BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN ĐỨC QUỲNH
THÂN PHẬN NGƯỜI VIỆT XA XỨ
TRONG VĂN XUÔI NGUYỄN VĂN THỌ
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGHỆ AN - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN ĐỨC QUỲNH
THÂN PHẬN NGƯỜI VIỆT XA XỨ
TRONG VĂN XUÔI NGUYỄN VĂN THỌ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
TS. LÊ THANH NGA
NGHỆ AN - 2014
3
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 6
1. Lí do chọn đề tài 6
2. Lịch sử vấn đề 6
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát 11
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 11
5. Phương pháp nghiên cứu 11
6. Đóng góp của luận văn 11
7. Cấu trúc của luận văn 12
Chương 1
VĂN XUÔI NGUYỄN VĂN THỌ TRONG BỐI CẢNH
VĂN XUÔI VIỆT NAM Ở HẢI NGOẠI ĐƯƠNG ĐẠI 13
1.1. Một số vấn đề về văn xuôi Việt Nam ở hải ngoại 13
1.1.1. Khái niệm văn học Việt Nam hải ngoại 13
1.1.2. Nhìn chung về văn xuôi Việt Nam ở hải ngoại 19
1.1.3. Một số thành tựu và tác giả tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam ở hải ngoại
24
1.2. Vấn đề thân phận người Việt xa xứ trong văn xuôi Việt Nam ở hải ngoại 26
1.2.1. Người Việt xa xứ như một đối tượng quan trọng của văn xuôi Việt Nam
hải ngoại 26
1.2.2. Những cách nhìn về người Việt xa xứ trong văn xuôi Việt Nam ở hải
ngoại 29
1.3. Nguyễn Văn Thọ, một cây bút có nhiều đóng góp cho việc thể hiện thân phận người
Việt xa xứ 32
1.3.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Văn Thọ 32
1.3.2. Quan niệm văn học của Nguyễn Văn Thọ 34
1.3.3. Thái độ của Nguyễn Văn Thọ trong cách nhìn về thân phận người Việt ở
hải ngoại 37
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THÂN PHẬN NGƯỜI VIỆT XA XỨ
TRONG VĂN XUÔI CỦA NGUYỄN VĂN THỌ 41
2.1. Khát vọng đổi đời và những niềm vui có thật 41
2.1.1. Khát vọng đổi đời của người Việt xa xứ 41
2.1.2. Những niềm vui có thật trong cuộc sống 45
2.2. Bi kịch vỡ mộng 49
2.2.1 .Vỡ mộng về đời sống vật chất 49
2.2.2. Vỡ mộng về đời sống tinh thần 55
2.3. Bi kịch kiếp sống vô tăm tích 65
2.4. Bi kịch thân phận người phụ nữ Việt xa xứ 69
2.4.1. Người phụ nữ với bi kịch xuất phát từ ngoại cảnh 70
2.4.2. Người phụ nữ với bi kịch tự thân 74
Chương 3
NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN THÂN PHẬN CON NGƯỜI XA XỨ
TRONG VĂN XUÔI CỦA NGUYỄN VĂN THỌ 81
3.1. Văn xuôi Nguyễn Văn Thọ mang đậm yếu tố tự truyện - kiểu nhân vật xưng “tôi” 81
3.1.1. Tự truyện và đặc điểm của tự truyện trong văn học 81
3.1.2. Yếu tố tự truyện trong sáng tác văn xuôi Nguyễn Văn Thọ 83
3.2. Đặt nhân vật vào hiện thực khốc liệt của cuộc sống để thể hiện tính cách 91
3.2.1. Tình huống truyện gay cấn, bất ngờ 91
3.2.2. Chi tiết bạo liệt 96
3.3. Lối viết đa giọng điệu 99
3.3.1. Giọng bạo liệt 99
3.3.2. Giọng lãng mạn, dịu êm 104
3.3.3. Giọng xót xa, cay đắng 107
3.3.4. Giọng triết lí, suy tư 111
KẾT LUẬN 117
TÀI LIỆU THAM KHẢO 119
5
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Văn học Việt Nam hải ngoại kể từ thời điểm năm 1975 đến nay đã
trải qua một chặng dài với những thành tựu đáng kể, góp phần không nhỏ làm
nên diện mạo đầy đặn của văn học nước nhà. Văn học Việt Nam hải ngoại là
sản phẩm tinh thần của những người con Việt li hương, hiện đang sinh sống ở
khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên, bộ phận văn học này vẫn không được bạn
đọc trong nước biết đến một cách rộng rãi. Nó thực sự chưa trở thành món ăn
tinh thần của nhiều độc giả trong nước. Đặc biệt, ở trong nhà trường phổ
thông lại càng không được chú trọng.
1.2. Trong số những nhà văn viết đều, viết hay đang sống ở nước ngoài
hiện nay, Nguyễn Văn Thọ là người có đóng góp đáng kể. Nghiên cứu một
tác giả như vậy đồng nghĩa với việc bổ sung một cách đầy đủ hơn những hiểu
biết về văn học Việt Nam ở nước ngoài.
1.3. Trong các sáng tác văn học của người Việt ở hải ngoại, người Việt
xa xứ nổi lên như một chủ đề hết sức quan trọng, góp phần lớn trong việc hình
thành diện mạo bộ phận văn xuôi này. Nghiên cứu vấn đề người Việt xa xứ
trong sáng tác của Nguyễn Văn Thọ là thông qua phương tiện văn học, để
hiểu thêm những nỗi niềm của những đứa con lưu lạc, từ đó có thái độ ứng xử
tốt đẹp hơn giữa những người chung nòi giống trong hiện tại.
