1
Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học s phạm hà nội 2
************
Đỗ VĂN DũNG
Bồi dỡng học sinh khá, giỏi về môn toán lớp 4, 5 thông qua việc dạy học
các bài toán mang nội dung hình học
Chuyên ngành: Giáo dục học (Bậc tiểu học)
Mã số : 60 14 01
Tóm tắt luận văn thạc sĩ
Xuân Hòa, 2009
2
1. Lí do chọn đề tài
Sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa và tiến trình hội nhập quốc tế
của đất nước đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao, năng động, sáng tạo và
phẩm chất đạo đức tốt. Để đáp ứng nhu cầu đó ngành giáo dục cần đổi mới
toàn diện. Do vậy với văn kiện đại hội đảng lần thứ X của ban chấp hành
trung ương đảng khóa IX đã khẳng định “…ưu tiên hàng đầu cho việc nâng
cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy
và học… Phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của HS…”
Điều 28 luật giáo dục qui định “phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc
điểm của từng môn học, lớp học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng
làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS.
Thực hiện yêu cầu trên, ngành giáo dục nước ta có chủ trương đổi mới
nội dung, chương trình SGK. Với nội dung chương trình SGK mới thì việc
đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức
của HS là thật sự cần thiết.
Trong dạy học vật lí với những phương pháp đặc thù như phương pháp
thực nghiệm, phương pháp mô hình cũng như gắn liền bài giảng với thực tiễn
cuộc sống hằng ngày là nhiệm vụ quan trọng. Tuy nhiên, trong nhiều phần vật
lí phổ thông thiết bị thí nghiệm còn thiếu và cũ nên không tạo điều kiện tốt
cho phương pháp thực nghiệm và mô hình, nhiều hiện tượng không thể hoặc
khó quan sát bằng mắt thường. Với các thiết bị thông thường của phòng thí
nghiệm sẽ gặp khó khăn trong phân tích số liệu và mất nhiều thời gian… do
đó nhiều kiến thức thường được đưa ra dưới dạng thông báo. HS không có
phương tiện để hỗ trợ nghiên cứu, cho nên chưa phát huy được tính tích cực,
tự chủ của người học. Khắc phục những khó khăn trên người ta luôn tìm cách
3
sử dụng và phối hợp các phương tiện trong dạy học sao cho là hiệu quả nhất,
đặc biệt là không ngừng nghiên cứu và phát triển những phương tiện mới,
nhằm hỗ trợ, nghiên cứu các quá trình, hiện tượng vật lí.
Những năm gần đây sự phát triển của khoa học công nghệ đặc biệt là
CNTT, những thành tựu của nó đã được đưa vào ứng dụng trong các lĩnh vực
xã hội, kinh tế, khoa học kĩ thuật và trong cả giáo dục. Chỉ thị 22/2005/CT-
BGD và DT của bộ trưởng bộ Giáo Dục và Đào Tạo về nhiệm vụ của toàn
ngành trong năm học 2005-2006 đã nêu: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương
pháp dạy và học; tăng cường ứng dụng CNTT trong các hoạt động của nhà
trường, nhất là ứng dụng trong giảng dạy và học tập…”. Dạy học với sự trợ
giúp của máy tính và các phần mềm bước đầu đã khắc phục những khó khăn
mà phương tiện truyền thống trước đây chưa giải quyết được.
Tìm hiểu thực tế giảng dạy chương “Điện tích- Điện trường” ở trường
phổ thông, chúng tôi nhận thấy rằng trong chương này có nhiều kiến thức cần
phải nghiên cứu bằng thực nghiệm, nhưng với thực nghiệm chúng ta cũng chỉ
có thể thấy được hiện tượng xảy ra mà không thấy được bản chất của các hiện
tượng đó vì vậy HS sẽ thụ động trong quá trình chiếm lĩnh tri thức do đó ảnh
hưởng đến chất lượng nắm vững kiến thức của HS. Những điều trên có thể
khắc phục nhờ việc sử dụng một số PMDH kết hợp với thí nghiệm thực.
Xuất phát từ những lí do trên tôi chọn đề tài: “Sử dụng một số phần
mềm dạy học kết hợp với thí nghiệm thực khi dạy phần “Điện tích- Điện
trường” (SGK Vật lí 11 nâng cao) nhằm phát huy tính tích cực, tự lực nhận
thức của học sinh.”
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng một số phần mềm mô phỏng kết hợp với thí nghiệm
thực khi dạy học phần “Điện tích- Điện trường” (SGK Vật lí 11 nâng cao) để
phát huy tính tích cực, tự lực chiếm lĩnh tri thức của HS.
3. Đối tượng nghiên cứu
4
- Hoạt động dạy và học vật lí ở trường phổ thông.
- Nghiên cứu sử dụng một số phần mềm mô phỏng kết hợp với thí
nghiệm thực khi dạy một số kiến thức chương “Điện tích- Điện trường” (SGK
Vật lí 11 nâng cao)
4. Giả thuyết khoa học
Nếu sử dụng một cách hợp lí một số phần mềm mô phỏng kết hợp với thí
nghiệm thực khi dạy một số kiến thức trong chương “Điện tích- Điện trường”
thì sẽ nâng cao được tính tích cực, tự lực nắm vững kiến thức của HS.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận dạy học theo quan điểm dạy học hiện đại.
- Nghiên cứu lí luận về vấn đề phát huy tính tích cực của HS.
- Nghiên cứu lí luận về việc sử dụng MVT và PMDH.
- Điều tra thực trạng dạy học chương “Điện tích- Điện trường”.
- Soạn một số giáo án theo phương án đề ra.
- Thực nghiệm sư phạm.
6. Giới hạn của đề tài
Nghiên cứu sử dụng phần mềm mô phỏng kết hợp với thí nghiệm thật
khi dạy một số kiến thức trong chương “Điện tích- Điện trường” (SGK Vật lí
11 nâng cao) để phát huy tính tích cực chiếm lĩnh tri thức của HS.
7. Phương pháp nghiên cứu
Phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu lí luận: Nghiên cứu các tài liệu về lí luận dạy học vật lí làm cơ
sở định hướng cho quá trình nghiên cứu: Vấn đề phát huy tính tích cực, tự chủ
chiếm lĩnh tri thức của HS. Lí luận về MVT và PMDH.
