BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THỊ ANH
QUAN HỆ TRUNG QUỐC - HÀN QUỐC
TỪ 1992 ĐẾN 2013
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
NGHỆ AN - 2014
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THỊ ANH
QUAN HỆ TRUNG QUỐC - HÀN QUỐC
TỪ 1992 ĐẾN 2013
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 60.22.03.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN VĂN TUẤN
NGHỆ AN - 2014
4
MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU 9
1. Lý do chọn đề tài 9
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 11
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 15
4. Nguồn tư liệu 15
5. Phương pháp nghiên cứu 16
6. Đóng góp của đề tài 16
7. Bố cục của đề tài 17
B. NỘI DUNG 18
Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ
TRUNG QUỐC - HÀN QUỐC TỪ 1992 ĐẾN 2013 18
1.1. Tình hình quốc tế và khu vực 18
1.1.1. Tình hình quốc tế 18
1.1.2. Tình hình khu vực Đông Bắc Á và bán đảo Triều Tiên 23
1.2. Quan hệ giữa Trung Quốc và Hàn Quốc trước năm 1992 27
1.3. Tình hình mỗi nước và chính sách đối ngoại của Trung Quốc, Hàn Quốc từ 1992
đến 2013 30
1.3.1. Tình hình và chính sách đối ngoại của Trung Quốc từ 1992 đến 2013 30
1.3.2. Tình hình và chính sách đối ngoại của Hàn Quốc từ 1992 đến 2013 35
Tiểu kết chương 1 41
Chương 2
NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG QUAN HỆ
TRUNG QUỐC - HÀN QUỐC TỪ 1992 ĐẾN 2013 43
2.1. Quan hệ chính trị - ngoại giao và quân sự, an ninh 43
2.1.1. Quan hệ chính trị - ngoại giao 43
2.1.2. Quan hệ quân sự, an ninh 60
2.2. Quan hệ kinh tế 68
2.2.1. Quan hệ thương mại 68
2.2.2. Quan hệ đầu tư 76
2.3. Quan hệ văn hóa, giáo dục và khoa học - kỹ thuật 81
2.3.1. Trong lĩnh vực văn hóa 81
2.3.2. Trong lĩnh vực giáo dục 86
2.3.3. Trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật 89
Tiểu kết chương 2 91
Chương 3
MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ QUAN HỆ TRUNG QUỐC - HÀN QUỐC
TỪ 1992 ĐẾN 2013 93
3.1. Những thành tựu và hạn chế của quan hệ Trung Quốc - Hàn Quốc từ 1992 đến 2013
93
3.1.1. Thành tựu 93
3.1.2. Hạn chế 97
3.2. Tác động của mối quan hệ Trung Quốc - Hàn Quốc từ 1992 đến 2013 100
3.2.1. Đối với Trung Quốc 100
3.2.2. Đối với Hàn Quốc 102
3.2.3. Đối với khu vực Đông Bắc Á 104
3.3. Triển vọng của quan hệ Trung Quốc - Hàn Quốc 111
C. KẾT LUẬN 113
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 117
E. PHỤ LỤC 128
6
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
APEC Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
ARF Diễn đàn khu vực ASEAN
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ASEM Diễn đàn Hợp tác Á - Âu
CHDCND Cộng hòa dân chủ nhân dân
CHND Cộng hoà nhân dân
CNTB Chủ nghĩa tư bản
CNXH Chủ nghĩa xã hội
EAFTA Hiệp định Thương mại tự do Đông Bắc Á
EU Liên minh châu Âu
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FTA Hiệp định Thương mại tự do
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
IAEA Cơ quan năng lượng và nguyên tử quốc tế
IMF Quỹ tiền tệ Quốc tế
MCT Bộ Văn hóa và Du lịch Hàn Quốc
NATO Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
NDT Nhân dân tệ
NIEs Nước công nghiệp mới phát triển
Nxb Nhà xuất bản
OEDC Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
R & D Hoạt động nghiên cứu và phát triển
SOC Tổ chức hợp tác Thượng Hải
TPP Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
TTXVN Thông tấn xã Việt Nam
USD Đô la Mỹ
WTO Tổ chức Thương mại thế giới
8
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chiến tranh lạnh kết thúc đã mở ra chiều hướng và những điều kiện giải
quyết một cách hòa bình các xung đột quốc tế và khu vực. Xu thế đối đầu đã
chuyển sang đối thoại, mối quan hệ quốc tế do đó cũng đã mang màu sắc mới
với những quan hệ hợp tác song phương, đa phương cùng có lợi.
Trong thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới đã diễn ra với
những thay đổi to lớn và phức tạp. Trật tự thế giới hai cực đã sụp đổ, trật tự
thế giới mới đang trong quá trình hình thành. Sau Chiến tranh lạnh, hầu hết
các nước đều có sự thay đổi, điều chỉnh trong chính sách đối nội cũng như đối
ngoại vì mục tiêu trước mắt là tập trung vào phát triển kinh tế.
Quan hệ hợp tác và phát triển là xu thế hiện nay của thế giới, cũng là
nhu cầu hợp tác của mỗi quốc gia để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, giao lưu
văn hóa, hiểu biết và hỗ trợ lẫn nhau. Phát triển mối quan hệ giữa các nước,
các tổ chức quốc tế đã trở thành mối quan tâm của nhân loại. Mối quan hệ
giữa Trung Quốc và Hàn Quốc là một biểu hiện của xu thế trên.
