Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Lý thuyết thông tin bất cân xứng vận dụng trên thị trường tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 30 trang )







TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA KẾ TOÁN- KIỂM TOÁN
LỚP VB17AK01





Đề tài 2:

LÝ THUYẾT THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG,
VẬN DỤNG TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH




Giảng viên: Trương Minh Tuấn
Nhóm thuyết trình: Nhóm 3
Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

2

LỜI MỞ ĐẦU 3
I. Lý thuyết thông tin bất cân xứng (Asymmetric Information) 4
1. Sự hình thành lý thuyết thông tin bất cân xứng 4


1.1. G.A. Akerlof (1970): “Thị trường những quả chanh”: Theo Auronen (2003, tr.7) 4
1.2. Michael Spence (1973): Phát tín hiệu Spence 5
1.3. Joseph Stiglitz (1975): Cơ chế sàng lọc 5
2. Các khái niệm về thông tin bất cân xứng 6
2.1. Thông tin kinh tế là gì? 6
2.2. Thông tin bất cân xứng 6
2.3. Một số ví dụ 7
3. Nguyên nhân xuất hiện thông tin bất cân xứng 8
4. Hậu quả của thông tin bất cân xứng 8
4.1. Rủi ro ngược hay còn gọi là lựa chọn bất lợi (Adverse selection – AS) 8
4.2. Rủi ro đạo đức hay còn gọi là tâm lý ỷ lại (Moral hazard - MH) 8
4.3. Vấn đề người ủy quyền- người thừa hành 9
5. Các giải pháp khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng 9
5.1. Giải pháp lý thuyết: 9
5.2. Giải pháp thực tế 10
II. Vận dụng thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính 12
1. Tổng quan về thị trường tài chính 12
1.1. Khái niệm 12
1.2. Phân loại thị trường tài chính 12
2. Vận dụng thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính 12
2.1. Hoạt động tín dụng tại NHTM 12
2.2. Cấp tín dụng 13
2.3. Rủi ro tín dụng 14
2.4. Thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng 15
2.5. Tại sao ngân hàng phải xử lý vấn đề thông tin bất cân xứng? 16
2.6. Tình hình hoạt động tín dụng tại các ngân hàng thương mại 17
2.7. Tình hình nợ xấu ở các ngân hàng thương mại: 19
2.8. Giải quyết vấn đề thông tin bất cân xứng như thế nào? 21
KẾT LUẬN 29
Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3


3

LỜI MỞ ĐẦU

Thông tin bất cân xứng là một trong những nguyên nhân gây nên thất bại thị
trường, trạng thái mà ở đó thị trường không đạt được sự phân bố có hiệu quả.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng ( Asymmetric Information) lần đầu tiên
xuất hiện vào thập niên 70 và đã khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế
học hiện đại khi ba nhà khoa học nghiên cứu lý thuyết này là Georgo Akerlof,
Michael Spence va Joseph Stiglitz cùng nhận giải Nobel kinh tế vào năm 2001.
Ngày nay, vấn đề thông tin bất cân xứng gần như xuất hiện ở hầu hết các thị
trường và mỗi thị trường cần phải có các cơ chế đặc thù riêng trong việc xử lý
thông tin bất cân xứng nhằm hạn chế tác động của nó đến hoạt động của các bên
tham gia cũng như hoạt động của toàn bộ nền kinh tế.
Trong đề tài nghiên cứu này, nhóm chúng tôi sẽ trình bày về “Thông tin bất
cân xứng và vận dụng thông tin bất cân xứng vào thị trường tài chính- mà cụ thể là
hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam”.
Nội dung đề tài khái quát về vấn đề thông tin bất cân xứng và những hệ quả
của nó. Đồng thời vận dụng thông tin bất cân xứng vào hoạt động tín dụng tại ngân
hàng thương mại ở Việt Nam, xem xét những tác động của nó trên hoạt động tín
dụng, từ đó đưa ra những giải pháp để hạn chế ảnh hưởng của nó lên thị trường
này.
Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

4

I. Lý thuyết thông tin bất cân xứng (Asymmetric Information)
1. Sự hình thành lý thuyết thông tin bất cân xứng
Lý thuyết thông tin bất cân xứng lần đầu tiên xuất hiện vào những năm 1970

và đã khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế học hiện đại bằng sự kiện
năm 2001, các nhà khoa học nghiên cứu lý thuyết này là George Akerlof, Michael
Spence và Joseph Stiglitz cùng vinh dự đoạt giải Nobel kinh tế. Trải qua hơn hai
thập kỷ, lý thuyết về thị trường có thông tin bất cân xứng đã trở nên vô cùng quan
trọng và là trọng tâm nghiên cứu của kinh tế học hiện đại.
Trong thực tế có quá nhiều các câu hỏi được đặt ra như: Tại sao người ta
muốn mua một chiếc xe đã qua sử dụng với một nhà bán buôn hơn là một người
bán tư nhân? Tại sao công ty bảo hiểm lại có lợi khi cung cấp cho khách hàng một
bản hợp đồng mà trong đó khấu trừ cao hơn có thể trao đổi với phí bảo hiểm thấp
hơn? Tại sao địa chủ giàu có lại không chịu rủi ro mùa màng trong giao kèo với tá
điền nghèo khó? Những câu hỏi trên có vẻ khác nhau về hiện tượng, nhưng lại
giống nhau về bản chất. Các hiện tượng trên đã đặt ra các câu hỏi cho lý thuyết
kinh tế.
Các nhà khoa học đạt giải Nobel kinh tế năm 2001 đã đưa ra các câu trả lời
tổng quát và mở rộng lý thuyết này khi họ bàn luận về nó với giả thuyết thực tế về
thông tin bất cân xứng: “Một chủ thể trên thị trường có nhiều thông tin tốt hơn chủ
thế kia”. Ví dụ: Người vay sẽ có nhiều thông tin về khả năng trả nợ hơn là người
cho vay. Người bán biết nhiều hơn về chất lượng hàng hóa của mình. Người mua
bảo hiểm sẽ biết nhiều thông tin về rủi ro tai nạn của mình hơn công ty bảo hiểm.
1.1. G.A. Akerlof (1970): “Thị trường những quả chanh”: Theo Auronen
(2003, tr.7)
Người đầu tiên giới thiệu về lý thuyết bất cân xứng thông tin là G.A. Akerlof
(1970). Ông đã chứng minh rằng thông tin bất cân xứng có thể gây ra lựa chọn đối
nghịch trên thị trường. Ví dụ điển hình là thị trường ô-tô cũ, Akerlof đã dùng từ
“Vỏ chanh” (Lemons) để chỉ những chiếc xe cũ có chất lượng kém, từ này đã trở
nên nổi tiếng và được đưa vào từ điển kinh tế nhằm chỉ những sản phẩm chất
lượng kém.

