Viết cho ai?”, “Viết để làm gì?”, từ đó mới xem
“Viết cái gì?” và “viết như thế nào?”.
Trong những năm tháng kháng chiến, do những yêu cầu của lịch sử,
người đọc thích những tác phẩm mang tính sử thi, những tác phẩm nói về cái
chung, về sự kiện lịch sử trọng đại, về những con người anh hùng, phi
thường… thì sau chiến tranh, cuộc sống dần trở lại với quy luật bình thường
của nó, con người cũng trở về với muôn mặt đời thường, phải đối diện với rất
nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Hiện thực cuộc sống mới ấy đã hình thành nên
những con người với những nhu cầu và thị hiếu thưởng thức văn học mới.
Điều đó tác động rất lớn đến sự đổi mới và phát triển của văn học. Người đọc
của ngày hôm nay có cái nhìn thực tế, sáng suốt nhiều chiều hơn. Họ khát
khao sự thật, họ muốn tìm hiểu, đào xới, khám phá, phanh phui để hiểu thêm
về cuộc sống. Họ muốn tìm ở văn học những vấn đề mang tính chất thời sự
của ngày hôm nay nhưng lại có tính phổ quát các vấn đề thế sự, đời tư, về
nhân tình thế thái và vì thế mà văn học lại tiếp tục thay đổi để đáp ứng nhu
cầu, thị hiếu mới của công chúng.
Như vậy, công chúng với nhu cầu thị hiếu thẩm mỹ mới tác động tích
cực tới sự vận dộng và đổi mới của văn học. Tuy nhiên, công chúng mới chỉ
là một yếu tố, còn nhà văn - chủ thể sáng tạo mới là yêu tố quan trọng nhất,
quyết định sự đổi mới và phát triển của văn học.
Mối quan hệ giữa nhà văn và công chúng cũng là một yếu tố tác động
đến sự vận động đổi mới của văn học.
Trong văn học trước năm 1975, mỗi nhà văn là một chiến sĩ. Họ viết để
động viên, cổ vũ chiến đấu, để tuyên truyền cách mạng. Viết trên lập trường
tư tưởng của Đảng và bằng kinh nghiệm của cả cộng đồng nên lập trường tư
tưởng của nhà văn là luôn luôn đúng. Ở đó, nhà văn là người phán truyền
chân lý, còn người đọc thụ động tiếp nhận.
14
Trong văn học hôm nay, quan hệ giữa nhà văn và bạn đọc đã bình đẳng
hơn, nhà văn không còn đứng cao hơn người đọc, không áp đặt chân lý, giáo
dục người đọc lẽ sống tình cảm, về tư tưởng hành động Nhà văn và người
đọc bình đẳng trong mọi quan niệm, trong cách nhìn nhận, đánh giá. Nhà văn
và bạn đọc đồng sáng tạo.
Ở văn xuôi kháng chiến, tư tưởng trong tác phẩm ít khi là của riêng nhà
văn mà là tư tưởng chung của cả cộng đồng, là lập trường tư tưởng của Đảng.
Trong văn xuôi sau năm 1975, với sự dân chủ hoá trong đời sống sáng tác và
cuộc sống mới diễn ra phức tạp, bề bộn hơn nên các nhà văn đã nhận thức lại
hiện thực, nhìn nhận mọi vấn đề của cuộc sống ở chiều sâu đa diện và quan
tâm đến công chúng bạn đọc. Nhìn nhận lại sáng tác của mình nhà văn
Nguyễn Khải thấy rằng: “Cái thời hăm hở, tự tin, ào ào đã qua đi, giờ phải
nói dè dặt hơn và những điều mình nói ra đều không phải là đã đúng cả".
Chính những thay đổi nói trên đã tạo ra tính chất đa thanh, đối thoại
trong tác phẩm. Bởi lúc này nhân vật không còn là những “Cái loa” phát ngôn
cho lập trường, tư tưởng của nhà văn mà là ý thức độc lập, có lập trường
riêng, có quan niệm, ý kiến riêng. Nhà văn đóng vai trò là người khơi gợi
những suy nghĩ ở người đọc để cùng bàn bạc, đối thoại về mọi vấn đề của
cuộc sống.
