Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Truyện ngắn trữ tình của một số tác giả tiêu biểu trước 1945 (nhìn từ phương diện kết cấu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 117 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2




TỐNG THỊ HẢI YẾN








TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH CỦA MỘT SỐ
TÁC GIẢ TIÊU BIỂU TRƯỚC 1945
(NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN KẾT CẤU)


Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số : 60 22 01 20


LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM


Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Trà My





HÀ NỘI, 2012


2

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
1
1. Lý do chọn đề tài 2
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 7
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 8
5. Phương pháp nghiên cứu
8
6. Những đóng góp mới của luận văn 10
7. Cấu trúc của luận văn 10
NỘI DUNG
11
Chương 1. Những vấn đề chung về truyện ngắn trữ tình
11
1.1. Giới thuyết chung
11
1.1.1. Khái niệm về truyện ngắn
11
1.1.2. Phân loại truyện ngắn 14

1.2. Truyện ngắn trữ tình - những vấn đề về thể loại 20
1.2.1. Quan niệm về truyện ngắn trữ tình
21
1.3. Các giai đoạn truyện ngắn trữ tình hiện đại Việt Nam
30
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1945
30
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1945 - 1975 35
1.3.3. Giai đoạn 1975 đến nay
39
Chương 2. Kết cấu hình tượng
43
2.1. Điểm tựa cấu trúc hình tượng 43
2.1.1. Hình tượng nhân vật trong truyện ngắn trữ tình như là chủ
thể của hệ thống điểm nhìn

50
3

2.1.2. Sự kiện nội tâm là điểm tựa cấu trúc trong truyện ngắn trữ tình 56
2.1.3. Cảm thức thời gian là điểm tựa kết cấu hình tượng 63
2.2. Các chi tiết tạo dựng nhân vật
67
2.2.1. Chi tiết nội tâm
68
2.2.2. Chi tiết ngoại hình - hành động
72
Chương 3. Tổ chức ngôn từ trần thuật
76
3.1. Nguyên tắc trùng điệp trong trần thuật

76
3.2. Tiết tấu trần thuật
79
3.2.1. Tiết tấu âm nhạc ở cấp độ văn bản
79
3.2.2. Tiết tấu âm nhạc ở cấp độ câu, từ ngữ
86
3.3. Ngôn từ trần thuật 91
3.3.1. Hệ ngôn từ chỉ thế giới nội tâm 91
3.3.2. Các biện pháp tu từ 96
3.4. Giọng điệu trần thuật 102
KẾT LUẬN
108
TÀI LIỆU THAM KHẢO
111










4

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Truyện ngắn Việt Nam đã trải qua lịch sử trên một thế kỷ và có
nhiều thành tựu nhất định. Đó là một thể loại tự sự có những đặc điểm
riêng về tính chất, về dung lượng so với các thể loại khác. Truyện ngắn ra
đời gắn chặt với các hoạt động báo chí nên dễ phổ biến đến người đọc. Với
hình thức ngắn gọn, cơ động, truyện ngắn phù hợp việc đáp ứng nhu cầu
của độc giả trong thời đại công nghiệp. Là một lát cắt của đời sống, như
giọt nước nhỏ trong đại dương, nhưng truyện ngắn hay để lại nhiều dư âm,
ám ảnh trong lòng người đọc. Do đó, truyện ngắn trở thành món ăn tinh
thần không thể thiếu của công chúng Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn
văn học đương đại.
1.2. Trong dòng chảy văn học Việt Nam, truyện ngắn là một thể loại cơ
bản nhất, đặc biệt là giai đoạn 1930 - 1945 văn học đạt được nhiều thành tựu
trên mọi lĩnh vực đã làm thay đổi bộ mặt dân tộc. Không ít truyện ngắn nổi
bật của các nhà văn như: Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao, Nguyễn
Tuân, Tô Hoài đã trở nên nổi tiếng. Căn cứ vào những hướng phát triển, gắn
liền với hướng tổng hợp thể loại cơ bản của truyện ngắn hiện đại nói chung
của giai đoạn 1930 - 1945 nói riêng, người ta chia truyện ngắn hiện đại làm ba
loại hình tiêu biểu là: Truyện ngắn - kịch hóa, truyện ngắn - tiểu thuyết hóa
và truyện ngắn - trữ tình hóa.
Trong các loại hình truyện ngắn trên, truyện ngắn - trữ tình hóa có
những nét riêng và nó đã phát triển thành một dòng ở Việt Nam với những
gương mặt tiêu biểu như: Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Xuân Diệu,
Ngọc Giao, Đỗ Tốn, Xuân Huy, Thanh Châu Cho nên, việc tìm hiểu nét đặc
trưng về truyện ngắn trữ tình giai đoạn trước 1945 là một việc làm cần thiết,
5

tạo điều kiện thuận lợi để tiếp cận những sáng tác thuộc dòng chảy truyện
ngắn Việt Nam. Đồng thời phần nào đi đến tìm hiểu tại sao truyện ngắn trữ
tình lại ngày càng được công chúng đón nhận và không ngừng phát triển.
1.3. Về góc độ nghiên cứu, thể loại truyện ngắn trữ tình đã được nhiều

người khai thác ở các khía cạnh khác nhau như: Truyện ngắn trữ tình được
nhìn từ góc độ cấu thể loại, phân loại loại hình truyện ngắn, phong cách sáng
tác của các nhà văn truyện ngắn trữ tình nhưng vẫn còn những khoảng
trống, góc khuất ở chiều sâu tác phẩm truyện ngắn trữ tình thì chưa được đề
cập nhiều đặc biệt là đặc trưng truyện ngắn trữ tình ở phương diện kết cấu của
tác phẩm. Hơn nữa trong nhà trường phổ thông có học một số tác phẩm trữ
tình của các tác giả giai đoạn trước năm 1945. Chính những lí do đó mà
chúng tôi lựa chọn đề tài: "Truyện ngắn trữ tình của một số tác giả tiêu
biểu trước năm 1945 (nhìn từ phương diện kết cấu)" nhằm trang bị những
kiến thức cần thiết cho bản thân và những đồng nghiệp đang giảng dạy ở
trường phổ thông về thể loại này.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những công trình nghiên cứu về truyện ngắn trữ tình
Đã có nhiều nghiên cứu về thể loại truyện ngắn trữ tình. Những bài viết,
những công trình nghiên cứu về thể loại truyện ngắn trữ tình có thể kể đến
như: Truyện ngắn một số vấn đề nghề nghiệp - Vương Trí Nhàn (Sổ tay
truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, 1980); Về chất thơ trong truyện ngắn -
Nguyễn Kiên (3-1996); Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể
loại - Bùi Việt Thắng (Nxb ĐHQG - Hà Nội, 2000); luận án tiến sĩ của tác giả
Nguyễn Văn Đấu năm 2001 “Các loại hình truyện ngắn hiện đại (Trên cơ
sở cứ liệu truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945)”; khóa luận tốt
nghiệp, "Đặc trưng truyện ngắn trữ tình (Qua sáng tác của Đỗ Chu)" của
Nguyễn Thị Duyên (2007).
6