Trong nghiên cứu thị trường ô tô cũ, Akerlof cho rằng người bán biết
nhiều thông tin về chất lượng sản phẩm hơn những người mua. Người bán biết rõ

chất lượng xe của mình và luôn muốn bán với giá cao như xe có chất lượng tốt.
Người mua mua phải những chiếc xe chất lượng thấp với giá cao. Hệ quả là những
Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

5

người mua sau có xu hướng trả giá thấp cho những chiếc xe cũ trong thị trường
này, và những người bán có xe cũ chất lượng tốt sẽ không bán được giá cao và sẽ
rút khỏi thị trường. Cuối cùng thị trường sẽ chỉ còn lại những chiếc xe có chất
lượng kém . Điều này là do rủi ro lựa chọn đối nghịch (adverse selection), hệ quả
đầu tiên của bất cân xứng thông tin.

1.2. Michael Spence (1973): Phát tín hiệu Spence
Tiếp tục phát triển nghiên cứu của Akerlof (1970), trong một bài báo công
bố vào năm 1973 (dựa trên luận văn tiến sĩ của mình), Spence đã chỉ ra rằng những
người bán hàng có chất lượng cao có thể hạn chế rủi ro lựa chọn đối nghịch bằng
cơ chế phát tín hiệu (Signaling): Trong điều kiện nhất định, những chủ thể có
thông tin tốt có thể cải thiện kết quả thị trường của mình bằng cách cung cấp thông
tin riêng tư cho những chủ thể có thông tin nghèo nàn. Xét trong thị trường lao
động là một thị trường có bất cân xứng thông tin giữa những người xin việc và
người thuê lao động, Spence coi bằng cấp là một cơ chế phát tín hiệu về năng suất
của người lao động: nếu những người kém năng lực phải mất nhiều thời gian và nỗ
lực hơn những người có năng lực để đạt được cùng trình độ học vấn thì những
người có năng lực có thể phát tín hiệu bằng cách đạt được những bằng cấp mà
người kém năng lực không thể đạt được.
Ví dụ khác về cơ chế phát tín hiệu là tỷ lệ trả cổ tức của các doanh nghiệp,
có thể coi đây là tín hiệu về lợi nhuận trong tương lai của công ty là tốt hay xấu.
1.3. Joseph Stiglitz (1975): Cơ chế sàng lọc
(Bổ sung các nghiên cứu của G.A.Akerlof (1970) và M.Spence (1973))
J.Stiglitz đã đưa ra cơ chế sàng lọc (Screening) vào năm 1975. Stiglitz đặt ra

vấn đề là bản thân những người có ít thông tin hơn cũng có thể tự cải thiện tình
trạng của mình thông qua cơ chế sàng lọc: Một chủ thể không được thông tin đôi
khi có thể có được thông tin từ một chủ thể có thông tin nhờ sàng lọc.
Ví dụ: Các công ty bảo hiểm thường cung cấp những loại hợp đồng bảo
hiểm với các mức phí bảo hiểm khác nhau, tương ứng với mức bồi thường khác
nhau. Các khách hàng sẽ tự lựa chọn loại hợp đồng bảo hiểm phù hợp với mình, do
đó tự phân hóa thành các loại khách hàng khác nhau. Những khách hàng có rủi ro
thấp thường thích loại hợp đồng có phí bảo hiểm thấp trong khi khách hàng có rủi
ro cao lại lựa chọn hợp đồng có phí bảo hiểm cao.
Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

6

2. Các khái niệm về thông tin bất cân xứng
2.1. Thông tin kinh tế là gì?
Thông tin là những tin tức và dữ liệu giúp người tiếp nhận hiểu biết hơn về
vấn đề quan tâm. Tin tức là những thông điệp phản ánh sự kiện mới mẻ và mang
tính thời sự. Còn dữ liệu bao gồm báo cáo, tài liệu, hồ sơ, kết quả thống kê, điều
tra, tổng hợp hay phân tích. Thông tin trong nền kinh tế thị trường được hiểu là tin
tức và dữ liệu có giá trị đối với người tiếp nhận. Thông tin càng chính xác, đầy đủ,
cần kíp cho việc ra quyết đinh càng quang trọng thì giá trị thông tin càng đáng kể.
Giá trị thông tin còn tùy thuộc vào tính nóng, tính mật và mức độ khó thu thập,
truyền tải của nó.
Thông tin là tài sản, có giá trị sử dụng, mang lại tính hiệu quả kinh tế và hiệu
quả xã hội nếu được khai thác tốt. Thông tin đóng vai trò quan trọng trong mọi
quyết định.
Thông tin đầy đủ, kịp thời, chuẩn xác giúp dự báo chính xác, loại trừ hoàn
toàn rủi ro trong việc ra quyết định, khai khác tốt nhất cơ hội được gọi là thông tin
hoàn hảo. Trong thực tế, hiếm khi có thông tin hoàn hảo vì việc thu thập cức kỳ
khó khăn, đòi hỏi nhiều chi phí, thời gian và do trình độn nhận thức hạn chế của

người tiếp nhận nó.
2.2. Thông tin bất cân xứng
Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên giao dịch có nhiều thông tin hơn
một bên khác. Điển hình là người bán biết nhiều về sản phẩm hơn đối với người
mua hoặc ngược lại (Trang từ điển Wikipedia).
Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên đối tác nắm giữ thông tin còn bên
khác thì không biết đích thực mức độ thông tin ở mức nào đó (Nguyễn Trọng Hoài,
2006).
Thông tin bất cân xứng là việc các bên tham gia giao dịch cố tình che đậy
thông tin. Hoặc một bên có thông tin đầy đủ hơn và tốt hơn so với bên còn lại. Nói
cách khác, thông tin bất cân xứng là trạng thái không có sự cân bằng trong việc
nắm giữ thông tin giữ các bên tham gia giao dịch. Khi đó giá cả không phải là giá
cân bằng của thị trường mà nó có thể thấp hơn hoặc cao hơn dẫn tới thị trường
không đạt hiệu quả.
Thông tin bất cân xứng là mức độ thông tin không phản ảnh kịp thời, chính
xác, đầy đủ về thị trường và diễn biến của nó. Thống tin bất cân xứng theo nghĩa
Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