2. Lịch sử vấn đề
Như đã nói, văn học Việt Nam hải ngoại đến nay vẫn chưa thực sự
được nhiều người biết đến. Ngay chính bản thân nhà văn Nguyễn Văn Thọ, là
hội viên hội nhà văn Việt Nam, lại có nhiều tác phẩm đạt giải thưởng, vậy mà
sự quan tâm của người đọc trong nước, nhất là với học sinh, sinh viên còn rất
ít ỏi. Việc nghiên cứu tác phẩm Nguyễn Văn Thọ trên phương diện Thân
6
phận người Việt xa xứ như một đề tài khoa học thì chưa thấy có tác giả nào
công bố. Ngoại trừ những bài báo, một số luận văn thạc sĩ hoặc những cuộc
phỏng vấn nhân các dịp nhà văn ra mắt tác phẩm mới của mình. Những ý kiến
nhận xét về sáng tác của Nguyễn Văn Thọ, theo chúng tôi, xoay quanh các
nội dung sau:
Giới nghiên cứu, phê bình văn học đánh giá rất cao giá trị hiện thực
trong sáng tác của nhà văn Nguyễn Văn Thọ. Ở bài, Mấy lời cuối sách hay
đọc Nguyễn Văn Thọ, Trần Đăng Khoa đã nhận xét: “Đọc Nguyễn Văn Thọ,
dù ở bất cứ thể loại nào, không hiểu sao, tôi cứ hình dung một gã thợ đấu lực
lưỡng, chân thành và bộc trực. Lão cứ huỳnh huỵch xắn từng mảng đời sống
mà vật lên trang giấy.” [42]. Nguyễn Xuân Thủy cũng cho rằng: “Rất nhiều
câu chuyện trong các tác phẩm của ông đều có bóng dáng từ cuộc đời thực,
Nguyễn Văn Thọ không phủ nhận điều này. Mỗi câu chuyện, mỗi chi tiết, tình
huống đều là một lát cắt nào đó trong cuộc đời tác giả”. [97]. Còn Loan
Thanh khẳng định: “ông, […], là một trong số ít những cây bút đương đại
xuất sắc nhất về đề tài người Việt ở hải ngoại. Đọc tác phẩm người ta cảm
nhận được mỗi con chữ là máu và nước mắt của hơn 20 năm phiêu bạt ở xứ
người của ông. Hai mươi năm bòn nhặt từng đồng xu, chắt chiu từng giọt cảm
xúc nhỏ để gửi đến độc giả những cảm xúc nguyên sơ giữa hai bờ hư ảo của
một cây bút hướng đến hiện thực". [76]. Đỗ Bích Thuý cũng nhận xét: “Tôi
cho rằng, sự thành công của Nguyễn Văn Thọ đã được chắt lọc từ việc phải hi
sinh rất nhiều, trả giá rất nhiều trong cuộc sống quá khốc liệt đối với những
năm tuổi trẻ, những năm quý giá nhất của đời người.” [97]. Và Lãng Ma
trong “Lão thợ đấu” Nguyễn Văn Thọ trình làng "Vợ cũ" bổ sung:“Với vốn
sống đa dạng và dày dặn, những trang viết của anh luôn đầy ắp những chi tiết
hiện thực. Sự quyết liệt trong cách ứng xử và nỗi da diết tình người làm nên
đặc trưng chủ đạo trong văn Nguyễn Văn Thọ.” [64].
7
Giá trị hiện thực được nhắc đến trong sáng tác của nhà văn Nguyễn
Văn Thọ chính là những gì mà bản thân nhà văn đã từng trải qua. Đó là quãng
thời gian 11 năm ở chiến trường, hơn 25 năm bươn chải kiếm sống ở Đức, và
nhiều đau khổ, dằn vặt của những lần đổ vỡ trong hạnh phúc hôn nhân. Có thể
xem Nguyễn Văn Thọ là nhà văn hiện thực viết về chính bản thân mình.
Nguyễn Văn Thọ còn được đánh giá là nhà văn của sự chân thành.
Chân thành là một yêu cầu tất yếu đối với nhà văn. Tuy nhiên với
Nguyễn Văn Thọ điều này được thể hiện một cách triệt để, có lúc bị lạm
dụng, nhất là những trang văn viết về cuộc sống người Việt ở nước ngoài của
ông. Thu Hà đã rất có lí khi cho rằng: “Còn khi viết về những thân phận tha
hương, Nguyễn Văn Thọ dường như đã khiến người đọc ngập chìm trong nỗi
nhục cơm áo và sự lạc loài của những đồng bào mình - trong đó có anh. Sự
thật thà đến mức thái quá của anh, sự trung thực nghiệt ngã của anh trong
những truyện ngắn đầy yếu tố tự truyện: Trong bão tuyết, Vườn Maria, Gửi
ông đại tá chờ thư, Thật là giản đơn không chỉ khiến người ta xót xa,
thương cảm, mà còn phải tự vấn: tại sao con người lại có thể có khả năng chịu
đựng đến như thế, tại sao đồng bào của chúng ta phải chịu chấp nhận một
cuộc sống như thế và họ sẽ còn phải sống như vậy đến bao giờ?” [30].
Giới thiệu về tập truyện ngắn Vàng xưa trên trang mạng
cũng đánh giá:
“Đọc các truyện ngắn trong tập truyện Vàng xưa của Nguyễn Văn Thọ, ta có
cảm giác dường như anh cứ lấy nguyên vẹn những gì mình trải nghiệm mà
không hề thêm thắt, tô vẽ, để kể lại với bạn đọc vậy. Một cách kể chuyện
chân thật mà không nhàm chán, lại rất có duyên. Như thế là anh đã thành
công rồi, vì tất cả những trang viết bén rễ từ cuộc sống, nói được những vấn
đề của cuộc sống thì đều có sức hấp dẫn lâu bền trong công chúng”. Bùi Việt
Thắng: Khen - chê trong buổi giới thiệu sách của Nguyễn Văn Thọ, đã nhận
8
thấy giữa Nguyễn Văn Thọ và Nam Cao có nét tương đồng: “Tôi theo dõi
nhiều tác phẩm của Nguyễn Văn Thọ, tôi thấy dù viết thế nào, giọng nào cũng
thế, truyện nào cũng thế thì anh Thọ cũng viết đến tận cùng sự chân thành.
Tôi thích điểm này. Trong các bậc tiền bối văn chương ở ta thì đấy là một đặc
tính của Nam Cao. Nam Cao viết gì cũng viết đến tận cùng của sự chân
thành.” [77]. Cũng trong buổi giới thiệu sách lần này, Đặng Thiều Quang
nhận xét rất chính xác về phong cách nhà văn: “Anh Thọ có đặc điểm tôi rất
quý đấy là bộc trực, nói thẳng vấn đề. Văn của anh Thọ tôi cảm giác như
những viên đạn bay thẳng tới đích.” [77].
Trong số những nhà văn hải ngoại hiện nay, Nguyễn Văn Thọ là người
quan tâm nhiều đến vấn đề Việt tính trong văn học.