Trong bài viết của mình Vương Trí Nhàn đã đề cập đến loại hình
truyện ngắn trữ tình khi ông phân chia truyện ngắn thành 2 dạng: "Nhìn vào
thực tế có truyện có cốt truyện thật đầy đủ, các khâu thắt nút, cao trào, mở
nút. Ngược lại, có truyện gần như thơ, rất khó tóm tắt được cốt truyện" [36,
tr.147] "Nhưng có một tiêu chuẩn nữa đáng chú ý hơn, tạo nên hai cực của

truyện ngắn - như Antonop mệnh danh. Một đó là loại truyện kể về một
trường hợp đặc biệt nào đó và một loại kể về những sự kiện đơn giản, bình
thường", loại truyện thứ hai "xuất hiện muộn hơn, khi mà yêu cầu đặt ra đối
với văn học không phải chỉ là việc miêu tả những cái kì dị, lạ lùng, mà cả
những cái bình thường" [36, tr.148]. Tác giả cũng khẳng định, "một xu hướng
của truyện ngắn hiện đại là đi vào tâm lý, dựng lên những ca tâm lý ấn tượng
mạnh mẽ, lối viết này vẫn bị buộc tội là lảng tránh cốt truyện, tuy xét về một
mặt nào đó, đây là một sự lảng tránh thông minh bậc nhất" [36, tr.149]. Như
vậy, Vương Trí Nhàn đã nêu ra những nét khác biệt giữa truyện ngắn trữ tình
với truyện ngắn truyền thống (truyện có cốt truyện nổi bật). Ông đã chỉ ra
rằng truyện ngắn trữ tình là một xu hướng phát triển của truyện ngắn hiện đại:
"Thêm nhiều truyện ngắn trữ tình, bên cạnh những truyện ngắn có cốt truyện
sắc nhọn như đã quen biết" [36, tr.150], "Theo một số nhà nghiên cứu về thể
loại văn học, các thể tài thuộc phổ hệ tự sự đang có xu hướng chuyển sang
trữ tình. Tính chất trữ tình, xu hướng đi vào tâm lý cũng đang chi phối nhiều
tác giả truyện ngắn ở Mỹ" [36, tr.154]. Đồng thời, ông nhấn mạnh đó là "loại
truyện ngắn gần với thơ, chỉ cốt tạo ấn tượng, ngoài ra không quan tâm gì tới
nhân vật, cốt truyện gì hết" [36, tr.150].
Năm 1996, Nguyễn Kiên cũng có những lời bàn gián tiếp về truyện
ngắn trữ tình trong bài Về chất thơ trong truyện ngắn. Sau khi khẳng định
"sự thâm nhập của thơ vào truyện ngắn là một yếu tố tự nhiên, gây kích thích
thuộc quy luật vận động nội tại của nghệ thuật, nhà văn đã nhắc đến loại
7

truyện ngắn từ ý tưởng nghệ thuật đến giọng điệu hơi văn đều hòa hợp và
cùng mang phẩm chất trữ tình gần với lời thơ" [25, tr.297]. Tác giả bài viết
nhận thấy, "Truyện ngắn hiện đại gần với thơ, vì trong sự phá cách của nó, nó
sử dụng những thao tác nghề nghiệp gần gũi với cách tư duy nghệ thuật của
thơ" [25, tr.300].
Theo quan điểm của Bùi Việt Thắng trong công trình nghiên cứu,

Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết về thực tiễn thể loại thì tác giả gọi
truyện ngắn trữ tình là "truyện tâm tình". "Truyện tâm tình còn được gọi là
truyện ngắn gần với thơ vì trong đó có sự phối hợp giữa việc diễn tả cảm xúc
trữ tình với kể chuyện" [48, tr.120]. Trong truyện ngắn trữ tình, tính tự sự
giảm đi, tính trữ tình tăng lên. Tác giả Bùi Việt Thắng nêu lên những đặc
điểm cơ bản của truyện ngắn tâm tình như sau: "Tình phi cốt truyện: truyện
ngắn trữ tình không kể lại được vì cốt truyện không tiêu biểu, nếu có thì đó là
cốt truyện bên trong" tức cốt truyện tâm lý diễn tả những tâm trạng điển hình
của nhân vật Cấu trúc của truyện rất lỏng lẻo, sự lỏng lẻo cố ý để làm co
giãn linh hoạt phù hợp với việc thể hiện các sắc thái tâm lý, tình cảm của con
người Bộc lộ tính chủ quan, sự suy tư của nhà văn về đời sống vì thế cần
đến một lối kể chuyện tự do Trong kiểu truyện ngắn tâm tình, sự cảm thụ
thiên nhiên trong toàn bộ giác quan là một đặc điểm trong cách miêu tả của
nhà văn" [48, tr.121-122]. Ở loại hình truyện ngắn này, "văn xuôi là cốt còn
thơ là sợi ngang" [48, tr.124].
Khi tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn trữ tình trong đề tài Đặc trưng
truyện ngắn trữ tình (qua sáng tác của Đỗ Chu) (2007), Nguyễn Thị Duyên
cho rằng đối tượng của truyện ngắn trữ tình là, "thiên nhiên gợi cảm xúc, cảm
giác nhẹ nhàng" [10, tr.10] và "Con người với cảm xúc, tâm tư biến chuyển
nhẹ nhàng" [10, tr.15]. Trong truyện ngắn trữ tình "cốt truyện không có nhiệm
vụ tạo kịch tính, gây căng thẳng. Cốt truyện trong truyện ngắn trữ tình không
8

tái hiện các xung đột xã hội mà hướng tới tạo ra các tình huống khơi gợi
trạng thái tâm tưởng, cảm xúc, suy tư của con người. Hướng tới nhiệm vụ như
vậy nên truyện ngắn trữ tình thường tạo nên những cốt truyện giảm nhẹ kịch
tính, những truyện dường như không có truyện và sử dụng cốt truyện tâm lý"
[10, tr.26]. Theo tác giả, truyện ngắn trữ tình có 3 kiểu kết cấu thường gặp là:
kết cấu hồi tưởng, kết cấu cảnh tình tương ứng, kết cấu lắp ghép.
Qua các công trình nghiên cứu trên, ta có thể dễ dàng nhận thấy các

