Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn ngô tự lập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.21 KB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGÔ THỊ HOÀI THU
YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG TRUYỆN NGẮN
NGÔ TỰ LẬP
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60. 22 . 01 . 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN DUY BÌNH
NGHỆ AN - 2014
MỤC LỤC
NGHỆ AN - 2014 1
MỤC LỤC 2
MỞ ĐẦU 4
1. Ý DO CHỌN ĐỀ TÀI 4
2. ỊCH SỬ VẤN ĐỀ 5
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 8
3.1. Đối tượng nghiên cứu 8
3.2. Phạm vi nghiên cứu 8
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 8
5. ĐÓNG GÓP CỦA UẬN VĂN 8
6. CẤU TRÚC UẬN VĂN 9
Chương 1 10
sơ lưỢc vỀ nhà văn ngô tỰ lẬp 10
và giỚi thuyẾt vỀ văn hỌc kỲ Ảo 10
1.1. Sơ lược về tác giả Ngô Tự ập 10
1.1.1. Tiểu sử tác giả 10
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác 10
1.1.3. Những tác phẩm văn học mang màu sắc kỳ ảo của Ngô Tự Lập 11
1.2. Giới thuyết về văn học kỳ ảo 12


1.2.1. Khái niệm “kì ảo”, “yếu tố kì ảo” 12
1.2.2. Khái niệm “văn học kì ảo” 16
1.2.3. Giới thuyết của Ngô Tự Lập về văn học kỳ ảo 17
chương 2 22
biỂu hiỆn cỦa yẾu tỐ kỲ Ảo 22
trong truyỆn ngẮn ngô tỰ lẬp 22
2.1. Không gian, thời gian kì ảo 22
2.1.1. Không gian kì ảo 22
2.1.2. Thời gian biến ảo 35
2.2. Hình tượng nhân vật kì ảo 43
2.2.1. Nhân vật ma 44
2.2.2. Nhân vật thần thánh 50
2.2.3. Nhân vật dị thường 51
2.2.4. Nhân vật biến hình, hư ảo, vô hình 58
chương 3 62
nghỆ thuẬt xây dỰng yẾu tỐ kỲ Ảo 62
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện kì ảo 62
3.1.1. Tình huống truyện kì ảo 62
3.1.2. Kết cấu lồng ghép truyện trong truyện 65
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật kì ảo 66
3.2.1. Xây dựng nhân vật kì ảo qua miêu tả ngoại hình và hành động 67
3.2.2. Xây dựng nhân vật kì ảo qua ngôn ngữ đối thoại 71
3.2.3. Xây dựng nhân vật kì ảo qua miêu tả độc thoại nội tâm 74
3.3. Các biện pháp tu từ và ngôn ngữ biểu hiện yếu tố kỳ ảo 78
3.3.1. Các biện pháp tu từ 78
3.3.2. Ngôn ngữ chuyện kể 84
3.4. Các mô típ trần thuật 93
3.4.1. Môtip 93
3.4.2: Mô típ gặp ông già, râu tóc bạc trắng như cước 93
3.4.3. Mô típ trừng phạt 94

3.4.4. Mô típ mộng du, giấc mơ 95
KẾT LUẬN 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
PHỤ LỤC 104
(Sách, báo đã xuất bản của Ngô Tự Lập) 104
Thơ: 104
Truyện 104
Tiểu luận/Nghiên cứu 104
Tác phẩm dịch: 105
Truyện, thơ và tiểu luận của ông được dịch và xuất bản tại Hoa Kỳ, Bỉ, Pháp, Ấn Độ, Thụy
Điển,Canada, Thái an: 105
3
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Kì ảo là một trong những thủ pháp nghệ thuật độc đáo của kho tàng
văn xuôi thế giới. Ngoài vai trò lạ hóa, hấp dẫn người đọc thì yếu tố kì ảo
còn có tác dụng giúp nhà văn biểu hiện, khám phá hiện thực và thể hiện
những quan niệm mới mẻ về nhân sinh, thế giới, con người Trong văn
học Việt Nam, yếu tố kì ảo đã tạo thành một dòng chảy liên tục không
ngừng nghỉ suốt chiều dài lịch sử từ thời cổ đại cho đến cận hiện đại. Tuy
nhiên do đặc điểm xã hội, tâm lí, nhận thức mỗi thời kì khác nhau nên yếu
tố kì ảo ở mỗi giai đoạn văn học cũng không giống nhau. Ngay từ thời kì sơ
khai của văn học, văn học dân gian Việt Nam đã gắn liền với yếu tố kì ảo.
Những hiện thực tự nhiên, xã hội, những ước mơ, hoài bão đều được thể
hiện qua các yếu tố mang tính chất kì ảo, huyền thoại. Sang văn học trung
đại yếu tố kì ảo thể hiện qua sáng tác của các tác giả như Nguyễn Dữ với
Truyền kì mạn lục, Trần Thế Pháp với ĩnh nam chích quái Sáng tác của
họ nhằm mượn thế giới của những giấc mơ, thế giới của những chuyện
thần kì để cảnh báo về những chuyện xấu xa ở trần gian nhằm hướng con
người đến một cuộc sống tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Ở thời kì văn học

hiện đại và đương đại, yếu tố kì ảo lại được các tác giả xem như một
phương thức nghệ thuật đắc dụng để xây dựng tác phẩm. Tuy nhiên yếu tố
kì ảo không còn như nguyên bản trong thời kì đầu mà nó được biến tấu cho
phù hợp với thị hiếu thẫm mĩ của văn chương đương đại. Họ sử dụng
những cách tân táo bạo về nghệ thuật tạo nên những bước đột phá trong
cách thức tiếp cận độc giả.
Sau 1975, đặc biệt là sau 1986, đời sống văn học Việt Nam có nhiều
thay đổi. Cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, các phương diện của
đời sống văn học như tác giả, tác phẩm, các hoạt động sáng tác, lí luận, phê
bình đều có sự chuyển biến tích cực. Một loạt cây bút trẻ trưởng thành
sau cách mạng đã tạo nên một diện mạo mới cho văn học. Theo thời gian
4
những tên tuổi mới đã thực sự khẳng định được chỗ đứng trong lòng độc
giả.
Cùng với những tên tuổi như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình
Phương, Tạ Duy Anh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Xuân
Khánh, Là cây bút giàu tiềm năng và đa phong cách, Ngô Tự Lập góp
phần tạo ra xu hướng cách tân trong nền văn xuôi Việt Nam đương đại. Với
quan niệm: truyền bá, gieo rắc, thức tỉnh, tác giả đã cho thấy một cách tiếp
cận khác, một cách viết khác về truyện ngắn. Đọc các sáng tác của ông, ta
nhận ra những gam màu cuộc sống còn bộn bề, ngổn ngang những lo toan
thường nhật. Truyện ngắn Ngô Tự Lập đi sâu khám phá đời sống tinh thần
con người với những biến thái tinh vi và phức tạp. Những trang viết của
ông là những cách tân táo bạo, độc đáo và mới mẻ về phương thức xây
dựng tác phẩm. Yếu tố kì ảo cũng chính là một trong những gam màu chủ
đạo làm nên bức tranh đầy mê hoặc và lôi cuốn trong những sáng tác của
cây bút này.
Bằng việc đưa yếu tố kì ảo vào tác phẩm của mình, đi sâu khám phá
thế giới nội tâm cũng như những chuyển biến trong cung bậc tình cảm của
nhân vật. Việc sử dụng yếu tố kì ảo trong truyện ngắn của Ngô Tự Lập đã

