BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC
TÊN HỌC VIÊN:
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Đề tài:
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH ĐIỆN NĂNG TẠI
CÔNG TY ĐIỆN LỰC BẮC NINH
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ: 60340102
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
……………………….…….
…………, THÁNG 06 NĂM 2015
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguồn năng lượng nói chung và điện năng nói riêng có vai trò rất quan trọng đối với
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngành điện lực nước ta trong thời gian
qua có tốc độ phát triển khá nhanh, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn hàng đầu, là một trong
những tập đoàn mạnh của nước ta hiện nay, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội,
ổn định an ninh quốc phòng, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Là ngành mà hiện
nay nguồn cung sản xuất trong nước vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng cho hoạt động
sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của người dân.
Điện năng là nguồn năng lượng cơ bản và thiết yếu nhất phục vụ cho mọi nhu cầu
hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty, doanh nghiệp, nhu cầu tiêu dùng của các cơ
quan quản lý nhà nước, bệnh viện, trường học…và đặc biệt là nhu cầu sử dụng điện sinh
hoạt của người dân ngày một tăng lên khi nền kinh tế và xã hội ngày càng phát triển, đời
sống người dân ngày càng cao. Vì thế, điện năng đã trở thành nhu cầu thiết yếu đối với đời
sống của người dân, an ninh - quốc phòng cũng như cho phát triển kinh tế - xã hội.
Đến thời điểm hiện tại, điện vẫn là ngành có tính độc quyền cao khi hiện nay Tập
đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) là người mua và bán điện duy nhất trên thị trường. Công ty
Điện lực Bắc Ninh (nói riêng cũng vậy, là đơn vị trực thuộc Tổng Công ty Điện lực Miền
Bắc (EVN CPC) hoạt động kinh doanh mang tính độc quyền của nhà nước, là đơn vị phân
phối và cung cấp dịch vụ bán điện phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, phát triển
kinh tế - xã hội và đặc biệt là cung cấp điện sinh hoạt tiêu dùng cho người dân trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh.
Mặc dù vậy, trong cơ chế hiện nay, ngành điện Việt Nam nói chung và Điện lực Bắc
Ninh cũng buộc phải thị trường hóa, đặc biệt là điện sinh hoạt của người dân. Để cạnh tranh
và đững vững trên thị trường trong nước và quốc tế, Công ty điện lực Bắc Ninh phải không
ngừng phấn đấu và phát triển trong hoạt động kinh doanh của mình.
Xuất phát từ những vấn đề trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp nâng
cao hiệu quả kinh doanh điện năng tại Công ty Điện lực Bắc Ninh” làm luận văn tốt
2
nghiệp thạc sỹ kinh tế.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả kinh
doanh của Công ty điện lực Bắc Ninh.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về nâng cao hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp;
- Phân tính, đánh giá hiệu quả kinh doanh của Công ty điện lực Bắc Ninh và những
nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của công ty;
- Đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty điện lực Bắc
Ninh đến năm 2020;
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng trọng tâm của đề tài là những vấn đề liên quan đến hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi thị trường và địa bàn
hoạt động của Công ty điện lực Bắc Ninh.
+ Phạm vi về thời gian: Phân tích thực trạng trong giai đoạn 2011 - 2013 và đề xuất
giải pháp đến năm 2020.
+ Phạm vi nội dung: Hiệu quả kinh doanh của Công ty điện lực Bắc Ninh.
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Thứ nhất, đề tài này là công trình nghiên cứu về hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp kinh doanh điện năng.
Thứ hai, đề tài góp phần giúp Công ty điện lực Bắc Ninhthấy rõ thực trạng kinh
doanh hiện tại. Ngoài ra, đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công
ty điện lực Bắc Ninh đến năm 2020.
5. Kết cấu của luận văn
3
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Chương 2. Đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty điện lực Bắc
Ninh
Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty Công
ty điện lực Bắc Ninh
4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh
trình độ sử dụng các yếu tố của quá trình sản xuất. Hiệu quả kinh doanh còn thể hiện sự vận
dụng khéo léo của các nhà quản trị doanh nghiệp giữa lý luận và thực tế nhằm khai thác tối
đa các yếu tố của quá trình sản xuất như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, nhân công để
nâng cao lợi nhuận: Vậy hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh trình
độ sử dụng các nguồn vật lực, tài chính cảu doanh nghiệp để đạt hiệu quả cao nhất.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh là một trong những biện pháp cực kỳ quan trọng của
các doanh nghiệp để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao một cách bền vững. Do vậy phân
tích hiệu quả kinh doanh là một nội dung cơ bản của phân tích tài chính nhằm góp phần cho
doanh nghiệp tồn tại và phát triển không ngừng. Mặt khác, hiệu quả kinh doanh còn là tiêu
chí đánh giá kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp, góp phần tăng them sức cạnh tranh
cho các doanh nghiệp trên thị trường.
Khi phân tích hiệu quả kinh doanh các chỉ tiêu cần được xem xét gán với thời gian,
không gian và môi trường của các chỉ tiêu nghiên cứu. Mặt khác, hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp còn đặt trong mối quan hệ với hiệu quả xã hội và trách nhiệm bảo vệ môi
trường và nguồn tài nguyên của đất nước.
Phân tích hiệu quả kinh doanh cần phải kết hợp nhiều tiêu chí hiệu quả ở các bộ
phận, các mặt của quá trình kinh doanh như chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản dài hạn, tài sản
ngắn hạn, nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn vay, chi phí… Ta cũng có thể đi phân tích từ
chỉ tiêu tổng hợp đến chỉ tiêu chi tiết, từ đó khái quát hóa để đưa ra các thông tin hữu ích là
cơ sở đưa ra các quyết định phục vụ quá trình kinh doanh.
1.1.2. Bản chất của hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp
Bất kỳ một hoạt động nào của mọi tổ chức đều mong muốn đạt hiệu quả cao nhất
trên mọi phương diện kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Hoạt động kinh doanh trong cơ
chế thị trường yêu cầu hiệu quả càng đòi hỏi cấp bách, vì nó là động lực thúc đẩy các doanh
5
nghiệp cạnh tranh và phát triển. Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp chủ yếu xét trên
phương diện kinh tế có quan hệ với hiệu quả xã hội và môi trường.
Thực chất của hiệu quả kinh doanh là sự so sánh giữa các kết quả đầu ra với các yếu
tố đầu vào của một tổ chức kinh tế được xét trong một kỳ nhất định, tùy theo yêu cầu của
các nhà quản trị kinh doanh. Các chỉ tiêu tài chính phản ánh hiệu quả kinh doanh là cơ sở
khoa học để đánh giá trình độ của các nhà quản lý, căn cứ đưa ra quyết định trong tương lai.