7

hẹp hàm ý có sự khác biệt đáng kể về khối lượng và chất lượng thông tin đã được
tích lũy đến thời điểm xác định giữ các đối tượng liên quan (các đối tượng cùng
giải quyết một vấn đề, cùng tham gia một thị trường). Thông tin bất cân xứng xảy
ra có thể do nguồn tin khác nhau, thời điêm tiếp nhận tin khác nhau và trình độ
nhận thức, ứng xử với thông tin khác nhau.
2.3. Một số ví dụ
Tình trạng thông tin bất cân xứng xảy ra ở nhiều thị trường kinh tế khác
nhau như thị trường hàng hóa, thị trường bất động sản, thị trường chứng khoáng,
bảo hiểm, bất động sản…
Thị trường chứng khoán

Doanh nghiệp che giấu các thông tin bất lợi, thổi phòng thông tin có lợi.
Doanh nghiệp cung cấp thông tin không công bằng đối với các nhà đầu tư:
ưu tiên cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư mà tổ
chức không công bố rộng rãi.
Doanh nghiệp sau khi phát hành cổ phiếu không chú trọng vào đầu tư sản
xuất kinh doanh mà chỉ tập trung vào việc “làm giá” trên thị trường chứng khoán.
Có một sự rò rỉ thông tin nội gián chưa hoặc không được phép công khai.
Một số nhà đầu tư tạo cung cầu ảo trên thị trường dẫn đến phản ánh sai lệch
giá trị của doanh nghiệp.
Một số kẻ xấu tung tin đồn thất thiệt cho doanh nghiệp.
Các cơ quan truyền thông cung cấp thông tin sai lệch; các trung gian tài
chính cung cấp, xử lý thông tin không chính xác.
Thị trường bảo hiểm
Người mua bảo hiểm có nhiều thông tin hơn người bán bảo hiểm bới vì
chính người mua bảo hiểm mới biết thật sự tình trạng sức khỏe của mình.
Thị trường lao động
Người lao động biết nhiều thông tin hơn nhà tuyển dụng. Người lao động là
người biết chính xác trình độ, khả năng của bản thân mình hơn là những thông tin
mà nhà có tuyển dụng có được.
Thị trường nhà đất
Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

8

Bên bán là bên có ưu thế thông tin về lô đất hay ngôi nhà (gặp những điều
kiện không tốt như: trong diện giải tỏa, hay ở nơi dễ ngập lụt v v ). Còn bên mua
có nhu cầu mua đất nhưng không đủ khả năng tìm hiểu về các thông tin liên quan.
Bên mua là bên kém ưu thế thông tin. Kết quả là bên mua gánh chịu bất lợi khi
mua phải đất hay nhà không tốt.
3. Nguyên nhân xuất hiện thông tin bất cân xứng

Thông tin bất cân xứng vừa mang tính chủ quan, vừa mang tính khách quan.
Tính khách quan là do cấp độ hiệu quả của thị trường gây ra những hạn chế
về truyền tải và cập nhật thông tin.
Tính chủ quan là do sự thiếu nổ lực cũng như chưa quan tâm đầu tư tìm
kiếm khai thác thông tin của các đối tượng là cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp tham
gia thị trường. Mức độ thông tin bất cân xứng phản ánh mức độ hiệu quả của môi
trường. Mặc khác, do các chủ thể khi tham gia thị trường, cố tình che dấu thông tin
để đạt được lợi thế trong giao dịch.
4. Hậu quả của thông tin bất cân xứng
4.1. Rủi ro ngược hay còn gọi là lựa chọn bất lợi (Adverse selection – AS)
Rủi ro ngược là vấn đề do thông tin bất cân xứng tạo ra trước khi tiến hành
giao dịch. Rủi ro ngược xảy ra khi trong một giao dịch, bên bán hoặc bên mua biết
rõ hơn một hay vài tính chất của sản phẩm mà đối tượng kia không biết.
Rủi ro ngược làm cho bên có ưu thế về thông tin có thể cung cấp những
thông tin không trung thực về đối tượng được giao dịch cho bên kém ưu thế thông
tin. Kết quả là, bên kém ưu thế về thông tin đồng ý hoàn thành giao dịch và nhận
được thứ không như mình mong muốn. Tình trạng này gây ra những tổn thất xã hội
và nhiều vấn đề khác như sức khoẻ người tiêu dùng, sự mất lòng tin vào những sản
phẩm tương tự có chất lượng tốt trên thị trường.
4.2. Rủi ro đạo đức hay còn gọi là tâm lý ỷ lại (Moral hazard - MH)
Rủi ro đạo đức hay tâm lý ỷ lại là hậu quả của thông tin bất cân xứng tạo ra
sau khi giao dịch đã xảy ra, khi có một hành động không thể quan sát được tạo ra
sự bất cân xứng thông tin.
Rủi ro đạo đức là tình trạng cá nhân hay tổ chức có hành động mà người
khác không thể quan sát được có xu hướng gian dối, không trung thực hay biểu
hiện những hành vi không tốt.
Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

9


Rủi ro đạo đức xảy ra khi một cá nhân hay một tập thể không chịu toàn bộ
trách nhiệm hay hậu quả cho việc mình làm, vì vậy có biểu hiện ít cẩn thận hơn,
làm cho người khác phải chịu một phần trách nhiệm hay hậu quả việc làm của
mình.
4.3. Vấn đề người ủy quyền- người thừa hành
Là một dạng đặc biệt hội tụ cả lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức, xảy ra khi
một bên (người ủy quyền) tuyển dụng một bên khác (người thừa hành) để thực
hiện một hay nhiều mục tiêu nhất định. Người ủy quyền không giám sát được đầy
đủ hành vi của người thừa hành, dẫn đến người thừa hành theo đuổi mục tiêu khác
không vì lợi ích của người ủy quyền. Vì có ít thông tin hơn nên người ủy quyền
khó cưỡng chế thi hành, đánh giá hay khuyến khích công việc của người thừa
hành. Điều này dẫn đến sự lựa chọn bất lợi cho người ủy quyền. Mặt khác, để đạt
được mục tiêu của người ủy quyền, lương của người điều hành thường ít phụ thuộc
vào nỗ lực của họ. Do đó, người điều hành thường ít có động lực để cố gắng đạt
được mục tiêu này, xuất hiện rủi ro của người điều hành.
Ví dụ: Hội đồng quản trị- Giám đốc.
Giám đốc được HĐQT trao quyền quyết định và điều hành doanh nghiệp. Sự
tách biệt giữa quyền sở hữu và việc quản lý làm phát sinh rủi ro đạo đức. Nhà quản
lý có thiên hướng hành động có lợi cho bản thân mình hơn là vì quyền lợi của các
cổ đông còn lại, bởi vì nhà quản lý không có động lực nhằm tối đa hóa lợi nhuận
doanh nghiệp như các cổ đông mong muốn.
5. Các giải pháp khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng
5.1. Giải pháp lý thuyết:
Có 3 loại giải pháp chung thường được sử dụng để hạn chế mức độ thông tin
bất cân xứng:
Cơ chế phát tín hiệu (signaling)
Michael Spence chỉ ra được cơ chế phát tín hiệu. Bên có nhiều thông tin có
thể phát tín hiệu đến những bên ít thông tin một cách trung thực và tin cậy. Với
việc phát tín hiệu này, người bán những sản phẩm chất lượng cao phải sử dụng
những biện pháp được coi là quá tốn kém với người bán hàng hóa chất lượng thấp.

