1
I. Thông tin bất cân xứng
1. Thông tin bất cân xứng
1.1 Khái niệm
Thông tin bất cân xứng là tình trạng khi một bên có được ít thông tin hơn bên
kia, không hiểu đầy đủ về đối tác, do đó đưa ra quyết định không chính xác trong
giao dịch.
Trong kinh tế học, là trạng thái bất cân bằng trong cơ cấu thông tin - giữa các
chủ thể giao dịch có mức độ nắm giữ thông tin không ngang nhau. Một người sẽ có
thông tin nhiều hơn so với người khác về đối tượng được giao dịch. Điều này dẫn tới
nhiều vấn đề trong kinh tế học, hợp đồng và tài chính.
Tình trạng thông tin bất cân xứng hiện diện ở rất nhiều lĩnh vực: ngân hàng, thị
trường nhà đất, thị trường lao động,lãnh vực thể thao, thị trường hàng hóa, bảo hiểm,
lĩnh vực đầu tư, chứng khoán,… bất cân xứng về thông tin là 1 thực trạng phổ biến
trong cuộc sống của cá nhân và xã hôi.
1.2 Các nghiên cứu về thông tin bất cân xứng
Lý thuyết thông tin bất cân xứng lần đầu tiên xuất hiện vào những năm 1970 và
đã khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế học hiện đại bằng sự kiện năm
2001, các nhà khoa học nghiên cứu lí thuyết này là George Akerlof, Michael Spence
và Joseph Stiglitz cùng vinh dự nhận giải nobel kinh tế.
Ngày 10 tháng 10 năm 2001 viện khoa học hoàng gia Thụy Điển quyết định trao
giải Nobel kinh tế cho Giáo sư George A. Akerlof - Đại học California, Mỹ A.
Michael Spence - Đại học Stanford, Mỹ và Joseph E. Stiglitz - Đại học Columbia, Mỹ
vì những phân tích về thị trường của họ.
George Akerlof giải thích cách thức một thị trường mà người bán có nhiều thông
tin hơn người mua về chất lượng sản phẩm có thể kết giao vào một sự lựa chọn đối
nghịch do sản phẩm chất lượng kém. Ông cũng chỉ ra rằng những vấn đề về thông tin
là chuyện thường và rất quan trọng. Đóng góp của giáo sư George Akerlof do đó đã
chứng tỏ thông tin không cân xứng giữa người bán và người mua có thể giải thích tỉ lệ
2
vay mượn cao vút ở các thị trường thuộc thế giới thứ ba, nhưng nó cũng đề cập đến
những khó khăn và thách thức đối với người già cả khi tìm một hợp đồng bảo hiểm y
tế cá nhân và với sự phân biệt đối xử với những bộ phận thiểu số trên thị trường lao
động.
Michael Spence đã nhận biết một kiểu dàn xếp quan trọng của những chủ thể
tham gia vào thị trường riêng biệt, trong đó những người có nhiều thông tin hơn nhằm
có được sự cải thiện đối với kết quả thị trường của họ bằng cách chuyển thông tin cho
những người thiếu thông tin. Spence chỉ ra khi nào thì những hành động bật tín hiệu
như vậy có thể hoạt động thực sự. Trong khi nghiên cứu của ông nhấn mạnh giáo dục
là một dấu hiệu năng suất trên thị trường công ăn việc làm, những nghiên cứu sau đó
đã giới thiệu rất nhiều ứng dụng khác, ví dụ cách thức để doanh nghiệp có thể sử dụng
cổ tức để truyền tin về khả năng sinh lợi của họ cho các chủ thể trên thị trường cổ
phiếu.
Joseph Stiglitz làm rõ kiểu dàn xếp thị trường ngược lại, trong đó những chủ thể
thiếu thông tin khai thác thông tin từ những chủ thể có thông tin tốt hơn, chẳng hạn
như các công ty bảo hiểm sàng lọc thông tin để phân loại khách hàng của mình bằng
cách đưa ra một bảng chọn các loại hợp đồng trong đó phần khấu trừ cao hơn có thể
đổi lại là với phí bào hiểm thấp hơn nhiều. Trong một số đóng góp của ông về các thị
trường khác nhau, Stiglitz đã chứng minh rằng thông tin không cân xứng có thể cung
cấp cho chúng ta chiếc chìa khóa để hiểu rõ nhiều thị trường quan sát khác, trong đó
có tình trạng thất nghiệp và chế độ phân phối tín dụng.
Nhiều đóng góp của Joseph Stiglitz đã thay đổi cách nghĩ của các nhà kinh tế
về sự vận hành của thị trường. Cùng với những đóng góp của George Akerlof và
Michael Spence, họ đã tạo nên hạt nhân kinh tế thông tin hiện đại.
1.3 Thông tin bất cân xưng trong các thị trường tài chính
a. Khái niệm thị trường tài chính
Nhu cầu về vốn để tiến hành đầu tư và các nguồn tiết kiệm có thể phát sinh từ
các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Trong đó, thường xảy ra tình huống: những
người có cơ hội đầu tư sinh lời thì thiếu vốn, trái lại những người có vốn nhàn rỗi lại
không có cơ hội đầu tư hoặc không biết đầu tư vào đâu. Từ đó hình thành nên một cơ
3
chế chuyển đổi từ tiết kiệm sang đầu tư. Cơ chế đó được thực hiện và điều chỉnh trong
khuôn khổ một thị trường đó là thị trường tài chính.
Trên thị trường tài chính, những người thiếu vốn huy động vốn bằng cách phát
hành ra các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu Những người có vốn dư thừa,
thay vì trực tiếp đầu tư vào máy móc thiết bị, nhà xưởng để sản xuất hàng hóa hay
cung cấp dịch vụ, sẽ đầu tư (mua) các công cụ tài chính được phát hành bởi những
người cần huy động vốn.
Vậy, thị trường tài chính là nơi diễn ra sự chuyển vốn từ những người dư thừa
vốn tới những người thiếu vốn.