Mặc dầu sống ở nước ngoài hơn hai mươi lăm năm, nhưng văn chương
của Nguyễn Văn Thọ vẫn mang đậm hơi thở của người Việt. Bởi hơn ai hết,
với ông, dòng máu Việt đã thấm sâu vào máu thịt. Nguyễn Xuân Thủy đã
phát hiện: “Với những người xa xứ thì tha hương luôn là chủ đề ám ảnh trong
những trang văn dù ít dù nhiều. Nguyễn Văn Thọ cũng vậy, đọc văn ông, có
cảm giác Nguyễn Văn Thọ vẫn là một người đàn ông … thuần Việt. Sự nhân
hậu bao trùm dù cho cái hiện thực trong câu chuyện có nghiệt ngã đến khắc
khoải thì điều toát lên vẫn là âm hưởng nhân văn, ấm nóng tình người. Bao
nhiêu năm lăn lộn, sục sạo bươn chải trong một thế giới với không ít những
mánh lới làm ăn chụp giật, không hiểu những trang văn đã cho ông giữ được
thiên lương hay chính sự lương thiện giữ được giữa bão giông, giữa những
điên đảo về nhân cách trong cuộc sinh tồn đã lan toả vào những trang văn của
người đàn ông xa xứ. Điều này có vẻ như mâu thuẫn mà tôi chỉ có thể tự trả
lời rằng đó là nhờ tâm hồn Việt thẳm sâu từ tâm thức.” [97].
Trang website
cũng đề cao tính Việt khi giới thiệu tập sách Vàng xưa: "Những trang viết của
9
Nguyễn Văn Thọ cũng đã phần nào cho chúng ta thấy cuộc sống của cộng
đồng người Việt ở CHLB Đức. Bươn bả mưu sinh và đầy toan tính, nhưng
trên hết thảy, chất Việt thuần phác trong họ vẫn lấp lánh trong những trang
sách của Nguyễn Văn Thọ. Tình cảm của người Việt vẫn luôn hướng về quê
hương, đất nước”.
Đặc biệt, khi Nguyễn Văn Thọ cho ra đời cuốn tiểu thuyết Quyên, đã có
rất nhiều ý kiến nhận xét về vấn đề thân phận con người khi phải sống tha
hương. Trong bài báo có tựa đề Thêm một góc nhìn về cuộc sống của người
Việt xa xứ trên Báo Văn nghệ công an số 101, ra ngày 06/04/2009, Khánh
Linh đã có những đánh giá: “Đọc Quyên ta thấy thấm đẫm từng trang viết về
nỗi đau tủi nhục, về tinh thần cũng như thể xác không gì có thể bù đắp được
của những con người đã trót lìa xa quê hương vì ảo mộng giàu sang. Đó cũng
là nỗi đau của người trong cuộc, của những người tha hương khi nhận ra cái
giá phải trả để đổi lấy những đồng Đôla, và sâu xa hơn đó cũng là sự va đập
của những nền văn hóa.” [52]. Bùi Việt Thắng cũng rất tâm đắc Quyên ở vấn
đề thân phận con người. “Đọc lại Quyên của nhà văn Nguyễn Văn Thọ, tôi lại
thấy cái chủ đề Thân phận và Thân xác nó hài hoà nhau.” [77].
Ngoài ra, Nguyễn Văn Thọ còn được xem là nhà văn của phái yếu. Dù
trong truyện ngắn, tiểu thuyết hay tạp văn thì thân phận người phụ nữ luôn
được nhà văn quan tâm một cách đặc biệt.
Như vậy, mặc dù chưa có những công trình thực sự quy mô nghiên cứu
về sáng tác nói chung và thân phận người Việt xa xứ nói riêng trong các tác
phẩm của Nguyễn Văn Thọ. Tuy nhiên, những ý kiến ít ỏi đó cũng trình bày
những cách cảm nhận về sáng tác của Nguyễn Văn Thọ theo những chủ điểm
khá tập trung. Điều này cho thấy sự viết "một cách ý thức" của nhà văn. Tất
cả những ý kiến của người đi trước sẽ là gợi ý quý báu cho chúng tôi trong
quá trình hoàn thành luận văn này.
10
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thân phận người Việt xa xứ trong văn xuôi nhà văn Nguyễn Văn Thọ.
3.2. Phạm vi tư liệu khảo sát
Gồm các sáng tác của Nguyễn Văn Thọ, thuộc các thể loại truyện ngắn,
tiểu thuyết và tạp văn.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Làm nổi bật những giá trị nội dung cũng như nghệ thuật trong sáng tác văn
xuôi của Nguyễn Văn Thọ viết về đề tài Người Việt xa xứ. Với mục đích này,
trong luận văn chúng tôi hướng đến tập trung giải quyết một số nhiệm vụ như sau:
- Khái quát về văn xuôi của Nguyễn Văn Thọ trong bối cảnh văn xuôi
Việt Nam hải ngoại đương đại.
- Tìm hiểu những chủ đề và quan niệm cơ bản của Nguyễn Văn Thọ
khi viết về thân phận người Việt xa xứ.
- Chỉ ra những đặc điểm cơ bản trong nghệ thuật thể hiện thân phận
người Việt xa xứ trong sáng tác của Nguyễn Văn Thọ.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn đã hệ thống được một số đặc điểm cơ bản nhất về giá trị nội
dung và nghệ thuật trong các sáng tác văn xuôi của Nguyễn Văn Thọ khi viết
về đề tài Thân phận người Việt xa xứ.
- Luận văn có thể cung cấp tài liệu cho những ai quan tâm đến vấn đề
văn học hải ngoại và tác phẩm của Nguyễn Văn Thọ viết về cuộc sống người
Việt tại nước ngoài.
11
7. Cấu trúc của luận văn
Tương ứng với các nhiệm vụ, mục đích đã đề ra, ngoài Mở đầu, Kết
luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm ba chương:
- Chương 1: Văn xuôi Nguyễn Văn Thọ trong bối cảnh văn xuôi Việt
Nam ở hải ngoại đương đại
- Chương 2: Những vấn đề cơ bản về thân phận người Việt xa xứ trong
văn xuôi của Nguyễn Văn Thọ
- Chương 3: Nghệ thuật thể hiện thân phận con người xa xứ trong văn
xuôi của Nguyễn Văn Thọ
12
Chương 1
VĂN XUÔI NGUYỄN VĂN THỌ TRONG BỐI CẢNH
VĂN XUÔI VIỆT NAM Ở HẢI NGOẠI ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Một số vấn đề về văn xuôi Việt Nam ở hải ngoại
1.1.1. Khái niệm văn học Việt Nam hải ngoại
Hiện nay, tồn tại song song với nền văn học "quốc nội", có một bộ
phận văn học được viết bằng tiếng mẹ đẻ do người Việt đang sinh sống và
làm việc ở ngoài nước, bộ phận văn học đó có danh xưng là văn học Việt
Nam hải ngoại. Vậy nguyên nhân vì sao lại có một bộ phận văn học nằm
ngoài đất nước, và nó được hình thành từ bao giờ?