Song độ chính xác của thông tin từ các chỉ tiêu hiệu quả phân tích phụ thuộc vào nguồn số
liệu, thời gian và không gian phân tích.
Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh có thể khái quát như sau:
Sự so sánh giữa kết quả đầu ra so với các yếu tố đầu vào được tính theo công thức
Công thức 1:
Hoặc sự so sánh giữa yếu tố đầu vào so với kết quả đầu ra.
Công thức 2:
Ở công thức (1) kết quả tính được càng lớn chứng tỏ hiệu quả kinh doanh càng cao
và công thức (2) thì ngược lại.
Kết quả đầu ra, yếu tố đầu vào có thể đo bằng thước đo hiện vật, thước đi giá trị tùy
theo mục đích của việc phân tích.
Dựa vào Báo cáo kết quả kinh doanh, các chỉ tiêu kết quả đầu ra bao gồm: Tổng
doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ,
tổng lợi nhuận kế toán trước thuế, lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp.
Dựa vào bảng cân đối kế toán, các chỉ tiêu yếu tố đầu vào bao gồm: Tổng tài sản
bình quân, tổng nguồn vốn chủ sở hữu bình quân, tổng tài sản dài hạn bình quân, tổng tài sản
ngắn hạn bình quân. Hoặc chi phí, giá vốn hàng bán, chi phí hoạt động trên báo cáo kết quả
kinh doanh…
Công thức 1 phản ánh cứ 1 đồng chi phí đầu vào (vốn, nhân công, nguyên vật liệu,
máy móc thiết bị…) thì tạo ra bao nhiêu đồng kết quả đầu ra như doanh thu, lợi nhuận…
6
trong một kỳ kinh doanh, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp càng tốt.
Công thức 2 phản ánh cứ 1 đồng 1 đồng kết quả đầu ra như doanh thu, lợi nhuận, giá
trị sản lượng hàng hóa thì cần bao nhiêu đồng chi phí đầu vào vốn, nguyên vật liệu, nhân
công…) chi tiêu này càng thấp thì hiệu quả kinh doanh càng cao.
Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh thường thể hiện một kỳ phân tích, do vậy
số liệu dùng để phân tích các chri tiêu này cũng là kết quả của một kỳ phân tích. Nhưng tùy
theo mục tiêu của việc phân tích và nguồn số liệu sẵn có, khi phân tích có thể tổng hợp các
số liệu từ thông tín kế toán tài chính và kế toán quản trị khi đó các chỉ tiêu phân tích mới
đảm bảo chính xác và ý nghĩa.
Để đánh giá chính xác các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh cần được xem xét
trong mối quan hệ với hiệu quả xã hội và quan điểm và hiệu quả.
1.1.3. Mối quan hệ giữa các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh và hiệu quả kinh
doanh.
Để làm sang tỏ bản chất của hiệu quả kinh doanh, ta sẽ nghiên cứu mối quan hệ giữa
2 nhóm chỉ tiêu tài chính phản ánh kết quả và hiệu quả.
Kết quả kinh doanh là những chỉ tiêu tài chính phản ánh quy mô thu về của các hoạt
động, ví dụ sản lượng tiêu thụ, doanh thu bán hàng, lợi nhuận sau thuế.
Các chỉ tiêu kết quả kinh doanh cũng thường chia thành 2 nhóm: Các nhóm sản xuất,
doanh thu bán hàng… Các chri tiêu phản ánh kết quả cuối cùng của doanh nghiệp như lợi
nhuận trước thuế, lợi nhuận sau thuế.
Hiệu quả kinh doanh đó là chỉ tiêu phản ánh chấp lượng của hoạt động trong các
điều kiện có sẵn để đạt được các mục tiêu tối ưu. Hiệu quả kinh doanh phía trước, thường
phản ánh sức sản xuất của vốn, tài sản như số vòng quan hàng tồn kho, số vòng quay tài
sản . Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh cuối cùng thường là các chỉ tiêu phản ánh tỷ
suất sinh lợi như ROA, ROE, ROS
Thông thường các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh cao thì các chỉ tiêu phản ánh
hiệu quả kinh doanh cũng cao. Các chỉ tiêu phản ánh kết quả, hiệu quả kinh doanh phía
trước cao thì các chỉ tiêu phản ánh kết quả, hiệu quả kinh doanh phía sau cũng cao. Nhưng
7
trong một số trường hợp cụ thể lại không tuân theo quy luật này. Do vậy các nhàn quản trị
kinh doanh muốn các chỉ tiêu kết quả, hiệu quả kinh doanh cuối cùng tối ưu cần phải đưa ra
các biện pháp nâng cao kết quả, hiệu qảu kinh doanh phía trước trong các điều kiện sẵn có
của doanh nghiêp.
1.2. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
1.2.1. Ý nghĩa phân tích hiệu quả kinh doanh
Thông tin từ các chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh doanh cung cấp cho mọi đối tượng
quan tâm để có cơ sở khoa học đưa ra các quyết định hữu ích cho các đối tượng khác nhau.
Đối với các nhà quản trị doanh nghiệp như giám đốc, chủ tịch hội đồng quản trị và
trưởng các bộ phận, thu nhận các thông tin từ việc phân tích để đánh giá hiệu quả sử dụng tài
sản, nguồn vốn, chi phí, từ đó phát huy những mặt tích cực và đưa ra các biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất để khai thác tiềm năng sử dụng của từng yếu
tố góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho doanh nghiệp.
Đối với các nhà đầu tư như các cổ đông, các công ty liên doanh thông qua các chỉ
tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn, lợi nhuận, cổ tức,…để tiếp thêm
sức mạnh đưa ra các quyết định đầu tư thêm, hay rút vốn nhằm thu lợi nhuận cao nhất và
đảm bảo an toàn cho vốn đầu tư.
Đối với các đối tượng cho vay như ngân hàng, kho bạc, công ty tài chính thông qua
các chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh doanh để có cơ sở khoa học đưa ra các quyết định cho
vay ngắn hạn, dài hạn, nhiều hay ít vốn nhằm thu hồi được vốn và lãi, đảm bảo an toàn cho
các công ty cho vay.
Các công ty chức năng của Nhà nước như cơ quan thuế, kiểm toán Nhà nước, cơ
quan thống kê thông qua các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn
ngân sách để kiểm tra tình hình thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Ngân sách Nhà
nước, thực hiện luật kinh doanh, các chế độ tài chính có đúng không, đánh giá tốc độ tăng
trưởng của các doanh nghiệp, các ngành. Thông qua phân tích để kiến nghị với các cơ quan
chức năng góp phần hoàn thiện chế độ tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát
triển.