- Điều tra khảo sát thực tế: Dự giờ, dùng phiếu điều tra, trao đổi trực tiếp
với GV để nắm được tình hình soạn giáo án, tổ chức dạy học, dùng bài kiểm
tra để làm cơ sở đánh giá mức độ nhận thức của HS đối với kiến thức trong
chương “Điện tích- Điện trường”.
5
- Thực nghiệm sư phạm: Để đánh giá tính khả thi và hiệu quả của tiến
trình dạy học đã soạn thảo. Từ đó sửa đổi, bổ xung để hoàn thiện.
- Sử dụng phương pháp thống kê toán học để phân tích, sử lý số liệu.
8. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ hơn cơ sở lí luận về tính tích cực nhận thức của HS.
- Thiết kế một số bài học có sử dụng một số PMDH kết hợp với thí
nghiệm thực khi dạy phần “Điện tích- Điện trường” (SGK Vật lí 11 nâng
cao).
9. Cấu trúc của luận văn
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1. Cơ sở lí luận của đề tài
Chương 2. Sử dụng PMDH kết hợp thí nghiệm thực trong dạy học một
số kiến thức phần “Điện tích- Điện trường”
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
Mục lục
6
Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Trên thế giới, vấn đề “ứng dụng CNTT trong dạy học Vật lí” đã được
nhiều nhà lí luận dạy học quan tâm. Các tác giả Vincentas Lamanauskas,
Rytis Vilkonis đã tiến hành nghiên cứu soạn bài giảng online. Đồng thời các
tác giả cũng nêu nên lợi ích khi sử dụng phần mềm ứng dụng trong dạy học
vật lí (như diễn tả được bản chất của các quá trình…)
Trong nước, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trong các tạp chí
nghiên cứu giáo dục, các báo cáo trong các hội thảo khoa học của các tác giả
như Lê Công Triêm, Phạm Xuân Quế, Nguyễn Quang Lạc, Nguyễn Mạnh
Cường, Quách Tuấn Ngọc, Mai Văn Trinh… về việc sử dụng CNTT và thí
nghiệm trong dạy học vật lí. Như: Lê Công Triêm (2002), “Sự hỗ trợ của
MVT đối với hệ thống Mutimedia trong dạy học”, Tạp chí giáo dục, tháng 3;
Phạm Xuân Quế (2002), “Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học Vật lí
phổ thông với sự hỗ trợ của MVT và phần mềm dạy học”, Tạp chí giáo dục,
số 27, tr 31; Mai Văn Trinh- Nguyễn Ngọc Lê Nam, “Mô phỏng và thí
nghiệm ảo trong dạy học Vật lí ở trường trung học phổ thông” , Số 189, Kì 1,
tháng 5/2008; Trần Chí Minh, “Thí nghiệm vật lí với sự trợ giúp của máy tính
điện tử”, NXB Đại học Bách Khoa Hà Nội… Trong công trình của mình, các
tác giả đều nhấn mạnh vai trò quan trọng của CNTT trong dạy học hiện nay
và việc ứng dụng một cách có hiệu quả vào quá trình dạy học. Trong bài báo
“Sử dụng thiết bị TN tự làm” của Lê Cao Phan [24]. Tác giả cho rằng: Khả
năng sử dụng thiết bị TN vật lý tự làm rất phong phú, đa dạng. Nếu GV biết
khai thác thì có thể đáp ứng những yêu cầu khác nhau trong dạy học vật lý,
góp phần tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS.
7
Các luận án tiến sĩ cũng đề cập khá nhiều đến việc ứng dụng CNTT
trong dạy học như luận án của Nguyễn Xuân Thành “Xây dựng phần mềm
phân tích video và tổ chức hoạt động nhận thức của HS trong dạy học các quá
trình cơ học biến đổi nhanh theo quan điểm của lí luận dạy học hiện đại”; Mai
Văn Trinh với “Nâng cao hiệu quả dạy học Vật lí trong nhà trường phổ thông
trung học thông qua việc sử dụng MVT và các phương tiện dạy học hiện đại”
đã sử dụng một số ngôn ngữ lập trình xây dựng một số PMDH vật lí. Những
phần mềm này nhằm mục đích mô phỏng, minh hoạ các hiện tượng, các quá
trình để hỗ trợ giáo viên giảng dạy phần Quang hình và Động học. Trần Huy
Hoàng với “Nghiên cứu sử dụng thí nghiệm với sự hỗ trợ của MVT trong dạy
học một số kiến thức cơ học và nhiệt học phổ thông” thì đề cập đến việc sử
dụng MVT để tạo ra các thí nghiệm ảo hoặc thí nghiệm mô phỏng, từ đó thiết
kế tiến trình dạy học cho một số bài phần cơ học và nhiệt học lớp 10.
Ngoài ra còn một số luận văn thạc sĩ đề cập đến việc sử dụng CNTT và
thí nghiệm trong dạy học Vật lí như Nguyễn Thị Ánh Hà, Nguyễn Thị Kim
Thu sử dụng Microsoft Powerpoit để thiết kế bài giảng và giảng dạy Vật lí ở
trường phổ thông. Tác giả Ngô Thị Duyên sử dụng thí nghiệm khi dạy phần
tính chất sóng, tính chất hạt của ánh sáng, vật lí 12, nhằm phát huy tính tích
cực, tự lực của HS. Trong luận văn của mình, tác giả Hà Thị Thu đi xây dựng
tiến trình dạy học một số bài chương “Các dụng cụ quang học” có sử dụng
PMDH. “Sử dụng TN trong giờ học vật lý nhằm phát huy tính tích cực, tự lực
và bồi dưỡng tư duy khoa học cho HS khi dạy phần Từ trường - Cảm ứng
điện từ” của Hứa Thị Thắng. Đề tài đã nêu ra và giải quyết được một số vấn
đề về lý luận và thực tế phong phú đồng thời vận dụng xây dựng tiến trình
dạy học phần “Từ trường - Cảm ứng điện từ”…
Tuy vậy cho tới nay việc kết hợp PMDH với thí nghiệm thực khi dạy
học vật lí phổ thông chưa được các tác giả quan tâm nhiều.
