Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Đề cương ôn tập triết 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.65 KB, 46 trang )

CHƯƠNG 1. HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ
I. Điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của
sản xuất hàng hóa
1. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng
hóa
a. Khái niệm sản xuất hàng hóa
- Lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hóa
Trong lịch sử có hai kiểu tổ chức kinh tế đó là:
sản xuất tự cấp, tự túc và sản xuất hàng hóa.
- Khái niệm sản xuất tự cấp tự túc: là kiểu tổ
chức kinh tế mà sản phẩm do lao động tạo ra là
nhằm thỏa mãn trực tiếp nhu cầu của chính người
sản xuất (không có trao đổi).
-Khái niệm sản xuất hàng hóa: là kiểu tổ chức
kinh tế mà sản phẩm được sản xuất ra để trao đổi
hoặc bán trên thị trường.
-Phân biệt sự khác nhau căn bản giữa kinh tế tự
cấp tự túc (kinh tế tự nhiên) với kinh tế hàng hóa:
+Kinh tế tự cấp tự túc: sản xuất để tiêu dùng;
+Kinh tế hàng hóa: sản xuất để bán.
b. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng
hóa
-Phân công lao động xã hội:
+Khái niệm phân công lao động xã hội: là sự
phân chia lao động xã hội thành các ngành nghề
khác nhau (Ví dụ).
+Kết quả phân công lao động xã hội:
Phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên môn
hóa sản xuất theo nghĩa là mỗi người sản xuất chỉ
tạo ra một hoặc một vài sản phẩm nhất định.
Tạo ra mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa


những người sản xuất (người nọ cần sản phẩm
của người kia). Vì vậy để thỏa mãn nhu cầu họ
buộc phải trao đổi sản phẩm cho nhau.
+Vai trò:
Phân công lao động xã hội là cơ sở khách quan,
là tiền đề của sản xuất hàng hóa;
Là điều kiện cần của sự ra đời sản xuất hàng hóa.
Phân biệt phân công lao động xã hội và phân
công lao động trong nội bộ đơn vị kinh tế
Kết luận: Chỉ có phân công lao động xã hội là
cơ sở khách quan của sự ra đời sản xuất hàng
hóa.
- Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất (hay tính chất
tư nhân của quá trình lao động hoặc sự tồn tại các
quan hệ sở hữu khác về TLSX):
+Tính chất tư nhân của lao động là do chế độ tư
hữu về TLSX quy định. Chế độ tư hữu xác định
người sở hữu TLSX là người sở hữu sản phẩm
lao động→Kết quả: đã tạo sự tách biệt về kinh tế
giữa những người sản xuất với nhau.
+ Sự tồn tại các quan hệ sở hữu khác nhau về
TLSX (như trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở
Việt Nam cũng dẫn đến sự tách biệt về kinh tế
giữa những người sản xuất hàng hóa). Như vậy,
các quan hệ sở hữu khác nhau về TLSX sẽ làm
cho người sản xuất độc lập hoặc đối lập nhau,
nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công lao
động xã hội nên họ phụ thuộc vào nhau theo
nghĩa là người nọ cần sản phẩm của người kia.
Vì vậy, muốn tiêu dùng sản phẩm của người

khác thì phải thông qua trao đổi mua bán hàng
hóa.
Vậy điều kiện thứ hai là điều kiện đủ để sản xuất
hàng hóa có thể ra đời và tồn tại.
Kết luận: Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời và tồn tại
khi có đồng thời hai điều kiện trên, nếu thiếu một
trong hai điều kiện thì không có sản xuất hàng
hóa.
2. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa khác với sản xuất tự cấp tự
túc, do sự phát triển của phân công lao động xã
hội làm cho sản xuất được chuyên môn hóa ngày
càng cao, thị trường ngày càng mở rộng, mối liên
hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng chặt chẽ.
Sự phát triển của sản xuất hàng hóa đã xóa bỏ
tính bảo thủ, trì trệ của nền kinh tế, đẩy nhanh
quá trình xã hội hóa sản xuất.
Sản xuất hàng hóa so với sản xuất tự cung tự cấp
có đặc trưng và ưu thế cơ bản sau đây:
Thứ nhất, do mục đích của sản xuất hàng hóa
không phải để thỏa mãn nhu cầu của bản thân
người sản xuất như trong kinh tế tự nhiên mà để
thỏa mãn nhu cầu của người khác, của thị trường.
Sự gia tăng không hạn chế nhu cầu của thị trường
là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát
triển.
Thứ hai, cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc mỗi
người sản xuất hàng hóa phải năng động trong
sản xuất - kinh doanh, phải thường xuyên cải tiến
kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất để tăng năng suất

lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm
tiêu thụ được hàng hóa và thu được lợi nhuận
ngày càng nhiều hơn. Cạnh tranh đã thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.
Thứ ba, sự phát triển của sản xuất xã hội với tính
chất “mở” của các quan hệ hàng hóa tiền tệ làm
cho giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các địa
phương trong nước và quốc tế ngày càng phát
triển. Từ đó tạo điều kiện ngày càng nâng cao đời
sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
Thứ tư, xóa bỏ tính bảo thủ, trì trệ của kinh tế tự
nhiên.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực như đã nêu
trên, sản xuất hàng hóa cũng có những mặt trái
của nó như phân hóa giàu – nghèo giữa những
người sản xuất hàng hóa, tiềm ẩn những khả
năng khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá hoại môi
trường sinh thái…)
II. Hàng hóa
1. Hàng hóa và hai thuộc tính hàng hóa
a. Khái niệm hàng hóa:
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, nó có thể
thỏa mãn nhu cầu của con người thông qua trao
đổi, mua bán. Hàng hóa có thể ở dạng vật thể
hữu hình và dạng phi vật thể (hàng hóa vô hình).
Hàng hóa vô hình là kết quả của ngành dịch vụ.
b. Hai thuộc tính của hàng hóa:
* Giá trị sử dụng: Là công dụng của vật có thể
thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
- Đặc trưng của giá trị sử dụng:

+ Là thuộc tính tự nhiên của vật thể, những thuộc
tính này sẽ quyết định công dụng, tính có ích của
vật thể;
+Công dụng của vật được phát hiện dần trong
quá trình phát triển của khoa học kỹ thuật của lực
lượng sản xuất;
+ Giá trị sử dụng khác về chất, là nội dung vật
chất của cải nên là phạm trù tồn tại vĩnh viễn;
1
+Giá trị sử dụng được thể hiện trong tiêu dùng.
Trong kinh tế hàng hóa, GTSD là vật mang giá
trị trao đổi.
(Ví dụ)
* Giá trị hàng hóa:
Muốn hiểu giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị
trao đổi
+Khái niệm giá trị trao đổi: Giá trị trao đổi là
quen hệ tỷ lệ về lượng mà những giá trị sử dụng
loại này trao đổi lấy những giá trị sử dụng loại
khác.
+Thí dụ: 1m vải = 10 kg thóc → giá trị trao đổi =
1/10
+Nếu hai hàng hóa khác nhau (vải, thóc) có thể
trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có
một cơ sở chung giống nhau, cái chung đó không
phải là giá trị sử dụng của chúng. Vì giá trị sử
dụng của vải để mặc hoàn toàn khác với giá trị sử
dụng của thóc là để ăn. Cái chung đó là: cả vải và
thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có hao
phí lao động đồng nhất kết tinh. Nhờ có cơ sở

chung đó mà các hàng hóa có thể trao đổi được
với nhau.
Vì vậy, người ta trao đổi hàng hóa cho nhau thực
chất là trao đổi lao động của họ ẩn giấu trong
hàng hóa. Như vậy, hao phí LĐ SX ra hàng hóa
là cơ sở để trao đổi – là giá trị của hàng hóa.
+ Khái niệm giá trị: giá trị hàng hóa là hao phí
lao động xã hội được kết tinh trong hàng hóa.
+ Đặc trưng của giá trị: Giá trị là nội dung, là cơ
sở của giá trị trao đổi;
Giá trị biểu hiện mối quan hệ xã hội giữa những
người sản xuất hàng hóa nên giá trị là thuộc tính
xã hội của hàng hóa.
Giá trị là phạm trù lịch sử, nó chỉ tồn tại trong
kinh tế hàng hóa.
c. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa
- Là sự thống nhất của hai mặt đối lập
+ Thống nhất: Hai thuộc tính này cùng tồn tại
trong hàng hóa, tức là một vật phải có đủ hai
thuộc tính mới trở thành hàng hóa. Nếu thiếu một
trong hai thuộc tính, vật phẩm không thể là hàng
hóa.
(Ví dụ)
+ Mâu thuẫn thể hiện ở chỗ:
Giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên của hàng
hóa.
Giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
Người sản xuất làm ra hàng hóa là để bán, nên
mục đích của họ là giá trị (nhưng trong tay lại có
giá trị sử dụng), người mua thì cần giá trị sử

dụng nhưng muốn có giá trị sử dụng thì phải thực
hiện giá trị của nó.
Việc thực hiện giá trị và giá trị sử dụng tách rời
về không gian, thời gian. Giá trị được thực hiện
trước ở trong lĩnh vực lưu thông, giá trị sử dụng
được thực hiện sau trong lĩnh vực tiêu dùng. Vì
vậy, nếu giá trị của hàng hóa không thực hiện
được thì giá trị sử dụng của nó cũng không thực
hiện được.
2. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất
hàng hóa
- Hàng hóa có hai thuộc tính giá trị và giá trị sử
dụng vì lao động của người sản xuất hàng hóa có
tính chất hai mặt: lao động cụ thể và lao động
trừu tượng. C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra
tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa.
a. Lao động cụ thể
- Khái niệm: lao động cụ thể là lao
động có ích dưới một hình thức cụ thể của những
nghề nghiêp chuyên môn nhất định.
Mỗi một lao động cụ thể có mục đích,
phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao
động và kết quả lao động riêng. Chính những cái
riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác
nhau. Chẳng hạn, lao động của người thợ may và
lao động của người thợ mộc là hai loại lao động
cụ thể khác nhau. Lao động của người thợ may
có mục đích là làm ra quần áo chứ không phải là
bàn ghế; còn phương pháp là may chứ không
phải là bào, cưa; có công cụ lao động là kim, chỉ