nhà nghiên cứu đã nói đến đặc trưng cơ bản của truyện ngắn trữ tình. Đó là
truyện ngắn nhưng mang chất thơ, không có cốt truyện, yếu tố sáng tác
thuộc về tình cảm, cảm xúc của nhân vật. Vì thế, truyện ngắn trữ tình mang
những đặc điểm tạo thành một dòng văn học riêng trong truyện ngắn hiện
đại Việt Nam.
2.2. Những công trình nghiên cứu về truyện ngắn trữ tình trước 1945
Năm 1995, trong công trình nghiên cứu của tiến sĩ Phạm Thị Thu Hương:
Ba phong cách truyện ngắn trữ tình trong văn học Việt Nam giai đoạn
1930 - 1945 (Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh) đã có những quan niệm
rất đúng đắn về truyện ngắn trữ tình. Trong đề tài tác giả có nêu lên được
những ý kiến có giá trị về loại hình truyện ngắn trữ tình: "Trong tác phẩm trữ
tình, yếu tố chủ quan của nhà văn bao giờ cũng rất đậm nét và nó được thể
hiện ở tất cả mọi phương diện nghệ thuật. Dù tả cảnh, tả ngoại hình nhân vật
hay tả nội tâm nhân vật Truyện ngắn trữ tình thường không có cốt truyện.
Nó có kết cấu gần với cấu tứ thơ trữ tình. Truyện ngắn trữ tình thường đi sâu
miêu tả một cách tinh tế những phản ứng của tâm thức đối với “kinh nghiệm
sống" [22, tr.7]. Theo tác giả luận án, "Truyện ngắn trữ tình đã đưa vào văn
xuôi nghệ thuật Việt Nam với chất thơ man mác, bàng bạc rất riêng. Truyện
ngắn trữ tình mang lại cho người đọc một cảm giác nhẹ nhàng, sâu lắng, sau
những trang viết tràn trề hiện thực của các nhà văn hiện thực" [22, tr.7].
9

Năm 2001, với luận án Các loại hình cơ bản của truyện ngắn hiện đại
(Trên cơ sở dữ liệu truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945), tiến sĩ
Nguyễn Văn Đấu đã chứng minh có 3 loại hình truyện ngắn hiện đại cơ bản
là: Truyện ngắn - kịch hóa, truyện ngắn - trữ tình hóa, truyện ngắn - tiểu
thuyết hóa. Trong chương viết về truyện ngắn trữ tình hóa nhà nghiên cứu đã
phát hiện nhiều điểm độc đáo trong tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật, tổ
chức trần thuật của loại hình truyện ngắn này. Theo tác giả luận án, "Truyện
ngắn trữ tình hóa về cơ bản không phải là truyện quan hệ xã hội, truyện về

cuộc đời với những thay đổi khôn lường của nó. Nó là truyện về thế giới đời
sống đã được nội cảm hóa đậm nét, là truyện tâm hồn, tình cảm, truyện về sự
giác ngộ, thức tỉnh, niềm vui, nỗi buồn của con người trước cuộc sống. Chức
năng chủ yếu của cốt truyện là thể hiện trạng thái tâm tưởng của con người
trước đời sống" [13, tr.107]. Sự kiện nội tâm là chất liệu cơ bản của truyện
ngắn: "Ở truyện ngắn - trữ tình hóa, sự kiện hành động chỉ giống như cái mắc
áo để sự kiện nội tâm như chiếc áo trùm lên" [13, tr.113]. "Chi tiết nội tâm là
chất liệu chủ yếu trong xây dựng nhân vật" [13, tr.126]. Như vậy, có thể coi
đây là công trình đầu tiên có nhiều đề xuất mới mẻ, có những nhận định đặc
trưng loại hình truyện ngắn trữ tình khá sâu sắc.
Khi nghiên cứu về đề tài Truyện ngắn trữ tình trong sáng tác của
Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh (tiếp cận từ góc độ kết cấu thể loại)
(2008) thì Vũ Thị Hương Thảo cho rằng: "Truyện ngắn trữ tình là một kiểu
truyện ngắn, một kiểu tổng hợp thể loại, một mô hình nghệ thuật độc đáo, có
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố tự sự (kể chuyện) với yếu tố trữ tình
(tình cảm, cảm xúc, tâm trạng, rung động ) hình thức là truyện nhưng nội
dung và cấu trúc là tiểu thuyết" [45, tr.5]. Như vậy, tác giả có những phát
hiện mới về truyện ngắn trữ tình. Đó là một thể loại giống như một hình thức
tổ chức trung gian giữa truyện và thơ nhưng đã mang hơi thở hiện đại, khám
10
phá và miêu tả đời sống theo nguyên tắc tư duy tiểu thuyết. Nó cũng tái hiện
những số phận, những cảnh đời với những vận động biển đổi không ngừng về
cuộc sống cũng như tâm trạng, nhưng điểm tựa chủ yếu không phải là hiện
thực khách quan mà là hiện thực tâm trạng. Tác giả luận văn còn khẳng định:
"Đó là kiểu truyện ngắn lãng mạn đời tư trước cách mạng, đậm đà chất thơ
và chất tiểu thuyết " [45, tr.35].
Tóm lại, truyện ngắn trữ tình là một thể loại độc đáo vừa mang hình
thức của truyện ngắn nhưng nội dung lại chứa đựng chất trữ tình của thơ. Đó
là những nét tiêu biểu độc đáo của loại hình truyện ngắn trữ tình giai đoạn
trước năm 1945.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm làm rõ kết cấu thể loại
truyện ngắn trữ tình, từ việc tìm hiểu về mặt lý thuyết lí luận văn học gắn với
những sáng tác cụ thể của các tác giả trữ tình tiêu biểu trước năm 1945.
Chúng tôi muốn nêu bật lên những đặc điểm riêng về kết cấu thể loại truyện
ngắn trữ tình so với kết cấu của những loại truyện ngắn - kịch hóa, truyện
ngắn - tiểu thuyết hóa, từ đó chúng tôi nhằm khẳng định nét đặc trưng của
truyện ngắn trữ tình qua phương diện kết cấu hình tượng và tổ chức lời
văn trong truyện ngắn trữ tình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của luận văn tập trung chứng minh những luận điểm cơ bản sau:
+ Những vấn đề chung về truyện ngắn trữ tình.
+ Kết cấu hình tượng trong truyện ngắn trữu tình
+ Tổ chức ngôn từ nghệ thuật trong truyện ngắn trữ tình.
Ba luận điểm này có liên quan chặt chẽ với nhau, từ luận điểm mang
tính khái quát rồi đi đến những luận điểm nhỏ nhằm chứng minh, khẳng định
đặc trưng về kết cấu truyện ngắn trữ tình.
11
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối với thể loại truyện trữ tình chỉ bắt đầu vào giai đoạn 1930 nhưng
nở rộ và thành công nhất bắt đầu từ những năm 1935-1936 với những tác giả
nổi tiếng như Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Thanh Châu, Xuân Huy,
Đỗ Tốn Đây được coi là thời kỳ mở đầu của thể loại truyện ngắn trữ tình.
Họ như là những tác giả tiên phong cho một loại hình truyện ngắn mới càng
về sau càng được nhiều tác giả, độc giả và giới phê bình quan tâm nhiều hơn.
Chính điều đó nhiều tác phẩm truyện ngắn trữ tình ra đời ở thời kỳ tiếp theo
cho đến nay có một số lượng truyện ngắn trữ tình khá phong phú. Như vậy
phạm vi sáng tác của thể loại này rất rộng và khó có thể nghiên cứu, nắm bắt
hết được trong khuôn khổ một luận văn. Vì thế chúng tôi tập trung nghiên cứu