Xét về góc độ địa lý, lịch sử và văn hóa, Trung Quốc và Hàn Quốc có
nhiều điểm gần gũi, tương đồng. Hàng thế kỉ nay, Hàn Quốc vẫn giữ mối
quan hệ gần gũi với Trung Quốc và chịu ảnh hưởng rất lớn của Trung Quốc
cả về phương diện văn hoá và tư tưởng.
Nhìn lại quá khứ, lịch sử đã để lại dấu ấn trong mối quan hệ bang giao
của hai nước. Qua các thời kỳ, quan hệ giữa hai nước đã có những diễn biến
phức tạp, thăng trầm. Từ đó để lại những vết hằn trở ngại trong quan hệ giữa
hai nước. Tuy nhiên, trong mấy năm qua, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu
hóa, khu vực hóa, các hoạt động hợp tác kinh tế những năm gần đây đã khiến
cho chính phủ và nhân dân hai nước ý thức cần phải nhanh chóng vượt qua
bất đồng, trở ngại lịch sử để thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác cùng phát triển.
9
Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế và nhất thể hóa, khu vực Đông Bắc Á
trong vài chục năm qua không chỉ là một khu vực phát triển kinh tế năng động
của thế giới mà sự hợp tác giữa các quốc gia trong khu vực trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, an ninh ngày càng sôi động. Hợp tác với Đông Bắc Á trở
thành vấn đề thời sự, là mối quan tâm của các quốc gia trong khu vực và trên
thế giới.
Sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ cùng với
những chính sách kinh tế đúng đắn, Hàn Quốc đã vươn lên trở thành “con
rồng châu Á”. Nền kinh tế đứng thứ 15 trên thế giới ngày càng đạt được
những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực. Hàn Quốc cũng là nhân tố quan
trọng thúc đẩy hợp tác kinh tế Đông Bắc Á phát triển.
Sau Chiến tranh lạnh, sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự của Trung
Quốc không ngừng lớn mạnh. Trung Quốc đã bắt đầu thực hiện các mục tiêu
phát huy ảnh hưởng quốc tế của mình để sớm đưa đất nước trở thành một
cường quốc có tiếng nói quan trọng trong khu vực và thế giới. Mục tiêu của
Trung Quốc lúc này là tập trung phát triển kinh tế, giữ gìn ổn định và an ninh
khu vực. Những năm gần đây, Trung Quốc có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ,
cũng rất mong muốn có sự hợp tác với các nước trong khu vực nhằm phát
triển một cách toàn diện. Ngoài mục tiêu kinh tế, Trung Quốc còn có những
toan tính chính trị. Rõ ràng, một đất nước với diện tích lớn, dân số đông,
Trung Quốc luôn muốn mình là một thế lực, nhất là ở châu Á.
Từ năm 1992 (từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao) đến nay,
mối quan hệ Trung Quốc - Hàn Quốc đã có nhiều khởi sắc, đặc biệt là quan
hệ kinh tế. Trung Quốc trở thành bạn hàng lớn nhất của Hàn Quốc và là nước
nhận đầu tư lớn nhất từ Hàn Quốc. Trong quan hệ với Trung Quốc, Hàn Quốc
luôn được đảm bảo những lợi ích quan trọng, bởi quan hệ Trung Quốc - Hàn
Quốc luôn có sự hợp tác bổ sung lẫn nhau, ngay cả trong lĩnh vực cạnh tranh
10
gay gắt nhất như kinh tế. Điều này phản ánh quan hệ giữa Trung Quốc và Hàn
Quốc là sự tương hỗ hơn là cạnh tranh. Đây có lẽ là một trong những điểm
hiếm hoi trong quan hệ đối ngoại của Trung Quốc khi quốc gia này luôn xác
định quan điểm vừa là bạn vừa là đối thủ và vừa hợp tác vừa cạnh tranh.
Việc tìm hiểu quan hệ giữa Trung Quốc và Hàn Quốc là vấn đề có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc, không chỉ giúp chúng ta hiểu biết thêm về
lịch sử hai nước mà còn có cái nhìn tổng quan về quan hệ giữa hai nước trong
khu vực Đông Bắc Á nói riêng và quốc tế nói chung sau Chiến tranh lạnh.
Với những lý do trên chúng tôi đã chọn vấn đề “Quan hệ Trung Quốc
- Hàn Quốc từ 1992 đến 2013” làm đề tài luận văn thạc sĩ sử học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quan hệ Trung Quốc - Hàn Quốc là một vấn đề có ý nghĩa khoa học và
thực tiễn. Từ trước tới nay, nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đã nghiên
cứu vấn đề này dưới nhiều góc độ khác nhau.
Nguồn tư lệu mà chúng tôi tiếp cận được gồm sách tham khảo, chuyên
khảo, các bài viết, bài nghiên cứu lịch sử Trung Quốc, Hàn Quốc cũng như
mối quan hệ giữa hai nước đăng trên các báo và tạp chí. Các bài nghiên cứu
chủ yếu tập trung ở các trên các tạp chí chuyên ngành như Tạp chí Nghiên
cứu Đông Bắc Á, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc… Ngoài ra, còn có một số
tư liệu của Thông tấn xã Việt Nam, của Đại sứ quán Trung Quốc, Đại sứ quan
Hàn Quốc tại Việt Nam công bố.