chỉ, máy may chứ không phải là cái cưa, cái bào;
và lao động của người thợ may tạo ra quần áo để
mặc, còn lao động của người thợ mộc là tạo ra
ghế để ngồi.
Đặc trưng:
+ Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng;
+Lao động cụ thể khác về chất;
+ Lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công
lao động xã hội;
+Khoa học kỹ thuật càng phát triển thì hình thức
lao động cụ thể càng phong phú, đa dạng;
+Lao động cụ thể là điều kiện, nguồn gốc của cải
nên là phạm trù tồn tại vĩnh viễn.
b. Lao động trừu tượng
-Khái niệm: Lao động trừu tượng là lao động của
người sản xuất hàng hóa sau khi đã gạt bỏ những
hình thức cụ thể của nó hoặc đó là sự tiêu phí sức
lao động (tiêu hao bắp thịt, thần kinh, sức óc) của
người sản xuất hàng hóa.
-Đặc trưng:
+Lao động trừu tượng là lao động xã hội, là sự
quy đổi các lao động khác thành lao động chung,
đồng nhất, giống nhau.
+Lao động trừu tượng tạo ra giá trị.
+Lao động trừu tượng là phạm trù lịch sử.
- Mối quan hệ lao động cụ thể và lao động trừu
tượng:
Mặt thống nhất: Lao động cụ thể và lao động
trừu tượng là hai mặt của một quá trình lao động
sản xuất hàng hóa. Do đó chúng thống nhất với

nhau.
Mặt mâu thuẫn: thể hiện ở chỗ lao động cụ thể
vận động cùng chiều với năng suất lao động,
nhưng với tư cách là lao động trừu tượng, sự hao
phí sức lao động của người sản xuất hàng hóa lại
vận động ngược chiều với năng suất lao động.
c. Mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa giản
đơn
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
có quan hệ với tính chất tự nhân và tính chất xã
hội của nó. Đó là:
+ Một mặt, hoạt động sản xuất hàng hóa là việc
làm riêng của họ, trực tiếp mang tính chất tự
nhân.
+ Mặt khác, nó nằm trong hệ thống phân công
lao động xã hội nên hoạt động sản xuất của họ lại
mang tính xã hội. Nếu hàng hóa sản xuất ra mà
bán được có nghĩa là lao động tự nhân của họ
được xã hội thừa nhận. Còn nếu không bán được
2
tức là lao động tư nhân không được xã hội thừa
nhận, không chuyển thành lao động xã hội.
+ Kết luận:
Vậy mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa
giản đơn là mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và
lao động xã hội.
Mâu thuẫn này là mầm mống của mọi mâu thuẫn
của kinh tế hàng hóa. Nó còn được thể hiện ở
mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị. Những
mâu thuẫn này vừa thúc đẩy sản xuất hàng hóa

phát triển vừa là tiềm ẩn của khủng hoảng kinh
tế.
3. Lượng giá trị và các nhân tố ảnh hưởng đến
lượng giá trị hàng hóa
a. Thước đo lượng giá trị hàng hóa
Chất giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng
kết tinh trong hàng hóa. Vậy lượng giá trị hàng
hóa là do số lượng lao động hao phí để làm ra
hàng hóa quyết định.
Nhưng như vậy là chưa đủ, vì trong thực tế, có
trường hợp nhiều người sản xuất ra một loại sản
phẩm như nhau, nhưng số lượng thời gian lao
động hao phí lại không bằng nhau. Ví dụ: cùng
làm nghề dệt vải và cùng dệt một số lượng vải
như nhau (10m), người thứ nhất hao phí 10h lao
động, người thứ hai 7h, người thứ ba 5h…sở dĩ
có sự khác về lượng thời gian lao động hao phí
như vậy là do số lượng và chất lượng TLSX của
mỗi người không giống nhau; khả năng và trình
độ thành thạo riêng của từng người, cũng không
như nhau. Do đó, nếu chỉ nói số lượng thời gian
lao động sản xuất ra hàng hóa quyết định số
lượng giá trị của hàng hóa thì dẫn đến là người
sản xuất càng kém bao nhiêu thì giá trị do người
đó tạo ra càng lớn bấy nhiêu.
Nhưng C.Mác đã vạch ra rằng lượng giá trị của
hàng hóa không phải được quyết định bởi thời
gian lao động cá biệt mà bởi thời gian lao động
xã hội cần thiết để sản xuất hàng hóa.
-Khái niệm thời gian lao động xã hội cần thiết: là

thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra 1 hàng
hóa nào đó trong những điều kiện bình thường
của xã hội với 1 trình độ thành thạo trung bình, 1
trình độ kỹ thuật trung bình và cường độ lao
động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất
định.
Thông thường, thời gian lao động xã hội cần thiết
trùng hợp với thời gian lao động cá biệt của
những người cung cấp đại bộ phận loại hàng hóa
nào đó trên thị trường.
b. Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng
hóa
Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay
đổi nên lượng giá trị của hàng hóa cũng là 1 đại
lượng không cố định. Sự thay đổi này phụ thuộc
vào ba nhân tố: Năng suất lao động, cường độ lao
động, và mức độ phức tạp hay giản đơn của lao
động.
- Nhân tố ảnh hưởng thứ nhất: Năng suất lao
động xã hội
Khái niệm năng suất lao động: Năng suất lao
động là năng lực sản xuất của người lao động.
Nó được tính bằng: Số lượng sản phẩm/1 đơn vị
thời gian hoặc Số lượng thời gian lao động cần
thiết/1 đơn vị sản phẩm.
+ Có 2 loại năng suất lao động: NSLĐ cá biệt và
NSLĐ xã hội.
NSLĐ cá biệt ảnh hưởng đến giá trị cá biệt và
NSLĐ xã hội ảnh hưởng đến giá trị xã hội của
hàng hóa

NSLĐ xã hội càng tăng, thời gian lao động xã
hội cần thiết để sản xuất hàng hóa càng giảm
lượng giá trị của 1 đơn vị sản phẩm càng ít.
Ngược lại, NSLĐ xã hội càng giảm thì thời gian
lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hóa
càng tăng và lượng giá trị của 1 đơn vị sản phẩm
càng nhiều.
Kết luận: Lượng giá trị hàng hóa của
1 đơn vị sản phẩm hàng hóa tỷ lệ thuận với số
lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với
NSLĐ xã hội. Như vậy, muốn giảm giá trị của
mỗi đơn vị hàng hóa phải tăng NSLĐ xã hội.
Các nhân tố ảnh hưởng đến NSLĐ:
+ Trình độ khéo léo của người lao động;
+ Sự phát triển của khoa học-kỹ thuật và trình độ
ứng dụng của tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất;
+Sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất;
+Quy mô và hiệu quả của TLSX;
+Điều kiện tự nhiên.
Nhân tố ảnh hưởng thứ hai: Cường độ lao động
+Khái niệm cường độ lao động: Cường độ lao
động là mức độ khẩn trương, căng thẳng mệt
nhọc của lao động. Nó được tính bằng: Số lượng
lao động hao phí/1 đơn vị thời gian.
+Tăng cường độ lao động là tăng số lượng số
lượng lao động hao phí trong 1 đơn vị thời gian,
hoặc tăng mức độ khẩn trương và nặng nhọc của
lao động
+So sánh giữa tăng cường độ lao động và tăng
năng suất lao động.

Giống nhau: Chúng đều làm tăng số lượng sản
phẩm sản xuất trong 1 thời gian nhất định.
Khác nhau: Tăng năng suất lao động thì tổng giá
trị tạo ra trong 1 đơn vị thời gian không đổi do đó
giá trị của tổng khối lượng hàng hóa sản xuất ra
không đổi; nhưng giá trị của 1 đơn vị hàng hóa
giảm xuống. Còn tăng cường độ lao động thì
tổng giá trị tạo ra trong 1 đơn vị thời gian không
đổi.
Như vậy, tăng cường độ lao động cũng giống
như kéo dài thời gian lao động.
- Nhân tố ảnh hưởng thứ ba: Tính chất của lao
động (lao động giản đơn và lao động phức tạp).
+ Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ 1
người bình thường nào có khả năng lao động dù
chưa qua đào tạo đều có thể tiến hành được.
+ Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải
được đào tạo, huấn luyện mới có thể tiến hành
được.
Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như
nhau, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn
so với lao động giản đơn. Xét về mặt lượng giá
trị thì lao động phức tạp là lao động giản đơn
nhân bội lên. Trong quá trình trao đổi hàng hóa,
mọi lao động phức tạp đều được quy thành lao
động giản đơn theo những tỷ lệ nhất định. Tỷ lệ
quy đổi này được tiến hành một cách tự phát trên
thị trường.
Kết luận:
- Giá trị hàng hóa là lao động xã hội

trừu tượng giản đơn trung bình của người sản
xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
- Lượng giá trị hàng hóa được đo bằng thời gian
lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.
3
c. Cơ cấu lượng giá trị hàng hóa
Để sản xuất ra hàng hóa cần phải chi phí lao
động bao gồm lao động quá khứ tồn tại trong các
yếu tố như tư liệu sản xuất: máy móc, công cụ,
nguyên vật liệu và lao động sống hao phí trong
quá trình chế biến tư liệu sản xuất thành sản
phẩm – hàng hóa mới. Sự kết tinh của lao động
quá khứ trong giá trị của tư liệu sản xuất chính là
giá trị cũ, còn lao động sống hao phí trong quá
trình sản xuất ra sản phẩm mới chính là giá trị
mới. Vì vậy,cơ cấu lượng giá trị hàng hóa bao
gồm 2 bộ phận: 1/Bộ phận giá trị cũ; 2/ Bộ phận
giá trị mới.
Như vậy : W = C + V + m
IV. Quy luật giá trị
Sản xuất hàng hóa chịu sự tác động của quy luật
kinh tế chung như: Quy luật quan hệ sản xuất
phải phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; quy luật tiết kiệm thời gian lao
động; quy luật tăng năng suất lao động…Nhưng
vai trò cơ sở cho sự chi phối nền sản xuất hàng
hóa thuộc về quy luật giá trị.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của
sản xuất và trao đổi hàng hóa. Ở đâu có sản xuất
và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát

huy tác dụng của quy luật giá trị.
1. Nội dung, yêu cầu của quy luật giá trị
Theo quy luật giá trị, sản xuất và trao đổi
hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã
hội cần thiết. Trong kinh tế hàng hóa, mỗi người
sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt
của mình, nhưng giá trị của hàng hóa không phải
được quyết định bởi hao phí lao động cá biệt của
từng người sản xuất hàng hóa, mà bởi hao phí lao
động xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn bán được
hàng hóa, bù đắp cho chi phí và có lãi, người sản
xuất phải điều chỉnh làm cho hao phí lao động cá
biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội
chấp nhận được.
Trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao
phí lao động xã hội cần thiết, và trao đổi phải
theo nguyên tắc ngang giá.(giải thích rõ về
nguyên tắc trao đổi ngang giá)
Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận
động của giá cả hàng hóa. Vì giá trị là cơ sở của
giá cả, hay giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của
giá trị, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị.
Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ
cao và ngược lại.
Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ
thuộc vào các nhân tố khác như: Cạnh tranh,
cung cầu, sức mua của đồng tiền (Phân tích rõ
những nhân tố này).
Sự tác động của các nhân tố này làm cho
giá cả hàng hóa trên thị trường tách rời giá trị và

lên xuống xoay quanh giá trị của nó . Đó chính là
cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua
sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá
trị phát huy tác dụng nó.
2. Tác dụng của quy luật giá trị
Trong sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có ba
tác động chủ yếu sau:
Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng
hóa
Điều tiết sản xuất là điều hòa, phân bổ các yếu tố
sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền
kinh tế. Tác dụng này của quy luật giá trị thông
qua sự biến động của giá cả hàng hóa trên thị
trường dưới tác động của quy luật cung cầu.Nếu
ở ngành nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả
hàng hóa sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hóa bán
chạy, lãi cao, thì người sản xuất sẽ đổ xô vào
ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động
được chuyển dịch vào ngành ấy sẽ tăng lên.
Ngược lại, khi cung ở ngành ấy đó vượt quá cầu,
giá cả hàng hóa giảm xuống, hàng hóa bán không
chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình đó buộc người
sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc
chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng hóa
cao.
Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng
thông qua giá cả trên thị trường. Sự biến động
của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút
luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao,
do đó làm cho lưu thông hàng hóa trở nên thông

suốt.
Như vậy, sự biến động của giá cả trên thị
trường không những chỉ rõ sự biến động về kinh
tế, mà còn tác động điều tiết nền kinh tế hàng
hóa.
Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý
hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy
lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản
xuất hàng hóa là một chủ thể kinh tế độc lập, tự
quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình. Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau
nên hao phí lao động cá biệt của mỗi người khác
nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá
biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của hàng
hóa ở thế có lợi, sẽ thu được lãi cao. Người sản
xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao
phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ
vốn. Để giành lợi thế cạnh tranh và tránh nguy cơ
vỡ lợ, phá sản họ phải hạ thấp hao phí lao động
cá biệt của mình, sao cho bằng hao phí lao động
xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách
cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực
hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động.
Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình
này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết
quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy
phát triển mạnh mẽ.
Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân
hóa người sản xuất hàng hóa thành người giàu,

người nghèo.
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dễn
đến kết quả là những người có điều kiện sản xuất
thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ
thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn
hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài,
giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu
sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược
lại những người không có điều kiện thuận lợi,
làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh
nên bị thua lỗ dẫn tới phá sản trở thành nghèo
khó.
Những tác động của quy luật giá trị trong nền
kinh tế hàng hóa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
hết sức to lớn: một mặt quy luật giá trị chi phối
sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích
thích các nhân tố tích cực phát triển; mặt khác,
phân hóa xã hội thành kẻ giàu người nghèo, tạo
ra sự bất bình đẳng trong xã hội.
4
CHƯƠNG 2. HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ
I. Sự chuyển hóa tiền tệ thành tư bản
1. Công thức chung của tư bản
Tiền là sản vật cuối cùng của lưu
thông hàng hóa, đồng thời cũng là hình thức biểu
hiện đầu tiên của tư bản. Mọi tư bản lúc đầu đều
biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định.
Nhưng bản thân tiền không phải là tư bản. Tiền
chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất

định, khi chúng được sử dụng để bóc lột lao động
của người khác.
Tiền được coi là tiền thông thường thì vận
động theo công thức H-T-H (hàng- tiền-hàng).
Tiền được coi là tư bản, thì vận động theo
công thức T-H-T (tiền –hàng-tiền). Bất cứ tiền
nào vận động theo công thức T-H-T đều chuyển
hóa thành tư bản.
So sánh công thức lưu thông hàng hóa giản
đơn H-T-H và công thức lưu thông của tư bản T-
H-T.
Giống nhau: Đều có quá trình mua và bán, đều
gồm các nhân tố vật chất tiền và hàng và đều bao
gồm người bán và người mua.
Khác nhau: Công thức lưu thông hàng hóa
giản đơn H-T-H bắt đầu bằng việc bán (H-T) và
kết thúc bằng việc mua (T-H). Điểm xuất phát và
kết thúc đều là hàng hóa, tiền chỉ đóng vai trò
trung gian.
Còn công thức lưu thông của tư bản bắt đầu
bằng việc mua (T-H) và kết thúc bằng việc bán
(H-T). Điểm xuất phát và kết thúc đều là tiền tệ,
hàng hóa chỉ đóng vai trò trung gian.
Mục đích của lưu thông hàng hóa giản đơn là giá
trị sử dụng, nên các hàng hóa trao đổi phải có giá
trị sử dụng khác nhau và sự vận động sẽ kết thúc
ở giai đoạn thứ hai, khi những người trao đổi có
được giá trị sử dụng mình cần.
Còn mục đích của lưu thông tư bản là giá trị
và giá trị tăng thêm do đó công thức vận động

đầy đủ của tư bản là: T-H-T
/
(T
/
=T+∆
t
) ∆
t
.
C.Mác gọi là giá trị thặng dư, số tiền ứng ra ban
đầu là tư bản.
Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng
dư. Vì mục đích của lưu thông tư bản là sự lớn
lên của giá trị, là giá trị thặng dư, nên sự vận
động của tư bản là không giới hạn .
C.Mác gọi công thức T-H-T
/
là công thức chung
của tư bản vì sự vận động của mọi tư bản đều
biểu hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó.
2.Mâu thuẫn công thức chung của tư bản
Nhìn vào công thức chung của tư bản T-H-
T
/
ta thấy hình như giá trị thặng dư được hình
thành trong lưu thông?
Xét các trường hợp trong lưu thông:
Trường hợp trao đổi ngang giá : chỉ có sự
thay đổi hình thái của giá trị, còn tổng giá trị
cũng như phần giá trị nằm trong tay mỗi bên

tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay đổi.
Trường hợp trao đổi không ngang giá: nếu
hàng hóa bán cao hơn giá trị, thì lời anh ta nhận
được khi là người bán cũng chính là số tiền anh
ta sẽ mất đi khi là người mua, rốt cuộc anh ta sẽ
không được lợi thêm gì cả. Còn nếu mua hàng
hóa thấp hơn gía trị, thì tình hình cũng tương tự
như trên.
Giả sử có một số người chuyên mua rẻ, bán
đắt, thì như C.Mác nói, điều đó chỉ có thể giải
thích được sự làm giàu của những thương nhân
cá biệt chứ không thể giải thích được sự làm giàu
của toàn bộ giai cấp các nhà tư bản , vì tổng giá
trị trước lúc trao đổi cũng như trong và sau khi
trao đổi không thay đổi, mà chỉ có phần giá trị
nằm trong tay mỗi bên trao đổi là thay đổi.
Như vậy lưu thông không tạo ra giá trị mới.
Nhưng nếu người có tiền không tiếp xúc với lưu
thông, tức đứng ngoài lưu thông thì cũng không
thể làm cho tiền của mình lớn lên được.
Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu
thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài
lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và
đồng thời không phải trong lưu thông. Đó là
mâu thuẫn công thức chung của tư bản.
II.Sự sản xuất ra giá trị thặng dư
Quá trình sản xuất trong xí nghiệp TBCN
cũng là quá trình kết hợp sức lao động và tư liệu
sản xuất để tạo ra giá trị sử dụng. Nhưng sức lao
động và tư liệu sản xuất do nhà tư bản mua, cho

nên sản xuất TBCN có đặc điểm:
Một là: công nhân làm việc dưới sự kiểm soát
của nhà tư bản.
Hai là: sản phẩm được làm ra thuộc sở hữu của
nhà tư bản.
Để hiểu rõ quá trình sản xuất giá trị thặng dư,
lấy sản xuất sợi của một nhà tư bản làm ví dụ:
Giả sử để sản xuất sợi nhà tư bản mua các yếu
tố sản xuất (theo đúng giá trị)
Bông 10 kg giá 10 $. Để biến 10 kg bông
thành sợi, hao mòn máy móc là 2$.
Giá trị sức lao động trong một ngày 12 giờ là 3$.
Nhà tư bản ứng ra là 15$.
Giả sử trong 6 giờ bằng lao động cụ thể của
mình, công nhân đã chuyển 10 kg bông thành
sợi, và bằng lao động lao động trìu tượng công
nhân đã tạo ra giá trị mới là 3$. Như vậy sau 6
giờ công nhân đã tạo ra số sợi cho nhà tư bản có
giá trị là 15$. Quá trình sản xuất sợi không thể
dừng lại ở đây vì nhà tư bản thuê công nhân 12
giờ, vì vậy công nhân phải tiếp tục làm việc 6 giờ
nữa, và trong 6 giờ ấy công nhân cũng tao ra số
sợi cho nhà tư bản có giá trị là 15 $. Như vậy
trong 12 giờ công nhân tao ra số sợi cho nhà tư
bản với tổng giá trị là 30$. Trong đó chi phí nhà
tư bản bỏ ra là: 27$.
Nếu bán sợi theo đúng giá trị (30$) , thì nhà tư
bản thu được :30-27=3$ . Mác gọi là giá trị thặng
dư và kí hiệu là :m
Kết luận:

Trong quá trình sản xuất, bằng lao động cụ thể
của mình công nhân đã chuyển giá trị tư liệu sản
xuất vào sản phẩm và hình thành c ( trong ví dụ
trên là 24$), và bằng lao động trìu tượng công
nhân đã tạo ra giá trị mới (v+m) trong ví dụ trên
là 6$. Kết cấu giá trị của hàng hóa là: c+v+m.
Vậy giá trị thặng dư là một bộ phận của giá
trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công
nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm
không
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là
quá trình tạo ra giá trị kéo dài quá cái điểm mà ở
đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được
hoàn lại bằng một vật ngang giá mới.
5
Ngày lao động của công nhân được chia thành
2 phần: Thời gian lao động tất yếu (TGLĐTY) và
thời gian lao động thặng dư (TGLĐTD).
Thời gian lao động tất yếu (cần thiết) là
khoảng thời gian mà người công nhân tạo ra một
lượng giá trị ngang bằng giá trị sức lao động của
mình. Lao động trong khoảng thời gian này gọi
là lao động tất yếu.
Thời gian lao động thặng dư là khoảng thời
gian tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Lao
động trong khoảng thời gian này là lao động
thặng dư.
Nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng
dư, chúng ta thấy mâu thuẫn công thức chung
của tư bản được giải quyết . Việc chuyển hóa của

tiền thành tư bản diễn ra trong lưu thông , mà
đồng thời không diễn ra trong lưu thông. chỉ có
trong lưu thông nhà tư bản mới mua được hàng
hóa sức lao động. Nhưng sau đó nhà tư bản sử
dụng hàng hóa sức lao động trong sản xuất, tức là
ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất ra giá trị
thặng dư cho nhà tư bản. Vì vậy tiền của nhà tư
bản mới chuyển thành tư bản.
Ngày nay, một bộ phận nhỏ công nhân có cổ
phiếu, họ được hưởng một phần nhỏ lợi tức cổ
phần, điều này không có nghĩa là trong CNTB
không còn bóc lột nữa, vì trên thực tế, công nhân
chỉ có số cổ phiều không đáng kể, họ không có
vai trò chi phối doanh nghiệp, thu nhập chủ yếu
cuả họ vẫn là tiền lương.
Sản xuất giá trị thặng dư –Quy luật kinh tế
tuyệt đối của CNTB
Sản xuất ra giá trị thặng dư phản ánh mối
quan hệ bản chất nhất của CNTB-quan hệ tư bản
bóc lột lao động làm thuê.
Sản xuất ra giá trị thặng dư không chỉ phản
ánh mục đích của sản xuất TBCN mà còn vạch rõ
phương tiện, thủ đoạn để đạt được mục đích đó là
tăng cường bóc lột công nhân làm thuê.
Nội dung của quy luật: Sản xuất giá trị thặng
dư tối đa bằng cách tăng cường các phương tiện
kỹ thuật và quản lý nhằm bóc lột sức lao động
của công nhân làm thuê.
Tác dụng của quy luật: Sản xuất giá trị thặng
dư là động lực vận động phát triển của CNTB,

làm cho mâu thuẫn của CNTB thêm gay gắt đặc
biệt là mâu thuẫn cơ bản của CNTB.
Biểu hiện mới của sản xuất giá trị thặng dư :
Giá trị thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng
năng suất lao động; lao động trí tuệ, lao động có
trình độ kỹ thuật cao có vai trò quyết định trong
việc sản xuất ra giá trị thặng dư, nhờ sử dụng lực
lượng lao động này mà m’ và M tăng lên rất
nhiều.
Sự bóc lột của các nước tư bản trên phạm vi
quốc tế ngày càng mở rộng.
-Về xã hội: Nó thúc đẩy mọi mâu thuẫn vốn có
trong CNTB ngày càng phát triển, đưa người lao
động đến bước đường cùng. Chính nó là nguyên
nhân quy định xu hướng lịch sử tất yếu của
CNTB sẽ phải nhường chỗ cho xã hội mới văn
minh hơn- xã hội XHCN- giai đoạn đầu của hình
thái kinh tế- xã hội CSCN.
Quy luật này là quy luật kinh tế cơ bản của
TBCN vì
- Nó chỉ ra bản chất của phương thức sản xuất
TBCN là bóc lột giá trị thặng dư.
- Nó chỉ ra mục đích của nền sản xuất TBCN là
sản xuất giá trị thặng dư.
- Nó vạch rõ thủ đoạn để đạt mục đích đó là:
Bằng mọi cách tăng cường bóc lột lao động làm
thuê.
Vai trò
Quy luật này đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt
của đời sống xã hội tư bản chủ nghĩa. Nó quyết

định toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển, và
diệt vong của CNTB.
- Về kinh tế: Nó là động lực thúc đẩy kỹ thuật
phát triển, làm cho lực lượng sản xuất trong xã
hội tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh.
- Về tư tưởng: Nó chi phối con người sống vì
tiền.
-Về xã hội: Nó thúc đẩy mọi mâu thuẫn vốn có
trong CNTB ngày càng phát triển, đưa người lao
động đến bước đường cùng. Chính nó là nguyên
nhân quy định xu hướng lịch sử tất yếu của
CNTB sẽ phải nhường chỗ cho xã hội mới văn
minh hơn- xã hội XHCN- giai đoạn đầu của hình
thái kinh tế- xã hội CSCN.


6
CHƯƠNG 4. SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI
CẤP CÔNG NHÂN
VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của

a. Khái niệm giai cấp công nhân
Các Mác và P. Ăngghen đã dùng nhiều
thuật ngữ khác nhau: Giai cấp vô sản- giai cấp xã
hội hoàn toàn chỉ dựa vào việc bán sức lao động
của mình, lao động làm thuê ở thế kỷ XIX, giai
cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân đại công
nghiệp, như những cụm từ đồng nghĩa để biểu

thị một khái niệm giai cấp công nhân- con đẻ của
nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp
đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho
phương thức sản xuất hiện đại.
Về cơ bản, có thể khái quát đặc trưng cơ bản
của giai cấp này:
Về phương thức lao động, phương thức sản
xuất (PTSX): giai cấp công nhân là người lao
động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ
sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện
đại và xã hội hóa cao.
Về vị trí của giai cấp công nhân trong quan
hệ sản xuất:
Ở PTSX TBCN: giai cấp công nhân là
những người lao động không có tư liệu sản xuất,
phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà
tư bản bóc lột giá trị thặng dư nên gọi là giai cấp
vô sản.
Căn cứ vào những đặc trưng trên, trong tác
phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng
sản”, Ph. Ăngghen đã đưa ra định nghĩa: “Giai
cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ
kiếm sống bằng việc bán lao động của mình, chứ
không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ tư
bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và
đau khổ, sống và chết, toàn bộ sự sống còn của
họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là
vào tình hình chuyển biến tốt hay xấu của công
việc làm ăn, vào sự biến động của cạnh tranh
không gì ngăn cản nổi”

Nói tóm lại, giai cấp công nhân hay giai cấp
vô sản là kết quả của cuộc cách mạng công
nghiệp.
Phát triển học thuyết của Các- Mác và
Ănghen trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, đặc
biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước Nga Xô-Viết, V.I.Lênin đã hoàn thiện thêm
khái niệm giai cấp công nhân. Theo ông, sự phân
chia giai cấp trong xã hội phải dựa vào vị trí khác
nhau của các tập đoàn người trong quan hệ đối
với tư liệu sản xuất, trong tổ chức, quản lý sản
xuất và phân phối sản phẩm.
Trong phương thức sản xuất XHCN: Giai
cấp công nhân là giai cấp thống trị, giai cấp lãnh
đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới, đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động
làm chủ những tư liệu sản xuất cơ bản đã được
công hữu hóa.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH: Giai cấp
công nhân có đặc trưng nhất bằng thuộc tính thứ
nhất, thuộc tính thứ hai xét trên toàn bộ giai cấp,
thì giai cấp công nhân đã làm chủ TLSX, nhưng
trong điều kiện nhiều thành phần kinh tế, vẫn còn
một bộ phận công nhân làm thuê cho doanh
nghiệp tư nhân, và họ vẫn bị bóc lột giá trị thặng
dư do đó họ chỉ được làm chủ trên danh nghĩa.
Qua thực tiễn cách mạng nước Nga,
V.I.Lênin đã làm rõ hơn vai trò của giai cấp công
nhân trong quá trình lãnh đạo cách mạng xã hội
chủ nghĩa, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Ngày nay, với sự phát triển của cuộc cách
mạng khoa học, công nghệ của chủ nghĩa tư bản
từ nửa sau thế kỷ XX, giai cấp công nhân hiện
đại đã có một số sự thay đổi nhất định so với
trước đây.
Xét về phương thức lao động, công nhân
trong thế kỷ XIX chủ yếu là lao động cơ khí, lao
động chân tay thì nay đã xuất hiện một bộ phận
công nhân của những ngành ứng dụng công nghệ
ở trình độ phát triển cao, do vậy công nhân có
trình độ tri thức ngày càng cao. Về phương diện
đời sống, công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa
đã có những thay đổi quan trọng, một bộ phận
công nhân đã có một số tư liệu sản xuất nhỏ để
cùng với gia đình làm thêm trong các công đoạn
phụ cho các xí nghiệp chính; một bộ phận nhỏ
công nhân đã có cổ phần trong các xí nghiệp tư
bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong thực tế, số cổ
phần và tư liệu sản xuất của giai cấp công nhân
chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ, còn tuyệt đại bộ phận tư
liệu sản xuất trong các nước tư bản chủ nghĩa vẫn
nằm trong tay các nhà tư bản lớn. Giai cấp công
nhân về cơ bản vẫn không có tư liệu sản xuất,
vẫn phải bán sức lao động cho các nhà tư bản, cả
sức lao động trí óc và sức lao động chân tay.
Trong các nước đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa, về cơ bản giai cấp công nhân cùng với
nhân dân lao động đã trở thành những người làm
chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
Xuất phát từ quan niệm của các nhà kinh điển