Thị trường tài chính cũng có thể được định nghĩa là nơi phát hành, mua bán, trao
đổi và chuyển nhượng các khoản vốn ngắn hạn hoặc dài hạn thông qua các công cụ tài
chính nhất định (financial instruments). theo các quy tắc, luật lệ đã được ấn định.
Các công cụ tài chính (financial instruments) này được gọi là các chứng khoán
(securities).
Chứng khoán bao gồm các loại chủ yếu là:
- Chứng khoán nợ (debt securities): là chứng khoán xác nhận quyền được nhận
lại khoản vốn đã ứng trước cho nhà phát hành vay khi chứng khoán đáo hạn cũng như
quyền được đòi những khoản lãi theo thoả thuận từ việc cho vay.
- Chứng khoán vốn (equity securities): là chứng khoán xác nhận quyền được sở
hữu một phần thu nhập và tài sản của công ty phát hành.
Những người cần vốn (thường là các công ty hay chính phủ) thông qua việc phát
hành (bán) các chứng khoán để huy động vốn từ thị trường tài chính. Còn những
người có tiền (các nhà đầu tư) bằng cách mua các chứng khoán đã cung cấp các khoản
vốn cho các nhà phát hành.
Như vậy các chứng khoán là tài sản có đối với người mua chúng nhưng lại là tài
sản nợ đối với người phát hành ra chúng. Nói một cách khác, đối với những người cần
vốn, chứng khoán là một phương tiện tài chính để huy động vốn đáp ứng nhu cầu vốn
4
ngắn hạn hoặc dài hạn, còn đối với những người dư tiền, chứng khoán là một phương
tiện đầu tư để hưởng những thu nhập nhất định.
Cùng với sự phát triển của hoạt động tài chính, ngoài chức năng lưu chuyển vốn
từ nơi thừa đến nơi thiếu, thị trường tài chính còn cung cấp các phương tiện để quản lý
những rủi ro liên quan đến các hoạt động lưu chuyển vốn này. Chính vì vậy, bên cạnh
hai loại cơ bản là chứng khoán nợ và chứng khoán vốn, trên thị trường tài chính còn
lưu thông các công cụ tài chính đặc biệt nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý các rủi ro liên
quan đến không chỉ các tài sản sản tài chính mà cả hàng hoá và tiền tệ.
Các công cụ tài chính đặc biệt này được gọi là các công cụ phái sinh hay chứng
khoán phái sinh (derivaties). Chứng khoán phái sinh có đặc điểm là giá trị của nó phụ
thuộc vào mức độ biến động giá cả của các hàng hoá trên thị trường (bao gồm không
chỉ chứng khoán nợ, chứng khoán vốn, mà cả ngoại hối và hàng hoá thông thường).
b. Thông tin bất cân xứng vận dụng trong thị trường tài chính
Thông tin bất cân xứng là một trong những nguyên nhân lớn gây nên nhiều thất
bại thị trường. Ví dụ: tác động của thông tin bất cân xứng lên thị trường ô tô cũ do nhà
kinh tế học được giải Nobel George Akerlof khởi xướng và nghiên cứu từ năm 1970,
nay đã được áp dụng vào nhiều ngành và lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là bảo hiểm, tài
chính, tín dụng. Thông tin bất cân xứng dẫn đến 3 loại hệ quả sau:
- Lựa chọn bất lợi: xảy ra khi sản phẩm có chất lượng khác nhau được bán ở
cùng mức giá, do các bên tham gia thị trường không có đủ thông tin về chất lượng
thực sự của sản phẩm tại thời điểm mua. Khi đó, người tiêu dùng có xu hướng chọn
mua sản phẩm có chất lượng thấp, do không có đầy đủ thông tin và không chắc chắn
về chất lượng của sản phẩm tốt lẽ ra phải được bán với giá đắt hơn. Như trong thị
trường ô tô cũ, tác động của lựa chọn bất lợi là ô tô cũ chất lượng thấp áp đảo loại chất
lượng cao, làm mất tính hiệu quả của thị trường. Lựa chọn bất lợi cũng thường xảy ra
ở thị trường bảo hiểm, tín dụng.
- Tâm lý ỷ lại (rủi ro đạo đức): xảy ra khi một bên có nhiều thông tin hơn che
đậy hành vi sau khi ký kết hợp đồng giao dịch, tạo ra bất lợi cho bên còn lại để trục
lợi, hoặc do được bảo hộ quá mức mà bất cẩn trong hành vi của mình, gây hậu quả
5
nghiêm trọng (Pilbeam, 2010). Nếu như lựa chọn bất lợi liên quan đến chi phí thì tâm
lý ỷlại liên quan đến hành vi. Ví dụ: trong thị trường bảo hiểm, mọi người mua bảo
hiểm để bảo vệ những thứ có giá trị, trong đó có bản thân, tài sản, xe cộ, và khi những
thứ này được bảo hiểm rồi, vì mục đích trục lợi và do nắm được rõ thông tin hơn, bên
mua bảo hiểm nảy sinh mong muốn điều xấu xảy ra với tài sản của mình để được
hưởng bảo hiểm. Nếu các công ty bảo hiểm có thể giám sát hành vi của bên mua bảo
hiểm, họ sẽ đặt mức phí cao hơn với những đối tượng đòi hỏi nhiều bồi thường hơn.
Còn trong trường hợp các công ty bảo hiểm không thể giám sát hành vi, họ buộc phải
tăng phí cho mọi đối tượng, hoặc từ chối bán báo hiểm cho tất cả. Như vậy, tâm lý
ỷlại sẽ làm thị trường mất tính hiệu quả, do người cần bảo hiểm sẽ phải chịu mức phí
cao hơn hoặc không thể mua được bảo hiểm.