Nghiên cứu về vấn đề trên, có các công trình tiêu biểu sau:
- Lê Văn Mỹ (chủ biên), “Ngoại giao Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
hai mươi năm đầu thế kỉ XXI”, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2011. Cuốn
sách đề cập đến những vấn đề nổi bật trong chính sách đối ngoại và quan hệ
ngoại giao của Trung Quốc 10 năm đầu thế kỷ XXI; đồng thời dự báo về tình
hình thế giới, khu vực, tình hình Trung Quốc và những nhân tố có thể tác
11
động đến sự điều chỉnh chiến lược và chính sách đối ngoại của Trung Quốc
giai đoạn 2011- 2020.
- Phạm Quý Long (chủ biên), “Đối sách của các quốc gia và vùng lãnh
thổ ở Đông Bắc Á về chuyển đổi mô hình tăng trưởng và hội nhập kinh tế
quốc tế giai đoạn 2011-2020”, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2013. Nội
dung cuốn sách giới thiệu và phân tích chính sách của bốn nền kinh tế chủ
yếu ở Đông Bắc Á là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và vùng lãnh thổ Đài
Loan về sự điều chỉnh chiến lược hướng tới năm 2020 trong xây dựng mô
hình tăng trưởng và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.
- Hoàng Thế Anh (chủ biên), “Những vấn đề kinh tế xã hội nổi bật của
Trung Quốc trong mười năm đầu thế kỉ XXI”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội,
2012. Nội dung cuốn sách được các tác giả làm rõ những chủ trương chính
sách của Đảng và Chính phủ Trung Quốc trong việc giải quyết các vấn đề nổi
bật và đưa ra những đánh giá cả định lượng lẫn định tính về những thành tựu
và hạn chế của từng vấn đề nổi bật ở Trung Quốc. Trên cơ sở đó đưa ra những
dự báo về sự phát triển kinh tế - xã hội của Trung Quốc trong 10 năm tiếp
theo.
Ngoài những công trình nói trên, vấn đề quan hệ Trung Quốc - Hàn
Quốc còn được đề cập ở các công trình sau:
- Lưu Ngọc Trịnh, “Đối sách của các nước Đông Bắc Á trước việc
hình thành khu vực mậu dịch tự do FTA từ cuối năm 1990”, Nxb Lao động xã
hội, Hà Nội, 2006.
- Cuốn “Hàn Quốc lịch sử văn hóa” của Cơ quan thông tin hải ngoại
Hàn Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
- Nguyễn Vĩnh Sơn, “Tìm hiểu Hàn Quốc”, Viện nghiên cứu và phổ
biến tri thức bách khoa, Hà Nội, 1996.
- Nguyễn Vĩnh Sơn, “Hàn Quốc trên con đường phát triển”, Nxb
Thống kê, Hà Nội, 2000.
12
- Đỗ Tiến Sâm, M.L. Titarenko (chủ biên), “Trung Quốc những năm
đầu thế kỉ XXI”, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2010.
- Trần Anh Phương, “Chính trị khu vực Đông Bắc Á từ sau Chiến tranh
lạnh”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007.
- Hoàng Minh Hằng, “Quan hệ Trung Quốc - Hàn Quốc kể từ sau bình
thường hóa”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 5, 2005.
- Dương Phú Hiệp, Ngô Xuân Bình, “Hàn Quốc trước thềm thế kỷ
XXI”, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1999.
- Võ Thanh Hải, “Quan hệ hợp tác kinh tế của Hàn Quốc và các nước
trong khu vực Đông Bắc Á: tình hình và triển vọng”, Tạp chí Nghiên cứu
Nhật Bản số 5, 2005.
- Trình Mưu, “Ngoại giao cộng hòa nhân dân Trung Hoa 30 năm cải
cách mở cửa (1978 - 2008)”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001.
- Lê Văn Mỹ, “Trung Quốc với cơ chế “10+3” và hợp tác Trung -
Nhật - Hàn trong tiến trình hợp tác Đông Á”, Tạp chí Nghiên cứu Trung
Quốc, số 6, 2009.
- Mã Hồng, “Tình hình và triển vọng kinh tế Trung Quốc” Phó giáo sư
Nguyễn Huy Quý dịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
- Đỗ Cao Minh, Chuyên đề giữa Trung Quốc với các nước Đông Á,
Viện Nghiên cứu Trung Quốc.
- Nguyễn Minh Hằng (chủ biên), “Quan hệ kinh tế Trung Quốc thời mở
cửa”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996.
- Lê Thiếu Liêm, “Công tác đối ngoại của Trung Quốc đầu thế kỷ
mới”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 2, 2003.
Ngoài ra, vấn đề quan hệ Trung Quốc - Hàn Quốc cũng đã được đề cập
tới trong một số bài viết trên các tạp chí như Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc
Á, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Quan hệ quốc tế…
dưới nhiều góc độ khác nhau. Nguồn tài liệu từ Thông tấn xã Việt Nam cũng
13
cho chúng ta hình dung được tầm quan trọng của mối quan hệ hợp tác giữa
Trung Quốc và Hàn Quốc.