mở ra những không gian nghệ thuật mới, hình tượng nghệ thuật sinh động,
hấp dẫn, thế giới tâm linh bí ẩn. Đây có thể coi là đóng góp riêng của nhà
văn tài năng này cho văn học viết đương đại.
Chọn đề tài Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Ngô Tự Lập, chúng tôi
muốn thể hiện sự yêu thích, sự quan tâm đối với sáng tác của nhà văn.
Đồng thời, chúng tôi cũng hi vọng góp phần minh định một phương diện
nghệ thuật quan trọng trong bức tranh đa sắc màu của cây bút đầy nội lực
và triển vọng này.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Yếu tố kì ảo không phải là vấn đề thi pháp mới xuất hiện mà ngược lại
nó đã tồn tại từ lâu đời trong lịch sử văn học thế giới, vì vậy đến nay đã có
5
rất nhiều công trình ở trong nước cũng như trên thế giới quan tâm nghiên
cứu vấn đề này trên nhiều bình diện, của nhiều tác giả. Đáng chú ý phải kể
đến tác phẩm: Cái kì ảo trong tác phẩm của Balzac của Lê Nguyên Cẩn
(1999) và Dẫn luận về văn chương kì ảo của Tzevan Todorov (2008). Hai
công trình đã thực sự cho người đọc một cái nhìn đa chiều và thấu đáo về
yếu tố kì ảo trên nhiều phương diện.
Yếu tố kì ảo xuất hiện trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 cho thấy
những cách tân, những đổi mới trong phương thức tư duy, nội dung thể
hiện cũng như trong kĩ thuật viết truyện của các nhà văn. Vấn đề này đã thu
hút sự chú ý và tâm sức của các nhà nghiên cứu, phê bình và cũng được đề
cập đến trong một số bài báo, chuyên luận, công trình nghiên cứu khoa học.
Ví dụ như bài “Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Hồ Anh Thái” của Điêu Thị
Tố Uyên đăng trên báo Văn Nghệ Quân Đội số ra ngày 02/04/2013, Bài
“Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại từ sau 1975” của tác giả
Phùng Hữu Hải in trên báo điện tử VNEXPRESS số ra Thứ hai, 19/6/2006.
Ngô Tự Lập là cây bút đam mê những tìm tòi mới lạ. Đánh giá về các
tác phẩm của ông nhiều nhà phê bình đã lột tả được thần thái độc đáo của
nhà văn tài năng này. Nhận xét về tập truyện ngắn Giấc ngủ kì lạ của ông

ương Tử Ban, tác giả Phạm Xuân Nguyên trên báo Tuổi trẻ (Thứ sáu, 16
Tháng chín 2005) cho rằng: “Tên sách có chữ “kỳ lạ” và tập sách cũng có
tính chất lạ. Lạ từ những truyện ngắn được viết kỹ lưỡng, có tính cách tìm
tòi sáng tạo, đổi mới cách viết… Đây cũng lại là một hướng đi của Ngô Tự
Lập trong sáng tác văn chương. Ông là người ráo riết đi tìm cái mới, cả lý
thuyết và thực hành, và sự thử nghiệm của ông có cái tới, cái chưa tới,
nhưng đọc truyện ông thì thấy rõ sự khác lạ…”
Trần Nhã Thụy, khi viết về tập truyện ngắn Giấc ngủ kì lạ của ông
ương Tử Ban (2005) của Ngô Tự Lập, nhận xét: “Lâu lắm rồi mới đọc
được một tập truyện ngắn hay, thật sự có khả năng gây xáo trộn, đánh thức
ý thức như Giấc ngủ kỳ lạ của ông ương Tử Ban của Ngô Tự Lập. Lẽ dĩ
6
nhiên Ngô Tự Lập không phải là một 'tay mơ' nhưng không như nhiều nhà
văn khác chỉ giỏi duy trì sự nổi tiếng mà tác phẩm mỗi lúc một… hụt hơi.
Ngô Tự Lập biết tạo ra những 'khoảng vắng' và chậm tiến đến những miền
sống sinh thực, kỳ lạ, mở ý…” (“Tiếng thời gian như tiếng thở dài”, Sài
Gòn giải phóng, 13/9/2005).
Học giả Chu Thị Thơm trên báo VNEXPRESS số ra Thứ năm,
26/3/2009 thì đánh giá: “cuốn sách của anh có khả năng kích thích sáng
tạo, hay ít nhất là buộc người đọc phải suy ngẫm về những điều tưởng
chừng hiển nhiên về văn chương, ngôn ngữ và cuộc sống…” (“Cuốn ‘Triết
học văn chương’ của Ngô Tự Lập”, VNEXPRESS, 26/3/2009)
Nhà báo Hiền Hòa trên báo điện tử VNEXPRESS đăng ngày thứ Ba,
18/3/2003 thì cho rằng: “Với Ngô Tự Lập, sáng tác một tác phẩm thực chất
là quá trình cấu tạo văn bản, trong đó vô thức không đóng vai trò chủ đạo
trong việc lái tác phẩm theo những phút giây đặc biệt. Anh phủ nhận quan
niệm văn chương đơn thuần chỉ là cách giải tỏa bức xúc và bày tỏ tình
cảm”… (“Ngô Tự Lập nặng lòng với lối thơ duy lý”, VNEXPRESS,
18/3/2003)
Mặc dù sự thống kê của chúng tôi về những bài viết, những ý kiến

đánh giá xung quanh nhà văn – nhà thơ – dịch giả Ngô Tự Lập là chưa đầy
đủ nhưng có thể nhận thấy các bài viết đều đề cập đến sự đổi mới, sáng tạo
không ngừng nghỉ, sức hút kì lạ trong các tác phẩm của ông. Ngô Tự Lập là
một cây bút sắc sảo và có nhiều đóng góp quan trọng cho văn học dân tộc.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về ông chưa nhiều, đặc biệt chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ về yếu tố kì ảo trong truyện
ngắn của ông.
Nghiên cứu yếu tố kì ảo trong sáng tác của Ngô Tự Lập (qua các tập
truyện ngắn) sẽ giúp chúng tôi hiểu sâu sắc hơn về thế giới nghệ thuật của
nhà văn, cũng như có những nhìn nhận, đánh giá xác đáng hơn về quá trình
vận động của văn xuôi Việt Nam đương đại.
7
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Yếu tố kì ảo với những biểu hiện đa dạng và hiệu quả thẩm mĩ của nó
trong các tập truyện ngắn của Ngô Tự Lập.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các tác phẩm văn xuôi của Ngô Tự Lập mà ở đó có sử
dụng yếu tố kì ảo để làm phương thức biểu hiện tác phẩm. Cụ thể bao gồm
các tác phẩm sau: Vĩnh biệt đảo hoang, tập truyện ngắn, (1991), Tháng có
15 ngày, truyện ngắn, (1993), Mùa đại bàng, truyện ngắn, (1995), Mộng du
và những truyện khác, tuyển tập, (1997), Giấc ngủ kỳ lạ của ông ương Tử
Ban (2005).
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiên cứu và triển khai đề tài, chúng tôi sử dụng các
phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu thi pháp học
- Phương pháp tiếp cận hệ thống
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích

- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp so sánh văn học
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Đưa ra những kết luận khoa học về yếu tố kì ảo trong sáng tác của
Ngô Tự Lập, tiếp tục mở rộng con đường đi vào thế giới nghệ thuật của tác
giả này.
- Góp phần giải mã các yếu tố kì ảo trong văn học và cách tiếp cận văn
học kì ảo.
- Đóng góp một tài liệu học tập, nghiên cứu về Ngô Tự Lập và văn học
kì ảo Việt Nam đương đại.
8
6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Sơ lược về nhà văn Ngô Tự Lập và giới thuyết về văn học
kỳ ảo
Chương 2: Biểu hiện của yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Ngô Tự Lập
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng yếu tố kì ảo
9
CHƯƠNG 1
SƠ LƯỢC VỀ NHÀ VĂN NGÔ TỰ LẬP
VÀ GIỚI THUYẾT VỀ VĂN HỌC KỲ ẢO
1.1. Sơ lược về tác giả Ngô Tự Lập
1.1.1. Tiểu sử tác giả
Ngô Tự Lập sinh ngày 04 tháng 06 năm 1962 tại Hà Nội. Bố ông là
Ngô Hữu Bội, một trí thức am hiểu và sâu sắc, mẹ ông là bà Nguyễn Thị
Lụa, một người bạn tâm hồn của ông, cả hai bậc sinh thành đều có ảnh
hưởng không nhỏ trong các sáng tác của tác giả. Ông tốt nghiệp Đại học
Hàng hải tại Liên Xô (1986), Đại học Luật Hà Nội (1993), Thạc sĩ văn
chương tại Pháp (1996), Tiến sĩ ngôn ngữ và văn học Anh tại Hoa Kỳ

(2006), từng là thuyền trưởng hải quân, biên tập viên NXB Quân đội nhân
dân và NXB Hà Nội, Giám đốc Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh. Ngô Tự
Lập được biết đến như là một nhà văn, nhà thơ và dịch giả với hơn 20 cuốn
sách đã xuất bản (truyện, thơ, dịch thuật và tiểu luận). Hiện nay, ông là Phó
Tổng biên tập Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, là hội viên Hội
Nhà Văn Việt Nam và Hội Nhà Văn Hà Nội.
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Ngô Tự Lập bắt đầu sáng tác năm 1989. Truyện ngắn đầu tay của ông
là ửa trong lòng biển đã đoạt giải thưởng sáng tác về Hải quân và Giải
Hoa phượng đỏ của Hội Văn học nghệ thuật Hải Phòng. Ngoài làm thơ,
viết truyện ngắn và tiểu luận, Ngô Tự Lập còn là một dịch giả tiếng Nga,
tiếng Pháp và tiếng Anh. Ông đã từng nhận nhiều giải thưởng: Giải "Tác
phẩm tuổi xanh" của báo Tiền Phong (1991), giải "Hoa Phượng Đỏ" của
HVHNT Hải Phòng (1992), giải sáng tác về "Biển và Hải Quân" của Bộ tư
lệnh Hải quân (1990), giải thưởng sáng tác văn học của NXB Hà Nội
(1993), giải thưởng truyện ngắn hay 2003 của báo Người ao Động TP Hồ
Chí Minh" (2003), giải thưởng cuộc thi tiểu luận "Về trí thức và phát triển"
10
của tạp chí Khoa Học và Tổ Quốc (2003), giải "Bông Hồng Vàng" về
truyện ngắn của Hội Tấm Lòng Vàng (1994), tặng thưởng về dịch thuật văn
học của tạp chí Văn Nghệ Quân Đội (1990).
Sách, các bài báo đã xuất bản của Ngô Tự Lập gồm có thơ, truyện,
tiểu luận-nghiên cứu, dịch thuật (Xem phần Phụ lục)
1.1.3. Những tác phẩm văn học mang màu sắc kỳ ảo của Ngô Tự Lập
Các tập truyện của Ngô Tự Lập đã tạo một dấu ấn sâu nặng trong lòng
độc giả. Cách viết của ông cho thấy nhà văn là người không ngừng tìm tòi,
đổi mới và sáng tạo. Đọc các truyện ngắn của ông, người đọc không khỏi
ngỡ ngàng về những phát hiện thú vị và độc đáo.
Ngô Tự Lập cho rằng, viết văn thực chất là giải bài toán tối ưu mang
tính trí tuệ cùng những tính chất nghề nghiệp trong thao tác biểu đạt. Với

quan điểm: truyền bá, gieo rắc và thức tỉnh, các tập truyện ngắn của ông
đem đến cho người đọc cái nhìn đa chiều về cuộc sống và nhân sinh quan
mới lạ, độc đáo. “Ám ảnh về vũ trụ, bầu trời, biển cả và mê lộ của sự tồn
tại với những nỗi buồn vĩnh cửu” (Chu Thị Thơm, VNEXPRESS số ra Thứ
năm, 26/3/2009) có thể xem là đề tài và nội dung xuyên suốt trong các
truyện ngắn của anh.
Văn chương Ngô Tự Lập bao trùm bởi cảm quan huyền bí. Con người
giữ những ràng buộc bí ẩn với nhau, vừa gặp mặt đã cảm mến hoặc ngầm
hiểu ý đồ của nhau, tất cả các mối quan hệ ngẫu nhiên đều có sự liên hoàn,
mật thiết, trong đó cái huyền ảo nghiễm nhiên tồn tại. Đọc các tác phẩm
của Ngô Tự Lập, ta bắt gặp một thực tại tràn đầy những điều huyền bí,
khoa học của xứ sở hoang đường, với những ông Lương Tử Ban, Mõ Biền,
thuyền trưởng Các, Sùng, với tiếng Khuông Cơ đã tuyệt diệt, với vùng Sơn
Hạ kì bí, đảo hoang xa xôi… Một thế giới kì ảo, huyễn hoặc, bí ẩn và thú
vị.
Bút pháp kì ảo là thủ pháp mà người viết dùng hư cấu, tưởng tượng để
xây dựng nhân vật, tạo nên những nhân vật gần gũi mà vô cùng kỳ ảo. Ngô
11
Tự Lập đã rất thành công ở biện pháp nghệ thuật này, trí tưởng tượng, sức
hư cấu của nhà văn rất phong phú, mãnh liệt.
Các tập truyện ngắn có yếu tố kỳ ảo đã xuất bản của ông gồm:
+ Vĩnh biệt đảo hoang (1991), tập truyện ngắn, Văn Hóa, Hà Nội.
+ Tháng có 15 ngày (1994), truyện ngắn, NXB Hà Nội, Hà Nội, 1993
tái bản 1994
+ Mùa đại bàng, truyện ngắn (1995), Công An Nhân Dân, Hà Nội.
+ Mộng du và những truyện khác, tuyển tập, Văn Học, Hà Nội, 1997,
1998 và 2001, 2008
+ Giấc ngủ kỳ lạ của ông ương Tử Ban (2005), Hội Nhà Văn, Hà
Nội.
1.2. Giới thuyết về văn học kỳ ảo