Đối với thị trường hàng hoá, để giao dịch được hiệu quả thì người bán cần đảm bảo
sản phẩm tốt, khẳng định được uy tín, chất lượng của mình. Còn người mua thì sử
Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

10

dụng các biện pháp để tăng cường thông tin cho mình như tìm hiểu qua dịch vụ
đánh giá và xếp hạng, hỏi những người tiêu dùng trước hay dùng thử sản phẩm. Từ
đó, giảm dần tình trạng thông tin bất cân xứng gây thiệt hại cho cả hai bên.
Cơ chế sàng lọc
Bất cứ hàng hóa nào cũng đều có những đặc tính khác nhau như chất lượng
khác nhau, mẫu mã khác nhau nên cần phải phân loại chúng. Đối với thị trường
hàng hoá, cần phải phân loại kĩ các sản phẩm theo chất lượng, mẫu mã, độ đáng tin
cậy rõ ràng thông qua các cuộc kiểm định, kiểm chứng của các cơ quan chức năng.
Từ đó, có những mức giá hợp lý đối với các sản phẩm, củng cố lòng tin cho người
tiêu dùng và giúp bảo vệ những sản phẩm có chất lượng tốt trước sự xâm nhập của
sản phẩm có chất lượng kém.
Cơ chế giám sát
Cơ chế giám sát được áp dụng nhằm mục đích kiểm soát tâm lý ỷ lại, cơ chế
giám sát bao gồm: giám sát trực tiếp và giám sát gián tiếp.
Giám sát trực tiếp: bên ít thông tin hơn sẽ bỏ ra nguồn lực để đạt được kiểm
soát thông tin, cơ chế giám sát này tốn nhiều chi phí và sức lực, khả năng giám sát
của họ muốn giám sát đối phương sẽ bị hạn chế.
Giám sát gián tiếp: như giám sát thị trường…
5.2. Giải pháp thực tế
Giải pháp tư nhân:
Đối với mỗi thị trường có những biện pháp khác nhau để hạn chế tình trạng
thông tin bất cân xứng.
Thị trường đồ cũ: Người mua thu thập thông tin: thuê chuyên gia, hỏi người
mua trước hoặc chạy thử, mua thông tin. Người bán phát tín hiệu chứng minh uy

tín của cửa hàng thông qua danh tiếng, thương hiệu, cấp giấy bảo hành…
Thị trường lao động: Người xin việc phát tín hiệu: trưng bằng cấp, đòi mức
lương cao. Nhà tuyển dụng: phỏng vấn, đề ra thời gian thử việc.
Thị trường bảo hiểm: Công ty bảo hiểm yêu cầu khám sức khỏe trước khi ký
hợp đồng bảo hiểm, chỉ định phòng khám đối với hợp đồng lớn, không chi trả bảo
hiểm toàn phần (đồng chi trả), giảm phí bảo hiểm đối với khách hàng có đăng ký
các chương trình phòng chống bệnh tật hoặc không hút thuốc.
Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

11

Ngân hàng: Người đi vay phát tín hiệu chứng minh hiệu quả tài chính của dự
án hoặc chứng minh năng lực tài chính của công ty. Ngân hàng thẩm định dự án,
thẩm định khả năng tài chính của nhà đầu tư, tài sản thế chấp; đánh giá lịch sử tín
dụng của công ty; yêu cầu sự đảm bảo của bên thứ ba.
Giải pháp của chính phủ:
Cấp giấy phép chứng nhận (trước hoạt động): Chứng nhận tư cách pháp
nhân, chứng nhận chất lượng sản phẩm.
Kiểm tra, kiểm soát (trong quá trình hoạt động): Kiểm tra an toàn vệ sinh
thực phẩm, đóng dấu chất lượng và cấp phép lưu thông, Kiểm tra, đối chiếu thực tế
và tiêu chuẩn đăng ký.
Thành lập hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng.
Cung cấp thông tin: Về quy hoạch, Về dịch bệnh, Về nhà đầu tư, Dự báo về
cung cầu thị trường trong nước và quốc tế.
Thiết lập thể chế (xây dựng khung pháp lý) để có biện pháp chế tài, xử phạt.

Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

12


II. Vận dụng thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính
1. Tổng quan về thị trường tài chính
1.1. Khái niệm
Thị trường tài chính là tổng hòa các mối quan hệ cung cầu về vốn, diễn ra
dưới hinh thức vay mượn, mua bán về vốn, tiền tệ và các chứng từ có giá nhằm
chuyển dịch từ nơi cung cấp đến nơi có nhu cầu về vốn cho các hoạt động kinh tế.
1.2. Phân loại thị trường tài chính
- Căn cứ vào thời gian vận động vốn: Thị trường tiền tệ, thị trường vốn.
- Căn cứ vào cách thức huy động vốn: Thị trường công cụ nợ, thị trường công
cụ vốn.
- Căn cứ vào cơ cấu tổ chức: Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
2. Vận dụng thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính
Xét đại diện là “Hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Việt Nam”
2.1. Hoạt động tín dụng tại NHTM
Tín dụng là một gia dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay
(ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên vay ( cá nhân, doanh nghiệp và
các chủ thể kinh tế khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay
sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm
hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
TDNH là mối quan hệ tín dụng phát sinh giữa các ngân hàng, tổ chức tín
dụng với các chủ thể khác trong nền kinh tế (doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã
hội, cơ quan nhà nước.
Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động cơ bản và quan trọng đối
với ngân hàng vì đó là hoạt động sinh lợi chủ yếu và luôn chiếm một tỷ trọng lớn
trong tổng tài sản có của các ngân hàng thương mại.

Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

13


2.2. Cấp tín dụng
Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền
hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng
nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân
hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác. (Luật Các tổ chức tín dụng- số
47/2010/QH12)

Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

14

2.3. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng
xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không
thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết. (
Khoản 01 điều 02, Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý
rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng)
Rủi ro tín dụng còn được gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và rủi ro sai hẹn, là
loại rủi ro liên quan đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Nguyên nhân:
- Do năng lực quản trị của ngân hàng:
• Không có đủ thông tin về các số liệu thống kê, chỉ tiêu để phân tích và đánh
giá khách hàng.
• Lơi lỏng trong quá trình giám sát trong và sau khi cho vay.
• Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó là vật bảo
đảm chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi vay.
• Chạy theo số lượng mà không coi trọng chất lượng khoản vay, quá lạc quan
và tin tưởng vào sự thành công của phương án kinh doanh của khách hàng.
• Ngân hàng thiếu một bộ phận chuyên theo dõi, quản lý rủi ro, quản lý hạn
mức tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc từng ngành nghề, sản phẩm,

địa phương khác nhau để phân tán rủi ro, thiết lập các dự báo cần thiết trong
từng thời kỳ.
• Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số cán bộ tín dụng ngân hàng chưa
đáp ứng đủ và vấn đề quản lý sử dụng, đãi ngộ cán bộ ngân hàng chưa thỏa
đáng.
• Ngân hàng không giải quyết hợp lý quan hệ giữa nguồn vốn huy động và
nguồn vốn sử dụng.
• Cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng chưa thực sự lành mạnh, việc chạy
theo quy mô, bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện trong cho vay, thiếu quan tâm
đến chất lượng khoản vay.
- Do khách hàng:
• Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay.
Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

15

• Năng lực quản lý kinh doanh kém, đầu tư nhiều lĩnh vực vượt quá khả năng
quản lý.
• Khách hàng vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng dưới một danh nghĩa hay
nhiều thực thể khác nhau nên thiếu sự phân tích trên tổng thể, khó theo dõi
được dòng tiền dẫn đến việc sử dụng vốn vay chồng chéo và mất khả năng
thanh toán dây chuyền.
• Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch.
• Doanh nghiệp cố tình lừa đảo ngân hàng.
- Nguyên nhân khách quan:
• Yếu tố môi trường tự nhiên tác động như: thiên tai, dịch bệnh, bão lụt gây
tổn thất cho khách hàng vay vốn kinh doanh.
• Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới.
• Bị ảnh hưởng của hàng hóa nhập lậu.
• Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi và sự yếu kém hiệu quả của cơ

quan pháp luật cấp địa phương trong việc triển khai.
• Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng nhà nước.
• Hệ thống quản lý thông tin còn nhiều bất cập.
• Sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá hối đoái, lạm phát, chỉ số giá cả tăng, nguyên
vật liệu đầu vào tăng làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khách
hàng, khó khăn tài chính dẫn đến không có khả năng trả nợ.
Một trong những thông số dùng để đánh giá mức độ an toàn của hoạt động tín
dụng là tỷ lệ nợ xấu. Ngoài những yếu tố khách quan, nguyên nhân cao nhất gây ra
tình trạng nợ xấu là do sự bất cân xứng thông tin: các ngân hàng không có đủ thông
tin từ phía khách hàng của mình, dẫn đến việc sử dụng cơ chế sàng lọc chưa hiệu
quả nên để sót những khách hàng có khả năng che đậy hành vi và thông tin của họ
trong giao dịch vay vốn để thực hiện những dự án có rủi ro cao.
2.4. Thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng
Lựa chọn bất lợi:
Lựa chọn bất lợi xảy ra trước cho vay, khi ngân hàng bị khách hàng che giấu
một số thông tin dẫn tới việc lựa chọn khách hàng không tốt và cấp tín dụng không
hiệu quả.
Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

16

Khách hàng tiềm ẩn rủi ro cao lại là những người tích cực trong việc tìm kiếm
các khoản vay. Lựa chọn bất lợi có thể dẫn đến việc cấp tín dụng cho khách hàng có
rủi ro cao nên trong trường hợp này ngân hàng có thể sẽ cắt giảm cho vay hoặc
không tiếp tục cho vay mặc dù trên thị trường vẫn còn nhiều khách hàng tốt.
Tâm lý ỷ lại:
Trong hoạt động tín dụng, việc giám sát việc sử dụng các khoản tín dụng của
ngân hàng thường vấp phải nhiều khó khăn đến từ cả phía ngân hàng cũng như
người đi vay.
Tâm lý ỷ lại xảy ra sau khi cho vay, khi khách hàng có động cơ đầu tư vào

những dự án có độ rủi ro cao. Nếu dự án đó thành công thì khách hàng sẽ thu lợi rất
lớn, nếu dự án thất bại thì ngân hàng sẽ phải gánh chịu hậu quả do khách hàng thua
lỗ. Tâm lý ỷ lại cũng có thể xảy ra khi khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục
đích, đầu tư vào dự án kém hiệu quả, lừa đảo ngân hàng…
Ngoài ra, tâm lý ỷ lại còn xuất hiện ở các tổ chức tín dụng sau khi cho vay:
thiếu sót trong quá trình kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng có đúng
mục đích hay không!
Tâm lý ỷ lại trong hoạt động giao dịch vay nợ khá phổ biến. Vì vậy, các Tổ
chức tài chính phải nâng cao khả năng kiểm soát trong việc giám sát tình hình sử
dụng vốn vay của khách hàng.
2.5. Tại sao ngân hàng phải xử lý vấn đề thông tin bất cân xứng?
Ngân hàng đơn thuần chỉ là một tổ chức kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận.
Cấp tín dụng là một trong những nghiệp vụ kinh doanh chính của các ngân hàng.
Cũng giống như các hợp đồng tài chính khác, hợp đồng tin dụng là một dạng hợp
đồng không hoàn chỉnh (incomplete contract). Để một hợp đồng được thực hiện đầy
đủ thì các bên liên quan trong hợp đồng phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Tuy
nhiên ,việc thực hiện các hợp đồng không hoàn chỉnh có rất nhiều tình huống có thể
xảy ra trong quá trình thực thi hợp đồng mà các bên không lường trước được.
Trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng là người có ít thông tin về dự án về
mục đích sử dụng khoản tín dụng được cấp hơn khách hàng. Do đó để đảm bảo an
toàn trong hoạt động của mình, ngân hàng phải xử lý thông tin bất cân xứng để hạn
chế lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại nhằm cho vay đúng người đúng đối tượng và
Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