Như vậy, đối mới là nhu cầu thường trực ở mỗi nhà văn, là điều kiện
sống còn cho sự tồn tại và phát triển của văn học. Đổi mới để hình thành nên
một giai đoạn văn học mới khác giai đoạn văn học trước đó, với những giá trị
thẩm mỹ mới, với tư duy nghệ thuật và hệ thống thi pháp mới, giai đoạn văn
học sau 1975 là kết quả của sự tác động tổng hợp các nhân tố chủ quan và
khách quan là kết quả của quá trình vừa tiếp tục, vừa đổi mới, vừa có yếu tố
phủ định giai đoạn văn học 1945 - 1975 đồng thời cũng có cả sự kế thừa
những tinh hoa của truyền thống văn học dân tộc. Trong dòng chảy của quá
15
trình đổi mới văn học, Nguyễn Trọng Oánh là một trong rất nhiều nhà văn thể
hiện khá rõ tinh thần đổi mới trong các tác phẩm của mình đặc biệt là thể loại
tiểu thuyết.
1.2. Sự đổi mới tiểu thuyết Nguyễn Trọng Oánh
1.2.1. Hành trình sáng tác của Nguyễn Trọng Oánh
Nguyễn Trọng Oánh vừa là bút danh vừa là tên khai sinh, ở chiến
trường bút danh của ông là Nguyễn Thành Vân. Ông sinh ngày 01 tháng 11
năm 1929 tại xã Nghi Long huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Sinh thời ông
sinh sống và công tác chủ yếu ở Hà Nội, là Đảng viên Đảng cộng sản Việt
Nam, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Nhà văn Nguyễn Trọng Oánh xuất
thân trong một gia đình nông dân. Trước năm 1975 ông tham gia cách mạng
tháng tám, hoạt động thanh niên ở địa phương, sau nhập ngũ ông được điều
vào đại đoàn chủ lực 304, và tham gia chiến đấu trên nhiều chiến trường phía
Bắc, ông từng là cán bộ tuyên huấn, tham gia làm báo trung đoàn và đại đoàn.
Năm 1955 ông được điều vào trại sáng tác viết truyện anh hùng của Tổng cục
Chính trị. Năm 1957, Tạp chí Văn nghệ Quân đội thành lập, ông là thành viên
ban biên tập thơ đầu tiên của tạp chí. Trong những ngày không quân Mỹ đánh
phá miền Bắc, Nguyễn Trọng Oánh công tác ở tuyến lửa khu 4, từng sống với
các chiến sĩ cao pháo ở cầu Cấm, Bến Thuỷ, sông Gianh và đảo Cồn Cỏ. Năm
1976 ông lên đường vào Nam chiến đấu, thoạt đầu vào Tây Nguyên, về sau
vào B2 làm biên tập tạp chí văn nghệ quân giải phóng. Khi nhà văn Nguyễn
Thi hi sinh, ông lên làm Tổng biên tập tạp chí, vừa chăm lo tờ báo vừa đi
xuống đơn vị, xuống cơ sở lấy tài liệu sáng tác. Đến năm 1975, ông cùng đơn
vị tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, tiếp quản Sài Gòn. Sau khi thống nhất
đất nước, Tạp chí Văn nghệ quân giải phóng sáp nhập với Tạp chí Văn nghệ
Quân đội, ông trở ra Hà Nội tiếp tục công việc sáng tác. Trong thời gian này,
Nguyễn Trọng Oánh có công phát hiện và đào tạo một đội ngũ nhà văn trẻ
quân giải phóng từ những đơn vị cầm súng trưởng thành. Đầu năm 1980, ông
16
được bổ nhiệm là Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Năm 1984
Nguyễn Trọng Oánh xin cấp trên miễn nhiệm chuyên sáng tác. Ông vừa viết
văn vừa làm thơ. Do bệnh hiểm nghèo, ông mất ngày 24 tháng 12 năm 1993
tại Hà Nội.
Cuộc đời cầm bút của Nguyễn Trọng Oánh đã trải qua không ít những
thử thách cả trong thời chiến lẫn thời bình, mặc dù ông vẫn miệt mài khổ
luyện không biết mệt mỏi cho nghệ thuật. Là một nhà văn quân đội trưởng
thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nguyễn Trọng Oánh đã từng thử bút
trên nhiều lĩnh vực: thơ, truyện ký, tiểu thuyết và mỗi thể loại ông đạt được
những thành công nhất định.