8
1.2. NHIỆM VỤ CỦA VIỆC GIẢNG DẠY VẬT LÝ Ở PHỔ THÔNG.
1.2.1. Đặc điểm của môn vật lí
Môn vật lí là một môn khoa học thực nghiệm, hầu hết các kiến thức vật
lí được khái quát, kiểm chứng qua thực nghiệm. Qua thực nghiệm các kiến
thức thu được về các sự vật hiện tượng vật lí, mới có tính xác thực và đảm
bảo nguyên tắc khách quan.
Vật lí là một ngành học nghiên cứu các quy luật, các tính chất chung
nhất của cấu trúc, sự vận động của vật chất. Vật lí không chỉ liệt kê, mô tả
hiện tượng mà đi sâu nghiên cứu bản chất, khảo sát mặt định lượng và tìm ra
các qui luật chung của chúng.
Khi nghiên cứu các sự vật hiện tượng vật lí một cách định lượng, trong
vật lí dùng công cụ chủ yếu là toán học để biểu diễn mối quan hệ và các qui
luật biến đổi của các đại lượng vật lí với nhau. Do đó vật lí là môn khoa học
mang tính chính xác.
Sự phát triển của vật lí có liên quan mật thiết với các kiến thức về hoá
học, sinh học, công nghệ, triết học… đặc biệt quá trình phát triển của vật lí
gắn liền với sự phát triển sản xuất và khoa học công nghệ hiện đại.
1.2.2. Các nhiệm vụ cơ bản của việc dạy học vật lí ở trường phổ thông
- Trang bị cho HS những kiến thức phổ thông, cơ bản , hiện đại, có hệ
thống bao gồm:
+ Các khái niệm vật lí
+ Các định luật vật lí cơ bản
+ Nội dung chính của các thuyết vật lí
+ Các ứng dụng quan trọng nhất của vật lí trong đời sống và trong sản
xuất
+ Các phương pháp nhận thức phổ biến dùng trong vật lí .
9
- Phát triển tư duy khoa học cho HS: Rèn luyện những thao tác, hành
động, phương pháp nhận thức cơ bản nhằm chiếm lĩnh kiến thức vật lí, vận
dụng sáng tạo để giải quyết vấn đề trong học tập và thực tiễn sau này.
- Trên cơ sở kiến thức vật lí vững trắc, có hệ thống, bồi dưỡng cho học
sinh thế giới quan duy vật biện chứng, giáo dục lòng yêu nước, thái độ đối với
lao động, đối với cộng đồng và những đức tính khác của người lao động .
- Góp phần giáo dục kĩ thuật tổng hợp và hướng nghiệp cho HS, làm
cho HS lắm được những nguyên lý cơ bản về cấu tạo và hoạt động của may
móc được dùng phổ biến trong nền kinh tế quốc dân. Có kĩ năng sử dụng
những dụng cụ vật lí, đặc biệt là những dụng cụ đo lường, kĩ năng lắp ráp
thiết bị để thực hiện các thí nghiệm vật lí, vẽ biểu đồ, xử lý các số liệu đo đặc
để rút ra. Những kiến thức, kĩ năng đó giúp cho HS sau này có thể thích ứng
được với hoạt động lao động sản xuất trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hoá đất nước.
1.3. Hoạt động nhận thức và vấn đề phát huy tính tích cực, tự lực nhận
thức của HS
1.3.1. Hoạt động nhận thức
Nhận thức là một quá trình. Ở con người quá trình này thường gắn với
mục đích nhất định nên nhận thức của con người là một hoạt động. Đặc trưng
nổi bật nhất của hoạt động nhận thức là phản ánh hiện thực khách quan. Hoạt
động này bao gồm nhiều quá trình khác nhau, thể hiện những mức độ phản
ánh hiện thực khác nhau (cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng ) và mang
lại những sản phẩm khác nhau về hiện thực khách quan (hình ảnh, hình tượng,
biểu tượng, khái niệm…)
1.3.2. Tính tích cực hoạt động nhận thức và các biểu hiện của tính tích
cực hoạt động nhận thức
10
1.3.2.1. Khái niệm tính tích cực
Tính tích cực là một tập hợp các hoạt động nhằm chuyển biến vị trí của
người học từ thụ động sang chủ động, từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ
động tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả học tập.
Tính tích cực nhận thức là trạng thái hoạt động nhận thức của HS đặc
trưng ở khát vọng học tập, sự cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình
lắm vững kiến thức. Tính tích cực nhận thức vừa là mục đích hoạt động vừa là
vừa là phương tiện, vừa là điều kiện để đạt được mục đích, vừa là kết quả của
hoạt của hoạt động. Tính tích cực nhận thức chính là phẩm chất, sự cố gắng
của mỗi cá nhân. Đối với HS đòi hỏi phải có những nhân tố tích cực lựa chọn
thái độ đối với đối tượng nhận thức, đề ra cho mình mục đích, nhiệm vụ cần
giải quyết sau khi đã lựa chọn đối tượng, cải tạo đối tượng trong hoạt động
giải quyết các vấn đề sau này.
1.3.2.2. Biểu hiện của tính tích cực hoạt động nhận thức của HS
Tính tích cực biểu hiện ở:
- Sự chú ý học tập của HS, sự hăng hái tha gia vào giải quyết các vấn đề
học tập.
- Thường xuyên có những thắc mắc, đòi hỏi GV giải thích cặn kẽ
những vấn đề chưa rõ.
- Có hứng thú học tập không?
- HS chủ động linh hoạt các kiến thức, kĩ năng hoạt động để nhận thức
các vấn đề mới.
- HS mong muốn được đóng góp những thông tin, kiến thức mới được
tìm hiểu ở những nguồn khác nhau.
11
- Biết vận dụng kiến thức vào giải bài tập hoặc áp dụng vào trong thực
tiễn.
- Có quyết tâm, ý chí vươn lên trong học tập, có khả năng sáng tạo
trong giải quyết các vấn đề học tập.