của Chủ nghĩa Mác –Lênin về giai cấp công
nhân, nghiên cứu những biến đổi của giai cấp
công nhân trong giai đoạn hiện nay, có thể định
nghĩa:“Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã
hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với
quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện
đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản
xuất, có tính chất xã hội hóa ngày càng cao, là
lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các
quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực
tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản
xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo
các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản
xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời
đại ngày nay”
b. Nội dung và đặc điểm sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân
GCCN có sứ mệnh lịch sử là xóa bỏ
chế độ TBCN, xóa bỏ chế độ người bóc lột
người, giải phóng GCCN, nhân dân lao động và
toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức, bóc lột, nghèo
nàn, lạc hậu xây dựng CNXH và CNCS.
Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”,
khi nói về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân,
Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa tạo ra một lực lượng bị buộc phải
thành cuộc cách mạng ấy, nếu không sẽ bị diệt
vong” và “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế

giới ấy, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản
hiện đại”
Đặc điểm sứ mệnh lịch sử của GCCN
7
Đó là quá trình cách mạng toàn diện, triệt để,
khó khăn,phức tạp và lâu dài. Sứ mệnh của giai
cấp công nhân phải phải trải qua 2 bước:
Bước thứ nhất: “Giai cấp vô sản chiếm lấy
chính quyền nhà nước và biến tư liệu sản xuất
trước hết thành sở hữu nhà nước”
Bước thứ hai “ giai cấp vô sản tự thủ tiêu
với tư cách là giai cấp vô sản, chính vì thế mà nó
cũng xóa bỏ mọi sự phân biệt giai cấp và mọi đối
kháng giai cấp, và cũng xóa bỏ nhà nước với tư
cách là nhà nước”
Giai cấp công nhân phải thực hiện cả 2 bước
và phải theo tuần tự và bước thứ hai là bước
quan trọng nhất để giai cấp công nhân hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Hơn nữa, để hoàn thành sứ mệnh của mình
giai cấp công nhân phải tập hợp được tầng lớp
nhân dân lao động xung quanh nó, triến hành
cuộc đấu tranh cách mạng xóa bỏ xã hội cũ và
xây dựng xã hội mới về mọi mặt từ kinh tế tới
chính trị và văn hóa tư tưởng.
Trong quá trình tiến lên CNXH, giai cấp công
nhân cũng gặp sự chống đối quyết liệt của kẻ thù
giai cấp, gặp phải tính tự phát của người sản xuất
nhỏ.v v
2. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh

lịch sử của giai cấp công nhân
a. Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân
trong xã hội tư bản chủ nghĩa
Địa vị kinh tế của giai cấp công nhân trong
xã hội tư bản chủ nghĩa:
Trong xã hội TBCN GCCN đại diện cho
LLSX tiên tiến, ngày càng mang tính xã hội hóa
cao. Do đó nó là lực lượng quyết định phá vỡ
QHSX TBCN.
GCCN bị bóc lột nặng nề nhất. Họ vẫn đang
là lực lượng chủ yếu làm ra của cải cho xã hội và
lợi nhuận cho các nhà tư bản nhưng mức thu
nhập của họ thấp hơn nhiều so với giới chủ và
khoảng cách này ngày càng lớn.
Địa vị xã hội của giai cấp công nhân trong
xã hội tư bản chủ nghĩa:
Là giai cấp có số lượng đông đảo trong xã
hội nhưng bị giai cấp tư sản thống trị áp bức, bóc
lột.
Mục đích đấu tranh và lợi ích của GCCN là
thống nhất với lợi ích của những người lao động
bị áp bức. Do đó, GCCN có khả năng đoàn kết,
tập hợp quần chúng lao động để làm cách mạng
giải phóng mình và giải phóng nhân loại.
Sự phát triển của nền đại công nghiệp tạo
điều kiện cho GCCN là giai cấp duy nhất có khả
năng lãnh đạo CMXH và xây dựng một phương
thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất
TBCN.
b. Đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công

nhân
- Giai cấp công nhân là giai cấp tiên
tiến nhất thời đại ngày nay
Giai cấp công nhân là giai cấp tiên
phong cách mạng vì họ đại diện cho phương thức
sản xuất tiên tiến, phương thức sản xuất cộng sản
chủ nghĩa, phương thức sản xuất gắn liền với nền
khoa học công nghệ hiện đại; giai cấp công nhân
có hệ tư tưởng tiên phong của thời đại ngày nay
là tư tưởng Mác – Lênin mang tính cách mạng
và khoa học. Chủ nghĩa Mác – Lênin được xây
dựng trên cơ sở tiếp thu những thành tựu mới
nhất của khoa học tự nhiên, những tri thức tiên
tiến nhất của thời đại. Giai cấp công nhân không
chỉ tiên phong trong lý luận mà còn tiên phong
trong hành động, luôn luôn đi đầu trong mọi
phong trào cách mạng. Bằng hành động tiên
phong của mình mà lôi kéo các giai cấp, tầng lớp
khác vào phong trào cách mạng.
- Giai cấp công nhân là giai cấp có tính cách
mạng triệt để nhất
Trong cuộc cách mạng tư sản, giai cấp tư sản
chỉ có tinh thần cách mạng trong thời kỳ đấu
tranh chống chế độ phong kiến còn khi giai cấp
này đã giành được chính quyền thì họ quay lại
bóc lột giai cấp công nhân, giai cấp nông dân
những giai cấp đã từng đi với giai cấp tư sản
trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Khác với
giai cấp tư sản, giai cấp công nhân, con đẻ của
nền sản xuất đại công nghiệp lại bị giai cấp tư

sản bóc lột nặng nề, có lợi ích cơ bản đối lập trực
tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Điều kiện
sống, điều kiện lao động trong chế độ tư bản cho
họ thấy họ chỉ có thể được giải phóng bằng cách
giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ
nghĩa.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội, giai cấp công nhân không gắn với tư hữu,
do vậy họ cũng kiên định trong công cuộc cải tạo
xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh chống chế
độ áp bức, bóc lột, xóa bỏ chế độ tư hữu, xây
dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
- Giai cấp công nhân có ý thức tổ chức
kỷ luật cao nhất
Giai cấp công nhân lao động trong
nền sản xuất đại công nghiệp với hệ thống sản
xuất mang tính chất dây chuyền và nhịp độ làm
việc khẩn trương buộc giai cấp này phải tuân thủ
nghiêm ngặt kỷ luật lao động, cùng với cuộc
sống đô thị tập trung đã tạo nên tính tổ chức, kỷ
luật chặt chẽ của giai cấp công nhân.
Khi giai cấp công nhân tham gia vào
các tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn, tham gia
vào cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản cũng
đòi hỏi giai cấp này phải có ý thức tổ chức kỷ
luật chặt chẽ. Nhất là khi giai cấp công nhân
được sự giác ngộ của chủ nghĩa Mác – Lênin, tổ
chức ra đảng cộng sản thì ý thức tổ chức kỷ luật
lại càng được nâng lên. Giai cấp công nhân
không có ý thức tổ chức kỷ luật cao thì không thể

giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống
lại giai cấp tư sản.
- GCCN có bản chất quốc tế
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, giai
cấp tư sản là một lực lượng quốc tế. Giai cấp tư
sản không chỉ bóc lột giai cấp công nhân ở chính
nước họ mà còn bóc lột giai cấp công nhân ở các
nước thuộc địa. Ngày nay, với sự phát triển mạnh
mẽ của lực lượng sản xuất, sản xuất mang tính
toàn cầu hóa, tư bản nước này có thể di chuyển
sang nước khác là một xu hướng khách quan.
Nhiều sản phẩm không phải do một nước sản
xuất ra mà kết quả lao động của nhiều quốc gia.
Vì thế, phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân không chỉ diễn ra đơn lẻ từng doanh
nghiệp, ở mỗi quốc gia mà có sự gắn bó giữa
phong trào công nhân các nước.
Tóm lại: Từ địa vị kinh tế - xã hội và
đặc điểm chính trị - xã hội nên GCCN trở thành
giai cấp duy nhất có SMLS.
8
3. Vai trò của Đảng cộng sản trong quá trình
thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân
a. Tính tất yếu và quy luật hình thành, phát triển
chính đảng của GCCN
- Quá trình phát triển của GCCN và phong trào
đấu tranh cuả GCCN
Quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân
là một quá trình phát triển, khởi đầu là những

cuộc đấu tranh tự phát, nhất là về kinh tế đời
sống “ đấu tranh kinh tế” – điều mà chủ nghĩa
Mác – Lênin gọi giai cấp công nhân khi còn là
“giai cấp tự nó”.
Ngay cả khi đã lập ra những tổ chức của
mình như nghiệp đoàn, công hội, công đoàn thì
việc đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai
cấp tư sản vẫn chỉ dừng lại ở “chủ nghĩa công
đoàn” tự phát. Khi đó giai cấp công nhân vẫn
chịu sự thống trị, áp bức của giai cấp tư sản, dù
đã có những cuộc đấu tranh lớn nhỏ nhưng chưa
hiểu gì về nguồn gốc áp bức, bóc lột, thống trị
của giai cấp tư sản đối với mình, càng chưa hiểu
gì về sứ mệnh lịch sử của mình.
Sau đó chỉ khi giai cấp công nhân có được
hệ tư tưởng của riêng mình, do những trí thức
hoạt động trong phong trào công nhân khái quát
được bản chất của giai cấp, phong trào công nhân
và tuyên truyền trở lại cho công nhân hiểu về
chính mình mới dần dần làm cho giai cấp công
nhân giác ngộ về giai cấp, có ý thức giai cấp.
Từ chỗ đấu tranh tự phát, phong trào công
nhân có hệ tư tưởng Mác, Lênin thâm nhập và
giác ngộ, đã dẫn tới hình thành Đảng tiên phong
của giai cấp công nhân Đảng cộng sản.
Chỉ khi có hệ tư tưởng và đảng tiên phong
của mình dẫn đường, giai cấp công nhân mới
thực sự trưởng thành, độc lập với tư cách một
giai cấp – giai cấp tự giác.
Như vậy, bản thân giai cấp công nhân có quá