vào một số tác phẩm cụ thể của một số tác giả tiêu biểu giai đoạn trước năm
1945 mang đậm chất trữ tình.
* Đối tượng nghiên cứu: Kết cấu truyện ngắn trữ tình của một số tác
giả tiêu biểu trước năm 1945.
* Phạm vi nghiên cứu: Truyện ngắn trữ tình lãng mạn trước năm 1945:
Tác giả Thạch Lam (tuyển tập) - Nxb Văn học, Hà Nội 2008.
Tập truyện Quê mẹ - Thanh Tịnh (Nxb Văn học, 2003).
Tác phẩm chọn lọc - Hồ Dzếnh (Nxb Văn học, 1998).
Trong bóng tối - Thanh Châu (Ngô Ngọc Trương xuất bản, Hà Nội, 1936).
Thềm nhà cũ - Nguyễn Xuân Huy (Nxb Tân Dân, Hà Nội, 1941).
Hoa vông vang - Đỗ Tốn (Nxb Đời nay, Hà Nội, 1945).
Với khuôn khổ luận văn, chúng tôi không khảo sát hết được tất cả các
tác phẩm trữ tình của giai đoạn này mà chỉ lựa chọn được những tác phẩm tiêu
biểu của các tác giả trên để khảo sát nhằm làm sáng tỏ luận điểm của đề tài.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài, ngoài các phương pháp chung như
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, khái quát, phương pháp hệ
thống , chúng tôi chú trọng vận dụng các phương pháp sau:
12
5.1. Phương pháp so sánh loại hình
Luận văn của chúng tôi nghiên cứu truyện ngắn trữ tình, đây là một
trong những loại hình truyện ngắn cơ bản của văn học Việt Nam hiện đại. Vì
vậy, để tìm ra những nét tương đồng và khác biệt của loại hình truyện ngắn
này so với các loại hình truyện ngắn khác như truyện ngắn - kịch , truyện
ngắn - tiểu thuyết hóa, truyện ngắn kỳ ảo, truyện rất ngắn… việc sử dụng
phương pháp so sánh loại hình là cần thiết. Thông qua đó, chúng tôi xác định
kết cấu của thể loại truyện ngắn trữ tình.
5.2. Phương pháp thống kê, phân loại
Khi tìm hiểu cấu trúc thể loại của truyện ngắn trữ tình, người viết cần
thống kê phân loại các yếu tố như chi tiết, sự kiện, nhân vật, lời văn… để thấy

được những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức tác phẩm. Do đó, phương pháp
thống kê, phân loại cũng góp phần giúp quá trình nghiên cứu đạt hiệu quả.
5.3. Phương pháp lịch sử
Văn học Việt Nam đã trải qua một quá trình phát triển với những biến
đổi nhất định. Giai đoạn đầu với sáng tác lãng mạn, văn xuôi nghệ thuật ở
dạng cân bằng giữa văn xuôi và thơ. Liền sau đó, với sáng tác “tả chân"của
Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, thế cân bằng bị phá vỡ văn
xuôi phát triển theo hướng đối lập với thơ. Vận dụng phương pháp lịch sử để
đánh giá, chúng tôi sẽ đi vào lí giải những hiện tượng đó, đồng thời chứng
minh được truyện ngắn trữ tình có một kết cấu mang những đặc trưng khác
hẳn với truyện ngắn sự kiện.
5.4. Phương pháp phân tích, chứng minh
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, chứng minh qua các tác
phẩm chọn lọc mang đậm yếu tố trữ tình của tác giả giai đoạn trước 1945 để
tìm ra nét chung nhất về kết cấu của truyện ngắn trữ tình ở giai đoạn này.
Các phương pháp trên được sử dụng phối hợp với nhau một cách linh
hoạt trong luận văn nhằm đem đến cho người đọc một cái nhìn toàn diện bao
quát nhất về loại hình truyện ngắn trữ tình được nhìn từ phương diện kết cấu.
13
6. Những đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu của những người đi trước, chúng tôi nhằm bổ
sung và khẳng định thể loại truyện ngắn trữ tình là một thể loại văn học với
những đặc trưng riêng về kết cấu hình tượng và cách tổ chức lời văn trong
truyện ngắn trữ tình có thể phân biệt với thể loại truyện ngắn khác. Ngoài
phong cách riêng biệt của các nhà văn trữ tình, là một loại hình văn học, cấu
trúc thể loại của truyện ngắn trữ tình thì tôi xin đóng góp thêm một nét đặc
trưng của thể loại này đó là kết cấu của truyện ngắn trữ tình về phương diện
hình tượng và tổ chức ngôn từ trần thuật. Luận văn là công trình nghiên cứu
chuyên biệt về vấn đề trên vừa có tính kế thừa của người đi trước đồng thời
vừa tìm tòi khám phá để đóng góp những phát hiện mới mẻ có ý nghĩa, đặc

biệt là đối với những giáo viên PTTH.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, tài liệu tham khảo thì nội dung
của luận văn được triển khai thành ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về truyện ngắn trữ tình
Chương 2: Kết cấu hình tượng
Chương 3: Tổ chức ngôn từ trần thuật


14
NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH
1.1. Giới thuyết chung
Truyện ngắn thuộc thể loại tự sự cỡ nhỏ và vừa có rất nhiều ưu điểm.
Tuy là hình thức tự sự ngắn gọn, dung lượng tuy nhỏ nhưng hiệu quả phản
ánh và biểu hiện vẫn rất lớn. Có thể kể đến tính ưu việt của truyện ngắn đó
là tính cơ động, phản ánh sâu sắc mọi khía cạnh trong cuộc sống, người đọc
dễ tiếp nhận. Trong xã hội ngày nay truyện ngắn càng phát triển mạnh mẽ để
phù hợp với nhu cầu của bạn đọc trong cuộc sống hiện đại. Nó có ưu thế dễ
đọc, dễ nhớ, phù hợp với khuôn khổ báo chí nên dễ đăng tải phổ biến. Trong
văn học hiện đại, truyện ngắn nói riêng, các thể loại văn học nói chung được
phân chia rất nhiều thể loại. Với truyện ngắn nhờ khả năng tổng hợp thể loại,
chúng ta có thêm nhiều kiểu năng động mới như: "Truyện ngắn trữ tình,
truyện ngắn kịch, truyện ngắn - tiểu thuyết hóa, truyện ngắn - nhật kí, truyện
ngắn - tin báo".
1.1.1. Khái niệm về truyện ngắn
Thuật ngữ "truyện" có nhiều nghĩa. Với nguồn gốc chữ Hán “truyện
ban đầu có nghĩa là giải thích kinh nghĩa" [43, tr.187]. Mở rộng ra trong tiếng
Việt, thuật ngữ “truyện"chỉ tác phẩm văn học là một bản kể có miêu tả nhân