17

giám sát chặt chẽ để khách hàng có hành vi đúng đắn nhằm đảm bảo việc thu hồi cả
gốc và lãi tín dụng đã cấp.
2.6. Tình hình hoạt động tín dụng tại các ngân hàng thương mại
Cho vay tăng chậm, nợ xấu tăng nhanh

Theo số liệu mới nhất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tín dụng toàn ngành
trong 7 tháng đầu năm tăng 3,68%. Trong 6 tháng, con số này là 3,52%.
Do kẹt đầu ra nên nhiều ngân hàng phải mua trái phiếu chính phủ, trái phiếu
Kho bạc Nhà nước, tín phiếu NHNN và một số loại chứng khoán nợ khác đang niêm
yết. Chẳng hạn, tổng số dư tự doanh và đầu tư chứng khoán của VietinBank trong 6
tháng đầu năm tăng thêm 29.698 tỷ đồng, tức tăng 35,7%, trong đó đa phần là các
công cụ nợ như vừa nêu. Tương tự, tổng danh mục tự doanh và đầu tư của
Vietcombank tăng thêm 26.805 tỷ đồng, tương đương với mức tăng 41,4%.
Đáng chú ý, dư nợ cho vay tăng chậm, nhưng nợ xấu lại tăng nhanh. Số liệu
dẫn nguồn của Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng (NHNN) đưa ra con số nợ xấu
của toàn hệ thống đến cuối tháng 6 là gần 161.000 tỉ đồng, tương đương mức tăng
21,5% so với cuối tháng 5.2014 và đồng nghĩa với tỉ lệ tăng tới 38,2% so với thời
điểm cuối năm 2013.

3.74%
3.86%
3.93%
4.03%
4.07%
4.17%
3.50%
3.60%
3.70%
3.80%
3.90%
4.00%
4.10%
4.20%
4.30%
Tháng 01 Tháng 02 Tháng 03 Tháng 04 Tháng 05 Tháng 06

Tỷ lệ nợ xấu toàn ngành trong 6 tháng đầu năm 2014
Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

18

Lợi nhuận giảm
Theo kết quả được công bố của 9 NHTMCP hàng đầu, sau 6 tháng đầu năm
2014, đa phần các ngân hàng đều có thu nhập từ hoạt động kinh doanh chính cho
vay (thu nhập lãi thuần) tăng so với cùng kỳ nhưng mức tăng thấp. Tuy nhiên vẫn có
những ngân hàng thu nhập lãi thuần giảm so với cùng kỳ.
Cụ thể, doanh thu lãi thuần của Vietinbank giảm 6,38% hay Eximbank giảm
1,57%. Nguyên nhân, do tăng trưởng tín dụng thấp cũng như tỷ lệ lãi biên của các
ngân hàng giảm do lãi suất cho vay giảm,

MBB tăng trưởng thu nhập lãi thuần
6,79%.



Mặc dù doanh thu lãi thuần của các NH vẫn có sự tăng trưởng nhưng không
có nhiều TCTD duy trì được đà tăng trưởng về lợi nhuận.
Một số ngân hàng còn suy giảm mạnh như ACB giảm 20%, Eximbank là
11%, Vietinbank là 2,95% và BIDV là 0,76%. Bên cạnh đó vẫn có ngân hàng duy trì
được mức tăng trưởng ấn tượng như Techcombank đạt LNST 740 tỷ đồng bằng 80%
kế hoạch và vượt 50% cùng kỳ năm trước, hay SHB cũng vượt 33,24% so với cùng
kỳ 2013, Sacombank tăng 34% trong quý II.

Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

19



2.7. Tình hình nợ xấu ở các ngân hàng thương mại:
2.7.1. Nợ xấu và các vấn đề về nợ xấu:
Khái niệm:
Nợ xấu hay nợ khó đòi là các khoản nợ dưới chuẩn, đã quá hạn và bị nghi ngờ
về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ, điều này thường xảy ra khi
các con nợ đã làm ăn thua lỗ liên tục, tuyên bố phá sản hoặc đã tẩu tán tài sản. Đối
với ngân hàng, nợ xấu là các khoản tiền cho khách hàng vay mà không thể thu hồi
lại được do khách hàng làm ăn thua lỗ hoặc phá sản,…
Nợ xấu được coi là chi phí khác của doanh nghiệp cho vay, nên làm giảm
doanh thu ròng. Nhìn chung, một doanh nghiệp luôn phải dự phòng những khoản nợ
xấu trong chu kỳ kinh doanh hiện tại dựa vào những số liệu nợ xấu ở kỳ trước. Nợ
xấu luôn tồn tại ở mọi doanh nghiệp cho vay trong một tỷ lệ nhất định trên tổng nợ.
Nợ xấu bao gồm nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn
(Nhóm 3, Nhóm 4, Nhóm 5- Điều 6 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN quy định Tổ
chức tín dụng thực hiện phân loại nợ)
Nguyên nhân gây nợ xấu:
Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất là do bản thân các ngân hàng. Các ngân hàng cho vay nhưng thẩm
định sơ sài, không nắm được các thông tin chính xác về khách hàng nên mới dẫn đến
tình trạng nợ xấu. Hay có những tiêu cực trong hệ thống ngân hàng như tình trạng sở
Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

20

hữu chéo, rồi Chính phủ chỉ định cho vay như trường hợp Vinashin, Vinalines mới
dẫn đến việc nợ xấu gia tăng.
Thứ hai là do các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp vay nhưng rồi làm ăn thua
lỗ, không có tiền trả, không theo kịp cơ chế thị trường, bị cạnh tranh dữ dội.