1.2.1. Khái niệm “kì ảo”, “yếu tố kì ảo”
Kì ảo vốn là một khái niệm quen thuộc và lâu đời, nó xuất phát từ thời
cổ đại. Theo từ điển ngôn ngữ Pháp, “kỳ ảo” là tính từ, bắt nguồn từ tiếng
Hy Lạp “Phatastitos”, tiếng La tinh “Phantasticus” để chỉ những gì được
tạo nên bởi trí tưởng tượng chứ không tồn tại trong thực tế. Các từ ngữ Hy
Lạp và La Tinh đều có liên quan với từ “Phantasia” (tiếng Anh: “Fantasy”,
tiếng Pháp: Fantasie”) nghĩa là trí tưởng tượng phóng túng.
Theo Hán ngữ đại từ điển, “kì” là “khác thường”, còn “ảo” là không
thực. Nó thiên về tính chất li kì hiếm thấy.
Kì ảo bao hàm trong nó cả cái kì và cái ảo, nghĩa là không phân biệt
nổi ranh giới giữa thực – hư. Có thể thấy yếu tố kì ảo là những điều lạ lùng,
huyền bí, vừa chân thực vừa hư huyễn. Nhân tố quan trọng nhất của nó là
sự tưởng tượng, hư cấu của người sáng tạo nhằm thể hiện ý đồ nghệ thuật
nào đó, theo khuynh hướng phi thường hóa.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, “Kỳ ảo là một thể loại văn
học nghệ thuật trong đó phép thuật và các yếu tố siêu nhiên khác được sử
dụng làm đề tài, cốt truyện hay bối cảnh. Trong nhiều tác phẩm, người ta
12
vẽ ra những thế giới mà ma thuật hiện hữu trong cuộc sống thường ngày.
Kỳ ảo được phân biệt với khoa học giả tưởng và kinh dị khi nó tránh xa
yếu tố giả khoa học hay rùng rợn, mặc dù ba thể loại này đôi khi lại chồng
chéo lẫn nhau (đều là thể loại con của Speculative fiction).”
Hiện nay, cái kì ảo là một hình thái nhận thức thẩm mĩ đặc biệt, nó trở
thành một phương thức tư duy nghệ thuật của nhà văn và là một phương
pháp đọc riêng để người đọc thuyên giải những mê lộ, “trận đồ bát quát”
trong trò chơi với văn bản, đồng thời sự mê ly của cái kì ảo đã “thôi miên”
được giới nghiên cứu văn học. Về cơ bản, các nhà nghiên cứu đều thống
nhất với nhau ở chỗ: Cái kì ảo phải đề cập đến cái siêu nhiên
(supernatural), cái không thể xảy ra (impossible), cái bí ẩn, cái không thể
giải thích, không thể thừa nhận, nó đột nhập vào cuộc sống thực hoặc thế

giới thực hoặc thêm nữa vào tính hợp pháp không thể phân hủy của cái
thường nhật.
Lê Nguyên Cẩn, trong Cái kì ảo trong tác phẩm của Balzac, đã vạch
ra những điểm khái quát nhất về cái kì ảo. Về bản chất ông dùng thuật ngữ
e fantastique từ tiếng Pháp để nói về thuật ngữ cái kì ảo: “Như vật cái kì
ảo là một phạm trù của tư duy nghệ thuật, nó được tạo ra nhờ trí tưởng
tượng và được biểu hiện bằng các yếu tố siêu nhiên, khác lạ, phi thường,
độc đáo… Nó có mặt trong văn học dân gian, văn học viết qua các thời đại.
Nó tồn tại trên trục thực - ảo, và tồn tại độc lập, không hòa tan vào các
dạng thức khác của trí tưởng tượng” [6, 16]. Ông xem cái kì ảo như một
yếu tố nghệ thuật, xuất phát từ trí tưởng tượng. Nó như một vết đứt gãy,
đảo lộn đưa người đọc sang một thế giới khác. Yếu tố niềm tin cũng được
ông nhắc đến khi thẩm định cái kì ảo.
Cái kì ảo trong văn học nghệ thuật là đối tượng hấp dẫn giới nghiên
cứu, phê bình văn học phương Tây. Năm 1963, Hiệp hội Những người
nghiên cứu văn học đã được thành lập tại Bruxelles (thủ đô Bỉ), với mục
đích hợp tác nghiên cứu và công bố các phát hiện liên quan đến vấn đề này.
13
Vì thế các công trình nghiên cứu về cái kì ảo cũng đã ra đời. Việc chuyển
dịch thuật ngữ “e fantastique” (tiếng Pháp) sang tiếng Việt có nhiều cách
gọi khác nhau, điều này cũng cho thấy sự đa dạng và phong phú trong cách
nhìn nhận một vấn đề. Lê Nguyên Cẩn dịch là “cái kì ảo”, Hoàng Trinh
dịch là “Kì dị, quái dị”, Trọng Đức dịch là “quái dị”. Trong đề tài này
chúng tôi dựa trên cách gọi và dịch của Lê Nguyên Cẩn là “cái kì ảo”.
Định nghĩa về cái kì ảo là một vấn đề, có nhiều ý kiến đưa ra khác
nhau:
Adrian Mario, trong Từ điển các ý kiến văn học, cho rằng cái kì ảo chỉ
là “những cái không tồn tại trong hiện thực, những cái không có thực và
được tạo ra do tưởng tượng. Tiếp theo đó thuật ngữ này tiếp nhận ý nghĩa
là “hình ảnh cảm giác (trong tâm lí học cổ điển) và hình ảnh trí tuệ (tâm lý