vật, diễn biến sự kiện thú vị như: truyện cười, truyện cổ tích, truyện thần thoại,
truyện truyền kỳ, truyện nôm, truyện thơ, truyện dài, truyện vừa, truyện ngắn,
truyện rất ngắn.
Theo từ điển văn học - Đỗ Đức Hiểu chủ biên thì “Truyện thuộc loại tự
sự có hai thành phần chủ yếu là cốt truyện và nhân vật. Thủ pháp nghệ thuật
chính là kể. Truyện thừa nhận vai trò rộng rãi của hư cấu và tưởng tượng"
[20, tr.450].
15
Cũng trong từ điển văn học nhóm nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu cũng đã
nêu "Truyện ngắn là hình thức tự sự loại nhỏ. Truyện ngắn khác với truyện
vừa ở dung lượng nhỏ hơn, tập chung mô tả một mảnh của cuộc sống, một
biến cố hay một vài biến cố xảy ra trong một giai đoạn nào đó của đời sống
nhân vật, biểu hiện một mặt nào đó của tính cách nhân vật, thể hiện một khía
cạnh nào đó của vấn đề xã hội" [20, tr.456].
Trong giáo trình lí luận văn học Trần Đình Sử chủ biên thì định nghĩa
về truyện: "Thể loại tự sự, văn xuôi bắt nguồn từ các truyện thần thoại, kể
chuyện những chuyện li kỳ, khác thường chỉ có trong trí tưởng tượng của con
người" [43, tr.202]. Còn trong truyện ngắn "Tác phẩm văn xuôi cỡ nhỏ, sáng
tác bằng hư cấu. Truyện ngắn sở dĩ ngắn là do thể hiện cuộc sống qua lát cắt,
khoảnh khắc nhờ những bố cục đặc biệt" [43, tr.202]. Như vậy, truyện ngắn,
khuôn khổ ngắn nhiều khi làm cho truyện ngắn có vẻ gần gũi các hình thức
truyện kể dân gian như truyện cổ, giai thoại truyện cười, hoặc gần với những
bài kí ngắn. Nhưng thực ra không phải mà nó gần với tiểu thuyết hơn cả bởi là
hình thức tự sự tái hiện cuộc sống đương thời. Nội dung truyện ngắn có thể
rất khác nhau: đời tư, thế sự, hay sử thi nhưng cái độc đáo của nó lại là ngắn.
Truyện ngắn có thể kể về cả một cuộc đời hay một đoạn đời, một sự kiện hay
một chốc lát trong cuộc sống của nhân vật, nhưng cái chính của truyện ngắn
không phải là hệ thống sự kiện, mà ở cái nhìn tự sự đối với cuộc đời. Như
truyện Dưới bóng Hoàng lan của Thạch Lam chỉ kể lại cảm xúc, suy ngẫm
của nhân vật Thanh trong một khoảnh khắc về quê sau nhiều năm. Cảm nhận

về con người vẫn như xưa cảnh vật quen thuộc đó là cảm giác nhẹ nhàng mà
bỡ ngỡ vừa lạ mà vừa quen sau bao tháng năm xa cách của Thanh. Nhưng
trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao kể lại cả cuộc đời của nhân vật
nhưng quãng đời tha hóa của nhân vật Chí Phèo từ khi đi tù trở về làng Vũ
Đại cho đến lúc chết. Như vậy ta có thể thấy các tác phẩm truyện ngắn như
16
một tấm gương phản ánh cuộc sống có thể là một khoảnh khắc cảm xúc, mà
cũng có thể kể lại cả một đời người.
Ở nhiều nước trên thế giới, truyện ngắn gắn liền với báo chí, khuôn khổ
báo chí không cho phép dài. Truyện ngắn nói chung, không phải vì truyện
ngắn nó ngắn mà vì cách nắm bắt cuộc sống của thể loại. Tác giả truyện ngắn
thường hướng tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong
quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con người. Chính vì vậy trong
truyện ngắn thường rất ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. Chỗ khác biệt quan
trọng giữa tiểu thuyết và truyện ngắn là nếu nhân vật chính của tiểu thuyết
thường là một thế giới, thì nhân vật truyện ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới
ấy. Truyện ngắn thường không nhằm khắc họa những tính cách điển hình có
cá tính đầy đặn và nhiều gương mặt trong tương quan với hoàn cảnh. Nhân
vật truyện ngắn thường là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức
xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người. Mặt khác, do truyện ngắn lại có
thể mở rộng diện nắm bắt các kiểu loại nhân vật đa dạng của cuộc sống,
chẳng hạn như chức nghiệp, xuất thân, quan hệ, bạn bè, những kiểu loại mà
trong tiểu thuyết thường hiện ra thấp thoáng trong các nhân vật phụ.
Nghiên cứu các truyện ngắn xuất sắc của L. Tônxtôi, Gov. Chekhov,
Slokhov, Paustowski hoặc các truyện ngắn của Daude Merimee, Maupassant,
O. Henri, Jack London, các truyện ngắn của Lỗ Tấn hoặc các truyện ngắn của
Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài trước
Cách mạng tháng tám, hay truyện ngắn của Đỗ Chu, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo
Ninh, Phạm Thị Hoài đều thấy các đặc điểm đó. Cốt truyện của truyện ngắn
có thể là nổi bật, hấp dẫn nhưng chức năng của nó nói chung là để nói ra một

điều gì. Cái chính của truyện ngắn là gây một ấn tượng sâu sắc về cuộc đời và
tình người. Kết cấu của truyện thường là một sự tương phản, liên tưởng, bút
pháp trần thuật thường là chấm phá. Yếu tố có ý nghĩa quan trọng nhất của
17
truyện ngắn là chi tiết có dung lượng lớn và hành văn mang ẩn ý, tạo cho tác
phẩm những chiều sâu chưa nói hết. Ngoài ra, giọng điệu, cái nhìn cũng hết
sức quan trọng làm nên cái hay của truyện ngắn.
Như vậy có thể nói, truyện ngắn là một trong những thể loại cơ bản
nhất trong hệ thống văn học. Đó là hình thức tự sự ngắn gọn, dung lượng tuy
nhỏ nhưng hiệu quả phản ánh và biểu hiện rất lớn. Chịu sự chi phối của
nguyên tắc tư duy tiểu thuyết nên tác phẩm thường có cấu trúc đa dạng và
phức tạp.
1.1.2. Phân loại truyện ngắn
Truyện được xuất hiện từ rất sớm, tác phẩm văn học được lưu truyền
qua phương thức truyền miệng. Những tác phẩm văn học ấy như một bản kể
có miêu tả nhân vật và diễn biến sự việc thú vị và được gọi tên như: truyện cổ
tích, truyện thần thoại, truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện truyền kỳ. Với
kết cấu đơn giản, nhân vật ít với mục đích "văn dĩ tải đạo" nên thường rất
ngắn, có thể một trang thậm chí nửa trang giấy. Cho đến đầu thế kỷ XX xuất
hiện một loại truyện ngắn mới đó là tiểu thuyết với tác phẩm đầu tiên Tố Tâm
- Hoàng Ngọc Phách. Với dung lượng lớn hơn và số lượng nhân vật phong
phú hơn và có sức phản ánh đa chiều về nhiều khía cạnh trong cuộc sống. Tuy
là tiểu thuyết nhưng nó mang hình thức như truyện ngắn. Như vậy, truyện
ngắn ra đời cho đến nay đã hơn một thế kỷ. Nhưng đạt được thành công rực
rỡ nhất về giá trị nội dung cũng như giá trị nghệ thuật thì phải kể đến giai
đoạn trước năm 1945.
Từ những năm 1930 cho đến nay, truyện ngắn phân chia thành nhiều
thể loại như Lê Huy Bắc khi nghiên cứu Hêmingue đã phân loại truyện ngắn
của tác giả này thành các kiểu: "Truyện ngắn - dòng ý thức, truyện ngắn - kịch,
truyện ngắn - mini, truyện ngụ ngôn - hành động, truyện - triết lí" [5, tr.116].