Trong lịch sử dân tộc ta, đã có nhiều đợt di dân ra ngoài biên giới quốc
gia và nguyên nhân chủ yếu là do tỵ nạn chính trị. Vào thời nhà Trần, năm
1226, Hoàng tử nhà Lý, Lý Long Tường, cùng sáu ngàn gia thuộc trước sự
bức bách của Trần Thủ Độ, phải chạy nạn sang Cao Ly. Đến những năm đầu
thế kỉ XX cũng có những người Việt yêu nước di tản ra nước ngoài tìm đường
giải phóng ách nô lệ cho quê hương. Trong quá trình đó, họ sáng tác văn
chương nhằm phục vụ ý đồ chính trị của mình, như trường hợp Phan Bội
Châu (Hải ngoại huyết thư, Lưu cầu huyết lệ tân thư, Ngục trung thư),
Phan Châu Trinh (Xăngtê thi tập, Giai nhân kì ngộ diễn ca, Thất điều thư),
Nguyễn Ái Quốc (Truyện và kí)… Tuy nhiên, những cuộc ra đi như thế này
thường ở quy mô nhỏ lẻ của một số cá nhân hay một nhóm người, nó chưa
thực sự đặt ra một vấn đề xã hội lớn lao; đồng thời tác phẩm của họ chưa
đủ gây dựng nên một dòng chảy tại hải ngoại. Chỉ đến sự kiện lịch sử 30
tháng 4 năm 1975, với một số lượng người rất lớn (ban đầu khoảng
130.000 người) di tản ra nước ngoài, nền văn học Việt Nam ngoài đất nước
mới bắt đầu được khởi tạo.
13
Sự kiện giải phóng miền Nam năm 1975 là một tất yếu của quá trình
đấu tranh thống nhất nước nhà của nhân dân ta. Song trên thực tế, do bất đồng
chính trị, có không ít người Việt (chủ yếu là sĩ quan, công chức, văn nghệ sĩ,
binh lính của bộ máy chính quyền chế độ cũ) rời bỏ tổ quốc di tản ra nước
ngoài định cư (nhiều nhất là ở Mĩ). Trong số đó có những nhà văn, nhà thơ
từng một thời cầm bút tại quê nhà. Khi cuộc sống mới đã ổn định, họ sáng tác
trở lại. Chính những thế hệ nhà văn, nhà thơ này là người đầu tiền đặt nền
móng cho văn học Việt Nam ở nước ngoài.
Hiện nay vẫn có nhiều ý kiến tranh luận xoay quanh vấn đề gọi tên cho
bộ phận văn học này. Người thì gọi là văn học lưu vong, văn chương lưu đày,
văn học miền Nam nối dài, có người lại gọi là văn học di dân, hoặc văn học
Việt Nam hải ngoại…
Sở dĩ bộ phận văn học Việt Nam hải ngoại có những tên gọi như trên là
có nguyên do của nó. Ban đầu, nó thực sự là văn học lưu vong. Còn có những
tên gọi khác như "văn chương lưu đày", hoặc "văn học miền Nam kéo dài".
Bởi đó là bộ phận văn học của chính những người miền Nam lưu vong chính
trị tại hải ngoại; và khi ra nước ngoài họ vẫn còn giữ phong cách như thời còn
ở quốc nội. Đặc điểm đặc trưng của văn học lưu vong là tính đối kháng chính
trị với chính quyền trong nước.
Cũng có người cho rằng, đây là văn học di dân vì tính chất địa lí nơi nó
hình thành. Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc, di dân là "sự di chuyển dân
cư từ một đơn vị lãnh thổ này đến một đơn vị lãnh thổ khác, nhằm thiết lập
một nơi cư trú mới trong một không gian thời gian nhất định." [50]. Gọi văn
học của những người Việt ở nước ngoài là "văn học di dân" cũng có phần
thoả đáng, bởi nó mang đến một nhận thức khá nhẹ nhàng, bớt phần kì thị,
"nghiêm trọng hoá". Văn học di dân nhấn mạnh đến lòng hoài niệm quê
hương và cảm thức lưu lạc. Dòng văn học này ít mang tính chính trị, nó thuộc
14
về các thế hệ nhà văn xuất ngoại theo con đường du học hoặc xuất khẩu lao
động ở lại.
Vì sao bây giờ người ta không gọi bộ phận văn học của người Việt sinh
sống ở nước ngoài sáng tác là "văn học lưu vong" hay "văn học di dân" nữa?
"Văn học di dân" là một khái niệm vay mượn. Theo Đào Trung Đạo
trong bài viết Nhà / quê nhà trong văn chương vô xứ Việt Nam, văn học di
dân là dùng để "chỉ một mảng văn chương xuất hiện ở Âu-Mỹ từ trên 100
năm nay, có thể nói đã khởi đầu với Josept Conrad, tiếp theo là những tên tuổi
lớn như James Joyce, Thomas Mann, Samuel Beckett, Vladimir Nabokov,
Jorge Luis Borges, Gabriel Garcia Marquez…"[18].
Bản chất của từ di dân lại bao hàm một ý nghĩa rộng lớn. Di dân, tức là
"sự di chuyển dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này đến một đơn vị lãnh thổ
khác, nhằm thiết lập một nơi cư trú mới trong một không gian thời gian nhất
định." [50]. Nhưng có những cuộc di dân không ra ngoài phạm vi của một
quốc gia, mà chỉ ở những vùng miền trong một dân tộc. Vậy bộ phận văn học
của những người di dân trong nước sẽ gọi là gì?
Vả lại, khái niệm văn học di dân chấp nhận cả văn học dòng chính và
văn học thiểu số tức là văn học viết bằng tiếng mẹ đẻ và tiếng bản địa. Vì vậy
dùng khái niệm văn học di dân vẫn còn chưa hợp lí.
"Lưu vong" cũng là một khái niệm vay mượn nốt. Nó xuất phát từ tiếng
Hy Lạp cổ (diaspora), được dùng để chỉ tình cảnh của những người Do Thái
khi bị đuổi ra khỏi quê nhà, phải sống tha hương ở nước ngoài. Đến thập niên
60 của thế kỉ XX, khái niệm lưu vong trở nên phổ biến hơn, trước hiện tượng
hàng chục triệu người Phi châu phải rời quê hương để sống ở châu Mỹ và
nhiều nơi khác. Về sau, nó được dùng chung để chỉ những người di dân bị
cưỡng bức, do hoàn cảnh chính trị. [68]. Nếu xét về tính chất đối kháng chính
trị của người cầm bút, nó chỉ đúng có một phần. Trên thực tế, những người
15
Việt Nam hiện đang sinh sống và làm việc tại nước ngoài (khoảng 4 triệu
người) không phải ai cũng thuộc số người đối kháng chính trị. Trừ phần lớn
những người sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975 rời khỏi đất nước qua các con
đường di tản, vượt biên, đoàn tụ, diện H.O, là những người lưu vong thực sự
(thậm chí có người tự nhận là tỵ nạn chính trị để được chấp nhận cư trú); còn
rất nhiều người Việt đi du học hoặc đi xuất khẩu lao động nước ngoài sau đó
ở lại (tường nhân), không thể xếp họ vào những người lưu vong được. Có thể
khẳng định cộng đồng người Việt ở hải ngoại trước năm 1990 chủ yếu là cộng
đồng lưu vong còn sau năm 1990 trở đi không hẵn là thế.