Về thể loại thơ: Nguyễn Trọng Oánh thiên về lối thơ truyền thống, nền
nã chân chỉ. Thơ ông đôn hậu, nhuần nhị, chất phác. Người ta nhắc đến thơ
Nguyễn Trọng Oánh từ bài thơ “Trăng” và sau khi đất nước toàn thắng, thơ
Nguyễn Trọng Oánh hầu như không thay đổi về hình thức thể hiện, những
sáng tác thời kỳ này thêm nhiều những suy tư, trầm lắng và sâu sắc hơn.
Nguyễn Trọng Oánh đã cho ra đời một số tập thơ: Thơm hương bốn mùa
(1961); Ngày đẹp nhất (1974); Lời người cầm súng (1977).
Về thể loại truyện ký: Nhật ký chiến dịch (1977).
Về thể loại tiểu thuyết: Đây là thể loại ông thành công hơn cả. Những
năm tháng cầm súng chiến đấu đã đem lại cho ông vốn sống và nguồn tư liệu
xác thực để ông sáng tác những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh như: Đất
trắng 2 tập (1974 - 1984); Con tốt sang sông (1989); Người thắng cuộc
(2005); Mây cuối chân trời (1985).
Nhìn chung, những tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Oánh thể hiện sự vận
động và trưởng thành của nhà văn qua từng thời kỳ và đạt những dấu ấn khả
tiêu biểu cho sự phát triển của tiểu thuyết hiện đại Việt Nam.
Ngoài ra, Nguyễn Trọng Oánh còn để lại nhiều di cảo có giá trị khác.
Đáng chú ý là 10 tập nhật ký bắt đầu ghi khoảng cuối năm 1965. Khi tác giả
17
được lệnh vào Nam, cho đến hết năm 1975. Năm 1997 được sự đồng ý của
gia đình tác giả, Nhà xuất bản Quân đội cho in phần đầu tập nhật ký của
Nguyễn Trọng Oánh với tựa đề “Suy nghĩ dọc đường”.
Nguyễn Trọng Oánh đã khẳng định được tài năng sáng tạo của mình
trên văn đàn và là một tác giả tiêu biểu trong dòng văn học viết về đề tài chiến
tranh trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông đã được nhận Giải thưởng
Hội Nhà văn (1977) và Giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng (1984) với hai
tập Đất trắng.
1.2.2. Những đổi mới của tiểu thuyết Nguyễn Trọng Oánh
1.2.2.1 Đổi mới quan niệm của nhà văn về hiện thực
Nền văn học chân chính nào cũng gắn liền với thời đại của mình, với
đông đảo công chúng của thời đại ấy. Văn học 1945 - 1975 cũng vậy, nó nhận
rõ sứ mệnh lịch sử trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất
đất nước nên hiện thực được phản ánh là hiện thực chính trị rộng lớn. mang
tầm vóc của một dân tộc, quốc gia. Nhưng sau 1975, đất nước chuyển sang
một giai đoạn mới, nền văn học cũng bước sang một thời kỳ mới. Với chủ
trương đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, văn xuôi
nói chung, tiểu thuyết Việt Nam nói riêng đã có những chuyển biến rõ rệt
trong quan niệm về hiện thực. Từ hiện thực chiến tranh hùng tráng và thi vị,
gian khổ và ác liệt nhưng vẫn tràn đầy âm hưởng lạc quan, lãng mạn cách
mạng. Đến đây tiểu thuyết đã đi sâu vào những mặt khuất lấp trong chiến
tranh, những hi sinh, thua thiệt và tính chất gay gắt của những cuộc chiến đã
được miêu tả tương đối trung thực trên nhiều khía cạnh. Hiện thực đó còn là
đời sống hàng ngày với các quan hệ thế sự vốn dĩ đa đoan phức tạp, chằng
chịt đan dệt nên những mạch nổi mạch ngầm của đời sống con người với
những thủ đoạn bon chen ích kỷ và hiện thực còn là đời sống cá nhân mỗi con
người với những vấn đề riêng tư, số phận, nhân cách. Họ có thể hoà nhập
hoặc không thể hoà nhập được với xã hội thời bình.