8
Thông tin phân tích hiệu quả kinh doanh còn cung cấp cho cán bộ công nhân viên
của doanh nghiệp biết được thực chất hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp như thế nào,
chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai, từ đó họ quan tâm công tác, tâm
huyết với nghề nghiệp.
Tóm lại, thông tin phân tích hiệu quả kinh doanh rất hữu ích cho nhiều đối tượng
khác nhau, để từ đó đưa ra các quyết định kinh doanh có lợi cho từng đối tượng.
1.2.2. Nhiệm vụ phân tích hiệu quả kinh doanh
Xuất phát từ mục tiêu và nhu cầu quản trị của các nhà quản lý, khi phân tích hiệu
quả kinh doanh cần phải xây dựng chỉ tiêu và hệ thống chỉ tiêu cho phù hợp nhằm cung cấp
các thông tin chính xác cho các đối tượng để đưa ra các quyết định phù hợp.
Sử dụng phương pháp phân tích phù hợp cho từng mục tiêu và nội dung cụ thể như
vậy mới đảm bảo qua trình phân tích đạt hiệu quả cao và tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp.
Mỗi một phương pháp thường phù hợp với những mục tiêu và nội dung phân tích hiệu quả
kinh doanh khác nhau. Để đánh giá khái quát hiệu quả kinh doanh, các chuyên gia phân tích
thường sử dụng phương pháp so sánh và phân tích các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh trên các
góc độ như tỷ suất sinh lời của vốn, tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu, lãi cơ bản trên cổ
phiếu, tỷ suất lợi nhuận trước thuế so với donah thu thuần, tỷ suất lợi nhuận sau thuế so với
chi phí,… Mặt khác khi phân tích hiệu quả kinh doanh của từng nội dung cần kết hợp nhiều
phương pháp phân tích như phương pháp so sánh và phương pháp loại trừ. Phương pháp loại
đó đưa ra các biện pháp tương ứng, nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh.
Tài liệu phục vụ cho phân tích hiệu quả kinh doanh chủ yếu là Báo cáo kết quả kinh
doanh, Bảng cân đối kế toán, Thuyết minh báo các tài chính, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Bên cạnh đó còn kết hợp các sổ chi tiết, sổ tổng hợp của kế toán tài chính và kế toán quản
trị.
Nhiệm vụ phân tích hiệu quả kinh doanh được xét trên mọi góc độ như phân tích
hiệu quả sử dụng tài sản, hiệu quả sử dụng nguồn vốn, hiệu quả sử dụng chi phí. Tùy theo
mục tiêu các nhà quản trị kinh doanh có thể phân tích chi tiết, đánh giá khái quát…sau đó
tổng hợp để đưa ra các nhận xét.
9
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động KD của doanh nghiệp
1.2.3.1. Đánh giá khái quát hiệu quả kinh doanh
Đánh giá khái quát hiệu quả kinh doanh nhằm biết được hiệu quả kinh doanh ở
mức độ nào, xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp và những nhân tố ảnh hưởng. Thông
qua việc đánh giá nhằm đưa ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng khả
năng sinh lời phải đảm bảo hiệu quả kinh tế, xã hội như tôn trọng luật pháp, quyền lợi cho
cán bộ, nhân viên, bảo vệ tài nguyên, môi trường…
Do vậy, trước hết phải xây dựng được hệ thống các chỉ tiêu đánh giá khái quát hiệu
quả kinh doanh phù hợp với đặc điểm của từng doanh nghiệp, sau đó phải biết vận dụng
phương pháp phân tích thích hợp. Việc đánh giá phải được tiến hành trên cơ sở phân tích
từng phần rồi tổng hợp lại. Đánh giá khái quát hiệu quả kinh doanh thường bao gồm nhiều
nội dung: Đánh giá hiệu quả kinh doanh thông qua các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả trên các
góc độ: hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả hoạt động, hiệu quả sử dụng tài sản.
• Tỷ suất sinh lời trên vốn đầu tư
Trong quá trình tiến hành những hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp mong muốn
lấy thu bù chi và có lãi bằng cách so sánh lợi nhuận với vốn đầu tư ta sẽ thấy khả năng tạo ra
lợi nhuận của doanh nghiệp từ vốn có thể xác định bằng công thức:
Tỷ suất sinh lời trên vốn đầu tư =
Tổng lợi nhuận kế toán trước thuế và
lãi vay
Tổng vốn bình quân
Lợi nhuận kế toán trước thuế và lãi vay được lấy từ chỉ tiêu mã số 50 ,23 thuộc báo
cáo kết quả kinh doanh
Chỉ tiêu này cho biết trong 1 kỳ phân tích doanh nghiệp bỏ ra 100 đồng vốn đầu tư
thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này mới thể hiện hiệu quả thực chất của 1
đồng vốn sử dụng trong kinh doanh. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn
tốt, đó là nhân tố hấp dẫn doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
• Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu
Khả năng sinh lời trên vốn chủ sở hữu mà doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động kinh
doanh là mục tiêu của mọi nhà quản trị, chỉ tiêu này được tính như sau:
10
Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở
hữu =
Lợi nhuận kế toán sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân
Lợi nhuận kế toán sau thuế thu nhập doanh nghiệp được lấy từ chỉ tiêu mã số 60
thuộc báo cáo kết quả kinh doanh
Vốn chủ sở hữu bình quân được xác định bằng trung bình giữa vốn chủ sở hữu cuối
năm, đầu năm mã số 400 trên bảng cân đối kế toán
Tỷ suất sinh lời trên
vốn chủ sở hữu
= Vốn chủ sở hữu ĐK+ Vốn chủ sở hữu CK
2
Chỉ tiêu này cho biết trong 1 kỳ phân tích doanh nghiệp bỏ ra 100 đồng vốn chủ sở
hữu thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp, chỉ tiêu này
càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là tốt, góp phần nâng cao khả
năng đầu tư của chủ doanh nghiệp. Đó là nhân tố giúp nhà quản trị tăng vốn chủ sở hữu
phục vụ hoạt động kinh doanh.
• Tỷ suất sinh lời trên tài sản
Khả năng sinh lời trên tài sản mà doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động kinh doanh là
mục tiêu của mọi nhà quản trị, chỉ tiêu này được tính như sau:
Tỷ suất sinh lời trên
vốn chủ sở hữu (ROE)
=
Lợi nhuận kế toán sau thuế
Tổng tài sản bình quân
Lợi nhuận kế toán sau thuế thu nhập doanh nghiệp được lấy từ chỉ tiêu mã số 60
thuộc báo cáo kết quả kinh doanh
Tổng tài sản bình quân được xác định bằng trung bình giữa vốn chủ sở hữu cuối
năm, đầu năm trên bảng cân đối kế toán
Tổng tài sản bình
quân (ROA)
=
Tổng tài sản ĐK+ Tổng tài sản CK
2
Chỉ tiêu này cho biết trong 1 kỳ phân tích doanh nghiệp bỏ ra 100 đồng tài sản thì
thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp, chỉ tiêu này càng cao
chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp là tốt, góp phần nâng cao khả năng đầu
11
tư của chủ doanh nghiệp. Đó là nhân tố giúp nhà quản trị đầu tư theo chiều rộng như nhà
xưởng, mua thêm máy móc thiết bị, mở rộng thị trường tiêu thụ.