học hiện đại). Ông xác định “cái kì ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng, hư
cấu”, “trong thực tế, cái kì ảo chỉ có thể ra đời từ bản thân cái tưởng tượng
(fantaisie) – cái duy nhất sinh ra nó, hợp pháp hóa nó và xác định nó như
một sản phẩm mĩ học đặc thù”, cái kì ảo tạo ra khả năng thường trực về suy
luận, một sự thâm nhập của cái không có khả năng hoặc không thể nhìn
thấy được trong lĩnh vực của những điều giải thích được” [6, 28]
George Munteanu trong Từ điển thuật ngữ văn học có xác định: “Cái
kì ảo bao hàm mọi cái ngẫu nhiên không quen thuộc, nhưng giải thích được
bằng hàng loạt nghiên nhân có thực” [6, 28].
Trong Văn học kì ảo Pháp, M. Schneider cũng đưa ra nhận xét: “Cái
kì ảo khai thác không gian nội tâm, nó gắn liền với sự sợ hãi trong cuộc
sống và trong hi vọng thay đổi” [6, 18].
P.G.Castex cũng có cho rằng: “Cái kì ảo trong văn học là hình thức
thuần túy (…) nó được tạo ra từ giấc mơ, từ sự mơ tín, sợ hãi, hối hận, từ
sự kích thích quá độ của trí não hay tâm linh, từ sự mê đắm và từ tất cả mọi
hiện tượng mang tính chất bệnh lí. Nó được nuôi dưỡng bằng ảo giác, bằng
sự khủng khiếp điên cuồng” [6, 20].
14
Theo các Từ điển giải nghĩa của Pháp, Từ điển thuật ngữ văn học của
Rumani, nội hàm thuật ngữ kỳ ảo được xác định như sau: “Cái kì ảo là sản
phẩm của trí tưởng tượng, được tạo ra nhờ khả năng suy tưởng; ở đó cái
siêu nhiên chiếm ưu thế. Đó là những cái không mang tính chân thực, chỉ
tuân theo quy luật của tưởng tượng. Đó là cái kì quặc, dị thường, hư ảo,
quái dị, siêu nhiên, kinh khủng, huyễn hoặc” [6, 15].
Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, đã đưa ra định nghĩa từ về
các thuật ngữ kì ảo, quái dị, kinh dị, có thể mỗi từ có một ý nghĩa riêng
nhất định song chúng đều nói lên một nội dung là: những điều không thực,
gây ấn tượng mạnh.
Lê Huy Bắc trong công trình Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và
Gabriel Garcia Marquez cho rằng: “Thế giới của văn học huyền ảo là thế

giới của trí tưởng tượng, nơi sự khác lạ, hoang đường, thần diệu… luôn
ngự trị. Có lúc nó giúp người đọc bình tâm, tự tại; có lúc nó khiến họ hoang
mang, khiếp đảm, và có lúc khiến họ hoài nghi, bối rối…” [5]
Trên đây là những ý kiến của các nhà nghiên cứu, phê bình khi đi vào
mảnh đất của những cái kì ảo. Chúng ta có thể thấy rằng yếu tố kì ảo, gắn
chặt với tâm lí lo sợ của con người về những gì không lý giải được hoặc
không được phép lý giải.
Cái kì ảo thường được hiểu là kỳ dị, quái lạ, kinh dị, huyền thoại, siêu
nhiên, ma quái và bất thường
Yếu tố kỳ ảo là một hình thức đắc dụng giúp nhà văn đi sâu khám phá
thế giới tinh thần hết sức trừu tượng khó nắm bắt của con người, để từ đó
“thấu” con người ở phần nhân tính, mơ hồ và huyền diệu ấy.
Yếu tố kì ảo không chỉ là mạng lưới nối liền các tuyến truyện mà còn
là cơ sở để xây dựng hệ thống nhân vật vừa mang tính chất tôn giáo vừa
mang màu sắc huyễn tưởng. Đồng thời, nó giăng mắc trong không gian,
thời gian tác phẩm nỗi sợ hãi bởi những bi kịch khủng khiếp bên cạnh tiếng
cười hài hước có chức năng thanh tẩy.
15
Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại thể hiện quan niệm
của nhà văn tập trung ở một số phương diện như: Quan niệm của con người
về thế giới đa chiều và con người tâm linh; quan niệm về sự hữu hình hóa
cái ác và giấc mơ về những giá trị chân thiện mỹ; cảm hứng nhận thức lại
thực tại và chất triết lý.
Cái kì ảo là sự nối liền những đường dây có vẻ lệch hướng nhưng kì
thực hoàn hảo từ hình thức đến tư tưởng.
Việc sử dụng các yếu tố kỳ ảo xuất hiện từ lâu trong văn học nghệ
thuật. Nhà văn sử dụng các yếu tố kỳ ảo như một phương thức nghệ thuật
để chiếm lĩnh và khám phá hiện thực. Trong phương thức kỳ ảo, các nhà
văn thường sử dụng các dạng thức khác nhau tạo nên các sắc màu phong
phú đa dạng, hấp dẫn cho tác phẩm, góp phần cùng với các yếu tố nghệ

thuật khác để xây dựng cốt truyện, nhân vật hướng đến việc bộc lộ chủ đề
tư tưởng tác phẩm. Chính cái kỳ ảo cũng là một trong những yếu tố tạo nên
phong cách nghệ thuật của tác phẩm văn học.
1.2.2. Khái niệm “văn học kì ảo”
Yếu tố kì ảo là một bộ phận của văn học nhân loại, theo thời gian yếu
tố kì ảo đã có những biến đổi nhất định để phù hợp với văn học thời đại
mới.
Lê Nguyên Cẩn, trong tác phẩm Cái kì ảo trong tác phẩm của Banlzac,
nhận định: “Văn học kì ảo chứa đựng trong nó những yếu tố ma quái, những
điều lạ lùng hay những sự kiện, con người không có thực.” [6, 12].
Trong cuốn Dẫn luận về văn học kì ảo, Todorov lại chỉ ra rằng: “văn
học kì ảo đặc biệt chú ý miêu tả các hình thức thái quá lẫn sự chuyển hóa
đặc biệt của chúng, hoặc là sự đồi bại. Chưa kể vị trí của cái tàn nhẫn và
bạo lực, ngay cả cái chết, cuộc sống sau chết, các xác chết mà ma quái
cũng đều gắn với đề tài tình yêu.” [50, 18]
Như vậy, có thể khẳng định văn học kì ảo là bộ phận văn học hướng
tới việc phản ánh những yếu tố kì lạ, khác thường, dị thường trong đó đặc
16
trưng chung nhất của nó là tính ước lệ, tượng trưng, tạo ra những biểu
tượng mang tính đa nghĩa. Nhằm hướng tới một xã hội với đời sống tâm lí
con người vô cùng phức tạp và tinh vi, từ đó cho người đọc cái nhìn đa
chiều và góc cạnh về cuộc sống nhân sinh và thế giới quan.
1.2.3. Giới thuyết của Ngô Tự Lập về văn học kỳ ảo
Văn học kì ảo không chỉ có sức hút kì lạ trong sáng tác văn học, nó
còn là đề tài hấp dẫn trong lĩnh vực nghiên cứu, phê bình. Ngô Tự Lập là
nhà văn thành công trong việc kết hợp giữa nghiên cứu và sáng tác về văn
học kỳ ảo. Giới thuyết của ông về văn học kỳ ảo chủ yếu được trình bày
trong các bài nghiên cứu có giá trị như: Ma với tư cách là nhân vật văn học
[127]; Những đường bay của mê lộ [143].
Trong Những đường bay của mê lộ, nhà văn đã đưa ra nhiều định