18
Với Nguyễn Trọng Oánh, ông muốn “bạn đọc khi đọc những trang
viết về chiến tranh phải tiếp cận đến sự thật của chiến tranh. Tính chân thực
của một tác phẩm viết về chiến tranh, ngoài sự anh hùng dũng cảm của dân
tộc đang xả thân vì tổ quốc là sự khốc liệt, sự mất mát và những yêu cầu
không thể nào tránh khỏi để thích nghi với chiến tranh của con người"[69].
Là một nhà văn khoác áo lính, những trải nghiêm và vốn sống ở chiến trường
đủ để cho Nguyễn Trọng Oánh tái hiện hiện thực chiến tranh với tất cả những
gì vốn có của nó. Nguyễn Trọng Oánh đã viết về những tổn thất hi sinh xương
máu và cả những mặt khuất lấp của hiện thực chiến tranh. Trong tiểu thuyết
của mình, ông đã không ngần ngại phản ánh hiện thực khắc nghiệt, khủng
khiếp trên chiến trường. Hiên thực chiến tranh ấy ám ảnh người đọc bởi sự
tàn phá và sức hủy diệt của nó. Nạn nhân của chiến tranh không phải là cái gì
khác mà chính là con người. Cái chết không loại trừ ai, nó đến bất cứ lúc nào
không ai định trước được “Đây là một thách thức, một sự sàng lọc nghiêm
khắc.Trong lò lửa chiến đấu này, vàng thau sẽ đươc phân biệt… Ở cuộc thử
thách chưa đủ độ thì vàng thau vẫn con lẫn lộn" [65, tr.256-1]. Hiện thực này
được nhà văn phản ánh trong các tiểu thuyết như: Đất trắng (2 tập), Mây cuối
chân trời…
Nếu như trước đây cảm hứng sử thi là cảm hứng chủ đạo trong các tiểu
thuyết thì giờ đây cảm hứng sử thi nhạt dần. Người viết buộc phải đối diện
với mình, với thực tế đổi mới đất nước. Cảm hứng sáng tạo chuyển dần từ
cảm hứng ngợi ca khâm phục sang chiêm nghiệm lắng đọng suy tư. Cùng một
loạt các tác giả như: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trí Huân, Ma Văn Kháng,
Chu Lai… Các tác giả đi sâu, khám phá hiện thực thời hậu chiến. Nguyễn
Trọng Oánh cũng vậy, ông được nói và viết về những điều ông trăn trở mà
một thời gian dài ông không giám nói ra.
Vấn đề “hậu chiến tranh” là vấn đề khá nhạy cảm và phức tạp. Nó lại càng
nhạy cảm khi công việc xây dựng và đổi mới đất nước đang mở ra nhiều
19
thách thức mới, con người có điều kiện và nhiều thời gian để suy ngẫm và
nghiền ngẫm hơn về hiện thực, về những gì đã trải qua. Hiện thực đời sống
với nhiều biến động phức tạp của ngày hôm nay không còn đơn giản, xuôi
chiều nữa mà là hiện thực đa chiều với đầy rẫy những ngổn ngang bề bộn,
bóng tối và ánh sáng, đen và trắng, đầy rẫy những bất ngờ - thứ hiện thực
chưa hoàn kết (M.Bakhin), không thể biết hết, cần khám phá tìm tòi. Hiện
thực trong tiểu thuyết Nguyễn Trọng Oánh chủ yếu là hiện thực thời chiến.
Nguyễn Trọng Oánh có lần tâm sự: “Tôi nói chuyện với người hôm nay bằng
câu chuyện của hôm qua… Nói về quá khứ một cách nghiêm túc và trung
thực thì không sợ không có điều gì để nói với hôm nay”[69]. Có thể nói, quan
niệm ấy đã chi phối khá nghiêm ngặt các trang viết của ông. Đất trắng (tập 1),
được bạn đọc chú ý trước hết bởi sự phản ánh chân thực một mảng hiện thực
chiến tranh ở một thời điểm có rất nhiều ý nghĩa. Ở đây, có lẽ còn cần thấy
thêm cái nhìn của tác giả Đất trắng về hiện thực chiến tranh hôm qua ấy.
Hiện thực chiến tranh trong Đất trắng nhìn về một cuộc thử thách hết sức ác
liệt. Ta được chứng kiến khá nhiều tổn thất của trung đoàn 16, của người dân
xã Đồng Hới.Việc nói về thương vong, hi sinh thì trong số những cuốn sách
viết về chiến tranh xuất hiện sau 1975, có lẽ Đất trắng không nhường bất cứ
cuốn sách nào .