trình phát triển từ giai cấp “ tự nó” ( tức chưa có
ý thức giác ngộ giai cấp đến chỗ là giai cấp vì nó
( tức giai cấp tự giác)
- Tính tất yếu xây dựng chính đảng của GCCN
Quá trình phát triển của GCCN và phong
trào đấu tranh của GCCN đã giúp giai cấp công
nhân nhận thức được vị trí, vai trò của mình
trong xã hội, nguồn gốc tạo nên sức mạnh và biết
tạo sức mạnh đó bằng sự đoàn kết, nhận rõ mục
tiêu, con đường và những biện pháp giải phóng
giai cấp mình, giải phóng cả xã hội và giải phóng
nhân loại. Khi đó, giai cấp công nhân cần có một
chính đảng để lãnh đạo mình. Và đảng là sự kết
hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa xã hội
khoa học.
- Quy luật ra đời và phát triển của Đảng cộng sản
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
cùng sự xâm nhập lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin vào giai cấp công nhân làm cho GCCN
giác ngộ sứ mệnh của mình.Đó là nền tảng cho
sự ra đời của Đảng
- Mối quan hệ giữa Đảng cộng sản và giai cấp
công nhân
Bất cứ chính đảng nào cũng mang tính chất
giai cấp, thể hiện là tổ chức cao nhất của giai cấp
và đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của toàn giai cấp.
Đối với Đảng cộng sản, tính chất giai cấp thể
hiện: Đảng là đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân
tộc. Quan hệ giữa Đảng cộng sản và GCCN là

mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời
GCCN là cơ sở xã hội của Đảng cộng sản
Đảng cộng sản là một bộ phận của giai cấp
công nhân. Bao gồm những người tiên tiến, ưu tú
nhất trong giai cấp công nhân và trong nhân dân
lao động giác ngộ lập trường và lý tưởng cộng
sản chủ nghĩa, tự nguyện tham gia và chịu sự
quản lý của tổ chức Đảng . Đảng viên có thể
không phải là công nhân. Nhưng những đảng
viên của Đảng phải có giác ngộ về giai cấp: nhận
thức về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân,
đứng trên lập trường của giai cấp để nhận thức và
hành động và Sự hoạt động của Đảng phải vì lợi
ích và bản chất của giai cấp công nhân. Đảng xa
rời giai cấp, Đảng không còn bản chất và nguồn
gốc chính trị của mình.
Đảng cộng sản là đội tiên phong chiến đấu,
là lãnh tụ chính trị, là bộ tham mưu chiến đấu của
giai cấp công nhân
Đảng cộng sản là bộ phận có trình độ tổ
chức và trình độ lý luận cao hơn bộ phận còn lại
của giai cấp công nhân. Chính vì thể Đảng cộng
sản phải là “người chiến sĩ tiên phong”, lãnh đạo
giai cấp, lãnh đạo dân tộc. Đảng đem giác ngộ
cho giai cấp, sức mạnh cho giai cấp, đoàn kết
giai cấp và đường lối chiến lược, sách lược cho
giai cấp.
Giai cấp công nhân xa rời Đảng, không còn
sự lãnh đạo của Đảng thì chỉ là lực lượng tự phát,
không thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình

Tóm lại, nói đến sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân, phải luôn luôn gắn giai cấp công
nhân với đảng của nó.
Chính vì Đảng có vị trí, vai trò đặc
biệt quan trọng như vậy trong quá trình thực hiện
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mà Đảng
thường xuyên phải được củng cố, xây dựng, phát
triển trong sạch và vững mạnh cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức
II. Cách mạng xã hội chủ nghĩa
1. Cách mạng xã hội chủ nghĩa và nguyên
nhân của nó
a. Khái niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách
mạng nhằm thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa lỗi
thời bằng chế độ xã hội chủ nghĩa, trong cuộc
cách mạng đó, giai cấp công nhân là giai cấp
lãnh đạo và cùng với quần chúng nhân dân lao
động xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và
văn minh.
- Nghĩa hẹp: CMXHCN là cuộc cách mạng chính
trị do giai cấp công nhân lãnh đạo, được kết thúc
bằng việc giành chính quyền và thiết lập nên nhà
nước của GCCN và nhân dân lao động (Nhà
nước chuyên chính vô sản)
- Nghĩa rộng: “CMXHCN là quá trình cải biến
một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa, tư
tưởng … để xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản”

Như vậy theo nghĩa này, CMXHCN bao
gồm cả việc giành chính quyền về tay giai cấp
công nhân và nhân dân lao động và cả quá trình
GCCN cùng nhân dân lao động xây dựng và cải
tạo xã hội mới
b. Nguyên nhân của CMXHCN
9
- Nguyên nhân sâu xa là do sự phát triển của lực
lượng sản xuất trong CNTB. Lực lượng sản xuất
càng phát triển, ngày càng mang tính xã hội hóa
cao, mâu thuẫn với quan hệ sản xuất dựa trên chế
độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về TLSX.
- Biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn đối
kháng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản.
Mâu thuẫn đó ngày càng gay gắt đưa đến sự chín
muồi của cuộc cách mạng chính trị do giai cấp
công nhân tiến hành,CMXHCN.
2. Mục tiêu, động lực và nội dung của cách
mạng xã hội chủ nghĩa
a. Mục tiêu của CMXHCN
Là một quá trình liên tục diễn ra gồm 2 giai
đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: Mục tiêu của CMXHCN
là giành chính quyền về tay giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, là “giai đoạn giai cấp vô
sản tự xây dựng thành giai cấp thống trị, giai
đoạn giành lấy dân chủ”
Giai đoạn thứ hai: Mục tiêu của CMXHCN
là xóa bỏ mọi chế độ người bóc lột người, nghèo
nàn lạc hậu, đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc

cho tòan thể nhân dân lao động.
b. Động lực của CMXH chủ nghĩa
GCCN là động lực chủ yếu và là lực lượng
lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng cộng sản.
Vai trò động lực và vai trò lãnh đạo của GCCN
là yếu tố hàng đầu bảo đảm cho sự thắng lợi của
CMXHCN.
Giai cấp nông dân là động lực quan trọng
của CMXHCN trong sự liên minh với giai cấp
công nhân và tầng lớp trí thức, tạo nên thực lực
mạnh mẽ bảo đảm cho CMXHCN thắng lợi.
Tầng lớp trí thức có vị trí quan trọng đối với
CMXHCN; trong đấu tranh giành chính quyền
và trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đó là lực lượng đóng góp to lớn trong việc nâng
cao dân trí, trang bị kiến thức lý luận, khoa học
kỹ thuật công nghệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân
và đào tạo nguồn nhân lực ngày càng chất lượng
cao cho đất nước.
Các lực lượng tiến bộ trên thế giới, các
phong trào giải phóng dân tộc, các hoạt động vì
hòa bình, bảo vệ môi trường sinh thái và phòng
chống các bệnh dịch hiểm nghèo…
c. Nội dung của CMXHCN
CMXHCN được tiến hành trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội
Trên lĩnh vực chính trị: Đưa quần chúng
nhân dân lao động từ địa vị nô lệ, bị áp bức bóc
lột lên địa vị làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội.
Với tư cách là người làm chủ GCCN và nhân dân

lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản,
thông qua công cuộc cải tạo và xây dựng, tạo
điều kiện không ngừng mở rộng và hòan thiện
nền dân chủ XHCN
Trên lĩnh vực kinh tế: Là nội dung trọng tâm có
ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng
XHCN sau khi giai cấp công nhân và nhân dân
lao động có chính quyền. Trước hết phải thay đổi
vai trò,vị trí của người lao động đối với TLSX, từ
sở hữu tư nhân bóc lột sang sở hữu xã hội chủ
nghĩa dưới những hình thức thích hợp. Phát triển
lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động,
từng bước đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của
nhân dân lao động. Tóm lại, phải tạo ra cơ sở vật
chất, kỹ thuật của CNXH để tiến dần lên Chủ
nghĩa cộng sản
Trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa: Trên cơ sở kế
thừa có chọn lọc, nâng cao giá trị truyền thống
văn hóa dân tộc,tiếp thu các giá trị văn hóa tiên
tiến của thời đại để xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Giải phóng người
lao động về mặt tinh thần, xây dựng thế giới
quan và nhân sinh quan khoa học cho người lao
động, từng bước xây dựng con người mới
XHCN.
Chương 5. NHỮNG VẤN ĐỀ CT-XH
CÓ TÍNH QUY LUẬT
TRONG TIẾN TRÌNH CMXHCN
III. Giải quyết vấn đề dân tộc và tôn giáo
1. Vấn đề dân tộc và những nguyên tắc cơ bản

của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải
quyết vấn đề dân tộc
a. Khái niệm dân tộc
- ĐN: Dân tộc là một hình thức tổ chức cộng
đồng người có tính chất ổn định được hình thành
trong lịch sử; là sản phẩm của quá trình phát triển
lâu dài của lịch sử xã hội.
- Khái niệm dân tộc thường được dùng với 2
nghĩa:
+ Thứ nhất, dùng để chỉ cộng đồng người cụ thể
nào đó có những mối liên hệ chặt chẽ, bền vững,
có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ chung
của cộng đồng và trong sinh hoạt văn hóa có
những nét đặc thù so với những cộng đồng khác.(
dân tộc là một bộ phận của quốc gia)
+ Thứ hai, dùng để chỉ một cộng đồng người ổn
định, bền vững hợp thành nhân dân của một quốc
gia, có lãnh thổ chung, nền kinh tế thống nhất,
quốc ngữ chung, có truyền thống văn hóa, truyền
thống đấu tranh chung trong quá trình dựng nước
và giữ nước. (dân tộc là toàn bộ nhân dân một
nước).
b. Đặc trưng của dân tộc:
+Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế
+ Có thể cư trú tập trung trên một vùng lãnh thổ
của một quốc gia, hoặc cư trú đan xen với nhiều
dân tộc anh em.
+ Có ngôn ngữ riêng và có thể có chữ viết riêng
làm công cụ giao tiếp
+ Có nét tâm lý riêng biểu hiện kết tinh trong nền