Việc nghiên cứu vấn đề này ở Trung Quốc cũng đạt khá nhiều thành
tựu. Chúng tôi đã tiếp cận được các công trình sau đây:
- LEE Eun – Hyung, “Thực trạng và triển vọng đầu tư của Hàn Quốc
đối với Trung Quốc”, Tạp chí Diễn đàn Đông Bắc Á, số 3, tháng 5 năm 2005.
Công trình phân tích khách quan tình hình đầu tư và đánh giá khả năng phát
triển của sự đầu tư của Hàn Quốc ở Trung Quốc.
- Yin Shengxuan, “Phân tích đặc thù và hiện trạng phát triển đầu tư
của Trung Quốc đối với Hàn Quốc”, Tạp chí Học viện Công nghiệp hàng
không Thẩm Dương, số 6, tháng 12 năm 2006. Tác giả phân tích hiện trạng và
những đặc điểm của sự đầu tư mà Trung Quốc tiến hành ở Hàn Quốc từ khi
hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao.
- Xu Xinghao, “Thực trạng và đặc thù đầu tư trực tiếp của các xí
nghiệp Trung Quốc đối với Hàn Quốc”. Tác giả chỉ nghiên cứu tình hình đầu
tư của các xí nghiệp Trung Quốc ở Hàn Quốc vào thập kỷ 90 của thế kỷ XX
và những năm đầu thế kỷ XXI. Ngoài ra, công trình còn đánh giá những thành
tựu và hạn chế của sự đầu tư này.
- Zhan Xiaohong, “16 năm quan hệ Trung - Hàn”, Tạp chí Nghiên cứu
Hàn Quốc, số 1 năm 2009. Công trình tập trung phân tích và đánh giá quá
trình phát triển của quan hệ giữa Trung Quốc và Hàn Quốc trong 16 năm từ
khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao đến năm 2008 trên các
lĩnh vực chính trị - ngoại giao, kinh tế, văn hóa. Đồng thời dự đoán khả năng
phát triển quan hệ hai nước trong thời gian tới.
Từ những nguồn tài liệu mà chúng tôi tiếp cận được, có thể rút ra một
số nhận xét như sau:
Đề tài nghiên cứu quan hệ Trung Quốc - Hàn Quốc từ 1992 đến 2013
đã thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài
14
nước. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu toàn
diện và có hệ thống về mối quan hệ Trung Quốc - Hàn Quốc trên tất cả các
lĩnh vực. Song, những công trình đó là nguồn tham khảo chính hỗ trợ cho
chúng tôi khi nghiên cứu mối quan hệ Trung Quốc - Hàn Quốc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mối quan hệ giữa Trung Quốc và
Hàn Quốc từ năm 1992 đến năm 2013. Mối quan hệ đó được thể hiện trên các
lĩnh vực: chính trị - ngoại giao, quân sự, an ninh, kinh tế, văn hóa, giáo dục và
khoa học - kỹ thuật.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về mặt thời gian: từ khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại
giao (năm 1992) đến năm 2013.
Về nội dung: Chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu quan hệ Trung Quốc -
Hàn Quốc trên các mặt chính trị - ngoại giao, quân sự, an ninh, kinh tế, văn
hóa, giáo dục, khoa học - kỹ thuật. Ngoài ra, để giải quyết tốt vấn đề nghiên
cứu, chúng tôi cũng đề cập tới bối cảnh quốc tế và khu vực tác động đến quan
hệ hai nước, chính sách đối ngoại của hai nước.
Quan hệ văn hóa ở đây chúng tôi tập trung vào báo chí, xuất bản, thể dục -
thể thao, du lịch và các hoạt động chuyên biệt khác.
4. Nguồn tư liệu
Để thực hiện được đề tài này, chúng tôi dựa vào các nguồn tư liệu sau:
- Tài liệu tổng hợp: các sách chuyên khảo về lịch sử thế giới, lịch sử
quan hệ quốc tế, lịch sử Trung Quốc, lịch sử Hàn Quốc.
- Các tạp chí nghiên cứu: Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, Tạp chí
Nghiên cứu Đồng Bắc Á, Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản, tài liệu của Thông
tấn xã Việt Nam….
15
- Các công trình nghiên cứu, báo cáo của các học giả trong và ngoài nước.
- Các tư liệu từ một số website có độ tin cậy cao.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đây là một đề tài đòi hỏi người nghiên cứu phải tổng hợp được các sự
kiện lịch sử trong quá khứ, vừa phải xem xét tình hình hiện tại và đoán định
xu thế tương lai và do đặc trưng của khoa học lịch sử, vì vậy trong quá trình
nghiên cứu chúng tôi sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử và phương pháp
logic. Hai phương pháp này cho phép tiếp cận đề tài một cách xuyên suốt theo
tiến trình phát triển của lịch sử nhưng đồng thời cũng có thể nghiên cứu trong
hình thức tổng quát nhất để từ đó rút ra được bản chất, quy luật và khuynh
hướng chung của sự phát triển.
Ngoài ra, do đề tài cần sử dụng nhiều nguồn tư liệu mới mang tính thời
sự và cập nhật nên chúng tôi còn sử dụng phương pháp bộ môn, liên môn để
sưu tầm, chọn lọc và xử lý số liệu. Phương pháp phân tích, tổng hợp để đánh
giá và rút ra nhận xét, kết luận một cách chính xác nhất mọi khía cạnh đề tài
nghiên cứu.