Mức độ tích cực của HS phụ thuộc vào những yếu tố:
- Vốn kiến thức của HS
- Cách tổ chức hoạt động nhận thức của GV
Những dấu hiệu thể hiện mức độ tích cực của HS
- Thái độ tự giác của HS tham gia vào hoạt động nhận thức như thế
nào?
- Tích cực nhất thời hay thường xuyên liên tục?
- Tích cực ngày càng tăng hay giảm dần?
- Có kiên trì vượt khó hay không?
Những cấp độ khác nhau của tính tích cực hoạt động nhận thức
- Tính tích cực tái hiện: Chủ yếu dựa vào trí nhớ và tư duy tái hiện, học
sinh tích cực bắt chước giáo viên và bạn bè.
- Tính tích cực tìm tòi: HS tự tìm cách giải quyết các vấn đề đã nêu ra,
mò mẫn các cách giải quyết khác nhau để tìm ra câu trả lời tối ưu nhất.
- Tích cực sáng tạo: Là cấp độ cao nhất của tính tích cực của HS, có
khả năng mang kiến thức đã biết vào một tình huống mới. Phát hiện những
vấn đề mới trong tình huống đã biết. HS khẳng định con đường của mình
không giống như những con đường mà mọi người đã thừa nhận để đạt được
mục đích.
Nguyên nhân của tính tích cực nhận thức:
12
Tính tích cực nhận thức của HS nảy sinh trong quá trình học tập nhưng
nó lại là kết quả của nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân hình thành từ quá
khứ, thậm trí từ lịch sử lâu dài của nhân cách.
Tính tích cực nhận thức phụ thuộc vào những yếu tố: Hứng thú, nhu
cầu, động cơ, năng lực, ý trí, sức khoẻ, môi trường… Trong đó hứng thú là
nhân tố được các thày, cô quan tâm nhất vì:
+ Nó có thể hình thành ở HS một cách nhanh chóng và bất kì lúc
nào trong quá trình dạy học.
+ Có thể gây hứng thú cho HS ở mọi lứa tuổi.
+ Điều quan trọng hơn cả là nó nằm trong tầm tay của người thày.
Người thày có thể điều khiển hứng thú của học sinh qua các yếu tố của quá
trình dạy học: Nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức qua
các bước lên lớp như mở bài, bài giảng mới, củng cố, vận dụng, kiểm tra kiến
thức và trong cả mối quan hệ của thày và trò.
1.3.3. Tính tự lực trong hoạt động nhận thức
Tính tích cực trong hoạt động nhận thức là hạt nhân của tính tự lực.
Theo nghĩa rộng bản chất của tính tự lực nhận thức là sự sẵn sàng về mặt tâm
lý cho sự tự học, được biểu hiện: ý thức nhu cầu học tập của mình, yêu cầu xã
hội, của tập thể hoặc nhiệm vụ do người khác đề ra đối với việc học tập của
mình, ý thức được mục đích học tập và thực hiện được mục đích đó; suy nghĩ,
đánh giá được những điều kiện học tập của mình.Trên cơ sở đó xác định
những cách thức hợp lý hơn cả để giải quyết nhiệm vụ và yêu cầu học tập.
Hiểu theo nghĩa hẹp tính tự lực nhận thức là năng lực, nhu cầu học tập và tính
tổ chức học tập cho phép HS tự học.
Như vậy tính tự lực nhận thức có những thành phần cấu trúc như sau:
Động cơ nhận thức, năng lực học tập, tổ chức học tập, hành động duy trí.
13
1.3.4. Tính tích cực, tự lực nhận thức với vấn đề chất lượng học tập
1.3.4.1. Mối quan hệ giữa tính tích cực và tính tự lực nhận thức.
Cơ sở hình thành tính tích cực là tính tự giác, tính tích cực phát triển
đến một mức nào đó thì hình thành tính tự lực. Như vậy tính tự lực chứa đựng
trong nó cả tính tự giác và tính tích cực.
Tính tích cực nhận thức quan hệ mật thiết với tính tự lực nhận thức,
tính tích cực nhận thức là điều kiện cần thiết của tính tự lực nhận thức. Không
thể có cái nọ mà không có cái kia, tính tích cực nhận thức là kết quả và biểu
hiện của sự nảy sinh, phát triển của tính tự lực nhận thức. Trong tính tự lực
nhận thức đã thể hiện tính tích cực nhận thức, đồng thời sự thể hiện đó có tác
dụng định hướng cá nhân đến tính tự lực nhận thức ở mức độ cao hơn.
1.3.4.2. Vai trò của tính tích cực, tự lực nhận thức
Theo quan điểm của giáo dục học hiện đại thì: Dạy học là dạy cho HS
biết hành động. Mỗi hoạt động dạy là một sự tác động tương hỗ có định
hướng của người dạy, người học và đối tượng nghiên cứu. Hoạt động dạy học
chỉ được xảy ra khi có hoạt động tích cực của HS.
Do vậy GV phát huy tính tích cực của người học trong giảng dạy sẽ có
ảnh hưởng tốt đến chất lượng dạy học. Vì thế trong quá trình này GV phải
biết kết hợp chặt chẽ bài giảng với hoạt động của HS, có như vậy HS mới
chăm chú nghe giảng, tham gia tích cực vào giải quyết các vấn đề học tập. Do
vậy HS lắm được tri thức, kỹ năng, kỹ sảo, hình thành được những năng lực
phẩm chất mà mục tiêu dạy học đã đề ra.
Như vậy vai trò của tính tích cực tự lực của HS rất quan trọng, nó tạo
điều kiện để HS tiếp thu tốt các kiến thức mới, đồng thời phát triển được tư
duy và biến các kiến thức vừa tiếp thu được thành vốn kiến thức riêng của
mình.
14
1.3.5. Các biện pháp phát huy tính tích cực của HS
Phát huy tính tích cực nhận thức không phải là vấn đề mới. Từ thời cổ
đại các nhà sư phạm tiền bối như Khổng Tử, Aristot… đã từng nói đến tầm
quan trọng to lớn của việc phát huy tính tích cực chủ động của HS và đã nói
lên nhiều biện pháp, phát huy tính tích cực nhận thức.