- Vấn đề người ủy thác và người đại diện: xảy ra khi người đại diện (giám đốc
công ty) làm việc vì lợi ích của mình bất chấp lợi ích của người ủy thác (cổ đông). Ở
các công ty cổ phần, rất khó để các cổ đông có thể hiểu và giám sát được công việc
của giám đốc. Việc giám sát và thu thập thông tin nếu làm được cũng rất tốn kém, dẫn
đến khả năng giám đốc mưu cầu lợi ích cá nhân bất chấp lợi ích của cổ đông là tối đa
hóa giá trị của công ty.
2. Lựa chọn đối nghịch
2.1 Định nghĩa
Lựa chọn đối nghịch là một tình trạng kinh tế có thể nảy sinh do tồn tại tình
trạng thông tin phi đối xứng, người lựa chọn thứ tốt lại chọn phải thứ không tốt. Đây
là một loại thất bại thị trường.
2.2 Lựa chọn đối nghịch trong thị trường tài chính
Lựa chọn đối nghịch là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra trước khi diễn
ra cuộc giao dịch. Trên các thị trường tín dụng, lựa chọn đối nghịch sảy ra khi những
người đi vay có nhiều khả năng tạo ra một kết cục không mong muốn lại chính là
những người tích cực đi tìm vay nhất là do vậy, trong số những người đi vay họ sẽ là
người dễ được lựa chọn nhất. Trên thị trường chứng khoán, lựa chọn đối nghịch xuất
hiện khi nhà đầu tư không biết thông tin về các loại cổ phiếu của các công tykhác
nhau do có thể mua phải cổ phiếu của công ty hoạt động kém, rủi ro cao. Vấn đề lựa
chọn đối nghịch cũng xuất hiện trong nhiều hoạt động khác của nền kinh tế. Nói một
cách tổng quát, lựa chọn đối nghịch là những quyết định sai lầm của một bên tham gia
giao dịch mà nguyên nhân là do thông tin không cân xứng.
6
Khách hàng có độ rủi ro cao thường là nhữngkhách hàng tích cực nhất trong việc
xin vay.Hậu quả của sự lựa chon đối nghịch có thể dẫn đến việc cấp tín dụng cho
khách hàng có rủi ro cao nên trong trường hợp này các ngân hàng có thể sẽ cắt giảm
cho vay hoặc khôngtiếp tục cho vay mặc dù trên thị trường vẫn có nhiều khách hàng
tốt
3. Rủi ro đạo đức
3.1 Định nghĩa
Rủi ro đạo đức là một thuật ngữ kinh tế học và tài chính được sử dụng để chỉ
một loại rủi ro phát sinh khi đạo đức của chủ thể kinh tế bị suy thoái. Rủi ro đạo đức
là một kiểu thất bại thị trường nảy sinh trong môi trường thông tin phi đối xứng.
3.2 Rủi ro đạo đức trong thị trường tài chính
Rủi ro đạo đức nảy sinh khi bên có ưu thế thông tin hiểu được tình thế thông tin
phi đối xứng giữa các bên giao dịch và tự nhiên hình thành động cơ hành động theo
hướng làm lợi cho bản thân bất kể hành động đó có thể làm hại cho bên kém ưu thế
thông tin.
Hành vi tha hóa theo hướng như thế của bên có ưu thế thông tin được bên kém
ưu thế thông tin cho là không đứng đắn, là một thứ nguy hiểm, rủi ro cho mình. Việc
này sẽ dẫn tới nguy cơ tổn hại về mặt tài chính đối với các bên tham gia:
a. Rủi ro đạo đức trong thị trường Nợ
Xảy ra khi người đi vay sử dụng những khoản vay không đúng mục đích cam kết
trong hợp đồng vay nợ. Sử dụng vốn sai trình tự, đầu tư vào những hạng mục rủi ro
mà không thông báo cho bên nhận vốn.
b. Rủi ro đạo đức trong thị trường Vốn
Trong thị trường vốn, ta cũng gặp những rủi ro về mặt đạo đức. Những rủi ro
này cũng gây ra những tổn thất lớn về mặt tài chính. Những ví dụ và phân tích trong
bài sẽ phần nào làm sáng tỏ vấn đề trên.
II. Giải pháp hạn chế thông tin bất cân xứng
1. Giảm thiểu sự lựa chọn bất lợi
Lựa chọn bất lợi có thể giảm thiểu bằng hai chiến lược khác nhau nhưng có quan
hệ mật thiết: Phát tín hiệu và sàng lọc. Hai chiến lược này có quan hệ mật thiết, chỉ
khác nhau giữa việc phụ thuộc vào bên có thông tin hay không có thông tin đóng vai
trò chủ động.
1. 1 Phát tín hiệu
7
Bên nắm thông tin riêng biệt chủ động thực hiện những hoạt động làm cho đối
tác trong giao dịch biết được thông tin về mình.
Điểm mấu chốt là chi phí phát tín hiệu của người bán sản phẩm với chất lượng
xấu luôn cao hơn chi phí của người bán sản phẩm tốt. Do vậy, người bán sản phẩm
chất lượng xấu không có cách tìm cách phát tín hiệu và nói dối. Ví dụ việc cung cấp
chế độ bảo hành đối với người bán sản phẩm xấu đòi hỏi nhiều chi phí hơn người bán
sản phẩm tốt. Khi đó bảo hành sản phẩm tác động như một tín hiệu.
1.2 Sàng lọc
Bên có thông tin riêng biệt chủ động thực hiện những hoạt động nhằm gián tiếp
phân nhóm các đối tác để từ đó áp dụng những chính sách khác nhau cho từng nhóm
đối tác. Chẳng hạn như giảm thiểu sự lựa chọn bất lơi trong hơp đồng rủi ro mất xe,
công ty bảo hiểm thiết kế hợp đồng bảo hiểm sao cho có thể tách biệt hai loại nhóm
khách hàng, nhóm có rủi ro mất xe cao và nhóm có rủi ro mất xe thấp.