Bùi Việt Thắng trong luận văn Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và
18
thực tiễn thể loại đưa ra các kiểu truyện ngắn: Truyện ngắn cổ điển, truyện
ngắn tâm tình, truyện ngắn kỳ ảo, truyện ngắn rất ngắn, truyện ngắn liên hoàn
và một số biến thể khác. Trong văn học hiện đại truyện ngắn nói riêng, các thể
loại văn học nói chung, đặc biệt là tiểu thuyết, có xu hướng phát triển theo
hướng tổng hợp thêm những đặc trưng của các thể loại khác để nâng cao hiệu
quả phản ánh, tác động. Điều đó thể hiện quá trình vận động, phát triển của
thể loại từ thuần nhất, đơn giản đến kết hợp phong phú, phức tạp. Với truyện
ngắn, nhờ khả năng tổng hợp thể loại chúng ta có thêm nhiều kiểu năng động
mới như: truyện ngắn trữ tình, truyện ngắn - kịch, truyện ngắn - tiểu thuyết
hóa, truyện ngắn - nhật ký, truyện ngắn- tin báo. Trong luận văn Các loại
hình cơ bản của truyện ngắn hiện đại (trên cơ sở truyện ngắn Việt Nam
giai đoạn 1930- 1945), Nguyễn Văn Đấu đã chứng minh được có ba loại hình
truyện ngắn cơ bản là: truyện ngắn - kịch hóa, truyện ngắn trữ tình hóa, truyện
ngắn - tiểu thuyết - hóa, người viết đã phát hiện nhiều nét đặc trưng độc đáo
của mỗi một kiểu trong tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật, tổ chức trần
thuật của các loại hình truyện ngắn này.
Từ những quan niệm trên, chúng tôi nhất trí truyện có thể chia thành 3
kiểu truyện ngắn:
1.1.2.1. Truyện ngắn - tiểu thuyết hóa
Qua khảo sát cốt truyện các tác phẩm truyện ngắn các nhà nghiên
cứu dựa vào tình huống nhận thức. Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà
ở đó nhân vật được đẩy lên tình thế bất thường, đối mặt với một bài học
nhận thức, bật lên một vấn đề (vấn đề nhân sinh, vấn đề nghệ thuật) cần
phải vỡ lẽ giác ngộ.
Xét về kiểu nhân vật của dạng tình huống này đương nhiên là nhân vật
tư tưởng. Nghĩa là kiểu nhân vật được khai thác chủ yếu ở đời sống nhận thức
lí tính của nó. Chất liệu cơ bản để dệt nên nhân vật là hệ thống những quan sát,
19

phân tích, suy lý, đúc kết. Mà trường hợp đậm đặc nhất ở mỗi nhân vật giống
như một tư tưởng được nhân vật hóa vậy. Như nhân vật Chí Phèo - trong tác
phẩm cùng tên của Nam Cao điển hình hóa là một tên lưu manh chuyên rạch
mặt ăn vạ để có được rượu uống quên ngày tháng và sự đời. Hay như, nhân
vật Hoàng trong tác phẩm Đôi mắt của Nam Cao cũng là một nhân vật điển
hình cho quan điểm của tầng lớp tiểu tư sản lúc bấy giờ. Đó là lối sống ích kỷ
nhìn cuộc đời với đôi mắt lệch lạc. Diện mạo của loại truyện ngắn này cũng
nghiêng về triết luận như truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao “Chao
ôi! Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn”. Hay như Nguyễn Minh Châu trong tác
phẩm Bến quê, nhân vật Nhĩ cuối đời đã thấy được những nghịch lý trong
cuộc đời và chiêm nghiệm ra một điều rằng con người ta thường đi "vòng vèo,
chùng chình".
Về cốt truyện truyện ngắn - tiểu thuyết hóa thường được xây dựng bằng
các sự kiện và hành động của nhân vật, bộc lộ các xung đột xã hội, trình bày
số phận tính cách của cả một đời người với những biến đổi khôn lường của nó.
Như tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố trình bày những mâu thuẫn xung đột
xã hội. Đó là sự xung đột giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, nhà văn đã
thể hiện sở trường mổ xẻ, phanh phui những mâu thuẫn đó cần được giải
quyết một cách thỏa đáng. Đồng thời cũng miêu tả một cách sắc sảo diễn biến
tâm lí nhân vật điển hình là chị Dậu thông qua cuộc xung đột giữa chị Dậu
với người nhà lí trưởng và tên cai lệ. Từ đó, thấy được phẩm chất đẹp đẽ của
người phụ nữ Việt Nam qua nhân vật điển hình là chị Dậu. Hay như trong tác
phẩm Đôi mắt, tác giả đã đẩy mâu thuẫn giữa hai giai cấp, nhân vật Hoàng
đại diện cho giai cấp tiểu tư sản với giai cấp nông dân. Hoàng đã thấy ở
những người nông dân kia toàn những điều bần tiện xấu xa mà không nhìn
thấy được những vẻ đẹp của họ qua việc làm, suy nghĩ. Nhưng rồi cuối cùng
thì Hoàng đã tự nhận ra được vẻ đẹp ấy mà từ trước tới nay anh chưa hề khám
phá thấy.
20
Giọng điệu trong các truyện ngắn tiểu thuyết hóa thường sử dụng đa