Cùng với Đất trắng, hiện thực chiến tranh trong Mây cuối chân trời
cũng đã được phơi bày thực sự khốc liệt theo một kiểu riêng của nó. Trong
Mây cuối chân trời, Nguyễn Trọng Oánh không đi sâu mô tả những cuộc
chiến đấu được xem là khuân mẫu khi thể hiện về chủ đề chiến tranh của lối
viết truyền thống cổ điển. Hiện thực chiến tranh ở Mây cuối chân trời được
biểu hiện qua những xung đột về tư tưởng và ý thức. Và chính những xung
đột khi thì âm ỉ, khi thì quyết liệt đó đã đẩy những con người thân thuộc bước
vào chiến tranh với sự ác liệt kinh hoàng của nó. Hiên thực chiến tranh trong
Mây cuối chân trời được lột tả qua sự dồn đẩy những người của hai phía bên
20
kia chiến tuyến vào thế chân tường với đầy đủ tính chất dã man và ác liệt của
chiến tranh. Cùng xóm, cùng huyện, cùng thôn, cùng xã mà người ta có thể
bằng các thủ đoạn tàn độc như moi gan, chọc mắt, xẻo tai, ghè răng người
đồng hương của mình. Bởi quan điểm của họ là: “đã là đấu tranh thì không có
ranh giới, chú, bác, anh, em, bố, con có khi vẫn là kẻ thù của nhau” [68]. Lòng
thù hận về ý thức và tư tưởng chính là căn nguyên tạo nên hiện thực về chiến
tranh trong Mây cuối chân trời. Hiện thưc chiến tranh ở đây không còn ồn ào
bom đạn mà nó được dựng lại trong các mối quan hệ con người với con
người.Từ cái nôi thôn dã bao đời chung sức của người dân Việt không hiểu
cái gì chi phối mãnh liệt như trời định mà sự phân ly khốc liệt đã diễn ra, kẻ
thì ngã theo bên này, người đi theo hướng khác, hoặc đi lính hoặc đi bộ đội,
hoặc làm dân thường, hoặc đi tâp kết… Có thể thấy cuộc đụng độ khốc liệt
giữa những người cách mạng và phản cách mạng đươc dồn nén tích tụ như
thể món nợ truyền kiếp với lòng hận thù dai dẳng. Một đứa bé mới mười bốn
tuổi đã dám cầm liềm hành quyết một người mà anh trai hắn gọi là phía đối
phương và hàng trăm vụ trả thù đẫm máu mà không cần tuyên án. Mây cuối
chân trời đã được nhà văn xây dựng bằng sự soi chiếu hiện thực, qua cái nhìn
từ cả hai phía với cách nhìn khách quan chân thực. Những con người phía bên
kia được tác giả xây dựng với tư cách những con người từng có mặt và can dự
vào chiến tranh, được nhìn nhận bình đẳng về lý tưởng và phẩm chất. Trong
hàng ngũ cầm súng chống lại cách mạng của phía bên kia không phải là đội
quân ô hợp và vô học. Họ cũng là những người có ý thức có lý tưởng, có tình
yêu, có đầy đủ lí trí và tình cảm của một con người, họ cũng có lòng tự trọng
tự hào và tự tôn dân tộc. Nhưng cái bi kịch lớn nhất mà hiên thực chiến tranh
trong Mây cuối chân trời hướng tới là những con người đó đã lầm đường,
đứng dưới bóng cờ phi nghĩa, cam tâm làm tay sai cho giặc chống lại nhân
dân mình và vì lòng hận thù mù quáng đã trở thành những tên đao phủ tàn bạo
phi nhân tính.
21
Chiến tranh đã lùi xa nhưng hậu quả của nó vẫn còn ám ảnh và trở thành
nỗi bức xúc trong cuộc sống thời bình. Con người, nhất là những người lính
trở về sau chiến tranh như nhân vật Hoàng trong Con tốt sang sông, anh
không thể hòa hợp được với cuộc sống thời bình. Nhưng bên cạnh đó cũng
có những người lính trở về đã hoàn toàn thay đổi so với trước kia, họ lợi dụng
quá khứ để tìm cách trục lợi cho riêng mình, họ tạo bè kết cánh trong cơ quan,
tìm mọi cách để tranh quyền đoạt vị như nhân vật ông Phổ trong Người thắng
cuộc là một nhân vật tiêu biểu.