Hợp đồng bảo hiểm có hai lựa chọn, bất cứ khách hàng nào cũng có thể lựa chọn
một trong hai. Lựa chọn thứ nhất: bảo hiểm toàn bộ giá trị của chiếc xe với một mức
phí bảo hiểm. Lựa chọn thứ hai: bảo hiểm một phẩn giá trị của chiếc xe với một mức
phí thấp hơn so với lựa chọn thư nhất.
2. Kiểm soát tâm lý ỷ lại
Có 2 cơ chế kiểm soát tâm lý ỷ lại:
- Cơ chế trực tiếp: Một bên đối tác phải bỏ ra nguồn lực để kiểm soát thông tin
- Cơ chế gián tiếp: Giám sát qua các nguồn thông tin cạnh tranh với nhau, sự
giám sát của thị trường giám sát gián tiếp qua những động cơ khuyến khích.
2.1 Cơ chế trực tiếp
Gia tăng nguồn lực giành cho việc kiểm soát và kiểm chứng. Ví dụ như luật
pháp quy định các công ty không được phép công bố các báo cáo tài chính cho đến
khi được các công ty kiểm toán độc lập kiểm chứng, những bản thông báo mô tả các
dự án đầu tư đang cần nguồn tài trợ của công chúng cần phải sự đồng ý của ủy ban
Chứng Khoán.
2.2 Cơ chế gián tiếp
Giám sát qua các công ty đang cạnh tranh với nhau: phương thức giám sát giữa
các bên có xung đột về lợi ích để phát triển những thông tin cần thiết. Những nhà sản
xuất thường áp dụng chiến lược đưa ra ưu điểm của các sản phẩm của họ với khuyết
8
điểm của các sản phẩm tương tự từ công ty đối thủ cạnh tranh mà khi sản xuất chúng
không được đề cập tới. Như vậy sẽ khắc phục được tâm lý ỷ lại cho rằng khách hàng
sẽ không nhận biết được khuyết điểm của những sản phẩm do mình sản xuất ra.
Giám sát của thị trường: Vấn đề tâm lý ỷ lại trong quản lý thường có thể được
giảm nhẹ nhờ vào sự giám sát không tốn chi phí của các thị trường. Các nhà quản lý
công ty trong các thị trường sản phẩm hay thị trường nhập lượng tương đối cạnh tranh
có khả nảng thất bại cao hơn nếu khả năng tạo ra lợi nhuận của họ kém. Nỗi sợ thất
nghiệp hay sợ mang tiếng đưa một công ty đến chỗ phá sản có thể đủ là động cơ
khuyến khích quản lý.
Giám sát thông qua những động cơ khuyến khích: trong nhiều trường hợp người
ta sử dụng cơ chế giám sát gián tiếp thông qua những động cơ khuyến khích. Chẳng
hạn, những công ty bảo hiểm gắn mức phí bảo hiểm đối với số lần mất xe của khách
hàng. Tức là sau mỗi lần mất xe, nếu muốn tiếp tục bảo hiểm thì khách hàng sẽ phải
đóng phí cao hơn. Tuy nhiên, để tránh tình trạng khách hàng bỏ sang công ty bảo
hiểm khác, các công ty bảo hiểm chia sẻ các cơ sở dữ liệu để biết rằng khách hàng đã
đánh mất xe bao nhiêu lần. Khi đó người mua bảo hiểm tự thấy rằng không nên ỷ lại
và bất cẩn vì nếu mất xe dù có được bù đắp thì sau đó cũng phải đóng phí cao hơn.
III. Thông tin bất cân xứng trong thị trường tín dụng
1. Tín dụng tại ngân hàng thương mại
Khái niệm tín dụng: Tín dụng xuất phát từ chữ La tinh Creditium có nghĩa là tin
tưởng, tín nhiệm. Tiếng Anh gọi là Credit. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam là sự
vay mượn.
Có rất nhiều khái niệm về tín dụng:
- Tín dụng là quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay
dựa trên nguyên tắc hoàn trả.
- Tín dụng là một giao dịch giữa hai bên, trong đó một bên (người cho vay) chu
cấp tiền hay hàng hóa dựa vào lời hứa thanh toán lại trong tương lai của bên kia
(người đi vay).
Tập trung lại tín dụng có nghĩa là: sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng
giá trị nhất định dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ trong một thời hạn nhất định từ
người sở hữu sang người sử dụng, và khi đến hạn người sử dụng phải hoàn trả lại cho
người sở hữu với một lượng giá trị lớn hơn, khoản giá trị dôi ra này được gọi là lợi tức
tín dụng.
Quá trình vận động của tín dụng được thể hiện theo sơ đồ sau:
(1) Cho vay
9
(2) Trả nợ
Dựa vào chủ thể trong quan hệ tín dụng được chia thành 3 hình thức tín dụng
sau:
- Tín dụng thương mại: là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp được thực
hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa hoặc ứng tiền trước khi nhập hàng hóa.
- Tín dụng Nhà nước: là hình thức tín dụng thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước
với các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội Nhà nước vừa là người đi vay vừa là
người cho vay.
- Tín dụng ngân hàng: là tín dụng giữa ngân hàng và các cá nhân, tổ chức xã
hội
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại, chiếm tỷ
trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động
mang lại rủi ro cao nhất. Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng.
2. Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng tới hoạt động tín dụng của các ngân
hàng thương mai.
2.1 Tình hình hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
NHTM là doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh về tiền tệ và tín dụng.
Hoạt động kinh doanh cơ bản của các NHTM là các hoạt động đem lại lợi nhuận cho
NHTM bao gồm: hoạt động huy động vốn, hoạt động cho vay và hoạt động kinh
doanh dịch vụ khác. Như vậy, NHTM VN “sống” bằng tín dụng. Khảo sát cho thấy,
thu nhập từ tín dụng của các NHTM VN chiếm trên 80%, ngay cả NHTM lớn, thu
nhập từ tín dụng cũng chiếm hơn 90%.