Hơn nữa, bản thân từ "lưu vong" gợi ra ấn tượng bi thảm. Theo tiếng
Hán, lưu: trôi; vong: mất. Lưu vong gợi đến một viễn cảnh mịt mù, tăm tối.
Chính vì thế dùng khái niệm văn học lưu vong để chỉ những sáng tác của
cộng đồng người Việt ở nước ngoài hiện nay là bất cập vì chưa thể ôm trọn
các dòng chảy của bộ phận văn học này.
Trong khi đó, khái niệm văn học Việt Nam hải ngoại vừa nói lên được
vị trí địa lí của đối tượng sáng tác (nó lấy Việt Nam làm khởi điểm, đi đến các
vấn đề “trong” và “ngoài” của chính Việt Nam; chứ không lệ thuộc những gì
ngoài Việt Nam: “nước ngoài”) vừa không tạo ra mặc cảm tâm lí bi thảm,
đồng thời nó trung hòa về mặt chính trị. Lại phù hợp cho người trong nước
dùng để gọi một bộ phận văn học của người Việt sinh sống ở nước ngoài.
Ngoài ra, nó còn hàm ý: giới hạn thể tài, chỉ xét các tác phẩm viết bằng tiếng
Việt và xa gần có liên quan đến người Việt, đất nước Việt Nam. [72].
Như đã nói, ban đầu văn học Việt Nam hải ngoại được gọi là văn học
lưu vong. Đến năm 1987, Đỗ Quý Toàn đã đề nghị dùng thuật ngữ "văn học
hải ngoại". Tháng 7 năm 1988, Bùi Vĩnh Phúc trên tạp chí Văn học số 30 đã
có một bài phân tích khá kĩ và đề xuất nên dùng cụm từ "văn chương ngoài
nước" vì theo ông hai chữ Hán Việt "hải ngoại" không sát nghĩa bằng hai chữ
16
thuần Việt "ngoài nước". Nếu dùng từ Hán Việt phải dùng chữ "quốc ngoại".
Nhưng dùng chữ ngoài nước lại có âm vang, gần gũi với đất nước và người
Việt hơn. Vả lại khái niệm văn chương ngoài nước "ở mặt này hay mặt khác,
vẫn có những điểm gắn bó xương thịt, xa gần với đất nước, quê hương, với
những thao thức của cả một dân tộc. Ngoài nhưng vẫn trong là thế." [66].
Thụy Khuê, trong bài viết Hai mươi nhăm năm văn học Việt Nam hải
ngoại 1975 - 2000, luận giải: "chữ nước trong danh từ đất nước của chúng ta,
có hàm nghĩa nước là thủy, như nước sông, nước biển, mà chữ quốc của
người Trung Hoa không có. Và có lẽ ít ngôn ngữ nào trên thế giới diễn tả
được hình ảnh đất nước với hai yếu tố xương thịt cơ bản tác thành nên nó: đất
và nước như tiếng Việt. Nếu không có đất và không có nước thì không có sự
sống, không có vật và người. […]. Ngoài ra nước biển còn có liên hệ tử sinh
với người vượt biển, thành phần chủ chốt của văn học Việt Nam hải ngoại.
Vậy nước trong chữ hải (biển) cũng là thành tố của đất nước. Và hải ngoại chỉ
là một cách nói khác, để chỉ những gì ngoài đất nước. Do đó hải ngoại và
ngoài nước là những từ tương đương." [43].
Theo Nguyễn Mộng Giác nếu gọi bộ phận văn học này là "văn chương
lưu vong" thì đã nhấn mạnh được chủ đề phản kháng chính trị nhưng lại bỏ
qua tâm tình quen thuộc của các lớp người di dân; còn ngược lại nếu gọi bộ
phận văn học đó là "văn chương di dân" thì chỉ nhấn mạnh được khía cạnh
lòng hoài niệm quê hương và cảm thức lưu lạc mà lại gạt bỏ cốt lõi quan
trong nhất của văn học hải ngoại đó là chính trị. Chính vì vậy nhà văn đã đề
xuất dùng cụm từ "văn học Việt Nam hải ngoại." [27].
"Từ các năm 1990 sau sự kiện bức tường Berlin, cách gọi văn học Việt
Nam hải ngoại trở nên chính thức hơn và vượt ra ý nghĩa ban đầu. Qua các
năm 2000, hơn mươi năm nay nó trở nên cách gọi tương đối bình thường (ít
còn tính thời cuộc và chính kiến) về sáng tác của người Việt Nam đang sống
17
ở nước ngoài." [72]. Theo Đỗ Quyên, lâu nay 3 khái niệm trên luôn tạo bất
đồng, cố ý hoặc vô tình, trong bài vở, tranh luận ở cả trong lẫn ngoài nước.
Do tiếp nhận của người đọc, cũng do điểm nhìn của người viết. Tất cả phần
nhiều là từ quan điểm chính trị (Quốc - Cộng) mà ra. Nếu như có chính kiến
khách quan, khoa học và thực tế (bao dung) thì 3 khái niệm trên chỉ là
“chuyện nhỏ”, là vấn đề tu từ. Hoàng Ngọc Hiến trong bài viết Đọc văn học
Việt Nam hải ngoại cũng đưa ra quan điểm cho rằng, tên gọi không quan
trọng miễn là nó phải có giá trị văn học: “Nếu như văn học di tản trước hết là
văn học, văn học lưu vong trước hết là văn học, văn học hải ngoại trước hết là
văn học… thì sự khác biệt giữa những tên gọi không đến nỗi quan trọng như
ta nghĩ.” [34].
Từ việc xác định khái niệm văn học Việt Nam hải ngoại như trên chúng
tôi nhận thấy:
Thứ nhất, văn học Việt Nam hải ngoại là một bộ phận của văn học Việt
Nam, được những người Việt hiện đang sinh sống và làm việc tại nước ngoài
(gồm những người di tản, những người vượt biên, những người thuộc diện
HO, và những tường nhân) sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ, và viết về những vấn
đề của người Việt mình.