nghĩa, đánh giá về văn học kì ảo, về truyện kinh dị, truyện quái dị, truyện
kì quái, truyện ma quái,…
Trước hết, Ngô Tự Lập khẳng định, hiện nay để định nghĩa chính xác
nhất về thuật ngữ yếu tố kì ảo và văn học kì ảo là rất khó. Đặc biệt, trong
việc đồng nhất các ý kiến về vấn đề khái niệm. Tác giả nhận định: “Xin hãy
bắt đầu ngay từ tên gọi. Trên sách báo của chúng ta gần đây, bên cạnh thuật
ngữ văn học kỳ ảo, chúng ta còn gặp những thuật ngữ khác: truyện kinh dị,
truyện quái dị, truyện kỳ quái, truyện ma quái mà nếu chúng ta nghiên
cứu kỹ sẽ thấy ít nhiều đều gần gũi với một thuật ngữ tiếng Pháp là
littérature fantastique, tuy với những cách hiểu rất không thống nhất. Rất
có thể là thuật ngữ truyện kinh dị được sử dụng từ khi cuốn sách nổi tiếng
của Edgar Allan Poe - bản tiếng Pháp của Charles Baudelaire: Histoires
extraordinaires - được dịch ra tiếng Việt là Truyện kinh dị. Tuy nhiên,
từ kinh dị gây ra ấn tượng về những chuyện khủng khiếp (tiếng
Anh: horror) từ quái dị dường như nhấn mạnh khía cạnh thái quá của câu
chuyện (tiếng Anh: extraordinary) từ ma quái có vẻ như thiên về những
hiện tượng được coi là "mê tín dị đoan" (tiếng Anh: ghost) Trong khi
17
đó, fantastique có nội hàm rộng lớn hơn nhiều, thậm chí lớn hơn cả khuôn
khổ một thể loại mà sự tồn tại của nó vẫn chưa có được sự thống nhất của
các nhà nghiên cứu.” [29, 145]
Ngô Tự Lập cho rằng việc chọn một thuật ngữ để thống nhất cho tất cả
không phải là vấn đề quá khó, nhưng khó là ở chỗ thật ra ta còn mù mờ về
bản chất: “Thật ra việc chọn một thuật ngữ cho thống nhất không phải là
khó và cũng chẳng quan trọng lắm nếu như thuật ngữ ấy tương ứng với một
khái niệm xác định. Vấn đề là ở chỗ chúng bộc lộ một tình trạng mù mờ về
bản chất.” [29, 147]
Qua các nghiên cứu của mình về văn học và ngôn ngữ Pháp, nhà văn
nhận xét: “Trong từ điển e Petit Robert của Pháp, sự kỳ ảo (le fantastique)
được định nghĩa là "cái được sinh ra bởi sự tưởng tượng, cái không tồn tại

trong thực tế; cái có tính tưởng tượng, siêu nhiên". Thực ra đây là một định
nghĩa không đầy đủ, mặc dù sự kỳ ảo đúng là được sinh ra bởi sự tưởng
tượng và làm cho cái siêu nhiên xâm nhập vào thế giới tự nhiên.” [29, 148];
“Trở lại thuật ngữ fantastique, ta thấy rằng từ fantasie trong tiếng Anh, hay
fantaisie trong tiếng Pháp được mượn từ âm nhạc và hội họa thực ra để chỉ
những tác phẩm mang tính phóng túng, không tuân theo qui luật. Vào đầu
thế kỷ XIX, bên cạnh từ này người ta còn thường dùng những từ
như grotesque và arabesque, điều gắn liền với trào lưu tìm về văn hóa
phương Đông khá thịnh hành. Các văn nghệ sĩ, chẳng hạn Schumann trong
âm nhạc hay Delacroix trong hội họa, kêu gọi phá bỏ các cấu trúc tác phẩm
theo lối cũ. Văn học cũng không thoát khỏi trào lưu đó. Tác phẩm Récits
de Péterbourg của Gogol chẳng hạn, ban đầu được in dưới cái
tên Arabesques.
Trong cuộc đấu tranh chống lại những luật lệ và khuôn khổ cũ, các
nhà lãng mạn chủ nghĩa tái tạo từ tác phẩm Hoffmann một kiểu công cụ
đấu tranh tuyệt vời. Nhưng họ cần phải có một thuật ngữ không phải
18
là fantasie vốn mang nghĩa quá cụ thể và quá hẹp. Thế là thuật
ngữ fantastique ra đời” [29, 150-151]
Ngô Tự Lập khẳng định: “Về bản chất, văn học kỷ ảo là một cách
nhìn và cách thể hiện thế giới khác hẳn. Lựa chọn sự mơ hồ của một thuật
ngữ, các nhà lãng mạn chủ nghĩa thời đó đã mơ hồ cảm thấy rằng họ đang
bước vào một thứ mê lộ học thuật do chính học thuật tạo ra.” [29, 152]
Ông cho rằng những định nghĩa gần chính xác nhất và có tính phổ quát
cao nhất, bao gồm các định nghĩa sau: "Sự kỳ ảo ( ) có đặc trưng ( ) là sự
đột nhập dữ dội của cái huyền bí vào khuôn khổ đời thực." Chúng ta có thể
tham khảo những định nghĩa khác nhau, như của Louis Vax: "Truyện kỳ
ảo, trong khi vẫn trú ngụ trong thế giới của chúng ta, muốn giới thiệu với
chúng ta những người cũng giống như chúng ta, nhưng bất ngờ phải chứng
kiến những điều không giải thích nổi"; hoặc của Caillois: "Toàn bộ sự kỳ