Tình hình tăng trưởng tín dụng:
- Tăng trưởng tín dụng là sự tăng lên của các khoản cho vay cho khối tư nhân, cá
nhân, tập thể hoặc tổ chức công cộng. Tăng trưởng tín dụng là chỉ tiêu phản ánh lượng
tiền được “bơm” ra lưu thông - một trong những điều kiện quan trọng để tăng trưởng
kinh tế.
- Nếu như năm 2007, ngân hàng Á Châu có tổng huy động cao hơn hẳn, thì trong
tăng trưởng tín dụng, ngân hàng Sài Gòn Thương tín lại có dư nợ tín dụng nhiều hơn,
khoảng 35 ngàn tỷ đồng với tốc độ tăng trưởng 136%, cùng tốc độ tăng trưởng đó là
ngân hàng Kỹ thương với dư nợ tín dụng hơn 20 ngàn tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng tín
dụng cao nhất vẫn là ngân hàng An Bình, 506%.
Người đi vay
(Người sử dụng vốn)
Người cho vay
(Người sở hữu vốn)
10
2.3 Tại sao các Ngân hàng thương mại phải xử lý vấn đề thông tin bất cân xứng
a. Nợ xấu là gì
Nợ xấu là một trong những vấn đề luôn làm đau đầu các nhà quản trị Ngân hàng.
Theo tiêu chuẩn quốc tế, “nợ xấu” là những khoản nợ quá hạn 90 ngày mà không đòi
được và không được tái cơ cấu. Tại Việt Nam, nợ xấu bao gồm những khoản nợ quá
hạn có hoặc không thể thu hồi, nợ liên quan đến các vụ án chờ xử lý và những khoản
nợ quá hạn không được Chính phủ xử lý rủi ro.
Nợ xấu là khoản nợ có các đặc trưng cơ bản sau đây:
- Khách hàng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam kết đã
hết hạn.
- Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn đến có khả
năng ngân hàng không thu hồi được cả gốc lẫn lãi.
- Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất 90 ngày.
Nợ xấu được phân chia thành nhiều nhóm mục đích giúp các nhà quản trị ngân
hàng dễ quản lý, kiểm soát và đề ra phương pháp xử lý khác nhau cho từng nhóm
tương ứng. Theo quyết định 149/QĐ-TTg ngày 05/01/2001 thì nợ xấu có thể chia
thành 3 nhóm:
- Nhóm 1: Nợ xấu có tài sản đảm bảo, gồm có: nợ tồn đọng ngân hàng đã thu giữ
tài sản dưới hình thức gán, xiết nợ; nợ tồn đọng ngân hàng chưa thu giữ tài sản như nợ
có tài sản liên quan đến vụ án chờ xét xử, nợ có tài sản đảm bảo đã quá hạn trên 360
ngày.
- Nhóm 2: Nợ xấu không có tài sản đảm bảo và không có đối tượng để thu, gồm
có: nợ xóa thiên tai chưa có nguồn và còn hạch toán nội bảng; nợ khoanh doanh
nghiệp đã giải thể, phá sản; nợ khoanh doanh nghiệp thuộc các vụ án; nợ khoanh do
thiên tai của hộ sản xuất…
- Nợ xấu không có tài sản đảm bảo nhưng con nợ vẫn còn tồn tại, đang hoạt
động, gồm có: nợ khoanh doanh nghiệp khó thu hồi; nợ tín dụng chính sách còn khả
năng thu hồi; nợ quá hạn trên 360 ngày.
- Ngoài ra còn có nhóm nợ phát sinh sau ngày 31/12/2000, là những khoản nợ
không thu được nhưng không đủ điều kiện để khoanh, xoá.
b. Tình hình nợ xấu
Theo báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đến cuối năm
2003, tỷ lệ nợ xấu (quá hạn) của các ngân hàng thương mại Việt Nam chiếm 4,74%
trong tổng dư nợ cho vay gần 300.000 tỷ VNĐ (tương đương với 14.200 tỷ VNĐ).
Nhưng theo ý kiến của bà Susan Adams đại diện thường trú cao cấp của IMF tại Việt
11
Nam và ông Klaus Rohland - Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt
Nam thì nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam vào khoảng 15-20% (tương đương
45.000-60.000 tỷ VNĐ), chiếm từ 7-10% GDP Việt Nam.
Tỉ trọng nợ xấu trong tổng dư nợ năm 2004 là 2.85% giảm so với tỉ trọng nợ xấu
trong tổng dư nợ của năm 2003.
Bảng tỉ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của một số Ngân hàng thương mại các năm
2005, 2006, 2007. 2005 2006 2007
2005 2006 2007
ACB 0.30% 0.20% 0.08%
SACOM 0.55% 0.72% 0.24%
ĐÔNG Á 0.98% 0.77% 0.45%
AN BÌNH 1.23% 2.70% 1.51%
TCB 1.01% 0.73% 0.82%
EXIMBANK 1.12% 0.85% 0.88%
MHB 2.46% 2.88% 2.20%
PHƯƠNG NAM 2.06% 3.12% 3.77%
Nhìn chung, các ngân hàng thương mại cổ phần đang nghiên cứu đều có tỷ lệ nợ
xấu trên tổng dư nợ ở mức an toàn cho phép.
Tỷ lệ này của ngân hàng Á Châu và Đông Á giảm dần qua các năm và dưới
0.5%, đối với ngân hàng An Bình, MHB, Phương Nam tỷ lệ này lớn hơn 1.5%. Riêng
ngân hàng Phương Nam có tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ lớn hơn 3% và tăng dần qua
các năm.
Chính sách tiền tệ nới lỏng năm 2009 cộng với việc thực hiện cơ chế cho vay
theo lãi suất thỏa thuận đã khiến nảy sinh vấn đề rủi ro về nợ xấu, tính đến thời điểm
cuối năm 2009, tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống ở mức 2,46%.
c. Nguyên nhân của nợ xấu
Theo kinh nghiệm của nhiều nước và từ nhiều nghiên cứu, nguyên nhân gây ra
tình trạng nợ xấu bao gồm:
- Tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô:
•Môi trường pháp lý chưa thuận lợi và sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật
cấp địa phương trong việc triển khai.