Nguyên nhân khách quan: là do kinh tế vĩ mô. Trong thời gian gần đây, kinh
tế vĩ mô đã tác động đến hoạt động của doanh nghiệp, và đây là nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến việc gia tăng nợ xấu ở các ngân hàng.
Bản thân các ngân hàng cũng có sai sót nhất định, tuy nhiên những tiêu cực
trong hệ thống ngân hàng hiện nay đã giảm đi nhiều. Và rõ ràng, khi thẩm định hồ
sơ của doanh nghiệp thì rất tốt, không có vấn đề gì, nhưng sau khi cho khách hàng
vay rồi thì khách hàng đó, doanh nghiệp đó lại không bán được hàng vì tình hình
kinh tế vĩ mô tác động, phải chịu áp lực, khủng hoảng từ bên ngoài. Hàng bán không
được lại phải chịu nhiều chi phí đi kèm nên doanh nghiệp mới không có tiền để trả
nợ và đưa đến nợ xấu.
Hậu quả của nợ xấu:
Nợ xấu ảnh hưởng khá lớn đến hoạt động kinh doanh của cả ngân hàng và
doanh nghiệp. Ngân hàng mất nhiều thời gian, nguồn lực để thu hồi nợ. Trong khi đó
doanh nghiệp gần như mất khả năng trả nợ và ngân hàng có nguy cơ mất trắng.
Khi một ngân hàng bị rủi ro tín dụng lớn, sẽ ảnh hưởng đến việc huy động
vốn, người đầu tư hoang mang, lo sợ và ồ ạt đến rút tiền, không những ở ngân hàng
bị sự cố mà còn ở những ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp
khó khăn trong thanh khoản, nếu tình trạng này kéo dài dẫn đến hệ thống ngân hàng
bị phá sản, gây hậu quả xấu cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, việc loại trừ nợ xấu gần như là điều không thể. Vì vậy, các ngân
hàng cần phản ánh tình trạng nợ xấu trong báo cáo tài chính càng đầy đủ và chi tiết,
tình trạng tín dụng càng đảm bảo thông qua việc trích lập các khoản dự phòng chính
xác và mang tính thực tế.
2.7.2. Nợ xấu ở các ngân hàng thương mại Việt Nam:
Việc trích lập dự phòng hiện nay đang không được các ngân hàng thực hiện
đầy đủ, các ngân hàng luôn ép mức trích lập dự phòng xuống để nợ xấu không quá
cao. Bởi vì khi để nợ xấu quá cao thì bản thân các ngân hàng sẽ bị khống chế về chỉ
Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

21


tiêu tài chính, việc mở thêm chi nhánh cũng khó khăn nên các tổ chức tín dụng luôn
cố gắng ép nợ xấu xuống để trích lập dự phòng ít, góp phần giảm bớt chi phí.
Trong báo cáo tài chính 6 tháng đầu năm 2014 của nhiều NHTM: tỉ lệ nợ xấu
hầu hết đều tăng, thậm chí là tăng cao, nhất là đối với ngân hàng lớn lâu nay vốn duy
trì tỉ lệ nợ xấu ở ngưỡng an toàn 3% mà NHNN đưa ra.

Theo báo cáo của BIDV, tại thời điểm 31/12/2013 tỷ lệ nợ xấu là 2,3% chưa
tính dự nợ cho vay bằng ODA và chỉ 2,2% nếu tính cả tín dụng cho vay ODA. Đến
30/6/2014, nợ xấu chưa tính tín dụng OAD vẫn là 2,3% còn nếu tín tổng tín dụng
bao gồm cả ODA thì nợ xấu chỉ có 1,6%.
Cũng cần lưu ý, dư nợ tín dụng bằng ODA tại thời điểm 30/6/2014 là 9.344 tỷ
đồng trong khi cuối năm 2013 dư nợ cho vay bằng ODA là 17.765 tỷ đồng. Chứng
tỏ chất lượng tín dụng theo đánh giá của BIDV đã tốt hơn thời điểm cuối năm 2013
khá nhiều.
Tại SHB, theo thuyết minh báo cáo, ngân hàng không phân loại nợ theo 5
nhóm như phần lớn các TCTD khác mà thực hiện phân loại dựa trên thời gian thanh
toán nợ. Theo đó, cuối năm 2013, tại SHB có 5,67% dư nợ cho vay là nợ quá hạn thì
đến 30/6/2014 tỷ lệ nợ quá hạn tăng lên 8,1%.
2.8. Giải quyết vấn đề thông tin bất cân xứng như thế nào?
2.8.1. Cơ sở hạ tầng và các điều kiện cần thiết trong hoạt động tín dụng
Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

22

Hiện nay, vấn đề xử lý thông tin bất cân xứng đang dược các NHTM Việt
Nam chú trọng nhằm hạn chế rủi ro trong tín dụng, khắc phục tình trạng nợ xấu. Vấn
đề cơ bản nhất trong việc giải quyết thông tin bất cân xứng là sự cân bằng thông tin.
Đề các ngân hàng có thể sử dụng cơ chế sàng lọc tốt, tìm được đúng khách hàng,
giảm thiểu rủi ro tín dụng và khách hàng thực hiện đúng những hành động đã cam

kết thì nền kinh tế cần phải có:
- Các quy định pháp lý rõ ràng và chặt chẽ
- Hệ thống kế toán và báo cáo tài chính minh bạch, đủ độ tin cậy phản ánh đúng
năng lực tài chính của khách hàng
- Hệ thống thông tin đầy đủ, có độ tin cậy và tính chính xác cao
- Các tiêu chuẩn đánh giá xếp loại rõ ràng, minh bạch, dễ áp dụng
- Tổ chức đánh giá, xếp loại tín dụng độc lập
- Hệ thống đăng ký tài sản
Các quy định về pháp lý
Ở Việt Nam, hoạt động tín dụng được quy định bởi văn bản cao nhất là Luật
các tổ chức tín dụng. Ngoài ra còn có các văn bản hướng dẫn của Chính phủ, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam và các văn bản liên quan đến hoạt động tín dụng. Các quy
định về hoạt động tín dụng tại Việt Nam được đánh giá là tương đối đầy đủ và theo
thông lệ chung, với các hướng dẫn rõ rang, quyền tự chủ dành cho bên cấp tín dụng
trên cơ sở đảm bảo những quy định về an toàn.
Điều kiện cấp tín dụng
Để được cấp tín dụng, bên được cấp phải đảm bảo các điều kiện cần thiết như:
- Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm
dân sự theo quy định của pháp luật.
- Mục đích sử dụng khoản tín dụng được cấp hợp pháp.
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
- Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu
quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với
quy định của pháp luật.
- Thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay.
Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

23

Quy định về đảm bảo tiền vay

“Biện pháp bảo đảm tiền vay
Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản: Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của
khách hàng vay; Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba; Bảo đảm bằng tài sản hình
thành từ vốn vay.
Biện pháp bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng
tài sản: Tổ chức tín dụng chủ động lựa chọn khách hàng vay để cho vay không có
bảo đảm bằng tài sản; Tổ chức tín dụng nhà nước được cho vay không có bảo đảm
theo chỉ định của Chính phủ; Tổ chức tín dụng cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay
có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội” –
( Theo điều 3, Nghị
định chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng-
Số: 178/1999/NĐ-CP)