ảo là ở sự phá vỡ cái trật tự được công nhận, sự xâm nhập của cái không
thể chấp nhận vào giữa tính tất yếu hàng ngày vốn không thể đảo ngược."
[29,161]
Cuối cùng Ngô Tự Lập rút ra kết luận: “Tóm lại, theo quan điểm
phương Tây, truyện kỳ ảo đưa ra những sự kiện không thể giải thích nổi
bằng những qui luật thông thường. Đó là một thế giới, nơi cái thực và cái
ảo, cái tự nhiên và cái siêu nhiên xâm nhập lẫn nhau, khác hẳn thế giới
của truyện thần kỳ. Trong truyện thần kỳ, cái siêu nhiên tồn tại tự thân. Sự
xuất hiện của các vị thần, tiên, những con vật hay đồ đạc biết nói, những
mụ phù thủy chẳng gây nên bất kỳ một sự ngạc nhiên nào, người kể
chuyện cũng không cần phải giải thích hay biện hộ cho sự xuất hiện ấy.
Thế giới của truyện thần kỳ giống như một trò chơi mà người đọc chấp
nhận tất cả, rằng mọi điều đều có thể xảy ra. Trong thế giới ấy, thế giới tự
nhiên và thế giới siêu nhiên hòa trộn vào nhau. Cái siêu nhiên thường đóng
vài trò công cụ đem lại điều tốt lành và không hề là một điều bí ẩn. Ngược
19
lại, trong truyện kỳ ảo, cái siêu nhiên là nguồn gốc của những sự ngờ
vực.”[29, 162-163]
Bàn về nghệ thuật trong yếu tố kì ảo tác giả Ngô Tự Lập kết luận:
“Những gì mà các nhà nghiên cứu nói về văn học kỳ ảo dường như tập
trung vào phương diện nội dung, nói đúng hơn là vào một vài khía cạnh
của nó. Ambiguité, hésitation, inexplicable, insolite, incertitude, doute tất
cả là sự hỗn loạn về nội dung, được thể hiện dưới nhiều dạng với mức độ
và hiệu quả khác nhau: thủ pháp đồng hiện chối bỏ lối cảm nhận thời gian
theo một chiều truyền thống, hòa trộn quá khứ, tương lai và hiện tại; những
cái bẫy đủ loại cài vào cốt truyện khiến cho người đọc hoàn toàn mất
phương hướng; tính cách nhân vật hoặc biến đổi liên tục, hoặc hoàn toàn bị
triệt tiêu Nhân vật của Proust vật lộn một cách tuyệt vọng để tìm lại các
khoảnh khắc thời gian đã mất. Đó là thứ mê lộ thời gian. Ở Kafka, đó lại là
mê lộ của hình ảnh, trong đó chẳng có gì là rõ ràng, cả thời gian, không

gian, cả những biến cố xảy ra trong đó.” [29, 184]
Nói về vấn đề kì ảo, tác giả Ngô Tự Lập đã có một số nghiên cứu như:
Ma trong văn học kỳ ảo phương Đông và phương Tây (1996), luận văn thạc
sĩ, (École Normale Supérieure de Fontenay/St. Cloud), Paris; hay Những
đường bay của mê lộ (2003), Hội Nhà Văn, Hà Nội. hoặc Minh triết của
Giới hạn (2004), NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
Ngô Tự Lập cũng khẳng định “Ngày nay có lẽ chẳng có người cầm bút
nào không cảm thấy trong mình ít nhiều phẩm chất có tên kì ảo.” (Ngô Tự
Lập, Lưu Minh Sơn, 1998, “lời tựa”, Đêm bướm ma, Nxb Văn học)
Trong Đường bay của những mê lộ, Ngô Tự Lập từng cho rằng “Ngay
cả hiện thực cũng chỉ là một giấc mơ, một giấc mơ hỗn loạn, vô tận, giấc
mơ với những đường bay của mê lộ…”[29, 185]
Theo ông: “Truyện kỳ ảo đưa ra những sự kiện không thể giải thích
nổi bằng những quy luật thông thường. Đó là một thế giới, nơi cái thực và
cái ảo, cái tự nhiên và cái siêu nhiên xâm nhập lẫn nhau ” [29, 162]
20
Hay tác giả từng nhận định: “Kì ảo đó chính là mê lộ nghệ thuật, và
cũng như trong lĩnh vực khác, nó xuất hiện ở mọi nơi, khi trật tự đã trở nên
bó buộc, vừa đáng ghét vừa đáng sợ và tính hợp lý của trật tự ấy đã bị
thành câu hỏi. Tuy nhiên, những thiết chế văn minh càng chặt chẽ, càng ráo
riết thì sự xuất hiện của nó càng kịch tính, như những gì chúng ta chứng
kiến ở phương Tây.” [29]
Như vậy, ở vai trò là một nhà phê bình Ngô Tự Lập đã đưa ra được cái
nhìn khách quan, khoa học và hợp lý về khái niệm cái kì ảo và văn học kì ảo.
Theo cách đánh giá của ông, cái kì ảo có sức lan tỏa lâu bền, từ trong văn học
cổ trung đại, đến văn học đương đại. Và “Tiêu chí phân loại truyện kì ảo chỉ có
thể là sự ngờ vực mà nó gây ra nơi người đọc” mà thôi. [29, 171]
Trên đây là những giới thuyết đầy đủ và khoa học của Ngô Tự Lập về
yếu tố kì ảo, văn học kì ảo. Chúng ta thấy nhà văn Ngô Tự Lập hiểu rất rõ
văn học kì ảo, và đặc biệt là những vấn đề lý thuyết về văn học kì ảo. Đó là

một trong những hướng nghiên cứu quan trọng của nhà văn – nhà nghiên
cứu Ngô Tự Lập. Vấn đề còn lại là phân tích mối quan hệ giữa giới thuyết
và các sáng tác của ông, để xem thử ông vận dụng vấn đề lý thuyết vào
công việc sáng tác như thế nào.
21
CHƯƠNG 2
BIỂU HIỆN CỦA YẾU TỐ KỲ ẢO
TRONG TRUYỆN NGẮN NGÔ TỰ LẬP
2.1. Không gian, thời gian kì ảo
Không gian và thời gian nghệ thuật là những phương diện quan trọng
của cấu trúc nội tại tác phẩm văn học. Thời gian và không gian – hai kích
thước lớn của sự sống con người, cũng là bối cảnh của các tập thơ và
truyện ngắn Ngô Tự Lập. Nhà văn đã biết đưa hai ý niệm ấy vào tác phẩm
của mình một cách vừa cụ thể vừa khái quát, tạo thêm chiều sâu – chiều
sâu tâm trạng, kích thước thứ ba và quan trọng nhất cho tác phẩm nghệ
thuật.
2.1.1. Không gian kì ảo
Khái niệm không gian nghệ thuật đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu
khác nhau, chí ít là ở phạm vi khái niệm.
Trong sáng tác văn học không gian nghệ thuật là một phương thức
chiếm lĩnh thực tại, một hình thức thể hiện cảm xúc và khái quát tư tưởng
thẩm mĩ.
Không gian nghệ thuật tồn tại dưới các dạng: hiện thực và siêu thực.
Không gian kì ảo là một dạng thức đặc biệt của không gian nghệ thuật, đó
là sản phẩm của sự tưởng tượng phong phú, được lấy chất liệu từ sự hư
huyễn, kì quái không tồn tại trong hiện thực. Hay có thể nói đó là một kiểu
không gian đặc thù của sự nhào trộn từ quan niệm tín ngưỡng, tâm linh, tôn
giáo với cảm quan cá nhân về thế giới của quỷ thần, ma quái lẫn thần linh.
Khi nhận xét về vai trò của không gian nghệ thuật kì ảo trong tác
phẩm văn học, nhà phê bình Lê Nguyên Cẩn, trong bài Văn học kì ảo như