12
•Công tác thống kê, dự báo còn hạn chế, cho nên những điều chỉnh trong điều
hành chính sách tiền tệ của NHNN chưa theo kịp diễn biến của nền kinh tế và kết quả
đạt chưa cao.
•Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN.
•Rủi ro do hệ thống thông tin quản lý còn bất cập, yếu kém.
- Nguyên nhân khách quan: Do những cú sốc bất ngờ
•Sự thay đổi của môi trường tự nhiên: thiên tai, dịch bệnh, bão lụt gây tổn thất
cho khách hang vay vốn kinh doanh.
•Do biến động của môi trường thế giới như khủng hoảng kinh tế.
- Nguyên nhân chủ quan
•Nguyên nhân từ phía Ngân hàng: Thông tin tín dụng chưa đầy đủ và chính xác,
lạm dụng tài sản thế chấp, thiếu kiểm tra giám sát vay vốn, sự lỏng lẻo trong công tác
kiểm soát nội bộ ngân hàng, năng lực, đạo đức của đội ngũ cán bộ tín dụng còn hạn
chế, sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng chưa thực sự lành mạnh, việc chạy theo
quy mô, bỏ qua các tiêu chuẩn, diều kiện trong cho vay, thiếu quan tâm đến chất
lượng khoản vay, sự hợp tác giữa các NHTM lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thực sự
hiệu quả.
•Nguyên nhân từ phía khách hàng: Năng lực quản lý vốn, năng lực tài chính
của khách hàng yếu kém, năng lực quản trị kinh doanh yếu kém, khách hàng gian lận
cố ý không trả nợ
d Hậu quả của nợ xấu
Đối với các NHTM phải lập các khoản dự phòng nợ phải thu quá hạn 90 ngày,
theo dõi các khoản nợ riêng trên bản cân đối kế toán và sổ kế toán và phải có những
biện pháp để thu hồi nợ. Như vậy các khoản nợ xấu ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả
kinh doanh của các chủ nợ, họ sẽ mất nhiều thời gian, công sức, tiền của để đôn đốc
thu hồi nợ.
Nợ xấu về lâu dài sẽ gây ra tình trạng thâm thủng ngân sách và lạm phát tăng
cao, có hại nhiều cho nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại trong tình trạng thông tin bất
đối xứng:
- Tình trạng thông tin bất đối xứng xảy ra trong hoạt động tín dụng của các
NHTM khi Ngân hàng là bên có ít thông tin hơn, khách hàng có nhiều thông tin hơn
về vấn đề cân2 giao dịch.
13
- Hai hành vi phổ biến nhất do thông tin bất đối xứng gây ra cho hoạt động tín
dụng của ngân hàng thương mại là lựa chọn bất lợi (adverse selection) và tâm lý ỷ lại
(moral hazard).
- “Sự lựa chọn bất lợi” xảy ra trước cho vay, khi ngân hàng bị khách hàng che
giấu một số thông tin dẫn tới việc lựa chọn khách hàng không tốt và cấp tín dụng
không hiệu quả. Khách hàng với dự án rủi ro càng cao, sẽ thu được nhiều lợi nhuận
nếu dự án thành công, do đó họ là những người hăm hở nhất để được vay tiền. Họ là
sẵn sang chấp nhận mọi điều kiện của khoản vay, nên thường là những người được
chọn để cho vay. Hậu quả của sự lựa chọn đối nghịch có thể dẫn đến việc cấp tín dụng
cho khách hàng có rủi ro cao. Rõ ràng là, họ là những người ít được mong đợi cho vay
nhất, bởi vì khả năng không hoàn trả được nợ vay là rất lớn. Trong trường hợp này các
ngân hàng có thể sẽ cắt giảm cho vay hoặc không tiếp tục cho vay mặc dù trên thị
trường vẫn có nhiều khách hàng tốt.
- “Rủi ro đạo đức” xảy ra sau cho vay, khi khách hàng có động cơ đầu tư vào
những dự án có độ rủi ro cao. Nếu dự án đó thành công thì khách hàng sẽ thu được lợi
rất lớn, ngược lại nếu dự án thất bại thì ngân hàng ( người cho vay ) sẽ phải gánh chịu
hậu quả do khách hàng thua lỗ. Rủi ro đạo đức cũng có thể xảy ra khi khách hàng sử
dụng vốn vay không đúng mục đích, đầu tư vào dự án kém hiệu quả, lừa đảo ngân
hàng… Nghĩa là có phát sinh những động cơ dính líu vào các hoạt động không được
người cho vay mong muốn. Xung đột về lợi ích giữa người vày và ngân hàng từ vấn
đề rủi ro đạo đức dẫn đến tình trạng một số ngân hàng quyết định giảm cho vay, ảnh
hưởng đến cả nền kinh tế.
Có thể thấy rằng, vấn đề thông tin bất đối xứng xảy ra khi các ngân hàng không
có đầy đủ thông tin từ phía khách hàng của mình mặc dù đã có rất nhiều nỗ lực trong
công tác thẩm định. Nói một cách đơn giản, là do cơ chế sang lọc chưa đủ hiệu lực
nên các ngân hàng đã để “lọt” những khách hàng có khả năng che đậy hành vi và
thông tin của họ trong giao dịch vay vốn đề thể hiện nhưng dự án có rủi ro cao.
Như vậy chuẩn đoán không tốt vấn đề thông tin bất cân xứng có thể là nguyên
nhân của “nợ xấu” từ đó gây ra những trục trặc trong hoạt động tín dụng hệ thống
ngân hàng Việt Nam.