6. Đóng góp của đề tài
- Đề tài nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc về mối quan hệ
Trung Quốc - Hàn Quốc từ 1992 đến 2013, đặc biệt rút ra một số nhận xét về
những thành tựu, hạn chế và triển vọng trong quan hệ giữa hai nước Trung
Quốc - Hàn Quốc. Luận văn sẽ cung cấp một nguồn tư liệu quan trọng trong
nghiên cứu, giảng dạy lịch sử thế giới, lịch sử quan hệ quốc tế và những ai
quan tâm đến quan hệ hai nước.
- Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng giúp chúng ta có cái nhìn toàn
diện hơn về các mối quan hệ mang tầm chiến lược trong giai đoạn hiện
nay.Từ đó có sự hiểu biết hơn về đường lối đối ngoại của các nước cũng như
của Việt Nam.
16
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Những nhân tố tác động đến quan hệ Trung Quốc - Hàn Quốc
từ 1992 đến 2013
Chương 2: Những nội dung chủ yếu trong quan hệ Trung Quốc -
Hàn Quốc từ 1992 đến 2013
Chương 3: Một số nhận xét về quan hệ Trung Quốc - Hàn Quốc từ
1992 đến 2013
17
B. NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ
TRUNG QUỐC - HÀN QUỐC TỪ 1992 ĐẾN 2013
1.1. Tình hình quốc tế và khu vực
1.1.1. Tình hình quốc tế
Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, tình hình thế giới diễn biến nhanh
chóng và phức tạp. Sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu làm cho cục
diện thế giới và quan hệ quốc tế thay đổi một cách căn bản. CNXH hiện thực
lâm vào thoái trào, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bị khủng hoảng
sâu sắc, toàn diện. Sau gần nửa thế kỉ tồn tại kể từ sau Chiến tranh thế giới
thứ hai, trật tự thế giới hai cực chấm dứt. Cơ cấu địa chính trị và sự phân bố
quyền lực toàn cầu cũng như ở nhiều khu vực bị đảo lộn, tương quan lực
lượng trên thế giới thay đổi nhanh chóng.
Quá trình hình thành trật tự thế giới mới chứa đựng nhiều yếu tố bất
trắc, khó đoán định, trong đó nổi bật lên hai xu hướng đối nghịch nhau: Mỹ
chủ trương thiết lập thế giới đơn cực, trong khi đó các trung tâm quyền lực
khác như Nga, Trung Quốc, các nước lớn thuộc Liên minh châu Âu đấu tranh
cho một trật rự thế giới đa cực. Những năm gần đây, cuộc đấu tranh giữa hai
khuynh hướng “đơn cực” và “đa cực”, “đơn phương” và “đa phương” diễn ra
càng gay gắt với ưu thế rõ nét của xu hướng “đa cực”, “đa phương”. Biểu
hiện của cuộc đấu tranh này có thể thấy qua việc các nước lớn như Nga, Pháp,
Đức kiên quyết chống lại hành động của Mỹ phát động Chiến tranh Irăc và
những căng thẳng trong quan hệ Nga - Mỹ xung quanh vấn đề NATO mở
rộng sang hướng Đông và việc Mỹ triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa tại
Đông Âu.
18
Để đối phó với xu hướng hình thành cục diện đa cực, Mỹ ra sức lợi
dụng ưu thế tương đối trong so sánh lực lượng, mưu toan thiết lập “trật tự
mới”, thực chất là trật tự thế giới “đơn cực” do Mỹ khống chế. Trong nhiều
thời điểm sau Chiến tranh lạnh, chính quyền Mỹ đã thực thi chính sách đơn
phương mang nặng tính vị kỉ trong quan hệ quốc tế, bất chấp sự phản đối của
nhiều nước lớn và cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, do những khó khăn, hạn chế
về nhiều mặt nên Mỹ không dễ dàng có thể áp đặt một trật tự thế giới như
mình mong muốn. Nước Mỹ có nhiều mâu thuẫn với các nước, trong đó đáng
chú ý là mâu thuẫn giữa âm mưu và hành động của Mỹ với lợi ích của các
nước lớn, với nguyện vọng hòa bình, độc lập và phát triển của các quốc gia
dân tộc trên thế giới.
Sau Chiến tranh lạnh, tính chất và nội dung trong giao lưu quốc tế đã
thay đổi một cách cơ bản với vị trí ưu tiên hàng đầu thuộc về yếu tố kinh tế.
Vì vậy, phương thức tập hợp lực lượng trên thế giới cũng thay đổi mạnh và
được quy định trước hết và chủ yếu từ lợi ích kinh tế - chính trị của các quốc
gia. Mặt khác, phương thức tập hợp lực lượng trong quan hệ quốc tế ngày
càng trở nên rất cơ động, linh hoạt, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh. Sự tập
trung quyền lực và sự hình thành các trung tâm quyền lực trên thế giới dựa
trên cơ sở tập trung sức mạnh kinh tế - chính trị và hình thành các trung tâm
kinh tế - chính trị hùng mạnh. Việc mở rộng không gian, tăng cường về lực
lượng của các trung tâm đó làm cho cuộc đấu tranh quyền lực trên thế giới
ngày càng trở nên gay gắt. Đây là một tiền đề thúc đẩy hình thành xu hướng
đa cực trong quan hệ quốc tế hiện đại.