• Tỷ suất sinh lời trên doanh thu
Khả năng tạo ra doanh thu của doanh nghiệp là những chiến lược dài hạn, quyết
định tạo ra lợi nhuận và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Song mục tiêu cuối cùng của nhà
quản trị không phải là doanh thu mà là lợi nhuận sau thuế cần phải duy trì tốc độ tăng của
doanh thu nhanh hơn tốc độ tăng của chi phí , khi đó mới có sự tăng trưởng bền vững. Mặt
khác chỉ tiêu này cũng thể hiện trình độ kiểm soát chi phí của nhà quản trị nhằm tăng sự
cạnh tranh trên thị trường,chỉ tiêu này được xác định như sau:
Tỷ suất sinh
lời trên doanh thu
(ROS)
=
Lợi nhuận kế toán sau thuế
x100
Tổng doanh thu
Lợi nhuận kế toán sau thuế thu nhập doanh nghiệp được lấy từ chỉ tiêu mã số 60,
doanh thu, doanh thu thuần lấy từ chỉ tiêu mã số 01.10 thuộc báo cáo kết quả kinh doanh
Chỉ tiêu này cho biết trong 1 kỳ phân tích doanh nghiệp doanh nghiệp thu được 100
đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu
nhập doanh nghiệp, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng chi phí càng tốt. Đó là
nhân tố giúp nhà quản trị mở rộng thị trường , tăng doanh thu. Chỉ tiêu này thấp nhà quản trị
cần tăng cường kiểm soát chi phí các bộ phận.
1.2.3.2. Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản
• Số vòng quay của tài sản
Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp mong muốn tài sản vận động không
ngừng, để đẩy mạnh tăng doanh thu, là nhân tố góp phần tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Số vòng quay của tài sản có thể xác định bằng công thức:
Số vòng quay của tài sản =
Tổng doanh thu thuần
Tài sản bình quân
Doanh thu thuần được lấy từ chỉ tiêu mã số 10 thuộc Báo cáo kết quả kinh doanh.
12
Chỉ tiêu này cho biết trong một kỳ phân tích các tài sản quay được bao nhiêu vòng,
chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ các tài sản vận động nhanh, góp phần tăng doanh thu và là
điều kiện naagn cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nếu chỉ tiêu này thấp, chứng tỏ các tài sản
vận động chậm, có thể hàng tồn kho, sản phẩm dở dang nhiều, làm cho doanh thu của doanh
nghiệp giảm. Tuy nhiên, chỉ tiêu này phụ thuộc vào đặc điểm ngành nghề kinh doanh, đặc
điểm cụ thể của tài sản trong các doanh nghiệp.
• Suất hao phí tài sản so với doanh thu thuần
Khả năng tạo ra doanh thu thuần của tài sản là một chỉ tiêu kinh tế cơ bản để dự kiến
vốn đầu tư khi doanh nghiệp muốn một mức doanh thu thuần như dự kiến, chỉ tiêu này
thường được xác định như sau:
Suất hao phí của tài sản so với
doanh thu thuần
=
Tài sản bình quân
Doanh thu thuần bán hàng
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích, doanh nghiệp thu được một đồng doanh thu
thuần thì cần bao nhiêu đồng tài sản đầu tư, chỉ tiêu này càng thấp hiệu quả tài sản càng tốt,
góp phần tiết kiệm tài sản và nâng cao doanh thu thuần trong kỳ của doanh nghiệp.
Doanh thu thuần bán hàng và cung cấp dịch vụ lấy từ chỉ tiêu mã số 10 thuộc báo
cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
• Suất hao phí tài sản so với lợi nhuận
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận sau thuế của các tài sản mà doanh
nghiệp đang sử dụng cho hoạt động kinh doanh, chỉ tiêu này thường được xác định như sau:
Suất hao phí của
tài sản so với lợi nhuận
sau thuế
= Tài sản bình quân
Lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh
nghiệp
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích, doanh nghiệp thu được 1 đồng lợi nhuận
sau thuế thu nhập doanh nghiệp thì cần bao nhiêu đồng tài sản, chỉ tiêu này càng thấp hiệu
quả sử dụng các tài sản càng cao, hấp dẫn các cổ đông đầu tư.
13
• Vòng quay hàng tồn kho
Chỉ tiêu này được xác định như sau
Số vòng luân chuẩn
hàng tồn kho
=
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho bình quân
Chỉ tiêu này cho biết, trong kỳ phân tích vốn đầu tư cho hàng tồn kho quay được bao
nhiêu vòng, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hàng tồn kho vận động không ngừng đó là nhân
tố để tăng doanh thu, góp phần tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Hàng tồn kho bình quân được tính như sau:
Hàng tồn kho bình quân =
HTK đầu kỳ + HTK cuối kỳ
2
Giá vốn hàng bán lấy từ chỉ tiêu mã số 11 thuộc Báo cáo kết quả kinh doanh. Hàng
tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ được lấy từ chỉ tiêu mã số 140 trên Bảng cân đối kế toán.
Thời gian 1 vòng quay của hàng tồn kho được xác định như sau:
Thời gian 1 vòng quay của
HTK
=
Thời gian của kỳ phân tích
Số vòng quay của HTK
Chỉ tiêu này cho biết một vòng quay của hàng tồn kho mất bao nhiêu ngày, chỉ tiêu
này càng thấp, chứng tỏ hàng tốn kho vận động nhanh đó là nhân tố góp phần tăng doanh
thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Thời gian của kỳ phân tích có thể là tháng, quý, năm
theo mục tiêu của các việc phân tích.
1.2.3.3. Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
• Tỷ suất sinh lời trên tài sản ngắn hạn
Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Tỷ suất sinh lời của tài sản
ngắn hạn
=
Lợi nhuận sau thuế x 100%
Tài sản ngắn hạn bình quân
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích doanh nghiệp đầu tư 100 đồng tài sản ngắn
hạn thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế, chỉ tiêu này càng cao hiệu quả sử dụng tài
sản ngắn hạn là tốt góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.