văn hoá dân tộc và tạo nên bản sắc riêng của nền
văn hoá dân tộc, gắn bó với nền văn hoá của cả
cộng đồng các dân tộc.
c. Hai xu hướng phát triển của dân tộc và vấn đề
dân tộc trong xây dựng CNXH
- Hai xu hướng phát triển của dân tộc:
+ Xu hướng tách ra thành lập quốc gia dân tộc
độc lập
+ Xu hướng liên hiệp lại
Xu hướng thứ nhất: Do sự chín muồi ý thức
dân tộc, sự thức tỉnh về quyền sống của mình,
các cộng đồng dân cư muốn tách ra thành lập các
quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng này nổi lên
trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản như
những phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc
để đi đến thành lập các quốc gia dân tộc độc lập.
Xu hướng thứ hai: Xu hướng liên hiệp lại.
Đó là xu hướng các dân tộc trong một quốc gia,
kể cả các dân tộc ở nhiều quốc gia muốn liên
hiệp lại với nhau. Xu hướng này do nhu cầu phát
triển của lực lượng sản xuất, của khoa học, công
nghệ, giao lưu kinh tế và văn hoá. Xu hướng này
10
tác động mạnh mẽ khi chủ nghĩa tư bản bước
sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
-Vấn đề dân tộc trong xây dựng CNXH:
Sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ
nghĩa, cùng với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, là
quá trình hình thành và phát triển của dân tộc xã

hội chủ nghĩa. Dân tộc trong tiến trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội có sự vận động mới theo hướng
ngày càng văn minh, tiến bộ. Trong đó hai xu
hướng của sự phát triển dân tộc sẽ phát huy tác
dụng cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và
diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng đồng
quốc gia và đến tất cả các quan hệ dân tộc. Sự
xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng
giữa các dân tộc sẽ tạo điều kiện cho từng dân
tộc đi nhanh tới sự tự chủ, phồn vinh. Đồng thời
sự tự chủ, phồn vinh của từng dân tộc lại là điều
kiện để các dân tộc xích lại gần nhau hơn, hoà
hợp với nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội.
d. Những nguyên tắc cơ bản của CN Mác –
Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
- Các dân tộc được quyền tự quyết
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng: Đây là quyền
thiêng liêng của các dân tộc. Các dân tộc dù lớn
hay nhỏ, trình độ cao hay thấp đều có quyền lợi
và nghĩa vụ như nhau.
- Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền
bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật
bảo vệ và được thể hiện trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, trong đó việc phấn đấu khắc
phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế,
văn hoá do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
- Trên phạm vi giữa các quốc gia dân tộc, đấu

tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc trong
giai đoạn hiện nay gắn liền với cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa
dân tộc lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi; gắn liền
với cuộc đấu tranh xây dựng trật tự kinh tế thế
giới mới; chống sự áp bức bóc lột của các nước
tư bản phát triển đối với các nước chậm phát
triển về kinh tế.
Các dân tộc được quyền tự quyết
Cũng như quyền bình đẳng dân tộc, quyền tự
quyết được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, nhưng thực chất là tự quyết về
chính trị:
+ Đó là quyền các dân tộc tự quyết định lấy vận
mệnh của dân tộc mình, quyền tự lựa chọn chế
độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc
mình.
+ Quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự tách
ra thành lập một quốc gia dân tộc độc lập, đồng
thời có quyền tự nguyện liên hiệp với dân tộc
khác trên cơ sở bình đẳng.
+ Khi xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc tự quyết
của dân tộc cần đứng vững trên lập trường của
giai cấp công nhân. Chỉ ủng hộ sự phân lập mang
tới lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của dân tộc, ủng hộ cuộc đấu tranh giải
phóng trong phạm vi ấy. Kiên quyết đấu tranh
chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực
đế quốc và phản động lợi dụng chiêu bài “dân tộc
tự quyết” để can thiệp sâu vào công việc nội bộ

của các nước.
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
+ Cơ sở khách quan của nguyên tắc nay, theo
V.I.Lênin, là khi chủ nghĩa tư bản đã trở thành
lực lượng quốc tế thì giai cấp vô sản muốn chiến
thắng phải có sự liên hiệp trên phạm vi quốc tế.
Nếu không có sự đoàn kết của giai cấp vô sản
các nước đi áp bức và các dân tộc bị áp bức thì
phong trào cách mạng vô sản ở các nước đế quốc
chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc nhất
định bị hạn chế.
+ Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc phản
ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân,
phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Phản ánh
sự gắn bó chặt chẽ giữa tinh thần của chủ nghĩa
yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính.
+ Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ
sở vững chắc để đoàn kết, tập hợp các tầng lớp
nhân dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, vì
độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Nó đảm bảo
cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành
thắng lợi. Đồng thời nó là yếu tố sức mạnh đảm
bảo cho giai cấp công nhân và các dân tộc chiến
thắng kẻ thù của mình.
- Ý nghĩa: Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa
Mác-Lênin là một bộ phận trong cương lĩnh cách
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân

tộc, giải phóng giai cấp; là cơ sở lý luận quan
trọng để các Đảng Cộng sản vận dụng thực hiện
chính sách dân tộc trong quá trình đấu tranh
giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
2. Vấn đề tôn giáo và nguyên tắc cơ bản của
CN Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề
tôn giáo
a. Khái niệm tôn giáo và vấn đề tôn giáo trong
tiến trình xây dựng CNXH
* Khái niệm tôn giáo
- Tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời rất
sớm trong lịch sử nhân loại và tồn tại phổ biến ở
hầu hết các cộng đồng người trong lịch sử hàng
ngàn năm qua.
Theo Ăngghen: Tôn giáo "là sự phản ánh hư
ảo vào trong đầu óc của con người- của những
lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống của họ;
chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở
trần thế đã mang những hình thức của lực lượng
siêu trần thế"
- Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự
bế tắc, bất lực của con người trước tự nhiên và xã
hội. Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một số
giá trị phù hợp với đạo đức, đạo lý của con
người.
* Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng
CNXH
-Trong tiến trình XD CNXH, tôn giáo tồn tại do
còn các nguyên nhân:

1) Nguyên nhân nhận thức: Trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội nhiều hiện tượng tự nhiên,
xã hội và của con người mà khoa học chưa thể lý
giải được. Do đó trước những sức mạnh tự phát
của giới tự nhiên và xã hội mà con người vẫn
chưa thể nhận thức và chế ngự được đã khiến
một bộ phận nhân dân đi tìm sự an ủi, che chở và
lý giải từ sức mạnh của đấng siêu nhiên.
11
2) Nguyên nhân kinh tế: Trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, với sự tồn tại của nền kinh
tế nhiều thành phần với những lợi ích khác nhau
của các giai cấp, tầng lớp xã hội, với những sự bất
bình đẳng nhất định về kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội đã mang đến cho con người những yếu tố
ngẫu nhiên, may rủi, làm cho con người dễ trở nên
thụ động với tư tưởng nhờ cậy, cầu mong vào
những lực lượng siêu nhiên
3) Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo là một trong
những hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất, đã in
sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu
đậm đến nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận
nhân dân qua nhiều thế hệ. Vì vậy, dù có thể có
những biến đổi lớn lao về kinh tế, chính trị, xã
hội thì tôn giáo cũng không thay đổi ngay theo
tiến độ của những biến đổi kinh tế-xã hội mà nó
phản ánh.
4) Nguyên nhân chính trị-xã hội: Tôn giáo có
những điểm còn phù hợp với chủ nghĩa xã hội,
với đường lối, chính sách của Nhà nước xã hội

chủ nghĩa. Giá trị đạo đức, văn hoá của tôn giáo
đáp ứng được nhu cầu của một bộ phận nhân
dân. Chính vì vậy, trong một chừng mực nhất
định, tôn giáo vẫn có sức thu hút mạnh mẽ đối
với một bộ phận quần chúng.
5) Nguyên nhân văn hoá: Trong thực tế, sinh
hoạt tôn giáo đã đáp ứng được phần nào nhu cầu
văn hoá tinh thần của cộng đồng xã hội và trong
một mức độ nhất định, có ý nghĩa giáo dục ý
thức cộng đồng, phong cách, lối sống của cá
nhân trong cộng đồng. Vì vậy, sinh hoạt tôn giáo
đã lôi cuốn một bộ phận nhân dân xuất phát từ
nhu cầu văn hoá tinh thần, tình cảm của họ.
- Trong tiến trình xây dựng CNXH, tôn giáo có
những biến đổi cùng với sự thay đổi của những
điều kiện kinh tế- xã hội, với quá trình cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới.
- Quần chúng nhân dần dần giải thoát khỏi tình
trạng mê tín, dị đoan
- Các tổ chức tôn giáo không còn là công cụ của
bất cứ thế lực nào muốn mưu toan lợi dụng để áp
bức, bóc lột quần chúng nhân dân.
- Quần chúng nhân dân có tôn giáo có điều kiện
tham gia đóng góp cho sự nghiệp xây dựng
CNXH.
b. Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo.
- Một là, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu
cực của tôn giáo trong đời sống xã hội gắn với
quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.