Cùng với những diễn biến nhanh chóng và phức tạp của đời sống chính
trị, an ninh trên thế giới, cuộc cánh mạng khoa học - công nghệ tiếp tục có
những bước tiến nhảy vọt, tác động sâu sắc đến tình hình kinh tế, chính trị, xã
hội và quan hệ quốc tế. Đây là một trong những đặc điểm nổi bật của thế giới
19
trong giai đoạn hiện nay. Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại thúc đẩy
lực lượng sản xuất của thế giới phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy, đồng thời
đưa đến sự phát triển, biến đổi theo chiều sâu các lĩnh vực đời sống xã hội.
Tuy nhiên, những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ lại chủ yếu
thuộc về các nước phát triển do họ có thực lực kinh tế, tiềm lực khoa học
hùng mạnh cùng với mạng lưới công ty xuyên quốc gia vươn rộng khắp hành
tinh. Các nước đang phát triển do những hạn chế về nhiều mặt nên không dễ
dàng có thể tiệp cận những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến, thậm chí
đứng trước nguy cơ trở thành nơi thu nhận những công nghệ lạc hậu, gây ô
nhiễm môi trường được chuyển giao từ các nước phát triển.
Cách mạng khoa học - công nghệ tạo ra bước ngoặt mang ý nghĩa lịch
sử với sự hình thành nền kinh tế tri thức. Trong xu hướng phát triển kinh tế tri
thức hiện nay, thông tin tri thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ và quản lý
ngày càng đóng vai trò chủ đạo. Vì lẽ đó, bất kỳ quốc gia nào nếu không chú
trọng lĩnh vực này, sẽ không có cơ may tham gia đầy đủ vào nền kinh tế tri
thức và tất yếu bị đẩy tới thách thức nghiệt ngã của nguy cơ tụt hậu ngày càng
xa về mọi phương diện. Bước sang thế kỉ XXI, xu thế phát triển kinh tế tri
thức đang ngày càng lôi cuốn và tác động mạnh mẽ đến tất cả các quốc gia
dân tộc, tạo ra những thay đổi căn bản không chỉ trong đời sống kinh tế - xã
hội mà cả trong so sánh lực lượng cũng như ngôi vị của mỗi quốc gia trên
trường quốc tế.
Toàn cầu hóa, trước hết về kinh tế, ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở
thành một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Tuy
nhiên, xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên
quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có
mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh. Toàn cầu hóa không chỉ tạo ra
những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, mà còn thúc đẩy mối quan hệ liên quốc
20
gia tăng cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Tự do hóa kinh tế và cải cách thị trường
trên toàn cầu diễn ra phổ biến. Các nền kinh tế dựa vào nhau, liên kết với
nhau, xâm nhập lẫn nhau, khiến cho tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước
ngày càng tăng. Toàn cầu hóa thúc đẩy hợp tác, phân công lao động quốc tế
sâu rộng, kích thích tăng trưởng kinh tế. Các hình thức hợp tác, liên kết kinh
tế trở nên nhiều vẻ và rất phong phú về nội dung. Toàn cầu hóa tạo điều kiện
phát triển giao lưu văn hóa và tri thức quốc tế, tăng cường sự hiểu biết lẫn
nhau và tình hữu nghị giữa các dân tộc, đồng thời tạo điều kiện cho các nước,
các lực lượng chính trị bày tỏ chính kiến, bảo vệ lợi ích, tập hợp lực lượng
nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược của mình.
Mặt khác, những lợi ích và bất lợi do toàn cầu hóa tạo ra không được
chia sẽ một cách đồng đều, làm trầm trọng thêm sự chênh lệch, khoảng cách
phát triển giữa các quốc gia và trong từng quốc gia. Toàn cầu hóa là một quá
trình đầy mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa một bên là lợi ích của các thế lực
tư bản, đế quốc bá quyền với một bên là độc lập chủ quyền của các quốc gia
dân tộc; giữa tăng trưởng kinh tế với bất công xã hội; giữa áp lực của tư bản
độc quyền xuyên quốc gia với sự lựa chọn con đường phát triển của các nước
đang phát triển; giữa các lực lượng lợi dụng toàn cầu hóa để mở rộng sự bóc
lột về kinh tế, áp đặt về chính trị với các lực lượng đấu tranh chống toàn cầu
hóa phi nhân bản vì tiến bộ xã hội. Do đó, toàn cầu hóa không chỉ thuần túy là
một quá trình kinh tế - kỹ thuật, mà còn là cuộc đấu tranh kinh tế - xã hội,
kinh tế - chính trị và văn hóa - tư tưởng rất gay gắt với thời cơ và thách thức
đan xen nhau đối với nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển. Mặc dù
vậy, trong tư cách là một xu thế lịch sử, toàn cầu hóa lôi cuốn tất cả các nước
tham gia và mỗi nước cần xác định cho mình đường lối hội nhập toàn cầu hóa
một cách thích hợp.