Rõ ràng, vấn đề thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng của các ngân
hàng thương mại gây ra hậu quả không chỉ với hoạt động của ngân hàng thương mại
mà còn tác động đến nền kinh tế. Trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng luôn là
14
người có ít thông tin về dự án, về mục đích sử dụng khoản tín dụng được cấp hơn
khách hàng. Do đó, để đảm bảo an toàn trong hoạt động của mình, bản thân các tổ
chức tín dụng phải xử lý thông tin bất cân xứng để hạn chế lựa chọn bất lợi và tâm lý
ỷ lại nhằm cho vay đúng người đúng đối tượng và giám sát chặt chẽ để khách hàng
vay vốn có hành vi đúng đắn nhằm đảm bảo việc thu hồi cả gốc và lãi khoản tín dụng
đã cấp ra.
3. Giải pháp hạn chế thông tin bất cân xứng
3.1 Xây dựng và phát triển các tổ chức hỗ trợ thông tin
Hiện nay, Trung tâm tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (CIC) là tổ
chức duy nhất thực hiện công tác thu thập thông tin của các khách hàng có quan hệ tín
dụng với tất cả các tổ chức tín dụng và một số đơn vị khác như các công ty chứng
khoán đã làm công tác xếp loại khách hàng. Cơ chế thu thâp thông tin của CIC theo
quy chế hoạt động thông tin tín dụng do Ngân hàng Nhà nước ban hành. Trong đó quy
định các tổ chức tín dụng theo định kỳ có trách nhiệm báo cáo các thông tin liên quan
đến khách hàng cho CIC và các tổ chức tín dụng được quyền khai thác thông tin của
CIC.
Với những lợi thế của mình, Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) là một tổ chức
có thể có khả năng đáp ứng các điều kiện này. Khả năng trong thời gian tới, khi CIC
phát triển có thể trở thành một cơ quan cung cấp thông tin và xếp hạng tín dụng khách
hàng tin cậy là nền tảng cho một hạ tầng thông tin tốt phục vụ cho hoạt động tín dụng
của các ngân hàng Việt Nam. Ngoài ra với mô hình Trung tâm xếp hạng tín nhiệm
thuộc VASC cũng có khả năng trở thành một tổ chức xếp hạng tín nhiệm tin cậy.
3.2 Xây dựng và phát triển công nghệ đảm bảo sự tích hợp thông tin
Một hệ thống thông tin đầy đủ về khách hàng như: lịch sử hình thành và quá
trình phát triển, năng lực tài chính, mức độ tín nhiệm, đội ngũ điều hành là cơ sở hết
sức quan trọng giúp cho việc thẩm định,xếp loại, lựa chọn khách hàng trong hoạt động
của các tổ chức tín dụng. Nếu hệ thống này không đầy đủ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
khả năng đánh giá, thẩm định khách hàng của các ngân hàng.
Xây dựng Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) có độ cập nhật cao và các chỉ tiêu
đánh giá khách hàng cụ thể (VD: những thông tin cần thiết để xác định lịch sử, độ tin
cậy của ban điều hành doanh nghiệp …) Mặt khác, các tổ chức tín dụng cần ý thức về
tầm quan trọng của tính cập nhật và chính xác về thông tin, dữ liệu khi báo cáo cho
CIC.
Hệ thống thông tin nội bộ của từng tổ chức tín dụng: Xây dựng trong từng tổ
chức tín dụng, hệ thống lưu trữ, xử lý thông tin hiệu quả và mang tính hệ thống. Kiểm
soát tổng dự nợ của một khách hàng.
15
3.3 Xây dựng hệ thống pháp luật minh bạch và hiệu quả
Các quy định pháp lý: Ở Việt Nam, hoạt động ngân hàng nói chung, hoạt động
tín dụng nói riêng được quy định bởi văn bản cao nhất là Luật các tổ chức tín dụng.
Ngoài ra còn có các văn bản hướng dẫn của Chính phủ, của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam và các văn bản liên quan đến hoạt động tín dụng. Các quy định về hoạt động tín
dụng tại Việt Nam được đánh giá là tương đối đầy đủ và theo thông lệ chung với các
hướng dẫn rõ ràng, quyền tự chủ dành cho bên cấp tín dụng trên cơ sở bảo đảm những
quy định về an toàn.
Các điều kiện cấp tín dụng, để được cấp tín dụng, bên được cấp tín dụng phải
đảm bảo các điều kiện cần thiết gồm:
- Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân
sự theo quy định của pháp luật.
- Mục đích sử dụng khoản tín dụng được cấp hợp pháp.
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
- Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu
quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy
định của pháp luật.
- Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định.
Quy định về đảm bảo tiền vay: Theo quy định của hiện hành, các tổ chức tín
dụng có thể cấp tín dụng một khách hàng thông thường theo các hình thức đảm bảo
gồm: Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay; Bảo lãnh bằng tài sản của
bên thứ ba; Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay; Cho vay không có tài sản
đảm bảo. Để có được điều kiện được cấp tín dụng không có tài sản đảm bảo, khách
hàng phải có tình hình tài chính lành mạnh, chứng minh được khả năng trả nợ của
mình.
Quy định về việc thẩm định, xét duyệt cho vay và giám sát thu hồi vốn vay, việc
thẩm định, xét duyệt cho cấp tín dụng và giám sát thu hồi khoản tín dụng được cấp
phải tuân thủ các quy định như sau:
- Tổ chức tín dụng xây dựng quy trình xét duyệt cấp tín dụng theo nguyên tắc
bảo đảm tính độc lập và phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm giữa khâu
thẩm định và quyết định cấp tín dụng.
- Tổ chức tín dụng xem xét, đánh giá tính khả thi, hiệu quả của dự án đầu tư,
phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời
sống và khả năng hoàn trả khoản tín dụng được cấp của khách hàng để quyết định cấp
tín dụng.
16
- Việc cấp tín dụng của tổ chức tín dụng và khách hàng phải được lập thành hợp
đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dụng về điều kiện cấp tín dụng, mục
đich sử dụng khoản tín dụng được cấp, phương thức cấp tín dụng, lượng tín dụng
được cấp, lãi suất, thời hạn cấp tín dụng, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm,
phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thoả thuận.