Thứ hai, Văn học Việt Nam hải ngoại là một bộ phận văn học Việt
Nam, do người Việt sống ở nước ngoài sáng tác, cho nên, chỉ có những tác
phẩm được viết bằng tiếng mẹ đẻ mới thuộc về văn học Việt Nam hải ngoại;
còn những sáng tác viết bằng tiếng của nước bản địa hoặc khác tiếng Việt sẽ
không được chấp nhận. Điều này đồng nghĩa với việc "văn chương Việt Nam
ở hải ngoại không nhắm tới khối độc giả bản xứ, nghĩa là ngay từ đầu không
có ý muốn hội nhập." [24].
Thứ ba, những nhà văn hải ngoại, viết bằng tiếng Việt hoặc tiếng bản
xứ, nhưng viết về người bản xứ nơi họ sống, không có mối liên hệ gì về con
18
người Việt Nam dù là bản thân người viết, thì không được coi là văn học Việt
Nam hải ngoại.
1.1.2. Nhìn chung về văn xuôi Việt Nam ở hải ngoại
Văn học Việt Nam ở hải ngoại tình từ thời điểm năm 1975 đến nay đã
trải qua một chặng đường khá dài. Nó đã tạo nên một diện mạo rõ nét với
nhiều thể loại đặc trưng. Trong đó, văn xuôi đã có mặt từ những ngày đầu gắn
liền với các nhà văn miền Nam di tản như Võ Phiến, Lê Tất Điều, Thanh
Nam. Tuy nhiên, giai đoạn này văn xuôi nói chung còn hạn chế về số lượng
cũng như chất lượng. Tâm thế nhà văn và những điều kiện cần thiết khác còn
chưa bảo đảm để hình thành một dòng văn học Việt Nam ở hải ngoại phát
triển. Những ngày đầu, hầu hết cách nhà văn đang còn trong tâm trạng rất
hoảng hốt, lo âu của "những kẻ đào tẩu". Rời khỏi tổ quốc họ phải đối diện
với một cú sốc văn hóa khá nặng nề. Cuộc sống mưu sinh hằng ngày hầu như
chiếm trọn tâm trí cho nên không mấy ai quan tâm đến văn học. Ý nghĩ viết
lại, sống bằng nghề văn quả rất hiếm. Ngay đến cả những nhà văn từng nổi
tiếng trong nước như Võ Phiến cũng không giám nghĩ đến một sự nghiệp văn
chương cho mình về sau. Trong Thư gửi bạn, ông tâm sự "từ ngày bỏ nước ra
đi, tôi đâu còn nghĩ đến chuyện nghệ thuật văn chương nữa". Võ Phiến nêu
được một nguyên nhân quan trọng: "ai lại nghĩ xây dựng một sự nghiệp văn
nghệ trong vòng vài trăm ngàn người, tản mát khăp mặt địa cầu, mỗi ngày
một xa lạc ngôn ngữ dân tộc, xa rời cuộc sống dân tộc”. Với ông, viết văn chỉ
để thỏa mãn một "nhu cầu lẩm cẩm." [67].
Không có độc giả, đội ngũ nhà văn mất niềm tin vào tương lai nghề
nghiệp, chính vì vậy văn học Việt Nam hải ngoại rơi vào tình trạng chết lịm
trong mấy năm đầu. Các tác phẩm bằng văn xuôi rất ít ỏi. Chủ yếu là sáng tác
của ba nhà văn có công giữ lửa cho bộ phận văn học chưa kịp hình thành mà
có nguy cơ nguội lạnh. Thanh Nam với hồi ký Hai mươi năm Việt Nam làm
19
báo, Lê Tất Điều với phiếm luận Một quả cười đểu mùa Xuân và một tập tùy
bút in chung với Võ Phiến: Ly Hương (1977), Võ Phiến với ba tập tùy bút: Ly
Hương (1977), Thư gửi bạn (1976), Lại thư gửi bạn (1979) và một quyển tiểu
thuyết: Nguyên Vẹn (1978). Âm hưởng chủ yếu của những sáng tác giai đoạn
đầu là: "tiếc nuối một thời hoàng kim đã mất, xót xa trăn trở với những khổ ải
đã trải qua, lật từng trang album bồi hồi với những kỷ niệm, mơ ước ngày trở
về có khải hoàn môn dựng trên khắp nẻo đường và gặp lại một quê hương y
nguyên như thời hoàng kim cũ." [26].
Đến năm 1979, phong trào vượt biên của người Việt theo đường biển ra
nước ngoài ngày càng rầm rộ. Đây chính là thời điểm văn học Việt Nam hải
ngoại có bước chuyển mình. Cộng đồng người Việt lưu vong ở nước ngoài
ngày càng đông đảo và có phần tập trung hơn. Điều này đồng nghĩa với việc
đội ngũ nhà văn cũng như độc giả ngày thêm hùng hậu. Mặc dù giai đoạn từ
1979 đến 1981 số lượng tác phẩm văn học xuất bản không nhiêu nhưng có thể
nói đây là bước chuyển mình của văn học Việt Nam hải ngoại để bắt đầu từ
năm 1982 trở về sau phát triển một cách mạnh mẽ chưa từng thấy.
Từ năm 1982 đến 1990 là thời kì phát triển nở rộ của bộ phận văn học
này. Đội ngũ sáng tác được bổ sung đông đảo từ nguồn vượt biên những năm
1979. Họ có những thuận lợi nhất định trong việc cầm bút so với thế hệ di tản
lần thứ nhất. Trong bài Khả năng và triển vọng của văn học hải ngoại, đăng
trên Thế Kỷ 21- Bộ 1 - Số 1 - Ngày 1 tháng 5 năm 1989, Nguyễn Mộng Giác
chỉ ra những điều kiện, đó là: "họ sang vào lúc những người Việt sống tứ tán
khắp nơi đã tập trung lại thành cộng đồng, các cơ sở kinh doanh buôn bán của
người Việt đã mọc lên và phát triển nhanh. Các thảm cảnh vượt biển làm rúng
động thế giới, nên quy chế trợ cấp xã hội và huấn nghệ ở các nước đệ tam tỏ
ra dễ dàng, dành nhiều ưu tiên cho người tị nạn. Số người đọc tăng, số người
viết tăng, sách báo Việt ngữ phát triển…" [22]. Hơn nữa, phần lớn nhà văn
20
nhà thơ vượt biên lần này ít nhiều đã trải nghiệm được cuộc sống trong nước,
trong các trại cải tạo sau biến cố tháng tư, đồng thời với quá trình vượt biên
đầy kinh hoàng trên biển, cuộc đời họ đã có sẵn biết bao chuyện để viết chẳng
cần thêm thắt, tô vẽ. Đó là nguồn đề tài lớn để họ nhanh chóng đến với văn
học. Với họ viết "là một cách giải tỏa những uất ức, những hậm hực, những
dồn nén trong tâm hồn." [68]. Vì vậy, vừa định cư xong là họ bắt tay vào công
việc sáng tác, thậm chí có nhiều tác phẩm được khởi thảo ngay trong các trại
tị nạn như Đại học máu của Hà Thúc Sinh, Đáy Địa Ngục của Tạ Tỵ, tập
truyện ngắn Ngựa nản chân bon, Xuôi dòng, tập 1 bộ trường thiên tiểu thuyết
Mùa biển động của Nguyễn Mộng Giác. Về phía độc giả, cộng đồng người
Việt tị nạn ở nước ngoài tính đến thời điểm giữa năm 1982, theo thống kê của
Cao Ủy Tị Nạn Liên Hợp Quốc, lên 900.000 người. Đó là con số đáng kể góp
phần thúc đẩy không nhỏ cho sự phát triển của văn học Việt Nam hải ngoại.