• Số vòng quay của tài sản
Chỉ tiêu này được xác định như sau:
14
Số vòng quay của tài sản
ngắn hạn
=
Tổng doanh thu thuần
Tài sản ngắn hạn bình quân
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích các tài sản ngắn hạn quay được bao nhiêu
vòng, chi tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là tốt. Hoặc cho biết
1 đồng giá trị tài sản ngắn hạn đầu tư trong kỳ thì thu được bao nhiêu đồng doanh thu thuần,
chỉ tiêu này thể hiện sự vận động của tài sản ngắn hạn trong kỳ, chỉ tiêu này càng cao chứng
tỏ tài sản ngắn hạn vận động nhanh, đó là ngâ tố góp phần nâng cao lợi nhuận. Số liệu để
tính chỉ tiêu này phụ thuộc vào kỳ phân tích của doanh nghiệp có thể tính theo tháng, quý,
năm. Tổng doanh thu thuần trong kỳ được lấy từ chỉ tiêu mã số 10 của Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh.
• Suất hao phí tài sản so với doanh thu thuần
Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Suất hao phí của tài sản ngắn
hạn so với doanh thu
= Giá trị TSNH bình quân trong kỳ
Doanh thu thuần trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết để có 1 đồng lợi nhuận sau thuế thì cần bao nhiêu đồng tài sản
ngắn hạn, đó là căn cứ để đầu tư các tài sản ngắn hạn sao cho phù hợp. Chỉ tiêu này càng
thấp chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng cao.
• Suất hao phí tài sản so với lợi nhuận
Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Suất hao phí của tài sản ngắn
hạn so với lợi nhuận
= Giá trị TSNH bình quân trong kỳ
Lợi nhuận sau thuế
Chỉ tiêu này cho biết để có 1 đồng lợi nhuận sau thế thì cần bao nhiêu đồng
tài sản ngắn hạn bình quân, chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản ngắn
hạn càng cao. Chỉ tiêu này còn là căn cứ để các doanh nghiệp xây dựng dự toán về nhu cầu
tài sản ngắn hạn khi muốn có mức lợi nhuận như mong muốn.
1.2.3.4. Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản dài hạn
• Tỷ suất sinh lời trên tài sản dài hạn
15
Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Tỷ suất sinh lời của tài sản
dài hạn
=
Lợi nhuận sau thuế x 100%
Tài sản dài hạn bình quân
Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng giá trị TSDH bình quân sử dụng trong kỳ thì tạo ra
bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSDH của
doanh nghiệp là tốt, đó là nhân tố sự hấp dẫn của các nhà đầu tư.
• Tỷ suất sinh lời của tài sản cố định
Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Tỷ suất sinh lời của tài sản
cố định
= Lợi nhuận sau thuế x 100%
Giá trị còn lại của TSCĐ bình quân
Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng giá trị TSCĐ sử dụng trong kì thì tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử
dụng TSCĐ của doanh nghiệp là tốt, đó là nhân tố sự hấp dấn của nhà đầu tư.
• Suất hao phí tài sản so với doanh thu thuần
Khả năng tạo ra doanh thu thuần của tài sản dài hạn là một chỉ tiêu kinh tế cơ bản để
dự kiến vốn đầu tư khi doanh nghiệp muốn một mức doanh thu thuần như dự kiến, chỉ tiêu
này thường được xác định như sau:
Suất hao phí của tài sản so với
doanh thu thuần
=
Tài sản bình quân
Doanh thu thuần bán hàng
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích, doanh nghiệp thu được một đồng doanh thu
thuần thì cần bao nhiêu đồng tài sản dài hạn đầu tư, chỉ tiêu này càng thấp hiệu quả tài sản
càng tốt, góp phần tiết kiệm tài sản dài hạn và nâng cao doanh thu thuần trong kỳ của doanh
nghiệp.
Doanh thu thuần bán hàng và cung cấp dịch vụ lấy từ chỉ tiêu mã số 10 thuộc báo
cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
• Suất hao phí tài sản so với lợi nhuận
16
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận sau thuế của các tài sản dài hạn mà
doanh nghiệp đang sử dụng cho hoạt động kinh doanh, chỉ tiêu này thường được xác định
như sau:
Suất hao phí của
tài sản so với lợi nhuận
sau thuế
= Tài sản bình quân
Lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh
nghiệp
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích, doanh nghiệp thu được 1 đồng lợi nhuận
sau thuế thu nhập doanh nghiệp thì cần bao nhiêu đồng tài sản dài hạn, chỉ tiêu này càng
thấp hiệu quả sử dụng các tài sản dài hạn càng cao, hấp dẫn các cổ đông đầu tư.
1.2.3.5. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn vay
• Hiệu quả sử dụng lãi say
Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Hiệu quả sử dụng
lãi vay của doanh nghiệp
= Lợi nhuận trước thuế + Chi phí
lãi vay
Chi phí lãi vay
Chỉ tiêu này phản ánh độ an toàn, khả năng thanh toán lãi tiềm vay của doanh
nghiệp, chỉ tiêu này càng cao khả năng sinh lời của vốn vay càng tốt, đó là sự hấp dẫn của
các tổ chức tín dụng vào hoạt động kinh doanh.
Khi phân tích các chỉ tiêu thuộ nhóm này ta so sánh giữa năm nay với năm trước, so
sánh giữa các doanh nghiệp có cùng điều kiện tương đương, so sánh với các chỉ tiêu hiệu
quả huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Khi phân tích có thể xác định mức độ ảnh
hưởng của các nhân tốt và những nguyên nhân tác động đến từng chỉ tiêu, từ đó đưa ra giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tiền vay.
1.2.3.6. Phân tích hiệu quả sử dụng chi phí
• Tỷ suất sinh lời giá vốn hàng bán
Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Tỷ suất sinh lời
của giá vốn hàng bán
= Lợi nhuận gộp về bán hàng
x 100
17
Giá vốn hàng bán
Chỉ tiêu này cho biết trong kì phân tích doanh nghiệp đầu tư 100 đồng giá vốn hàng
bán thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận gộp, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ mức lợi
nhuận trong giá vốn hàng bán càng lớn, thể hiện các mặt hàng kinh doanh có lời nhất, do vậy
doanh nghiệp càng đẩy mạnh khối lượng tiêu thụ. Chỉ tiêu này thường phụ thuộc vào đặc
điểm kinh doanh của từng ngành nghề cụ thể. Thông thường các doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ ăn uống, chỉ tiêu này khá cao thường từ 35-50%, nhưng các doanh nghiệp gia công
may mặc chỉ tiêu này thường từ 10-15%
• Tỷ suất sinh lời chi phí bán hàng
Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Tỷ suất sinh lời
của chi phí bán hàng
= Lợi nhuận thần từ HĐKD x
100
Chi phí bán hàng
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích doanh nghiệp đầu tư 100 đồng chi phí bán
hàng thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ mức lợi nhuận
trong chi phsi bán hàng càng lớn, doanh nghiệp đã tiết kiệm được chi phí bán hàng.