Quy định về việc thẩm định, xét duyệt cho vay và giám sát thu hồi vốn vay
Tổ chức tín dụng xây dựng quy trình xét duyệt cấp tín dụng theo nguyên tắc
bảo đảm tính độc lập và phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm giữa
khâu thẩm định và quyết định cấp tín dụng.
Tổ chức tín dụng xem xét, đánh giá tính khả thi, hiệu quả của dự án đầu tư,
phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời
sống và khả năng hoàn trả khoản tín dụng được cấp của khách hàng để quyết định
cấp tín dụng.
Việc cấp tín dụng phải được lập thành hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng
phải có nội dung về điều kiện cấp tín dụng, mục đích sử dụng khoản tín dụng được
cấp, phương thức cấp tín dụng, lượng tín dụng được cấp, lãi suất, thời hạn cấp tín
dụng, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và nhưng cam
kết khác được các bên thỏa thuận.
Hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính
Việc đánh giá mức độ tín nhiêm của khách hàng được thực hiện trên cơ sở
đánh giá tình hình tài chính và kết quả kinh doanh. Đơn vị kế toán có trách nhiệm
công khai các báo cáo tài chính. Tuy nhiên, việc sử dụng các báo cáo tài chính để

làm cản cứ thẩm định dự án chưa có đủ độ tin cậy vì doanh nghiệp có nhiều hệ thống
sổ sách báo cáo kế toán: 1. Báo cáo thuế ( KQKD thấp hơn thực tế) 2. Vay vốn ngân
hàng ( KQKD cao hơn thực tế) 3. Nội bộ ( KQKD thực). Do đó, ngân hàng rất khó
nhận biết tình hình trạng thực của doanh nghiệp đang như thế nào.
Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

24

Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu
Hệ thống thông tin phục vụ đánh giá khách hàng
Trung tâm tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (CIC) là tổ chức
duy nhất thực hiện công tác thu thập thông tin của các khách hàng có quan hệ tín
dụng với tất cả các tổ chức tín dụng. Các tổ chức tín dụng theo định kỳ có trách
nhiệm báo cáo các thông tin liên quan đến khách hàng cho CIC và được quyền khai
thác thông tin của CIC khi cần.
Tuy nhiên, do các tổ chức tín dụng chưa thực sự ý thức về tầm quan trọng của
tính cập nhật và chính xác về thông tin nên chưa có sự quan tâm đúng mức đến các
thông tin, dữ liệu khi báo cáo cho CIC. Vì thế, thông tin hiện có của CIC có độ cập
nhật không cao, thông tin chưa rõ ràng, chưa có những thông tin cần thiết để xác
định lịch sử, độ tin cậy của ban điều hành doanh nghiệp. Nên khi thẩm định doanh
nghiệp, rất ít ngân hàng lấy thông tin từ CIC.
Hệ thống thông tin nội bộ của các tổ chức tín dụng
Trong một số tổ chức tín dụng, hệ thống lưu trữ, xử lý thông tin nội bộ cũng
chưa hiệu quả, và tính hệ thống gần như không có, dẫn đến việc kiểm soát tổng dư
nợ của khách hàng là một vấn đề khó khăn đối với các tổ chức tín dụng.
Hệ thống thông tin phục vụ cho viêc thẩm định dự án
Khi thẩm dự án, phương án kinh doanh, các tổ chức tín dụng cần phải có hệ
thống thông tin nhằm xác định, kiểm tra các thông số đầu vào và đầu ra của dự án,
nhất là các thông số về thị trường các nguyên liệu đầu vào và thị trường đầu ra của
sản phẩm…

Vấn đề hệ thống thông tin phục vụ cho việc thẩm định dự án của các tổ chức
tín dụng hiện nay vẫn đang là vấn đề rất lớn. Những biến số quan trọng quyết định
đến sự thành bại của dự án như giá nguyên liệu, giá bán sản phẩm, khả năng tiêu
thụ… có rất nhiều thông tin trên internet, nhưng tính hệ thống không cao. Việc truy
cập, tìm kiếm những số liệu này phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của nhân viên tín
dụng, mang tính chủ quan cao.
Hệ thống các tiêu chuẩn vào kỹ thuật đánh giá
Các tiêu chuẩn đánh giá năng lực khách hàng
Lý thuyết Thông tin bất cân xứng Nhóm 3

25

Theo quy định, người điều hành doanh nghiệp phải có một số tiêu chuấn nhất
định về năng lực, bằng cấp. Nhưng thực tế những quy định này còn nặng về hình
thức. Những căn cứ, tiêu chuẩn để dựa vào đó đánh giá khả năng điều hành của một
doanh nghiệp, một tổ chức gần như không có.
Các tiêu chuẩn phân tích báo cáo
Hiện nay chưa có các tiêu chuẩn, chuẩn mực được cho là hiệu quả để so sánh
đánh giá một báo cáo tài chính của một khách hàng là tốt hay không tốt, đủ tiêu
chuẩn hay chưa đủ tiêu chuẩn.
Bộ Tài chính đã ban hành các thông tư hướng dẫn chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
hoạt động tài chính của tổ chức tín dụng nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước.Trên
cơ sở những tiêu chí của Ngân hàng Nhà nước đưa ra, các tổ chức tín dụng cũng xây
dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá, xếp loại khách hàng, nhưng việc đánh giá dựa vào
các tiêu chuẩn này chưa thực sự đi vào cuộc sống.
Các kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính, thẩm định dự án
Các kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính, thẩm định dự án tiên tiến chưa được
áp dụng và phổ biến rộng rãi tại Việt Nam do điều kiện về công nghệ và yếu tố con
người còn hạn chế.
Thực tế, một người am hiểu về kỹ thuật thẩm định dự án là có thể biến một dự

án có xác xuất NPV dương hay IRR lớn hơn ngưỡng cần thiết đạt 100%. Vì vậy để
bác bỏ một dự án hay đánh giá doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả là vấn đề hết
sức khó khăn đối với cán bộ tín dụng.
Tổ chức đánh giá tín dụng độc lập
Để đảm bảo độ tin cậy trong bảng đánh giá xếp loại khách hàng, cần có đáp
ứng những yêu cầu sau:
- Tính khách quan
- Tính độc lập
- Khả năng tiếp cận quốc tế, tính minh bạch
- Cung cấp thông tin đầy đủ
- Có đủ nguồn lực cần thiết để thực hiện đánh giá với chất lượng cao
- Tính tin cậy

×