thanh hóa giọng điệu tự sự. Trong mỗi tác phẩm cụ thể vẫn có sự chuyển hóa
giọng điệu tạo nên trữ lượng thẩm mĩ không vơi cạn trong truyện. Như tiểu
thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố, trong đó có sự đa thanh về giọng điệu lúc dồn
dập, rộn rã của tiếng trống thúc sưu, lúc thì hết sức căng thẳng, ngột ngạt của
những người bị bắt, đánh trói mà vẫn không có tiền nộp sưu, lúc thì lại gay
cấn hồi hộp khi chị Dậu đương đầu với bọn người nhà lí trưởng. Bằng thủ
pháp nghệ thuật thay đổi giọng điệu trần thuật mà dẫn người đọc đi từ thú vị
này đến thú vị khác của truyện ngắn tiểu thuyết hóa.
Đúng như Standan đã nói: Văn học là tấm gương phản chiếu đời sống
xã hội, nhà văn là thư ký của thời đại (Balzac), nếu là nhà văn vĩ đại thì tác
phẩm của anh ta phản ánh ít ra vài ba khía cạnh chủ yếu của cuộc cách mạng
(Lênin). Vì thế mà truyện ngắn - tiểu thuyết hóa đã phản ánh hiện thực bằng
cái nhìn đa chiều tức là phản ánh sự kiện, kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm của
con người trong xã hội ấy.
1.1.2.2. Truyện ngắn - Kịch hóa
Theo quan niệm truyền thống, truyện phải có những phần lắt léo những
sự kiện mang tính kịch cao, kết thúc bất ngờ làm mọi người ngạc nhiên. Đó
chính là tiền đề cho những truyện có các sự kiện mang tính kịch cao. Nhưng
trong quá trình phát triển loại cốt truyện cũng có sự biến đổi. Văn xuôi tự sự
trung đại thường chú trọng đến hành động, sự kiện với những nội dung cốt
yếu mà không phát triển dông dài, không có yếu tố thừa như trong tiểu thuyết
và truyện ngắn hiện đại. Có cảm giác tác giả chỉ quan tâm đến sự kiện mà ít
nói tới miêu tả trạng thái tâm lý nhân vật. Đến đầu thế kỉ XX đã bắt đầu xuất
hiện những truyện mà số phận, tính cách của nhân vật tập trung khắc họa qua
những dòng sự kiện, biến cố và diễn biến nội tâm.
Ở khoảng mười năm cuối của giai đoạn 1900 - 1930 đã có nhiều truyện
ngắn mà các sự kiện trong truyện diễn ra không trùng khớp với thứ tự diễn
21
tiến như trong cốt truyện truyền thống. Những truyện kiểu này thường bắt đầu
bằng tình huống có tính cao trào để từ đó mà xoáy sâu vào phản ánh một số

hình tượng nhất định, ứng với nó là kiểu kết cấu phá vỡ tuyến tính thời gian
như Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn và một số truyện khác của
Nguyễn Công Hoan như: Oẳn tà roằn, Ngựa người và người ngựa, Răng
con chó nhà tư bản, Hai thằng khốn nạn. Những truyện này sẽ tạo cho
người đọc những ấn tượng nghệ thuật mới mẻ.
Ở truyện Sống chết mặc bay - Phạm Duy Tốn, mở đầu đã là cảnh đối
lập mang tính cao trào: hình ảnh hàng ngàn sinh linh đang náo loạn trước
nguy cơ đê vỡ- một sự kiện có tính đe dọa tới sự sống còn của bao người thì
quan phụ mẫu vẫn “uy nghi, chễm chệ ngồi " ngài vẫn "ù thông tôm, chi chi
nảy, điếu mày”. Kịch tính cứ được đẩy lên mãi, để rồi kết thúc truyện người
đọc thực sự phẫn nộ trước sự vô lương tâm, vô trách nhiệm và mất hết lương
tri của tên quan phụ mẫu đối với mạng sống của bao người dân nghèo khổ.
Truyện Răng con chó nhà tư bản của Nguyễn Công Hoan, tình huống
của truyện lại đặt vào cuối tác tác phẩm sau việc người ăn mày vì giành đĩa
thức ăn của con chó mà đấm gãy hai chiếc răng của con chó. Khiến cho tên
nhà giàu "nghiến răng nhảy lên ô tô nổ máy xình xịch, bật đèn pha lên" với
quyết tâm “ông kẹp cho mày chết tươi rồi ông đền mạng bất quá ba chục là
cùng”. Không cần phải nhiều lời bình luận, bản thân hành động ấy đã cho
thấy nhà tư bản kia hoàn toàn là một con ác thú phi nhân tính.
Về tính chất, có thể thấy đó là tình huống hành động trong đó nhân vật
bị đẩy lên một tình thế (thường là éo le) chỉ có thể giải quyết bằng hành động.
Tình huống này thường hướng tới một kiểu nhân vật: nhân vật hành động.
Tức là loại nhân vật chủ yếu được hiện lên bằng hệ thống hành vi, hành động
của nó, các bình diện khác ít được quan tâm. Do đó, nó quyết định đến diện
mạo của toàn truyện: truyện ngắn giàu kịch tính.
22
1.1.2.3. Truyện ngắn - trữ tình hóa
Trước kia, truyện ngắn thường là những tác phẩm tự sự thuần nhất.
Nhưng trong văn học hiện đại, nhiều loại hình truyện ngắn (trong đó có
truyện ngắn trữ tình) không còn mang tính chất tự sự thuần túy nữa. Truyện

ngắn hiện đại ra đời như là kết quả của quá trình giải cấu trúc và tái cấu trúc
các hình thức thể loại truyền thống.
Theo dõi sự phát triển truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỷ XX “chúng ta
chứng kiến sự xích lại gần nhau giữa thơ và văn xuôi - sự xích lại gần này
làm cho văn xuôi của chúng ta thêm nồng ấm, run rẩy, nhiều chất hội họa, cô
đọng hơn trong những ẩn dụ thấm vào từng câu từng đoạn. Việc xích lại gần
thơ làm cho văn xuôi trở nên vừa sâu sắc hơn, vừa dễ hiểu hơn. Thứ dòng
chảy này cần cho mọi truyện ngắn , nó giúp cho truyện có thể ngắn gọn mà
cần xúc tích" [59, tr.117-118]. Có một loại cốt truyện hầu như chưa thấy xuất
hiện trong văn học trung đại đó là những truyện không có cốt truyện - còn gọi
là "cốt truyện tâm lý" như Trằn trọc đêm xuân của Mân Châu, Giấc mộng
của Công Bình, Giọt lệ Hồng lâu của Hoàng Ngọc Phách, Tuyết Nga của
Tùng Toàn, À! Chiêm bao của Nguyễn Bá Học.
Truyện ngắn Tuyết Nga của Tùng Toàn là một truyện không có cốt
truyện. Mâu Thuẫn truyện không phải là mâu thuẫn xã hội mà là mâu thuẫn
trong nội tâm nhân vật Thanh Hà: mâu thuẫn giữa việc muốn cưới được người
đẹp Tuyết Nga một mẫu hình người con gái nết na, đoan chính và có học thức
với việc giữ được tình huynh đệ với Băng Hồ - người mà Tuyết Nga yêu, mâu
thuẫn giữa việc làm như sắc đẹp Tuyết Nga với việc giữ được cốt cách người
quân tử. Trọng tâm truyện Tuyết Nga đã chuyển từ sự kiện sang nhân vật từ
những điều trông thấy sang những điều cảm thấy. Đó là những xung đột nội
tâm trong lòng Thanh Hà để cuối cùng chọn một giải pháp thỏa đáng nhất cho
tình yêu của mình.
23
Nếu ở truyện ngắn trung đại, các sự kiện luôn giữ vai trò chính yếu thì
đến đầu thế kỷ XX đã xuất hiện những truyện mà sự kiện trở nên mờ nhạt, ý
nghĩa truyện nhiều khi không còn nằm ở cốt truyện mà nằm ở cách kể, cách
sử dụng các chi tiết để miêu tả nội tâm, miêu tả thế giới cảm giác của con
người về cuộc sống. Như ở Giọt lệ Hồng lâu của Hoàng Ngọc Phách, hầu
như không có những biến cố hay sự kiện gì đáng kể, chỉ có dòng tâm trạng