Trong thế kỷ XX, các nhà giáo dục Đông, Tây đều tìm kiếm con đường
tích cực hoá hoạt động dạy học. Đó là tư tưởng của các nhà giáo dục nổi tiếng
như: B.P Êxipôp, I. Xamova, M.A.Danikop (Liên Xô), Okon (Ba Lan),
Skinner (Mỹ)… Ở Viện Nam các nhà lý luận dạy học như GS Hà Thế Ngữ,
GS Đặng Vũ Hoạt…cũng đã viết nhiều về tính tích cực hoạt động nhận thức.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để phát huy tính tích cực tự lực nhận thức
của HS?
Các biện pháp nâng cao tính tích cực nhận thức của HS có thể tóm tắt
như sau:
- Nói lên ý nghĩa lí thuyết và thực tiễn, tầm quan trọng của vấn đề
nghiên cứu.
- Nội dung dạy học phải mới, những cái mới ở đây không phải quá xa
lạ với học sinh, các mới phải liên hệ và phát triển cái cũ. Kiến thức phải có
tính thực tiễn, gần gũi với sinh hoạt, với suy nghĩ hàng ngày, thoả mãn nhu
cầu nhận thức của các em
- Phải dùng các phương pháp đa dạng: Nêu vấn đề, thí nghiệm, thực
hành, so sánh, làm việc độc lập và phối hợp chúng với nhau. Kiến thức phải
được trình bày trong dạng động, phát triển và mâu thuẫn với nhau, Những vấn
đề quan trọng, các hiện tượng then chốt có lúc diễn ra một cách đột ngột, bất
ngờ
15
- Sử dụng các phương tiện dạy học, đặc biệt ở các lớp nhỏ, dụng cụ
trực quan có tác dụng tốt trong việc kích thích hứng thú của học sinh.
- Sử dụng các hình thức tổ chức dạy học khác nhau: Cá nhân, nhóm,
tập thể, thăm quan, làm việc trong vườn trường trong phòng thí nghiệm…
- Thầy giáo, bạn bè động viên, khen thưởng khi có thành tích học tập
tốt.
- Luyện tập dưới các hình thức khác, vận dụng kiến thức vào thực
tiễn vào các tình huống mới.
- Kính thích tính tính cực qua thái độ, cách ứng xử giữa thầy giáo và
học sinh.
- Phát triển kinh nghiệm sống của học sinh trong học tập.
1.4. VAI TRÒ CỦA MVT VÀ PMDH TRONG DẠY HỌC VẬT LÝ
1.4.1. Các chức năng cơ bản của MVT
MVT là một phương tiện kĩ thuật có nhiều điểm mạnh để hỗ trợ cho
những hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau của con người. Những điểm
mạnh này cũng đang được khai thác để hỗ trợ quá trình dạy học.
Trước hết MVT là thiết bị có thể tạo nên, lưu trữ trong máy và hiển thị
lại lên màn hình một khối lượng thông tin vô cùng lớn dưới dạng như văn
bản, hình ảnh và âm thanh mà các giác quan của con người có thể tiếp nhận
được. Hơn nữa việc truy cập cũng như trao đổi giữa người và máy rất thuận
tiện với các nội dung bất kì trong khối lượng thông tin khổng lồ hết sức dễ
dàng, nhanh chóng, chính xác, hơn mọi phương pháp thường sử dụng.
Kĩ thuật đồ hoạ đẹp, phong phú, chân thực, sống động, phản ánh trung
thành màu sắc tự nhiên, từ đó tạo điều kiện mô phỏng nhiều quá trình, hiện
16
tượng trong tự nhiên, xã hội và con người đặc biệt là những quá trình không
thể hoặc khó có thể sảy vì sự hạn chế của không gian, thời gian và nguy hiểm.
MVT có khả năng tính toán, sử lý cực kì nhanh một khối lượng thông
tin vô cùng lớn, cho ra các kết quả được hiển thị dưới dạng chuẩn như: bảng
biểu, đồ thị, biểu đồ , tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu mà các
phương tiện tính toán khác không bao giờ thực hiện được. Chức năng ưu việt
này của máy vi tính đã giúp con người thực hiện được những khối lượng công
việc tính toán vô cùng lớn trong khoảng thời gian vô cùng nhỏ và kết quả lại
hoàn toàn chính xác.
MVT còn có thể ghép nối với các thiết bị nghiên cứu khác để thành
một thiết bị mới có chất lược cao hơn hẳn thiết bị cũ. Các thiết bị mới này
hiện nay thay thế hầu hết các thiết bị cũ trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa
học, sản xuất ở các nước phát triển trên thế giới
Nhờ phần mềm thông qua MVT tính có thể điều khiển hoàn toàn tự
động các quá trình theo chương trình cài đặt sẵn.
Thời gian vừa qua với sự phát triển vượt bậc của kỹ thuật sử ký máy
tính đã làm cho PMDH sinh động và hiệu quả hơn.
1.4.2. Khái quát về phần mềm dạy học
Trong tin học thuật ngữ phần mềm được dùng nói về các chương trình
dùng để điều khiển hoạt động của máy tính, sử lý dữ liệu phục vụ cho một
ứng dụng cụ thể trong hoạt động kinh tế, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ an
ninh hoặc quốc phòng… ví dụ như chương trình tính lương cho một xí
nghiệp, chương trình phục vụ điều tra dân số… và trong giáo dục chúng ta có
các PMDH.
1.4.2.1. Khái niệm phần mềm dạy học
17
PMDH là các phần mềm được tạo ra nhằm trợ giúp quá trình dạy học,
bao gồm các đơn vị tri thức, các bài tập từ đơn giản đến phức tạp tạo điều
kiện cho việc kĩnh hội tri thức.
Dựa trên mục đích của lý luận dạy học ta có thể phân loại phần mềm
theo chức năng dạy học như:
+ Phần mềm gợi động cơ.
+ Phần mềm làm việc với động cơ mới.
+ Phần mềm ôn tập, luyện tập.
+ Phần mềm kiểm tra đánh giá.
1.4.2.2. Yêu cầu sư phạm của PMDH
PMDH cần được tích hợp kiến thức đầy đủ của lĩnh vực dạy và những
phương pháp sư phạm thuyết phục, tạo ra một môi trường giao tiếp tích cực,
có khả năng dạy học trong thế giới thực.