• Tỷ suất sinh lời chi phí quản lý doanh nghiệp
Tỷ suất sinh lời
của chi phí quản lý doanh
nghiệp
= Lợi nhuận thần từ HĐKD x
100
Chi phí quản lý doanh
nghiệp
Chỉ tiêu này cho biết kỳ phân tích doanh nghiệp đầu tư 100 đồng chi phsi quản lý
doanh nghiệp thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ mức lợi
nhuận trong chi phsi quản lý doanh nghiệp càng lớn, doanh nghiệp đã tiết kiệm được chi phí
quản lý.
• Tỷ suất sinh lời tổng chi phí
Tỷ suất sinh lời = Lợi nhuận kế toán trước
18
của tổng chi phí thuế x 100
Tổng chi phí
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích doanh nghiệp đầu tư 100 đồng chi phí thì
thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận kế toán trước thuế, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ mới
lợi nhuận trong chi phí càng lớn, doanh nghiệp đã tiết kiệm được các khoản chi phí chi ra
trong kỳ.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
1.3.1. Đặc điểm của các doanh nghiệp kinh doanh điện năng
* Dây chuyền sản xuất và truyền tải điện năng.
Đơn vị cung cấp điện năng là các nhà máy sản xuất ra nguồn điện từ dạng nguyên
liệu truyền thống. Dòng điện được phát ra từ các nhà máy điện, ở nước ta nhà máy điện chủ
yếu là các nhà máy thủy điện và nhà máy nhiệt điện với nguồn nhiên liệu là than đá tự nhiên
khai thác tại các mỏ trong nước.
Các nhà thủy điện phân bố trên toàn bộ hệ thống sông ngòi từ bắc tới Nam, tận dụng
các nguồn lợi địa hình, khí hậu của đất nước để sản xuất điện, với đủ các hình thức sở hữu,
cũng như công suất lớn nhỏ phục vụ cuộc sống ngày càng phát triển.
*Đặc điểm kinh tế kỹ thuật cơ bản của ngành điện lực
Khác với nhiều loại hàng hóa của các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân, ngành
điện có những đặc thù riêng có.
Sản phẩm của ngành điện là điện năng (đơn vị tính:kWh). Khác với các loại hàng hóa
khác, trong quá trình sản xuất (phát điện), lưu thông, phân phối, truyền tải, cung ứng, tiêu
thụ (quá trình chyển hóa năng lượng điện thành dạng năng lượng khác) được diễn ra đồng
thời trong cùng thời gian. Chính vì lẽ đó điện năng không thể tồn kho, tích trữ và cũng
không có bán thành phẩm, phế phẩm. Điện năng sản xuất theo yêu cầu, sản xuất bao nhiêu,
tiêu thụ bấy nhiêu. Tính đồng thời của quá trình sản xuất, phân phối tiêu thụ điện đòi hỏi các
khâu sản xuất phải được tiến hành chặt chẽ, đồng bộ có sự phối hợp ăn khớp chặt chẽ trong
toàn bộ quá trình từ sản xuất đến tiêu dùng.
Từ đầu tư xây dựng đến truyền tải điện, phân phối đến kinh doanh điện năng ở nước ta
hiện nay là do nhà nước độc quyền quản lý và hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện theo
19
đúng quy định. Trong đó có vấn đề Nhà nước quy định trực tiếp quản lý giá bán điện, theo
dõi kiểm tra chặt chẽ quá trình mua bán điện.
Điện là loại sản phẩm có thể sản xuất bằng nhiều công nghệ khác nhau như công nghệ
về nhiệt điện, thủy điện, điện hạt nhân, điện năng được sản xuất từ năng lượng tự nhiên như
mặt trời, gió…nhưng chất lượng điện là đồng nhất.
Với địa quản lý rộng, số lượng khách hàng lớn, công nghệ sử dụng phức tạp, để điều
hành quá trình sản xuất phân phối đòi hỏi phải có một hệ thống quản lý tập trung. Do đó,
ngành điện đòi hỏi kỹ thuật cao kể cả trong quá trình truyền tải, phân phối cũng như kinh
doanh điện năng, số lượng lao động lớn.
Điện là ngành sản xuất tập trung những tiêu dùng phân tán đòi hỏi mạng lưới điện trải
theo chiều dài đất nước và đi vào các cụm dân cư, điều này đồng nghĩa với việc hao tổn điện
năng trên đường tải và khó khăn trong công tác quản lý và tiêu dùng điện.
Về vấn đề tiêu thụ: Việc mua bán điện diễn ra giữa bên bán và bên mua. Bên mua điện
quan hệ với bên bán điện bằng một hợp đồng kinh tế “mua bán điện” và được làm các thủ
tục kỹ thuật nối phụ tải với nguồn điện. Trong kinh doanh điện năng, đầu vào chính là quá
trình ghi điện đầu nguồn (do tập đoàn điện lực Việt Nam bán) và đầu ra chính là việc ghi
điện tại các công tơ của các hộ tiêu thụ điện. Việc mua bán điện diễn ra đồng thời ở nhiều
nơi nên rất khó khăn trong quá trình quản lý.
Bên cạnh đó là việc khách hàng sử dụng trước trả tiền sau cũng là đặc tính riêng của
hoạt động kinh doanh bán điện. Sauk hi khách hàng tiêu thụ một lượng điện năng nhất định
thể hiện trên công tơ đo đếm điện năng thì ngành điện mới xác định được doanh thu và từ đó
mới tiến hành công tác thu tiền bán điện.
Về phương diện đo đếm cũng mang tính chất đặc biệt, mỗi khách hàng phải dùng công
tơ đo đếm riêng. Công tơ này được niêm phong, cặp chì sau khi đã qua thí nghiệm cân chỉnh
đạt được tiêu chuẩn đo lường chất lượng của Nhà nước. Với tầm quản lý rộng và hết sức khó
khăn, vì thế chất lượng và kỹ thuật đo đếm có ảnh hưởng rất lớn đén sản lượng điện bán ra.
Điện là ngành thuộc nhóm ngành công nghiệp năng, do vậy cũng như các ngành công
nghiệp năng khác ngành điện đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn. Ngoài các chi phí đầu tư để xây
20
dựng các công trình phát điện ra, còn bao gồm chi phí đầu tư để xây dựng hệ thống truyền
tải (máy biến áp+cột+hệ thống dây dẫn), chi phí về công tơ điện, chi phí về nhân sự…
Hiện nay, ngành điện đang phải đứng trước một thực tế là đầu tư rất lớn để phát triển
lưới điện lên vùng cao, hẻo lánh phục vụ nhân dân các dân tộc ít người, biên giới, an ninh
quốc phòng, hải đảo… thực hiện chính sách xã hội của Nhà nước nhưng hiệu quả kinh
doanh không cao do chi phí lớn mà nguồn thu không đáng kể. Vì vậy Nhà nước cần có chính
sách phù hợp để ngành điện thực hiện hai nhiệm vụ này của ngành trong thời gian sắp tới.