Ngày nay, trong đời sống quốc tế, xu thế hòa bình, ổn định và hợp tác
để phát triển là một xu thế chủ yếu. Mặc dù ở nhiều khu vực trên thế giới vẫn
21
còn một số cuộc xung đột cục bộ nhưng phải nhận thấy rằng xét trên bình
diện chung, hòa bình, ổn định vẫn là dòng chảy chính, là xu thế phát triển chủ
yếu của đời sống chính trị quốc tế. Xu thế này xuất phát từ sự phát triển của
nền kinh tế thế giới với sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng, từ việc tất cả
các nước đều tập trung ưu tiên phát triển kinh tế do nhận thức về an ninh quốc
gia, về sức mạnh quốc gia có nhiều biến chuyển, trong đó ngày càng nhìn
nhận vai trò quan trọng hơn của nhân tố kinh tế với đòi hỏi phải có một môi
trường quốc tế hòa bình ổn định để phát triển. Chính vì vậy, có thể khẳng
định “nguy cơ của cuộc chiến tranh hủy diệt đã bị đẩy lùi”.
Sau Chiến tranh lạnh, bên cạnh vấn đề an ninh truyền thống còn nổi lên
một loạt các vấn đề an ninh phi truyền thống như vấn đề môi trường, tội phạm
xuyên quốc gia, buôn lậu ma túy, chủ nghĩa khủng bố quốc tế Những vấn đề
phi truyền thống này đặt ra nhiều thách thức không nhỏ đối với các quốc gia
và khu vực. Bản thân các quốc gia không thể giải quyết có hiệu quả các vấn
đề an ninh phi truyền thống này, do đó, đòi hỏi phải có sự hợp tác, phối hợp
chặt chẽ giữa các quốc gia cả ở bình diện khu vực và quốc tế.
Tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương thập niên cuối thế kỉ XX
có nhiều biến đổi sâu sắc. Nếu như trong thời kỳ Chiến tranh lạnh ở khu vực
này luôn có những cuộc chiến tranh nóng, thì sau Chiến tranh lạnh, tình hình
an ninh khu vực lại tương đối ổn định. Nhu cầu hợp tác, thiết lập một cơ chế
hợp tác an ninh đa phương phù hợp là xu thế chủ đạo ở khu vực này. Vai trò,
tiếng nói của các nước vừa và nhỏ, tiêu biểu là Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN) trong các vấn đề của khu vực không ngừng được củng cố
và nâng cao. Hiện nay, châu Á - Thái Bình Dương được coi là khu vực phát
triển kinh tế năng động nhất thế giới.
Toàn bộ tình hình trên tác động trực tiếp và nhạy cảm đến đời sống
quan hệ quốc tế đương đại, đòi hỏi các nước phải có cách tiếp cận phù hợp,
tiến hành điều chỉnh chính sách đối ngoại nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia dân
22
tộc, trước hết là bảo vệ nền độc lập, duy trì định hướng phát triển đã lựa chọn,
hội nhập quốc tế một cách hiệu quả.
Như vậy, sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, quan hệ giữa các nước lớn
đã thay đổi từ đối đầu, cạnh tranh sang đối thoại, hợp tác. Ý thức hệ không
còn là rào cản trong quan hệ giữa các nước. Hợp tác để phát triển trở thành lợi
ích chung của tất cả các nước. Xu hướng hòa dịu trong quan hệ quốc tế đã tạo
cơ hội cho tất cả các nước tập trung vào phát triển đất nước. Những chuyển
biến của môi trường chính trị, an ninh và kinh tế quốc tế như đã đề cập ở trên
đã tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới quan hệ Trung Quốc - Hàn Quốc thời
kỳ hậu Chiến tranh lạnh. Một mặt, các xu thế đó khiến họ phải điều chỉnh lại
mối quan hệ nhằm phù hợp hơn với xu thế hòa dịu và hợp tác trên thế giới.
Mặt khác, chúng tạo ra cơ hội và thách thức mới cho quan hệ Trung Quốc -
Hàn Quốc trong những năm trước mắt.
1.1.2. Tình hình khu vực Đông Bắc Á và bán đảo Triều Tiên
Đông Bắc Á là khu vực bao gồm các quốc gia và vùng lãnh thổ là
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên, Mông Cổ và vùng Viễn Đông
của nước Nga. Đông Bắc Á là một khu vực quan trọng của thế giới. Sau khi
Chiến tranh lạnh chấm dứt, tình hình ở khu vực này nổi lên một số nét lớn
như sau:
Thứ nhất, về phương diện địa chính trị, đây là khu vực rất phức tạp, tập
trung nhiều nước với những đặc thù hết sức khác nhau về nhiều mặt. Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan là những nền kinh tế vào loại hàng đầu thế giới,
trong khi Mông Cổ, Triều Tiên lại ở trình độ phát triển kinh tế thấp. Về loại
hình chế độ xã hội cũng rất khác nhau, CHDCND Triều Tiên là nước XHCN
tập trung bao cấp, còn Trung Quốc là nước XHCN nhưng lại có nền kinh tế
thị trường. Hàn Quốc, Đài Loan lại theo chế độ TBCN nhưng mới ở giai đoạn
đầu của quá trình dân chủ hóa, trong khi đó chế độ TBCN ở Nhật Bản đã phát
23
triển vững chắc trong nhiều thập kỷ qua. Có thể nói, Đông Bắc Á là hình ảnh
của một thế giới thu nhỏ do nó đã thể hiện rõ nét tính đa dạng và phức tạp của
thế giới.