- Tổ chức tín dụng xây dựng quy trình và thực hiện kiểm tra, giám sát quá trình
cấp tín dụng, sử dụng khoản tín dụng được cấp và trả nợ của khách hàng phù hợp với
đặc điểm hoạt động của tổ chức tín dụng và tính chất của khoản vay, nhằm đảm bảo
hiệu quả và khả năng thu hồi khoản tín dụng đã cấp.
3.4 Hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính
Luật kế toán quy định đơn vị kế toán phải thu thập, phản ánh khách quan, đầy
đủ, đúng thực tế và đúng kỳ kế toán mà nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh. Đơn vị
kế toán có trách nhiệm công khai các báo cáo tài chính. Mặt khác, các chuẩn mực kế
toán theo thông lệ chung đã dần được áp dụng tại Việt Nam. Tuy nhiên hiện tại, hệ
thống tiêu chuẩn kế toán Việt Nam (VAS) vẫn còn những khác biệt so với với hệ
thống tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IAS).
3.5 Các thể chế liên quan đến ngân hàng
Hiện tại ở Việt nam đã có Trung tâm tín dụng CIC của Ngân hàng Nhà nước và
một số đơn vị khác như các công ty chứng khoán đã làm công tác xếp loại khách
hàng. Tuy nhiên để đảm bảo độ tin cậy, tổ chức này cần phải có các điều kiện sau:
- Tính khách quan: Phương pháp đánh giá tín dụng cần phải chặt chẽ, có hệ
thống và phải căn cứ vào các số liệu quá khứ theo một phương pháp đánh giá nào đó.
Ngoài ra, các kết quả đánh giá cần phải liên tục được rà soát và điều chỉnh kịp thời
theo những thay đổi về tình hình tài chính. Để được các cơ quan chủ quản ngân hàng
công nhận, phương pháp đánh giá đối với mỗi khu vực thị trường, trong đó có việc đối
chiếu lại một cách chặt chẽ (rigorous back testing), cần phải được sử dụng trước đó ít
nhất một năm và nên là ba năm
- Tính độc lập: Tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cần phải độc lập và không
chịu các sức ép về kinh tế hoặc chính trị có thể ảnh hưởng đến kết quả đánh giá. Quá
trình đánh giá càng ít bị ảnh hưởng bởi những mâu thuẫn về lợi ích có thể phát sinh do
thành phần của hội đồng quản trị hoặc cơ cấu cổ đông của công ty gây ra càng tốt.
- Khả năng tiếp cận quốc tế/ Tính minh bạch: Các kết quả đánh giá cần được
cung cấp cho các tổ chức trong và ngoài nước để sử dụng trong các mục đích hợp
pháp và với các điều kiện cung cấp tương đương nhau. Ngoài ra, phương pháp luận
chung để đánh giá tín dụng của các tổ chức đánh giá cần phải được công khai, hầu hết
các dự án vay vốn từ WB hoặc ADB đều công khai trên web rõ ràng phương pháp
17
luận cụ thể để đánh giá một dự án, điều này sẽ tránh được những che đậy thông tin từ
bên phía khách hàng đặt mục tiêu có nguồn tín dụng bằng mọi giá.
- Về việc cung cấp thông tin: Tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cần cung cấp
các thông tin về phương pháp đánh giá, bao gồm các khái niệm về khả năng không trả
được nợ, khoảng thời gian đánh giá, ý nghĩa của mỗi bậc xếp hạng; tỷ lệ không trả
được nợ trong thực tế ứng với mỗi nhóm xếp hạng; và xu hướng thay đổi các kết quả
đánh giá, ví dụ khả năng từ xếp hạng AA xuống xếp hạng A theo thời gian.
- Các nguồn lực: Một tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cần phải có đủ các
nguồn lực cần thiết để thực hiện việc đánh giá với chất lượng cao. Các nguồn lực này
cho phép các tổ chức này tiếp xúc thường xuyên với cán bộ quản lý và nghiệp vụ tại
các tổ chức đang được đánh giá tín dụng để bổ sung các thông tin quan trọng cho việc
đánh giá tín dụng. Các kết quả đánh giá cần phải dựa trên sự kết hợp các phương
pháp định tính và định lượng. Nguồn lực thẩm định tín dụng cũng nên làm việc theo
nhóm, có nghĩa là bản thân ngân hàng cũng nên có những chuyên gia độc lập thẩm
định từ phía nước ngoài nhằm áp dụng cho những dự án qui mô lớn.
- Tính tin cậy: Trong một chừng mực nhất định, độ tin cậy của các kết quả đánh
giá đạt được nhờ các tiêu chí đã nêu trên. Ngoài ra, lòng tin của các tổ chức độc lập
(nhà đầu tư, nhà bảo hiểm, các đối tác kinh doanh) đối với các kết quả đánh giá của
một tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cũng là bằng chứng của độ tin cậy của các kết
quả đánh giá này. Độ tin cậy của một tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cũng thể hiện
ở việc các tổ chức này sử dụng các quy trình nội bộ nhằm tránh không cho các thông
tin mật được sử dụng sai mục đích. Để được công nhận, một tổ chức đánh giá tín
dụng độc lập không nhất thiết phải đánh giá các công ty ở hai quốc gia trở lên.
18
Tài liệu tham khảo
1. Nhập môn tài chính tiền tệ, NXB Lao động xã hội 2008, PGS. TS Sử Đình Thành –
PGS. TS Vũ Thị Minh Hằng.
2. Giáo trình môn Lý thuyết Tài chính tiền tệ, TLNB, Th.S Trương Minh Tuấn.
3. Tư liệu online:
• />%A9ng_th%C3%B4ng_tin
• />• />chinh-Nhin-tu-goc-do-ly-thuyet/49784.tctc
• />• o/thread-933-thong-tin-khong-doi-xung-george-akerlof-
michael-spence-joseph-stiglitz/1
• />TAI-CHINH.html
• />va-giai-phap-cho-van-de-bat-can-xung-thong-tin-tren-thi-truong-chung-khoan-
viet-nam.html
• />%A9ng-tt