Hiện thực cuộc sống thay đổi cũng là lúc tư duy nghệ thuật có sự
chuyển đổi. Khuynh hướng sử thi giai đoạn 1975 vẫn tiếp tục dòng chảy của
thời kỳ trước đó, tiếp tục mạch đi trong sáng tác của nhiều nhà văn, đặc biệt là
các nhà văn quân đội như Nguyễn Trọng Oánh. Tuy nhiên, càng về sau
khuynh hướng sử thi càng có xu thế nhạt dần, khuynh hướng thế sự dần trở
thành khuynh hướng chính trong văn xuôi đầu những năm 20. Bối cảnh mới
của công cuộc xây dựng CNXH, phát triển đất nước đã có nhiều tác động,
thúc đẩy sự thức tỉnh của cá nhân, đòi hỏi sự quan tâm đến mỗi người và từng
số phận. Văn học phải đi vào đời thường, phải quay về đời thường, về những
mảnh vỡ số phận con người. Với khuynh hướng nhân thức lại thực tại gắn
liền với quan niệm hướng tới những vấn đề đạo đức và nhân cách của con
người mới. Nguyễn Trọng Oánh đã khám phá hiện thực ở nhiều tầng vỉa khác
nhau, động chạm đến nhiều mặt của hiện thực cuộc sống.
Có thể nói, cảm nhận và phản ánh hiện thực ở góc khuất của nó trong
những cảm quan mới qua nhân vật là nét nổi bật của Nguyễn Trọng Oánh. Từ
góc nhìn này, hiện thực đời sống tái hiện không phải lúc nào cũng là màu
hồng mà là một hiện thực đa chiều, một hiện thực rộng lớn với những mảng
tối đan xen. Với cách nhìn mới về hiện thực, Nguyễn Trọng Oánh đã xoáy sâu
vào vấn đề cốt yếu của đời sống thông qua nhân vật, đem đến cho người đọc
bức tranh toàn cảnh về cuộc sống một cách chân thật và sinh động.
22
1.2.2.2. Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người
Văn học phản ánh hiện thực cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật,
những hình tượng nghệ thuật trong văn học cách mạng 1945 - 1975 chủ yếu
mang đậm tính chất sử thi và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, con người trong
văn học kháng chiến là con người cộng đồng, con người là sản phẩm của hoàn
cảnh lịch sử. Con người thống nhất hoàn toàn với lịch sử nhà văn thông qua
con người để biểu hiện lịch sử, con người trở thành phương tiện để khám phá
lịch sử.
Sau năm 1975, sự thay đổi của hoàn cảnh lịch sử xã hội dẫn đến những
sự thay đổi về hiện thực đời sống vật chất, con người với những mơ ước cuộc
sống đời thường được ăn no mặc ấm, ăn ngon mặc đẹp hình ảnh con người
trong văn học hiện lên chân thực với tất cả cái tốt và cái xấu, rồng phượng lẫn
rắn rết, thiên thần với ác quỷ. Sự phong phú của các cá thể trong cộng đồng
đòi hỏi phải xem xét con người từ nhiều phía, nhiều lát cắt khác nhau với
những trạng huống không giống nhau trong xúc cảm thẩm mỹ của người
nghệ sĩ. Vì thế trong văn học xuất hiện con người phức tạp, nhiều chiều, con
người đầy những mâu thuẫn, những hoài nghi mà cũng đầy đa cảm, con người
dà đặn hơn với những trải nghiệm vấp ngã của mình. Vì thế, đời sống con
người, được thể hiện với những khát vọng trần thế, với những nhu cầu về thể
xác và tâm hồn chứ không hoàn toàn là con người lý tưởng cao cả nhưng xa
lạ. "Đó là những con người được nhìn nhận trong nhiều mối quan hệ phong
phú và phức tạp , con người với những niềm vui và nỗi buồn, trong sự phấn
khởi và khổ đau, trong niềm tin và hoài nghi chính đáng. Họ đẹp trong chất
thép và cả sự mềm yếu" [21]. Khảo sát tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Oánh,
có thể thấy những dấu hiệu đổi mới cơ bản trong quan niệm nghệ thuật về con
người của nhà văn.