1.3.2. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
1.3.2.1. Nhân tố môi trường kinh tế
Trong điều kiện mà mỗi quốc gia đều dựa vào lợi thế của mình cũng như thị trường
tiêu thụ thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu thì tính liên kết và phụ thuộc giữa các
nước ngày càng tăng lên. Chính vì điều này mà mỗi sự biến động của tình hình kinh tế- xã
hội ở nước ngoài đều có những ảnh hưởng nhất định đối với hoạt động kinh tế trong nước.
Lĩnh vực hoạt động xuất khẩu là lĩnh vực trực tiếp quan hệ với các chủ thể ở nước ngoài,
chịu sự chi phối và tác động của các nhân tố ở nước ngoài nên nó lại càng rất nhạy cảm. Bất
kỳ một sự thay đổi nào về chính sách xuất khẩu, tình hình lạm phát , thất nghiệp hay tăng
truởng về suy thoái kinh tế của các nước đều ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của các
doanh nghiệp.
1.3.2.2. Môi trường chính trị, pháp luật
Đây là yếu tố tác động trực tiếp đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, doanh
nghiệp luôn phải nghiên cứu các hệ thống văn bản pháp lý trong nước và quốc tế, cập nhật
những nguyên tắc tập quán, công ước, chính sách thương mại quốc tế và tình hình, rủi ro
chính trị các quốc gia có định hướng xuất khẩu để có những giải pháp ứng phó với những
biến đổi do nhân tố này gây ra. Giống như tất cả các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp
sản xuất và kinh doanh điện năng không mong muốn thị trường xuất khẩu của mình biến
động về chính trị. Luật pháp quy định mặt hàng, loại hình kinh doanh , lĩnh vực ngành hàng
mà doanh nghiệp thực hiện, giải quyết những tranh chấp trong thương mại quốc tế nhằm đảm
vào sự công bằng cho các doanh nghiệp và sự lành mạnh trong hoạt động kinh doanh xuất
nhập khẩu.
21
1.3.2.3. Đối thủ cạnh tranh
Đánh giá mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong một ngành sản xuất như
ngành phát điện thông qua các nội dung: cơ cấu cạnh tranh ngành, thực trạng cầu của ngành
và các hàng rào lối ra.Ngoài ra do đặc điểm công nghệ các nguồn phát điện gồm 4 nhóm nhà
máy điện bao gồm: thủy điện, nhiệt điện than, nhiệt điện dầu, Tuabine khí. Giữa các nhóm
có suất đầu tư và chi phí nhiên liệu/kWh rất khác nhau, dẫn đến quá trình hoạt động các giữa
các nhóm và giữa các nhà máy trong mỗi nhóm này thường cạnh tranh với nhau. Đồng thời
trong nhóm mỗi nhóm cũng có sự cạnh tranh với nhau để giành quyền phát điện vào khoảng
thời gian nhu cầu thị trường xuống thấp (thấp điểm đêm), hoặc khoảng thời gian hệ thống
thừa nguồn. Giá sản xuất điện rẻ, thời gian khởi động máy nhanh là các ưu thế cạnh tranh
của nhà máy thuỷ điện. Trong khi đó, việc phát điện không phụ thuộc vào thiên nhiên, vào
nguồn nước là lợi thế cạnh tranh của các nhóm nhà máy khác.
1.3.2.4. Thị trường
Nhu cầu của con người là vô tận mà các doanh nghiệp dù có cố gắng đến đâu cũng
khó có thể chiều lòng được hết đòi hỏi của khách hàng. Chính vì vậy, doanh nghiệp nên đi
sâu giải quyết một cách hài hoà nhất giữa những mong muốn của khách hàng với khả năng
sản xuất có thể đáp ứng được. Để thực hiện tốt nhất điều này, các doanh nghiệp cần phải
nghiên cứu thị trường để phân khúc thị trường, phân biệt từng loại khách hàng có những yêu
cầu đòi hỏi khác nhau từ đó doanh nghiệp có thể tiến hành phục vụ, cung cấp sản phẩm tận
tình, chu đáo hơn.Hơn nữa, các doanh nghiệp nên thành lập một phòng Marketing đảm
nhiệm vai trò nghiên cứu về khách hàng, nhu cầu thị trường, đối thủ cạnh tranh để cung
cấp các chính sách về sản phẩm, giá cả, phân phối. Công việc này sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho việc quảng cáo và khuyếch trương sản phẩm. Đây là một trong những phòng ban tuy chỉ
mới được coi trọng trong những năm gần đây nhưng nó đã cho thấy hiệu quả to lớn qua việc
giải quyết tốt vấn đề phù hợp giữa giá cả, chất lượng và thị trường, góp phần nâng cao khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.3.2.5. Cơ sở hạ tầng
Hiện nay tại Việt Nam cơ sở hạ tầng còn chưa phát triển toàn diện, điện năng chưa
đủ đáp ứng nhu cầu trong các trung tâm công nghiệp chủ chốt. Chi phí cho điện năng và
22
viễn thông rất đắt đỏ, chất lượng đường xá không đồng đều tại các nơi khác nhau của VN
hay tình trạng ngập lụt trên nhiều tuyến đường ảnh hưởng lớn tới việc vận chuyển hàng
hóa
Để giải quyết những bất cập của cơ sở hạ tầng hiện nay, sự tham gia của khu vực tư
nhân - cả trong nước và nước ngoài - đang là sự cần thiết cấp bách, đặc biệt trong lĩnh vực
điện, viễn thông và cảng nước sâu. Đến nay ở VN có khoảng 60 dự án BOT hoặc các dự án
có hình thức tương tự đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng với tổng vốn đăng ký là 44.610 tỷ
đồng, trong đó có 43 dự án xây dựng công trình giao thông. Tuy nhiên, khu vực kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài mới có 18 dự án đầu tư vào lĩnh vực điện, nước và bưu chính viễn
thông. Từ các số liệu này, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Cao Viết Sinh cho rằng, mức
độ đầu tư của khu vực tư nhân vào đầu tư toàn xã hội nói chung, vào cơ sở hạ tầng nói riêng
chưa tương xứng với nhu cầu và tiềm năng của khu vực kinh tế năng động và có tiềm năng
này.