PMDH tốt phải tính tới các phương pháp dạy học tiên tiến (quan điểm
dạy học lấy học sinh làm trung tâm). Phải xác định rõ PMDH được sử dụng ở
khâu nào của tiến trình dạy học, nhằm hình thành kiến thức, kĩ năng và phát
triển năng lực của HS. Hứng thú của HS phụ thuộc chủ yếu vào hiệu quả của
phần mềm.
Nội dung dạy học chứa đựng trong chương trình phải đảm bảo tính
chính xác và khoa học. Các văn bản, hình vẽ, biểu đồ, đồ thị phải chính xác,
trình bày phải rõ dàng, trong sáng, cô đọng, dễ hiểu. Tránh làm dụng các thuật
ngữ chuyên ngành tin học bằng tiếng nước ngoài chưa phổ biến trong trường
phổ thông.
Các PMDH phải giúp tăng cường tính trực quan. Nội dung trình bày
trên màn hình MVT phải rõ dàng, lượng thông tin trình bày phải vừa đủ,
18
không đưa ra quá nhiều văn bản dài dòng hay hình vẽ, sơ đồ quá phức tạp dễ
gây nhiễu đối với HS. Có thể hiển thị trên màn hình cùng lúc nhiều cửa sổ
làm việc để HS có thể quan sát, đối chứng, thấy được mối liên hệ giữa các nội
dung được trình bày. Cần sử dụng kheo léo các màu sắc, kích thước hình vẽ,
kích cỡ văn bản để định hướng được sự quan sát của HS.
Các PMDH phải phù hợp với chức năng dạy học mà nó đảm nhận. Tốt
nhất là mỗi PMDH nên có phần gợi ý cách thức sử dụng vào dạy học để GV
và HS dễ sử dụng.
Các PMDH phải phù hợp với trình độ tin học của GV và HS.
Các PMDH phải tăng cường được khả năng tự học của HS.
Các PMDH phải phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi HS, phải đảm bảo vệ
sinh học đường. Muốn vậy phải chú ý đến cường độ ánh sáng trên màn hình,
đến màu sắc thể hiện cũng như âm thanh mà phần mềm mang lại cho người
sử dụng
1.4.2.3. Yêu cầu kĩ thuật của PMDH
PMDH được xây dựng trên cơ sở lao động kết hợp chặt chẽ giữa hai
nhóm chuyên gia: Chuyên gia giáo dục và chuyên gia tin học (hay là trên hai
mảng kiến thức giáo dục và kiến thức tin học). Các chuyên gia phải căn cứ
vào các thực tiễn chương trình nội dung cụ thể của môn học trong từng giai
đoạn dạy học các tri thức cụ thể, có hiểu biết về tin học để đề ra được bài toán
sự phạm, xây dựng được kịch bản cho PMDH. Các chuyên gia tin học phải
hiểu biết về thực tiễn dạy học để có sự hiểu biết ý đồ sư phạm của chuyên gia
giáo dục để thực thi một cách khoa học và uyển chuyển.
Các PMDH phải có độ linh động cao. Yêu cầu này thể hiện ở chỗ
PMDH cho phép người sử dụng có thể thay đổi các thông số của chương trình
một cách dễ dàng để giải quyết một nội dung học tập hay một bài tập mới.
19
Các PMDH phải đảm bảo yêu cầu về tổ chức quản lý, tìm kiếm và
truy cập các thông tin.
Các PMDH phải đảm bảo yêu cầu về mặt ổn định của các phần mềm.
Khi sử dụng người dùng có thể bấm các phím ngoại lai ngoài ý muốn của
người lập trình.
Các phần mềm phải dễ sử dụng. Phần mềm nên đưa vào các phím
nóng, các phim tổ hợp, cho phép sử dụng thiết bị chuột để người dùng có thể
dễ dàng thực hiện các lệnh và truy cập thông tin.
1.4.3. Những hỗ trợ cơ bản của MVT và PMDH trong tích cực hoá hoạt
động nhận thức
1.4.3.1. Những hỗ trợ cơ bản của MVT và phần mềm trong dạy học nói
chung
Hiện nay MVT và các PMDH có ứng dụng chính trong dạy học ở các
lĩnh vực:
- Trình bày, minh hoạ, mô phỏng cho các bài giảng một cách khoa
học, sư phạm, thực tiễn, hấp dẫn… (với Power Point, Authoring Softwares,
HTML hoặc Web) đặc biệt rất có hiệu quả khi sử dụng trong dạy học các môn
có nhiều hình vẽ, tranh ảnh, âm thanh.
- Hỗ trợ trong việc ghi, thu thập, sử lý và trình bày kết quả trong khi
nghiên cứu (với các phần mềm ứng dụng chuyên biệt).
- Điều khiển, điều chỉnh quá trình dạy học.
- Tự ôn tập, tự học theo chương trình cài đặt trên máy hay trên mạng
Internet (Web based Learning, Web based Training).
- Kiểm tra, đánh giá (với phần mềm xây dựng ngân hàng đề thi,
test…).
20
1.4.3.2. Những hỗ trợ cơ bản của MVT và phần mềm trong dạy học Vật lí.
Trong chương trình phổ thông ngoài các ứng dụng thường thấy như:
Trình bày bài giảng điện tử, ôn tập, kiểm tra, đánh giá bằng MVT… thì trong
dạy học Vật lí MVT còn được sử dụng ở một số lĩnh vực sau:
- Mô phỏng các đối tượng, các thí nghiệm vật lí.
- Hỗ trợ các thí nghiệm vật lí.
- Hỗ trợ phân tích các quá trình vật lí thực (được nghi lại nhờ băng
video).
- Hỗ trợ việc xây dựng các mô hình.
a. Phần mềm mô phỏng các quá trình, hiện tượng vật lí.
Mô phỏng nhờ MVT theo quan điểm của lý luận dạy học hiện đại là
một phương pháp nhận thức. Nó xuất phát từ các tiên đề hay từ các mô hình
(các phương trình hay các nguyên lý) được viết dưới dạng toán học hoặc xuất
phát từ các mối quan hệ định tính giữa các đại lượng vật lí, thông qua việc
vận dụng các phần mềm cài đặt ở MVT để giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Mô phỏng, minh hoạ các hiện tượng, quá trình vật lí một cách trực
quan và chính xác để dễ quan sát nghiên cứu.