Kèm theo đó là sự xuất hiện có tính tất yếu của nhiều tờ báo, tạp chí, trong đó
có những tờ chuyên về văn học. Sự phát triển, ứng dụng rộng rãi internet đã
góp phần quan trọng thu hẹp khoảng cách không gian, thời gian giữa tác
phẩm và bạn đọc, cả hải ngoại lẫn quốc nội… Những điều kiện đó khiến cho
văn học hải ngoại có được những thành tựu đáng chú ý. Các thể loại văn xuôi
phát triển mạnh. Xuất hiện những tác phẩm dài hơi, như Anh hùng Lĩnh Nam,
Cẩm khê di hận, Anh hùng Tiêu sơn của Trần Đại Sỹ, Người đi trên mây của
Nguyễn Xuân Hoàng, Giấc mơ của Nguyên Sa… Đặc biệt là bộ trường thiên
tiểu thuyết Mùa biển động năm tập gồm 1860 trang của Nguyễn mộng Giác.
Đây được xem bộ sách hoàn chỉnh nhất của văn học Việt Nam trong nhiều
thập niên qua. Tuy nhiên, thể loại được xem là phát triển nhất giai đoạn này
phải kể đến hồi ký và truyện ngắn. Hồi kí của lớp người vượt biên là những kí
ức đau buồn về những gì họ chịu đựng trong trại cải tạo khi còn ở Việt Nam,
hoặc những chuyến vượt biển kinh hoàng khi đối diện với tử thần. Một số tác
21
phẩm tiêu biểu như Tháng ba gãy súng (Cao Xuân Huy), Ngày N+ (Hoàng
Khởi Phong), Cùm Đỏ (Phạm Quốc Bảo), Đại học Máu (Hà Thúc Sinh)…
Nhìn chung những cuốn hồi ký này chủ yếu là những ghi chép, tường thuật lại
các sự kiện, chưa có tính khái quát, và chủ yếu là viết bằng giọng văn hằn
học, căm phẫn. Thậm chí theo Trần Mộng Tú: một vài hồi ký của các nhân
vật cao cấp trong quân đội hay trong chính quyền của cả hai nền Cộng hòa thì
được các độc giả cùng binh chủng, cùng lãnh vực dân sự nhận định là thiếu
trung thực và đề cao cá nhân. Vì vậy nhiều nhà nghiên cứu văn học hải ngoại
không xem chúng như một thể loại văn chương hoặc nếu có thì cũng không
đề cao giá trị văn học của thể loại này.
Vào những năm 1980 trở đi, truyện ngắn đã gặt hái được những thành
tựu đáng kể. Ngoài những cây bút gạo cội như Nguyễn Mộng Giác (Ngựa
nản chân bon, Xuôi dòng), Nhật Tiến (Tiếng kèn, Một thời đã qua, Cánh cửa),
Mai Thảo (Ngọn hải đăng mù)…. xuất hiện các cây viết mới: Thế Giang,
Trần Vũ, Vũ Quỳnh Hương, Phan Thi Trọng Tuyến, Trần Diệu Hằng,
Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nguyễn Thị Thanh Bình, Trần Thị Kim Lan, Hồ
Đình Nghiêm, Nguyễn Ý Thuần. Ngô Nguyên Dũng, Trân Sa, Dương Như
Nguyện, Vũ Quỳnh N.H… Trong đó Thế Giang, Trần Vũ, Vũ Quỳnh Hương
được đánh giá rất cao, "sắc sảo trong cách nhìn, sự vững vàng trong kỹ thuật
và sự tài hoa trong ngôn ngữ." [66].
Truyện ngắn giai đoạn này tập trung vào hai mảng đề tài lớn, đó là ảo
ảnh về một quê hương không còn nữa và thực tại kinh hoàng của những ngày
vượt biển đối diện với hải tặc, sinh tử.
Từ những năm 1990 đến 1995, văn học Việt Nam hải ngoại bắt đầu
bước vào thời kỳ bế tắc. Theo Nguyễn Hưng Quốc, có ba nguyên nhân cho sự
suy thoái này. Thứ nhất: sự xuất hiện của những cây bút trẻ ngày càng thưa
thớt; thứ hai: nhịp độ sáng tác chậm; nguyên nhân cuối cùng và quyết định
22
nhất đó là do lòng yêu văn học của cộng đồng người Việt ở nước ngoài không
còn như trước nữa. Tuy nhiên, từ sau 1990, cùng với nhiều văn nghệ sĩ tiến bộ
trong nước, các nhà văn hải ngoại đã chủ động phong trào hòa hợp dân tộc
trong văn chương. Hòa hợp, tức là xóa bỏ hận thù, bước qua rào cản, ranh
giới quốc - cộng để cùng nhau xây dựng một nền văn học đổi mới toàn diện.
Họa sĩ, nhà văn Khánh Trường là một trong những người đi tiên phong. Ông
sáng lập ra tòa báo Hợp lưu. Trong số báo ra ngày 01 tháng 10 năm 1991,
Khánh Trường xác định "Hợp lưu sẽ là diễn đàn phổ biến tất cả các tác phẩm
của anh em văn nghệ sĩ trong và ngoài nước, những tác phẩm nói lên khát
vọng chung của dân tộc… cũng như phô diễn được cái hay cái đẹp của ngôn
ngữ Việt." [39]. Đến Hợp Lưu số 65 tháng 6&7 năm 2002 ông một lần nữa
khẳng định: "Với chủ trương đã được đề ra từ đầu, Hợp Lưu là sân chơi tự do,
tuyệt đối tự do. Hợp Lưu không úy kỵ hay tự đóng khung trong bất cứ trường
phái, quan niệm (chính trị, văn học, nghệ thuật) nào. Chỉ một điều duy nhất
Hợp Lưu cố gắng duy trì và triển khai, đó là giá trị thực sự của các sáng tác.