Trước hết Nguyễn Trọng Oánh quan tâm đến những vấn đề số phận bi
kịch của con người.
23
Cuộc sống của con người luôn tiềm ẩn những bi kịch. Con người, từ
bản thể là con người với tất cả các cung bậc tình cảm vui buồn, trong thực tế
chứa đựng những trạng thái khác nhau ấy, nghĩa là những sự thực tồn tại
khách quan, điều may mắn với người này có thể lại là nỗi bất hạnh với người
kia, cái hôm nay đang tốt đẹp, ngày mai bỗng trở thành nỗi bất hạnh của con
người. Và xã hội với những biến động phức tạp không ngừng thì con người
cũng không thể tránh khỏi những bi kịch. Thể hiện con người bi kịch là một
nét nổi bật trong quan niệm nghệ thuật về con người của tiểu thuyết Nguyễn
Trọng Oánh.
Chiến tranh đối với bất cứ một dân tộc nào cũng đều là bất thường.
Trong chiến tranh không chỉ có cái hùng mà còn có cả cái bi. Hiện thực chiến
tranh được các nhà văn cảm nhận, phản ánh với đầy rẫy những bi kịch. Trong
tiểu thuyết viết về chiến tranh. Nguyễn Trọng Oánh đã phản ánh bi kịch của
con người hai đầu chiến tuyến địch ta, tên lính mỹ Đi loong trong cuộc đụng
độ với quân ta, hắn đã bị thương, trong lúc cận kề cái chết mà hắn vẫn chưa
hiểu đánh nhau để làm gì?, Bảy Hổ trong Mây cuối chân trời, tên tay sai đắc
lực cho Mỹ - Ngụy, hắn luôn tâm niệm "làm chính trị là phải dấn thân. Đã
đấu tranh cho một ý thức hệ là phải coi thường sống chết" [68], nhân vật Huy
cho đến lúc bị bắt, ông Thêm tra hỏi thì ông nhận ra một điều cơ bản nhất mà
Huy chưa hiểu, thông qua một câu hỏi đó là: Anh chiến đấu cho cái gì? Xét ở
một góc độ nào đó thì ta thấy họ đáng thương bởi bi kịch ở họ là sự nhận
đường. Bi kịch về sự mất mát ở phía ta, cái chết của ông ba Kiên, cái chết của
cả một nhóm vì một hoàn cảnh bi thương nào đó: Tự tử, cắt cổ, bị móc mắt.
Chiến tranh có bi kịch của chiến tranh, hòa bình lại có những bi kịch của
thời bình. Cuộc sống thời hậu chiến với những lo toan tất bật, với những đổi
mới cũng tạo ra bao nhiêu bi kịch. Thể hiện đời sống cá nhân với biết bao bi
kịch đã xảy ra mà không bi kịch nào giống bi kịch nào khiến cho tiểu thuyết
Nguyễn Trọng Oánh thêm hấp dẫn và có sức ám ảnh về tư tưởng. Đó là bi
24
kịch của những con người bước ra từ chiến tranh chẳng thể hòa nhập được với
sự thay đổi của cuộc sống mới. Con tốt sang sông là bi kịch của Hoàng - một
người lính trở về sau chiến tranh giờ đây trở thành người nghèo khổ, bất lực,
thất thiểu trước sự thay đổi của cuộc sống. Anh luôn nghĩ về quá khứ - cuộc
sống chiến tranh để rồi trước hiện thực cuộc sống mới anh trở nên lạc thời, cô
đơn ngay cả khi được sống trong gia đình của mình. Đó còn là bi kịch của sự
đổi thay nhân cách trước sự cám dỗ tầm thường trong cuộc sống thời mở cửa.
Ông Phổ trong tiểu thuyết Người thắng cuộc, một phó tổng biên tập tòa báo,
ông đã từng vào sinh ra tử ở các trận chiến thế mà nay ông lợi dụng chức
quyền của mình để tranh quyền đoạt vị, ông sẵn sàng gạt bỏ những kẻ mà ông
cho là có thể làm vướng chân trên bước đường thăng tiến của mình, ông đã
biến mình thành những kẻ xấu xa của xã hội.