của cô gái lầu xanh với bao nỗi sầu thường lan tràn trên những trang giấy.
Có thể khẳng định với sự xuất hiện của kiểu truyện của kiểu truyện
không có cốt truyện thì những dòng cảm xúc, nội tâm của con người, những
vui buồn, hờn giận, ghen tuông, sầu tủi, nhớ mong, hạnh phúc của con người
đã được trải rộng trên trang giấy. Nếu chỉ có kiểu truyện truyền thống nặng về
các sự kiện xã hội thì chắc những dòng nội tâm đó được giãi bày nhiều như
thế cho nên nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định nó thuộc thể loại truyện
ngắn trữ tình.
1.2. Truyện ngắn trữ tình - những vấn đề về thể loại
Thế kỷ XX là thế kỷ có nhiều tìm kiếm, phát hiện mới về thể loại, vị trí
của thể loại trở nên rất quan trọng. Theo M.Bakhtin: "Thể loại chứ không phải
phương pháp hoặc trường phái sáng tác là những nhân vật chính của tấn kịch
lịch sử văn học. Mỗi thời đại lịch sử có hệ thống thể loại của mình, trong đó
những thể loại chính thể hiện tập chung nhất, nổi bật nhất tâm thức, tầm nhìn,
những mối quan tâm, những quan niệm và chuẩn mực giá trị con người trong
thời đại đó. Lịch sử văn học trước hết là lịch sử hình thành, phát triển tương
tác giữa các thể loại này" [6, tr.7-8]. Ngày nay, giới nghiên cứu văn học trên
thế giới rất quan tâm tới vấn đề thể loại (đặc biệt quan tâm tới thể loại) bởi thể
loại là một hiện tượng lịch sử, luôn luôn vận động và phát triển, luôn đòi hỏi
những tìm kiếm về lý thuyết và những thể nghiệm thực tiễn. Trong dòng
truyện ngắn hiện đại Việt Nam nói chung và thể loại truyện ngắn trữ tình nói
24
riêng mang những nét đặc trưng riêng về thể loại. Chính điều đó, chúng ta tìm
hiểu về những quan niệm về truyện ngắn trữ tình và kết cấu trong truyện ngắn
trữ tình.
1.2.1. Quan niệm về truyện ngắn trữ tình
Truyện ngắn trữ tình là kiểu truyện ngắn, một kiểu tổng hợp thể loại,
một mô hình nghệ thuật độc đáo có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố tự
sự (kể chuyện) với yếu tố trữ tình (tình cảm, cảm xúc, tâm trạng rung động)
hình thức là truyện nhưng nội dung và cấu trúc là tiểu thuyết. Đã có nhiều

công trình nghiên cứu cụ thể về thể loại trữ tình theo hướng tiếp cận khác
nhau. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau ở những điểm
chung cơ bản của thể loại này.
Như chúng ta đã biết, có rất nhiều công trình nghiên cứu về loại hình
truyện ngắn trữ tình, và cũng có nhiều quan niệm về ý kiến khác nhau về loại
hình này. Mặc dù có nhiều quan điểm ý kiến khác nhau nhưng họ vẫn gặp
nhau ở một điểm để khẳng định đặc điểm loại hình truyện ngắn trữ tình.
Cụ thể như Vương Trí Nhàn, Nguyễn Kiên, Bùi Việt Thắng, Phạm Thị
Thu Hương đều cho rằng truyện ngắn trữ tình gần với thơ về cách sắp xếp bố
cục, cấu tứ, tư duy mang chất trữ tình của thơ. Ngoài ra các tác giả truyện
ngắn trữ tình không quan tâm đến nhân vật hay cốt truyện.
Còn bàn về cốt truyện truyện ngắn trữ tình thì Vương Trí Nhàn và Bùi
Việt Thắng, Phạm Thị Thu Hương, Nguyễn Văn Đấu có quan điểm giống
nhau, cho rằng truyện ngắn trữ tình là loại truyện gần như thơ khó tóm tắt
được cốt truyện. Vì cốt truyện không tiêu biểu mà nếu có thì đó chỉ là cốt
truyện tâm lý mà thôi.
Xét về chức năng nhân vật, Nguyễn Văn Đấu cho rằng nhân vật tiêu
biểu của truyện ngắn trữ tình là nhân vật loại hình và nhân vật tư tưởng. Ý
kiến Nguyễn Văn Đấu cũng đồng nhất với ý kiến của Bùi Việt Thắng, nhân
25
vật trữ tình được cảm nhận qua tâm thức hoặc nhân cách của nhân vật. Có
nghĩa là nhân vật truyện ngắn trữ tình không xuất hiện bằng vẻ bề ngoài mà
xuất hiện qua việc khắc họa tính cách mà chủ yếu tái hiện thế giới nội tâm
phong phú. Qua tâm lý cảm xúc của con người đó nhằm bộc lộ một tư tưởng
có ý nghĩa nhân sinh sâu rộng.
Phạm Thị Thu Hương cho thấy truyện ngắn trữ tình mang đậm yếu tố
chủ quan của nhà văn thể hiện ở tất cả các phương diện nghệ thuật, từ tả cảnh,
tả tình hay tả nội tâm của nhân vật.
Như vậy, các bài viết, các công trình nghiên cứu nên trên bước đầu đã
có những thống nhất về đặc điểm truyện ngắn trữ tình: Truyện ngắn trữ tình

gần với thơ, mang đậm chất thơ của đời sống bình dị của tình người. Truyện
ngắn trữ tình thường phi cốt truyện hoặc cốt truyện mờ nhạt, chủ yếu là cốt
truyện tâm lý. Nhân vật truyện ngắn trữ tình thường không mô tả ngoại hình,
khắc họa tính cách mà chủ yếu tái hiện thế giới nội tâm với những cảm giác,
tâm trạng của nhân vật mô tả vô cùng phong phú, tinh tế, phức tạp. Truyện
ngắn trữ tình còn quan tâm miêu tả những bức tranh thiên nhiên. Trong
truyện ngắn trữ tình, tính chủ quan của người nghệ sỹ sáng tạo cũng được thể
hiện tương đối đậm nét. Kết cấu truyện có kết cấu gần với cấu tứ thơ trữ tình.
Những đặc điểm ở trên cho ta thấy truyện ngắn trữ tình có một vị trí ngang
bằng độc lập với các dòng truyện ngắn khác. Với những đóng góp không nhỏ
của các tác giả truyện ngắn trữ tình, truyện ngắn trữ tình có một vị trí quan
trọng trong dòng chảy của truyện ngắn trữ tình Việt Nam hiện đại tạo nên sự
đa diện cho bộ mặt văn học dân tộc.
1.2.2. Vấn đề kết cấu trong truyện ngắn trữ tình
Một tác phẩm văn học, dù dung lượng lớn hay nhỏ cũng đều là những
chỉnh thể nghệ thuật, bao gồm nhiều yếu tố, bộ phận Tất cả những yếu tố,
bộ phận đó được nhà văn sắp xếp, tổ chức theo một trật tự, hệ thống nào đó

×