Thứ hai, nếu như trong Chiến tranh lạnh, cục diện khu vực chủ yếu là
sự đối đầu giữa một bên là Liên Xô với một bên là liên minh Mỹ - Nhật, đến
đầu thập kỉ 1970 có thêm nhân tố Trung Quốc, thì sang thập niên 1990, cục
diện đối đầu đã chuyển thành đối thoại, quan hệ giữa các nước trong khu vực
phát triển theo xu thế vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau trong sự ổn định
tương đối. Quan hệ song phương giữa các nước trong khu vực phát triển
mạnh mẽ. Nhiều cặp quan hệ luôn căng thẳng trong thời kỳ Chiến tranh lạnh
như quan hệ Trung - Nhật, Nga - Nhật, Trung - Nga đã được cải thiện rõ nét.
Nhiều mối quan hệ được thiết lập như quan hệ Nga - Hàn Quốc, Trung Quốc -
Hàn Quốc. Khuôn khổ cho các mối quan hệ song phương từng bước được
định hình.
Thứ ba, Đông Bắc Á ngày càng trở thành một khu vực có ý nghĩa chiến
lược quan trọng, trở thành nơi đan xen phức tạp lợi ích và mâu thuẫn giữa các
nước lớn. Bất cứ một nước lớn nào khống chế được khu vực này sẽ khống chế
được những lợi ích rất quan trọng. Đông Bắc Á là khu vực liên quan tới lợi
ích sát sườn của Trung Quốc cả về an ninh, kinh tế lẫn chiến lược. Trong
chiến lược đối ngoại của Trung Quốc, với mục tiêu vươn lên thành một cực
của thế giới, khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó trọng điểm là Đông
Bắc Á có vai trò rất quan trọng. Là một nước trong khu vực nên những lợi ích
về kinh tế, an ninh của Nhật Bản cũng gắn bó chặt chẽ với môi trường an ninh
chung của khu vực. Đây còn là địa bàn quan trọng để Nhật Bản tìm kiếm một
vai trò, vị thế về an ninh, chính trị lớn hơn. Còn đối với Mỹ, đây là địa bàn
quan trọng trong việc triển khai chiến lược kiềm chế sự nổi lên của Trung
Quốc, Nga và Nhật Bản. Đối với Nga, đây vẫn là địa bàn quan trọng để Nga
24
có thể mở rộng ảnh hưởng, tạo thế mới trong quan hệ với các nước lớn khác.
Chính sự đan xen phức tạp lợi ích và mâu thuẫn này khiến quan hệ giữa các
nước lớn trong khu vực sau Chiến tranh lạnh vừa manh tính hợp tác, vừa
mang tính cạnh tranh gay gắt.
Thứ tư, từ thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, xu thế đa cực đã hình
thành rõ nét ở khu vực Đông Bắc Á. Bên cạnh ảnh hưởng của Mỹ, còn có ảnh
hưởng của các cường quốc trong khu vực như Trung Quốc, Nhật Bản, Nga -
đây là các cường quốc có ảnh hưởng truyền thống, có sự dính líu tới nhiều vấn
đề chung của khu vực. Sự hiện diện của nhiều nước lớn trong khu vực cùng sự
vận động của mối quan hệ giữa các nước lớn sau Chiến tranh lạnh khiến cho so
sánh lực lượng ở đây có sự thay đổi sâu sắc. Nga bị suy yếu đi, Trung Quốc
đang dần dần nổi lên, Nhật Bản đang tích cực tìm kiếm một vai trò an ninh,
chính trị lớn hơn trong khu vực. Quan hệ giữa Trung Quốc và Nga có sự xích
lại gần nhau hơn. Tại đây dần hình thành cục diện cân bằng và kiềm chế lẫn
nhau, không một cường quốc nào cho dù là Mỹ có khả năng áp đảo trong so
sánh lực lượng. Chính tương quan so sánh lực lượng như vậy cùng cục diện
kiềm chế lẫn nhau đã khiến trật tự đa cực trong khu vực hình thành khá rõ nét.
Thứ năm, khu vực Đông Bắc Á còn một vấn đề cũng tiềm ẩn nguy cơ
mất ổn định là vấn đề Đài Loan. Thực chất, vấn đề Đài Loan cũng là vấn đề
của quan hệ Trung - Mỹ. Trung Quốc coi đây là vấn đề nội bộ, là một trong
những “lợi ích cốt lõi” của mình. Trong thập niên đầu của thế kỉ XXI, trên cơ
sở phương châm cơ bản “thống nhất hòa bình, một nước hai chế độ”, Trung
Quốc một mặt thông qua pháp luật, kiên quyết phản đối các thế lực đòi “Đài
Loan độc lập”, chia cắt sự thống nhất đất nước, mặt khác tích cực thúc đẩy
tiến trình đàm phán ký kết Hiệp định khung hợp tác kinh tế hai bờ (có hiệu
lực chính thức từ ngày 1-1-2011), mở ra triển vọng cho việc phát triển hòa
bình quan hệ hai bờ. Còn về phía Mỹ, một mặt thi hành chính sách một nước
Trung Quốc (không nói rõ là CHND Trung Hoa), hoan nghênh phát triển
25