một hiện tượng văn hóa cho rằng: “con người, bằng khả năng tưởng tượng
của chính nó, đã tạo ra thế giới thứ hai, thế giới vốn chỉ tồn tại trong tưởng
22
tượng song lại khoác màu thần bí của một thế giới ảo, song song tồn tại với
cuộc sống hiện thực của con người”.[6]
Không gian trong tác phẩm Ngô Tự Lập chứa đựng nhiều yếu tố kì ảo.
Đó có thể là không gian kì bí, lạ lùng ở cõi trần, không gian chập chờn
trong cõi vô thức, mộng mị, không gian nhạt nhòa, mịt mù hư vô. Trong
thế giới không gian kì ảo này, những cảm nhận về cuộc sống cứ ẩn hiện,
chập chờn, đan cài giữa âm và dương, hư và thực, những linh cảm, điềm
báo cứ quẩn quanh, bủa vây con người. Không gian kì ảo cứ bủa vây, xâm
nhập vào mọi ngõ ngách của đời sống và tâm hồn nhân vật.
Trong các truyện ngắn của Ngô Tự Lập, không gian kì ảo tập trung
xoay quanh ba kiểu không gian chính, đó là kiểu không gian huyền thoại
hay mang màu sắc huyền thoại; không gian của tưởng tượng, thế giới của
mơ mộng, mộng du và không gian của biển cả kì bí, rộng lớn, bao la.
Kiểu không gian được thiết lập qua những giấc mơ có thể xem là
không gian chính, bao trùm toàn bộ sáng tác của ông. Dù ít, dù nhiều, gần
như tác phẩm nào cũng có đề cập đến giấc mơ, nếu không là giấc mơ thì đó
cũng là thế giới của tưởng tượng, của mộng du hay của ảo mộng Đó là
kiểu không gian được thiết lập không phụ thuộc vào ý thức của con người,
nó tồn tại trong môi trường vô ý thức, mộng mị của con người. Trong tình
trạng vô thức con người bước vào một thế giới khác, ở đó có khi mọi trật tự
và các mối quan hệ bị đảo lộn, người và ma có thể giao tiếp, trao đổi, thông
thương và tiếp xúc với nhau. Kiểu không gian này tạo cho tác phẩm mang
màu sắc của sự bí hiểm, kì quái thậm chí là kinh dị…
Không gian kì ảo thường gắn liền với những nhân vật của một thế giới
khác như ma, quỷ, thần thánh, mộng du, ảo mộng, huyễn hoặc, huyền
thoại…
2.1.1.1. Không gian huyền thoại

Huyền thoại được hiểu là những câu chuyện kể về những điều kì diệu,
hoang đường, có nguồn gốc từ trong dân gian sơ khai. Nhân vật của huyền
23
thoại thường là những người phi thường, có khả năng đặc biệt hay có đặc
điểm kì lạ. Là phương tiện để tác giả gửi gắm hiện thực, thường được biểu
hiện dưới dạng biểu tượng.
Một dạng sáng tác sử dụng phương thức “huyền thoại hóa” mà chúng
ta gặp trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại, là các nhà văn mượn điển tích
hoặc tạo ra những “huyền tích” riêng cho tác phẩm của mình. Ngô Tự Lập
nhận định trong cuốn Văn chương như là quá trình dụng điển: “Trong các
tác phẩm văn học, ngoài những điển tích văn học còn có vô số các điển tích
đời sống. Việc sử dụng điển tích đời sống mang tính phổ quát hay địa
phương ở các mức độ khác nhau tự thân nó không phải là hay hay dở. Nó
chỉ thể hiện thiên hướng của chủ thể tác giả, cái mà suy cho cùng cũng
được tạo nên bởi hoàn cảnh sống.” [29, 36]
Không gian huyền thoại là kiểu không gian, mà trong đó mọi sự vật
hiện tượng, và đời sống các nhân vật hiện lên qua góc nhìn mang màu sắc
cổ tích, huyền thoại, huyễn hoặc. Việc xây dựng không gian huyền thoại
chính là nhà văn đang tạo ra cho tác phẩm của mình những “điển tích đời
sống”.
Nói cách khác không gian huyền thoại là không gian pha lẫn thực và
hư. Người đọc cảm giác mình đặt chân đến một miền đất vừa hư vừa thực.
Không gian huyền thoại thường mang tính biểu tượng. Không gian huyền
thoại không nhất thiết phải là không gian kì bí như trong thần thoại: thiên
đường, địa ngục hay miền đất xa lạ. Không gian huyền thoại gần gũi, thân
thuộc – nó là hiện thực ngay trong cuộc sống của chúng ta. Đó có thể là
một ngôi làng quê cũ, một căn phòng đơn sơ, một mái nhà tranh quen
thuộc… Kiểu không gian này tồn tại khá nhiều trong truyện ngắn Ngô Tự
Lập.
24

Bảng khảo sát biểu hiện của không gian huyền thoại
Vĩnh biệt đảo hoang Không gian nửa thật nửa hư trên đảo hoang
Hóa thân Không gian kì lạ, khác thường ở vùng Sơn Hạ
Món quà Không gian mang màu sắc cổ tích kiểu được ông
bụt tặng quà của ông già Enten.
Giấc ngủ kì lạ của
ông ương Tử Ban
Huyền thoại về bài thuốc dân gian của dân miền
biển
Chuyện ở Xêma Không gian đời thực mang màu sắc cổ tích của kì
quan thứ nhất ở Xêma
ửa trong lòng biển Không gian bí hiểm, mang màu sắc huyền thoại
với kiểu kết cấu lời nguyền.
Xác chết trả thù Không gian huyền thoại bao trùm bởi “những lời
nguyền” và sự trả giá cho tội lỗi vì phạm lời
nguyền.
Bão lạc mùa Huyền thoại mang tính chất lời nguyền trong dân
gian làng biển
Được ngọc Không gian kì ảo, huyền thoại của nhân vật mõ
Biền khi ở trấn Hạ Xuyên và khi gặp vua Cát Vũ
Trước hết đó là không gian vừa hư vừa thực trên đảo hoang trong
truyện ngắn Vĩnh biệt đảo hoang: “Bấy lâu nay thế giới của nàng chỉ là một
hòn đảo nhỏ chơi vơi giữa bốn bề sóng gió (…). Xung quanh nàng là đại
dương vô tận và đối với nàng cũng là một sinh vật biết thở hít, biết yêu
thương và căm giận.(…). Bạn bè của nàng là những đàn cá tung tăng vô tư
lự, những con rùa cần mẫn, những đàn chim nhiều không kể xiết từ chân
trời xa bay về cùng với mùa xuân, đậu đầy trên các mỏm đá, cất tiếng kêu
vang động và khoan khoái giũ những đôi cánh mỏng manh đã rã rời sau
chặng đường xa Loài người đối với nàng chỉ gồm có nàng và cha nàng.”
[25, 16-17]

Không gian bao trùm hòn đảo nhỏ rất xinh đẹp và tinh khôi. Trong
không gian ấy nàng đã trưởng thành, từ cô gái nhỏ thành thiếu nữ. Không
gian nàng sống bao la, gần gũi, gắn kết với thiên nhiên, không có hận thù,
25

×