Không phải quá trình nào xảy ra trong tự nhiên cũng dễ quan sát. Đối
với chuyển động của chiếc thuyền, đoàn tàu thì việc quan sát để xác định vị trí
của chúng ứng với từng thời điểm hay quãng đường đi ứng với từng khoảng
thời gian trôi qua là không khó khăn. Nhưng cũng có những quá trình trong tự
nhiên không thể quan sát bằng mắt thường để xác định các đại lượng cần thiết
được vì diễn biến của quá trình xảy ra quá nhanh hay quá chậm. Điều đó gây
khó khăn trong việc điều tra tìm ra quy luật của chúng. Các quá trình như vậy
được nghiên cứu trong chương trình vật lí phổ thông có thể kể ra ở đây như:
21
Chuyển động rơi, chuyển động ném ngang của một vật, chuyển động của khối
tâm và các chuyển động của các điểm của vật rắn, quá trình phân rã hạt nhân,
quá trình phóng xạ… Một trong những giải pháp có thể hỗ trợ cho việc
nghiên cứu các quá trình đó hiệu quả hơn là sử dụng phần mềm mô phỏng các
quá trình đó. Khi mô phỏng bằng máy vi tính giáo viên và học sinh có thể làm
cho một quá trình chậm lại hoặc nhanh lên hoặc có thể dừng quá trình tại thời
điểm bất kì để nghiên cứu, xác định các đại lượng tức thời (ví dụ: Toạ độ, vận
tốc, gia tốc, quãng đường… của chuyển động được mô phỏng)
Mô phỏng, minh hoạ các quá trình, hiện tượng Vật lí không thể quan
sát bản chất bên trong của các hiện tượng: Dòng điện trong kim loại, các hiện
tượng nhiễm điện…
- Mô phỏng các hiện tượng, quá trình vật lí để qua đó đưa ra các dự
đoán, giả thuyết về hiện tượng, quá trình vật lí mới, tìm ra các kiến thức mới
(trạng thái, mối quan hệ, quy luật mới…) bằng con đường nhận thức lí thuyết.
Ngoài khả năng mô phỏng một cách trực quan và chính xác các hiện
tượng, quá trình vật lí, các phần mềm mô phỏng còn có thể tạo điều kiện cho
người nghiên cứu đi sâu vào và tìm ra các mối quan hệ có tính bản chất của
các hiện tượng, quá trình vật lí. Ta có thể hình dung khả năng này như sau:
Để giải quyết một vấn đề nào đó đặt ra trong bài học vật lí, GV và HS sử
dụng một số tiên đề hay mô hình vật lí (có thể được mô tả bằng phương trình
vật lí), tiến hành các suy luận, tính toán trên đó. Nhưng do công cụ toán học
còn thiếu nên không thể đạt được tới đích. Do vậy ở đây cần sự hỗ trợ của
MVT và phần mềm để có thể giải ra kết quả. Kết quả mà máy tính đưa ra biểu
thị dưới dạng số, biểu bảng, đồ thị hay các hình ảnh động (mô hình động). Từ
các dạng đó cho phép ta dự đoán sự tồn tại các mối quan hệ mới có tính qui
luật trong hiện tượng, quá trình vật lí đang nghiên cứu.
22
Như vậy việc tìm ra các mối quan hệ mới có tính chất giả thuyết này là
trên cơ sở mô hình hoá các đối tượng (hệ) nghiên cứu, sau đó mô phỏng và
tính toán các hệ đó về phương diện tính toán lí thuyết. Kết quả này có được
chấp nhận hay không là phải được kiểm tra bằng thực nghiệm. Điều đó cũng
giống như bất kì việc kiểm tra bằng thực nghiệm đối với những kết luận đã
suy ra theo con đường lý thuyết. Các kết luận đã được kiểm chứng bằng thực
nghiệm lại sẽ được dùng để giải thích và tiên đoán các hiện tượng liên quan.
b. Sử dụng MVT hỗ trợ thí nghiệm vật lí.
Việc nghiên cứu, cải tiến các thí nghiệm vật lí là một nhiệm vụ quan
trọng của ngành giáo dục, của mỗi nhà trường và mỗi GV. MVT có thể xử lý
các tín hiệu điện sau khi đã được số hoá. Theo nguyên tắc này có thể thiết kế
các thí nghiệm Vật lí có sự hỗ trợ của MVT. Các thí nghiệm có sự hỗ trợ của
MVT có nhiều ưu điểm lớn nhờ tính năng của MVT. Với các thiết bị ghép với
MVT số liệu của đối tượng đo trong các thí nghiệm sẽ được thu thập và số
hoá sau đó được đưa vào MVT. Trong MVT đã cài đặt sẵn phần mềm xử lý
số liệu theo ý muốn (lập bảng số liệu, vẽ đồ thị, tính toán…). Sau khi xử lý,
kết quả thí nghiệm sẽ được hiển thị trên màn hình tuỳ theo mục đích của
người sử dụng và tình năng của phần mềm.
So với thí nghiệm không có sự hỗ trợ của MVT, các thí nghiệm vật lí
được hỗ trợ bởi MVT có các ưu điểm sau:
+ Tiết kiệm thời gian: Thí nghiệm vật lí trong đó có sự hỗ trợ của MVT
có kết cấu theo từng bộ phận nên việc lắp đặt rất nhanh chóng. Việc thu thập
các số liệu, việc xử lý số liệu nhờ vào MVT và phần mềm hoàn toàn tự động
nên thời gian để thu thập và xử lý số liệu rất ngắn, tạo điều kiện cho thời gian
tập trung vào bài học nhiều hơn.
23
+ Độ chính xác cao: Với những phần mềm thích hợp, việc tính toán và
đưa ra kết quả thí nghiệm rất chính xác, mặt khác kết quả thí nghiệm lại có
thể hiển thị dưới nhiều hình thức, nhiều hệ đơn vị khác nhau tuỳ theo mục
đích của người sử dụng. Đây cũng là một trong những yếu tố giúp cho thí
nghiệm thành công.