Một tác phẩm hay, dù được viết bởi một văn nô của Bắc bộ phủ hay của một
nhà văn quốc gia tỵ nạn cộng sản Hợp Lưu đều xem như nhau, nghĩa là Hợp
Lưu sẽ rất trang trọng đăng tải, dù thừa biết sẽ bị chụp mũ, xuyên tạc từ hai
phía đối nghịch (như đã nhiều lần từng xảy ra)." [43]. (Tuy chủ trương của
Khánh Trường khá tiến bộ nhưng bản thân ông vẫn còn có thái độ kỳ đến bất
nhã với những nhà văn cách mạng trong nước). Sau đó 1 năm, vào tháng
6/1992, nhóm Trân Sa, Tư Đồ Tuệ, Hà Trọng Vũ ở Toronto, Canada, xuất bản
tạp chí Trăm Con. Trên tinh thần đó, có nhiều nhà văn bắt đầu tính chuyện
"hợp lưu". Chẳng hạn như tập truyện ngắn Quê nhà, quê người (1994) của
Nhật Tiến in chung với Nguyễn Nhật Tuấn.
Từ năm 1995 đến nay, có thể coi là quãng giao ban giữa các thế hệ cầm
bút cũ và mới. Văn học Việt Nam hải ngoại tuy không đạt được những thành
23
tựu lớn như ở giai đoạn thứ ba nhưng lại có nhiều cây bút mới xuất hiện. Thế
hệ nhà văn sau này thường ít quan tâm đến vấn đề chính trị, họ cũng không có
nhiều kí ức quê nhà như các thế hệ cha anh. Vì thế đề tài họ quan tâm là vấn
đề hội nhập ngay tại đất nước họ sinh sống. Đó là những cây bút Trần Vũ,
Mai Ninh, Thuận, Thế Dũng, Lê Minh Hà, Đoàn Minh Phượng, Hoàng Ngọc
Thư, Lê Quỳnh Mai, Nguyễn Xuân Tường Vy, Hoàng Long v.v…
Về hình thức, các nhà văn trẻ thường tìm đến lối viết hiện đại và hậu
hiện đại. Về nội dung, không còn tập trung vào các đề tài như trước nữa (hoài
niệm, hội nhập, chính trị…) mà chúng đan cài vào nhau. Đất nước và con
người ở quê nhà được quan tâm nhiều hơn. Về không gian, nước Mỹ không
còn là trung tâm độc quyền để phát triển văn học hải ngoại mà xu hướng toàn
cầu hóa. Đặc biệt văn học của người Việt ở Đông Âu xuất hiện nhiều tác giả
tác phẩm.
1.1.3. Một số thành tựu và tác giả tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam ở
hải ngoại
Như đã nói văn học hải ngoại từ khi hình thành đến nay đã trải qua năm
chặng đường. Mỗi giai đoạn có những nét đăc thù riêng. Có lúc nó chỉ mới là
thời kỳ thai nghén, có lúc lại phát triển manh mẽ, thu được nhiều thành tựu.
Gần bốn mươi năm hình thành và phát triển, thật khó để kể hết số lượng tác
giả, tác phẩm. Bởi tháng 5, năm 1989, trên tạp chí Thế Kỷ 21 - Bộ 1 - Số 1
trong bài viết Khả năng và triển vọng của văn học hải ngoại, Nguyễn Mộng
Giác cho biết: "Trong cuốn tuyển tập thơ văn do nhà xuất bản Văn Hữu in
năm 1982, nhà văn Võ Phiến đếm được 90 tác giả, trong đó có 28 người viết
sau 1975. Trong cuốn Thơ Văn Việt Nam hải ngoại do nhà xuất bản Sông
Thu in năm 1985, tập 1 đã phát hành có 60 tác giả, trong đó có 12 tác giả mới.
Tập 2 chưa phát hành có 44 tác giả, trong đó có 21 tác giả mới. Từ 1985 đến
nay, đã có thêm nhiều cây bút mới gạo cội xuất hiện. Một lực lượng cả cũ lẫn
24
mới thật đông đảo." [22]. Tuy nhiên, Văn học Việt Nam hải ngoại có được bộ
mặt như ngày hôm nay, phải kể đến những nổ lực, đam mê văn chương của
một số cá nhân tiêu biểu.
Vào thời kì đầu, từ năm 1975 - 1980, phải kể đến công lao của Võ
Phiến, Lê Tất Điều, Thanh Nam. Thanh Nam sáng tác không nhiều (một tập
thiên hồi ký dở dang Hai mươi năm Việt Nam làm báo, một tập thơ nổi tiếng
Đất Khách), nhưng lại có công lớn trong lĩnh vực báo chí (từng làm Tổng thư
ký, chủ bút của tờ Đất mới). Nguyễn Hưng Quốc xem ông là người "giữ lửa
trong một thời kỳ băng giá" của văn học Việt Nam hải ngoại. Lê Tất Điều giai
đoạn này nổi tiếng không phải lĩnh vực văn xuôi mà là thơ. Tập thơ Cao Tần
đã làm rung động rất nhiều con tim Việt Nam tại hải ngoại vì nói lên được
tâm sự lưu vong của họ lúc đó. Tất nhiên, trong số ba nhân vật này, Võ Phiến
được xem như "cây đa, cây đề". Trước khi di tản, ông vốn đã nổi tiếng.
Những sáng tác trước đây của Võ Phiến được in lại. Người Việt hải ngoại lúc
đó xem tác phẩm của ông "như manh áo rách cuối cùng còn lại trên thân sau
cuộc đổi đời, như bữa cơm đầu sau những ngày đói khát trên biển." [47].
Những ngày đầu ông bắt tay viết Thư gửi bạn (1976), Ly Hương (1977), Lại
thư gửi bạn (1979) và Nguyên Vẹn (1978).
Tháng 11 năm 1982, Nguyễn Mộng Giác đã định cư tại Nam
California, nước Mỹ, sau vài ba năm phong trào vượt biên diễn ra rầm rồ. Sự
xuất hiện của Nguyễn Mộng Giác và nhiều nhà văn vượt biên từ miền Nam
Việt Nam đã khuấy động thực sự phong trào văn học hải ngoại. Lớp vượt biên
lần này khác với đợt di tản lần đầu. Nguyễn Mộng Giác phát biểu: "Cuộc vượt
biển vĩ đại và bi thương chưa từng có trong lịch sử Việt Nam phơi bày cho thế
giới thấy thực chất của chế độ đang cầm quyền ở Việt Nam. Cuộc di tản năm
l975, lâu nay vẫn bị xem như một cuộc tháo chạy thoát thân, với nhiều mặc
cảm nặng nề tiếp theo nhờ vụ vượt biển từ 1979 trở đi, trở thành một cuộc đi
25