Những độc giả đã quá quen với hình tượng anh bộ đội cụ Hồ của văn học
kháng chiến, của tiểu thuyết chiến tranh giai đoạn trước năm 1975, sẽ cảm
thấy khó chịu, thấy hụt hẫng vì cách nhìn nhận và thể hiện con người khá là u
ám như vậy. Có những vấn đề con người vừa gắn với thời hậu chiến vừa là
mặt trái của cơ chế thị trường, như sự xuống cấp các quan hệ nghĩa tình vốn
thiêng liêng bền chặt trong chiến tranh, sự phản bội trắng trợn chính lý tưởng
của mình, phản bội đồng đội của mình do những cám dỗ của đời sống vật
chất, sự hủy hoại và tha hóa nhân cách ngấm ngầm từng chút, từng chút một
không dễ gì nhận ra được đã trở thành vấn đề cơ bản nổi bật trong các tiểu
thuyết chiến tranh sau 1975. Rất nhiều nhân vật trong tiểu thuyết chiến tranh
sau 1975 đã vì một nguyên do nào đó mà rơi vào hoàn cảnh bi kịch. Thể hiện
đời sống của cá nhân với biết bao bi kịch đã xảy ra trong cuộc đổi mới con
người mà không bi kịch nào giống bi kịch nào khiến cho tiểu thuyết chiến
tranh sau 1975 thêm phong phú, sâu sắc về nội dung và có sức ám ảnh về tư tưởng.
Viết về những bi kịch của cuộc sống, thể hiện sâu sắc về con người bi
kịch, ở đó con người đã sống với những vui buồn, những khổ đau rất thật, rất
25
người, luôn đối diện với chính mình, tự nhận thức và đấu tranh để hoàn thiện
nhân cách. Tiểu thuyết Nguyễn Trọng Oánh đã góp phần làm mới hơn, sâu
sắc hơn quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học sau 1975. Đặt con
người cá nhân vào trung tâm quan sát và phản ánh, tiểu thuyết Nguyễn Trọng
Oánh đi sâu vào bản chất của con người nhiều hơn. Thay đổi cách nhìn về
hiện thực, nhìn nhận con người đậm dấu ấn nhân tính, mỗi người môt tính,
không ai giống ai, nhưng nhìn trên những bình diện đại thể, thì vẫn thấy một
số kiểu loại tính cách nào đó. Mẫu người lý tưởng trong suốt thời kỳ dài của
văn học kháng chiến là những con người hiểu biết, có lòng nhân ái, nhân hậu,
rất lí trí, biết kiềm chế tình cảm, dám hy sinh lợi ích cá nhân, biết vượt lên
trên khó khăn gian khổ, vượt lên mọi thử thách khắc nghiệt của cuộc sống
chiến tranh, cảm thấy hạnh phúc vì được cống hiến đem lại chiến thắng hoặc
ít ra cũng là niềm tin chiến thắng Phải thú nhận rằng, mẫu tính cách lý
tưởng ấy đã từng có sức hấp dẫn, mê hoặc biết bao thế hệ, đặc biệt đối với
tầng lớp thanh niên đang muốn thể hiện, khẳng định mình trong suốt những
năm đất nước đang chiến tranh và cả những năm sau đó. Chỉ khi tiểu thuyết
chiến tranh trong thời kỳ hậu chiến tranh xuất hiện người ta mới nhận ra rằng
người lý tưởng đó hình như lý tưởng quá, hình như không thật, hình như nó
giản đơn và có một mẫu người lý tưởng mới về cơ bản vẫn như vậy, nhưng
có “da có thịt hơn” gần gũi hơn, đậm chất đời hơn. Vì vậy những nhân vật
trong Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh không phải là người hùng của thời
đại nữa mà là con người bình thường. Và vì thế mà nhân vật của Nguyễn
Trọng Oánh được thể hiện chiều sâu gần gũi với đời thường. Với sự tôn trọng
con người cá nhân cá thể, Nguyễn Trọng Oánh quan tâm đến con người trên
tinh thân nhân bản. Nhiều trang viết của nhà văn đi vào phân tích hành vi ứng
xử cũng như nắm bắt số phận con người dưới tác động của chiến tranh bằng
cái nhìn độ lượng và sự cảm thông sâu sắc. Chiến tranh với những bom đạn
khói lửa với những thiếu thốn vật chất và tinh thần khiến người lính dễ dàng