Vì các tính năng ưu việt trên nên việc sử dụng MVT hỗ trợ thí nghiệm
trong quá trình dạy học vật lí ở trường phổ thông ngày càng được quan tâm và
được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên sử dụng MVT hỗ trợ thí
nghiệm trong dạy học vật lí ở trường phổ thông ở nước ta trong điều kiện hiện
nay còn gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là về trang thiết bị như MVT, thiết bị
ghép nối… Mặt khác với các thí nghiệm có sự hỗ trợ của MVT thì GV cũng
phải có kiến thức tối thiểu về sử dụng MVT, HS phải tiếp xúc quen với các
phương tiện dạy học hiện đại…
c. Sử dụng MVT xây dựng các mô hình
Trong quá trình nghiên cứu vật lí ở trường phổ thông, việc xây dựng
mô hình (giả thuyết) để đưa ra các kiến thức mới đóng một vai trò hết sức
quan trọng, tuy nhiên quá trình này gặp rất nhiều khó khăn, hoặc quá sức HS
(như mô hình phương trình vi phân mô tả giao động điều hoà, chuyển động có
sức cản của không khí, chuyển động có ma sát…)
Hoặc khi đưa ra các giả thuyết (mô hình) về mối quan hệ có tính quy
luật của một số đại lượng vật lí trong hiện tượng nghiên cứu , về kiểm tra tính
đúng đắn của từng giả thuyết (mô hình) là rất khó khăn đối với HS (như mối
quan hệ giữa biến thiên từ thông với việc xuất hiện dòng điện cảm ứng, chiều
dòng điện cảm ứng…) với những khó khăn này HS không phát huy được tính
tích cực trong học tập.
24
Trong những trường hợp kể trên sự hỗ trợ của MVT là rất quan trọng,
với các phần mềm thích hợp HS có thể kiểm tra các giả thuyết (mô hình) một
cách dễ dàng bằng cách đối chiếu mô hình đưa ra với mô hình chuẩn có sẵn
trong phần mềm để từ đó tìm ra quy luật của hiện tượng.
Như vậy có thể thấy rõ là trong dạy học Vật lí ở trường phổ thông, việc
sử dụng MVT và phần mềm thích hợp để xây dựng các mô hình mô tả các đối
tượng, nội dung phức tạp sẽ góp phần phát huy tính tích cực, phát triển tư
duy, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, chất lược lắm vững kiến
thức của HS.
d. Phần mềm phân tích băng hình (phần mềm hỗ trợ thí nghiệm về các
chuyển động cơ học thông qua việc phân tích băng hình ghi các chuyển động
cơ học đó)
Trong vật lí có những quá trình do xảy ra quá nhanh hoặc xảy ra trong
không gian rộng khó quan sát, khó đo đặc bằng các phương tiện, thiết bị đo
thông thường trong phòng thí nghiệm (ví dụ như chuyển động rơi tự do,
chuyển động ném xiên hay chuyển động của tên lửa phóng khỏi bệ…) thì việc
nghiên cứu nó ở trường phổ thông là hết sức khó khăn.
Để giải quyết khó khăn đó, trên thực tế ngoài việc sử dụng MVT để mô
phỏng chúng như đã nói người ta còn sử dụng một số phương pháp khác ở
trường phổ thông như: Phương pháp đánh tia lửa điện của bộ thí nghiệm Việt
Nam hay bộ thí nghiệm J- 2155 của Trung Quốc, phương pháp dùng thì kế
hiện số và các của chắn quang điện, phương pháp chụp ảnh hoạt nghiệm. Về
nguyên tắc thì các phương pháp này ta cần ghi và đo trên băng giấy hay trên
phim ảnh các quãng đường đi được trong những khoảng thời gian cố định
bằng nhau (trong phương pháp đánh tia lửa điện hay phương pháp hoạt
nghiệm) hoặc đo được các quãng đường đi được trong những khoảng thời
25
gian tuỳ ý (trong phương pháp dùng thì kế hiện số và các của chắn quang
điện) của chuyển động.
Tuy nhiên với các thiết bị sử dụng theo các phương pháp này thì lĩnh
vực nghiên cứu chỉ giới hạn trong các loại chuyển động thẳng (trừ phương
pháp chụm ảnh hoạt nghiệm) và giới hạn trong không gian của phòng thí
nghiệm. Hơn nữa khi sử dụng các phương pháp này, việc thu thập số liệu đo
là khó chính xác, mất thời gian. Thêm vào đó từ các số liệu đo được, để phân
tích, sử lí cũng đòi hỏi khá nhiều thời gian. Chính vì vậy trong dạy học thực tế
ở trường phổ thông hiện nay khi sử dụng các phương pháp này thì các thí
nghiệm được tiến hành dưới dạng thí nghiệm minh hoạ.
Để khắc phục những hạn chế kể trên, một trong những phương pháp
mới được đưa ra là: Phương pháp phân tích các băng ghi hình nhờ MVT và
các phần mềm tương ứng. Phương pháp này đang được sử dụng nhiều trong
các trường học phát triển như Mĩ, cộng hoà liên bang Đức, Pháp…
Các giai đoạn của phương pháp phân tích băng ghi hình nhờ MVT
trong dạy học Vật lí.
- Quan sát quá trình Vật lí cần nghiên cứu: Với chức năng của phần
mềm và các tín hiệu về quá trình Vật lí đã được số hoá, GV và HS có thể cho
hình chuyển động như trong thực tế, sau đó có thể cho nó chuyển động chậm
lại, chuyển động từng giai đoạn hay đứng yên tuỳ theo mục đích nghiên cứu.
- Xác định vị trí toạ độ và thời điểm tương ứng của vật chuyển động:
Nhờ phần mềm, có thể đặt trục toạ độ thích hợp vào màn hình trong đó đang
có hình ảnh về quá trình chuyển động đang nghiên cứu. Sau đó người nghiên
cứu dùng chuột để xác định và đánh dấu vị trí toạ độ của vật chuyển động và
thời điểm tương ứng bắng cách ních chuột vào trọng tâm của vật. Thường thì
thời gian làm việc này cần khoảng một phút