1.3.2.6. Môi trường tự nhiên
Vị trí địa lý cũng như nguồn tài nguyên thiên nhiên là những cái mà tự nhiên ban
cho, thông qua đó các nước khai thác tiềm năng của nó để phục vụ xuất khẩu.Nguồn tài
nguyên thiên là một trong những nhân tố quan trọng làm cơ sở cho quốc gia xây dựng cơ
cấu ngành và vùng để xuất khẩu. Nó góp phần ảnh hưởng đến loại hàng , quy mô hàng xuất
khẩu của quốc gia. Trong đó điều kiện tự nhiên tác động đến nguồn tài nguyên nước, khoáng
sản, địa hình phục vụ cho công tác xây dựng dưng, vận hành, mở rộng sản xuất và quy mô
trữ lượng khai thác điện năng đảm bảo sản lượng tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Vị trí địa lý có vai trò như là nhân tố tích cực hoặc tiêu cực đối với sự phát triển kinh
tế cũng như xuất khẩu của một quốc gia. Vị trí đị lý thuận lợi là điều kiện cho phép một
quốc gia tranh thủ được phân công lao động quốc tế , hoặc thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ như
du lịch , vận tải , ngân hàng…Đối với các quốc gia nhập khẩu có vị trí
Thời gian thực hiện hợp đồng xuất khẩu có thể bị kéo dài do bị thiên tai như bão,
động đất…
1.3.2.7. Môi trường và khu vực quốc tế
Trong điều kiện mà mỗi quốc gia đều dựa vào lợi thế của mình cũng như thị trường
23
tiêu thụ thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu thì tính liên kết và phụ thuộc giữa các
nước ngày càng tăng lên. Chính vì điều này mà mỗi sự biến động của tình hình kinh tế- xã
hội ở nước ngoài đều có những ảnh hưởng nhất định đối với hoạt động kinh tế trong nước.
Lĩnh vực hoạt động xuất khẩu là lĩnh vực trực tiếp quan hệ với các chủ thể ở nước ngoài,
chịu sự chi phối và tác động của các nhân tố ở nước ngoài nên nó lại càng rất nhạy cảm. Bất
kỳ một sự thay đổi nào về chính sách xuất khẩu, tình hình lạm phát , thất nghiệp hay tăng
truởng về suy thoái kinh tế của các nước đều ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của các
doanh nghiệp.
Tình hình phát triển kinh tế của thị trường xuất khẩu có ảnh hưởng đến nhu cầu và
khả năng thanh toán của khách hàng xuất khẩu, do đó có ảnh hưởng đến hoạt động xuất
khẩu của doanh nghiệp. Các nhân tố phản ánh sự phát triển kinh tế của thị trường xuất khẩu
là tổng sản phẩm quốc nội (GDP), thu nhập của dân cư, tình hình lạm phát, tình hình lãi suất.
Chính sách thương mại có thể làm hạn chế hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp xuất khẩu sang thị trường đó. Một quốc gia có chính sách thương mại tự do sẽ giúp
cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp sang thị trường quốc gia đó được thực hiện một
cách dễ dàng hơn và thường mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ngược laị, một quốc gia có chính
sách thương mại khắt khe thì sẽ tạo ra nhiều khó khăn cho doanh nghiệp khi thực hiện xuất
khẩu sang thị trường này
1.3.3. Các yếu tố bên trong doanh nghiệp
Đây là nhân tố thuộc về doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể kiểm soát và điều
chỉnh nó theo hướng tích cực nhằm phục vụ cho hoạt động xuất khẩu của mình. Có thể kể
đến các nhân tố rất quan trọng như:
- Nhân tố trình độ năng cán bộ kinh doanh xuất khẩu và trình độ quản lý doanh
nghiệp.
Đây là nhân tố hết sức quan trọng, quyết định đến sự thành công trong kinh doanh
của doanh nghiệp. Bởi vì trình độ và năng lực quản trị kinh doanh của ban giám đốc doanh
nghiệp cho phép doanh nghiệp có được các chiến lược kinh doanh đúng đắn, đảm bảo cho
doanh nghiệp có thể tận dụng được các cơ hội của thị trường quốc tế trên cơ sở khả năng
vốn có của mình.Cán bộ kinh doanh là những người trực tiếp thực hiện các công việc của
24
quá trình xuất hàng hoá. Năng lực cán bộ kinh doanh được phản ảnh ở nhiều phương diện:
trình độ học vấn, nắm bắt khoa học công nghệ, quản lý kinh doanh doanh, kỹ năng nghiệp
vụ xuất nhập khẩu, nắm vững chính sách nhà nước, hệ thống pháp luật trong nước và quốc tế
nhằm giải quyết những tranh chấp phát sinh.Vì vậy, trình độ và năng lực trong hoạt động
xuất khẩu của họ sẽ quyết định tới hiệu quả công việc, theo đó quyết định tới hiệu quả kinh
doanh của toàn doanh nghiệp.
- Nhân tố khả năng tài chính của doanh nghiệp
Đây là yếu tố phản ánh toàn bộ sức mạnh tổng hợp của doanh nghiệp thông qua khối
lượng vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối đầu tư có
hiệu quả các nguồn vốn. Huy động được hết khả năng về vốn của doanh nghiệp giúp cho
doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh một cách dễ dàng hơn. Trên thực tế, hầu
hết các doanh nghiệp đều sử dụng một phần vốn rất lớn không phải là vốn tự có mà là vốn
vay.Do đó khi đánh giá về khả năng huy động vốn của doanh nghiệp phải tính đến các khoản
huy động vốn từ các nguồn khác nhau như vay tín dụng, thế chấp, tín chấp. Sự trường vốn
cũng là điều kiện để cho ban giám đốc thể tài năng của mình. Ngoài ra, nó còn cho phép
doanh nghiệp thực hiện tốt các công cụ marketing thương mại một cách linh hoạt mang lại
nhiều thuạn lợi hơn cho doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu
- Nhân tố chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
Chiến lược kinh doanh đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại va phát
triển của mỗi doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh đúng đắn sẽ tạo một hướng đi tốt cho
doanh nghiệp, chiến lược kinh doanh có thể coi như kim chỉ nam dẫn đường cho doanh
nghiệp đi đúng hướng.Trong thực tế, có rất nhiều nhà kinh doanh nhờ có chiến lược kinh
doanh đúng đắn mà đạt được nhiều thành công, vượt qua đối thủ cạnh tranh và tạo vị thế cho
mình trên thương trường.Chiến lược kinh doanh mang lại rất nhiều lợi ích cho doanh nghiệp,
tầm quan trọng của nó được thể hiện ở những mặt sau:
Chiến lược kinh doanh giúp doanh nghiệp định hướng cho hoạt động của mình trong
tương lai thông qua việc phân tích và dự báo môi trường kinh doanh. Hoạt động kinh doanh
xuất khẩu là một hoạt động luôn chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài và bên trong.
Chiến lược kinh doanh xuất khẩu giúp doanh nghiệp sản xuất kinh doanh điện năng vừa linh
25