- Hai là, nhà nước phải tôn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của
mọi công dân.
- Ba là, thực hiện đoàn kết những người có tôn
giáo với những người không có tôn giáo, đoàn
kết các tôn giáo, đoàn kết những, người theo tôn
giáo với những người không theo tôn giáo, đoàn
kết dân tộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
- Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư
tưởng trong tôn giáo.
- Năm là, phải có quan điểm lịch sử- cụ thể khi
giải quyết vấn đề tôn giáo.
12
CHƯƠNG 1. HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ
I. Điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa
1. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa
a. Khái niệm sản xuất hàng hóa
- Lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hóa
Trong lịch sử có hai kiểu tổ chức kinh tế đó là: sản xuất tự cấp, tự túc và sản xuất
hàng hóa.
- Khái niệm sản xuất tự cấp tự túc: là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do lao
động tạo ra là nhằm thỏa mãn trực tiếp nhu cầu của chính người sản xuất (không có trao
đổi).
- Khái niệm sản xuất hàng hóa: là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm được sản xuất
ra để trao đổi hoặc bán trên thị trường.
- Phân biệt sự khác nhau căn bản giữa kinh tế tự cấp tự túc (kinh tế tự nhiên) với
kinh tế hàng hóa:
+ Kinh tế tự cấp tự túc: sản xuất để tiêu dùng;
+ Kinh tế hàng hóa: sản xuất để bán.
b. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa

- Phân công lao động xã hội:
+ Khái niệm phân công lao động xã hội: là sự phân chia lao động xã hội thành các
ngành nghề khác nhau (Ví dụ).
+ Kết quả phân công lao động xã hội:
• Phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên môn hóa sản xuất theo nghĩa là mỗi
người sản xuất chỉ tạo ra một hoặc một vài sản phẩm nhất định.
• Tạo ra mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất (người nọ cần
sản phẩm của người kia). Vì vậy để thỏa mãn nhu cầu họ buộc phải trao đổi sản phẩm
cho nhau.
+ Vai trò:
• Phân công lao động xã hội là cơ sở khách quan, là tiền đề của sản xuất hàng hóa;
13
• Là điều kiện cần của sự ra đời sản xuất hàng hóa.
- Phân biệt phân công lao động xã hội và phân công lao động trong nội bộ đơn vị
kinh tế
Kết luận: Chỉ có phân công lao động xã hội là cơ sở khách quan của sự ra đời
sản xuất hàng hóa.
- Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất (hay tính chất tư nhân của quá trình lao động
hoặc sự tồn tại các quan hệ sở hữu khác về TLSX):
+ Tính chất tư nhân của lao động là do chế độ tư hữu về TLSX quy định. Chế độ tư
hữu xác định người sở hữu TLSX là người sở hữu sản phẩm lao động→Kết quả: đã tạo
sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất với nhau.
+ Sự tồn tại các quan hệ sở hữu khác nhau về TLSX (như trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam cũng dẫn đến sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất
hàng hóa). Như vậy, các quan hệ sở hữu khác nhau về TLSX sẽ làm cho người sản xuất
độc lập hoặc đối lập nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội
nên họ phụ thuộc vào nhau theo nghĩa là người nọ cần sản phẩm của người kia. Vì vậy,
muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác thì phải thông qua trao đổi mua bán hàng hóa.
Vậy điều kiện thứ hai là điều kiện đủ để sản xuất hàng hóa có thể ra đời và tồn
tại.

Kết luận: Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời và tồn tại khi có đồng thời hai điều kiện
trên, nếu thiếu một trong hai điều kiện thì không có sản xuất hàng hóa.
2. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa khác với sản xuất tự cấp tự túc, do sự phát triển của phân công
lao động xã hội làm cho sản xuất được chuyên môn hóa ngày càng cao, thị trường ngày
càng mở rộng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng chặt chẽ. Sự phát triển
của sản xuất hàng hóa đã xóa bỏ tính bảo thủ, trì trệ của nền kinh tế, đẩy nhanh quá
trình xã hội hóa sản xuất.
Sản xuất hàng hóa so với sản xuất tự cung tự cấp có đặc trưng và ưu thế cơ bản
sau đây:
14
Thứ nhất, do mục đích của sản xuất hàng hóa không phải để thỏa mãn nhu cầu
của bản thân người sản xuất như trong kinh tế tự nhiên mà để thỏa mãn nhu cầu của
người khác, của thị trường. Sự gia tăng không hạn chế nhu cầu của thị trường là một
động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ hai, cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc mỗi người sản xuất hàng hóa phải
năng động trong sản xuất - kinh doanh, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa
sản xuất để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tiêu thụ được
hàng hóa và thu được lợi nhuận ngày càng nhiều hơn. Cạnh tranh đã thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển mạnh mẽ.
Thứ ba, sự phát triển của sản xuất xã hội với tính chất “mở” của các quan hệ hàng
hóa tiền tệ làm cho giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các địa phương trong nước và quốc tế
ngày càng phát triển. Từ đó tạo điều kiện ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn
hóa của nhân dân.
Thứ tư, xóa bỏ tính bảo thủ, trì trệ của kinh tế tự nhiên.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực như đã nêu trên, sản xuất hàng hóa cũng có
những mặt trái của nó như phân hóa giàu – nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa,
tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá hoại môi trường sinh thái…)
II. Hàng hóa
1. Hàng hóa và hai thuộc tính hàng hóa

a. Khái niệm hàng hóa:
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, nó có thể thỏa mãn nhu cầu của con người
thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hóa có thể ở dạng vật thể hữu hình và dạng phi vật
thể (hàng hóa vô hình). Hàng hóa vô hình là kết quả của ngành dịch vụ.
b. Hai thuộc tính của hàng hóa:
* Giá trị sử dụng: Là công dụng của vật có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
- Đặc trưng của giá trị sử dụng:
+ Là thuộc tính tự nhiên của vật thể, những thuộc tính này sẽ quyết định công
dụng, tính có ích của vật thể;
15
+ Công dụng của vật được phát hiện dần trong quá trình phát triển của khoa học kỹ
thuật của lực lượng sản xuất;
+ Giá trị sử dụng khác về chất, là nội dung vật chất của cải nên là phạm trù tồn tại
vĩnh viễn;
+ Giá trị sử dụng được thể hiện trong tiêu dùng. Trong kinh tế hàng hóa, GTSD là
vật mang giá trị trao đổi.
(Ví dụ)
* Giá trị hàng hóa:
Muốn hiểu giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi
+ Khái niệm giá trị trao đổi: Giá trị trao đổi là quen hệ tỷ lệ về lượng mà những giá
trị sử dụng loại này trao đổi lấy những giá trị sử dụng loại khác.
+ Thí dụ: 1m vải = 10 kg thóc → giá trị trao đổi = 1/10
+ Nếu hai hàng hóa khác nhau (vải, thóc) có thể trao đổi được với nhau thì giữa
chúng phải có một cơ sở chung giống nhau, cái chung đó không phải là giá trị sử dụng
của chúng. Vì giá trị sử dụng của vải để mặc hoàn toàn khác với giá trị sử dụng của thóc
là để ăn. Cái chung đó là: cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có hao phí
lao động đồng nhất kết tinh. Nhờ có cơ sở chung đó mà các hàng hóa có thể trao đổi
được với nhau.
Vì vậy, người ta trao đổi hàng hóa cho nhau thực chất là trao đổi lao động của họ
ẩn giấu trong hàng hóa. Như vậy, hao phí LĐ SX ra hàng hóa là cơ sở để trao đổi – là

giá trị của hàng hóa.
+ Khái niệm giá trị: giá trị hàng hóa là hao phí lao động xã hội được kết tinh trong
hàng hóa.
+ Đặc trưng của giá trị:
• Giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi;
• Giá trị biểu hiện mối quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hóa nên giá
trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
• Giá trị là phạm trù lịch sử, nó chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hóa.
16
c. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa
- Là sự thống nhất của hai mặt đối lập
+ Thống nhất: Hai thuộc tính này cùng tồn tại trong hàng hóa, tức là một vật phải
có đủ hai thuộc tính mới trở thành hàng hóa. Nếu thiếu một trong hai thuộc tính, vật
phẩm không thể là hàng hóa.
(Ví dụ)
+ Mâu thuẫn thể hiện ở chỗ:
• Giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên của hàng hóa.
• Giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
• Người sản xuất làm ra hàng hóa là để bán, nên mục đích của họ là giá trị (nhưng
trong tay lại có giá trị sử dụng), người mua thì cần giá trị sử dụng nhưng muốn có giá trị
sử dụng thì phải thực hiện giá trị của nó.
• Việc thực hiện giá trị và giá trị sử dụng tách rời về không gian, thời gian. Giá trị
được thực hiện trước ở trong lĩnh vực lưu thông, giá trị sử dụng được thực hiện sau
trong lĩnh vực tiêu dùng. Vì vậy, nếu giá trị của hàng hóa không thực hiện được thì giá
trị sử dụng của nó cũng không thực hiện được.
2. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
- Hàng hóa có hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng vì lao động của người sản
xuất hàng hóa có tính chất hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. C.Mác là
người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa.
a. Lao động cụ thể

- Khái niệm: lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của
những nghề nghiêp chuyên môn nhất định.
Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng
lao động và kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại lao
động cụ thể khác nhau. Chẳng hạn, lao động của người thợ may và lao động của người
thợ mộc là hai loại lao động cụ thể khác nhau. Lao động của người thợ may có mục đích
là làm ra quần áo chứ không phải là bàn ghế; còn phương pháp là may chứ không phải
17
là bào, cưa; có công cụ lao động là kim, chỉ chỉ, máy may chứ không phải là cái cưa, cái
bào; và lao động của người thợ may tạo ra quần áo để mặc, còn lao động của người thợ
mộc là tạo ra ghế để ngồi.
- Đặc trưng:
+ Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng;
+ Lao động cụ thể khác về chất;
+ Lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội;
+ Khoa học kỹ thuật càng phát triển thì hình thức lao động cụ thể càng phong phú,
đa dạng;
+ Lao động cụ thể là điều kiện, nguồn gốc của cải nên là phạm trù tồn tại vĩnh viễn.
b. Lao động trừu tượng
- Khái niệm: Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa sau khi
đã gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó hoặc đó là sự tiêu phí sức lao động (tiêu hao
bắp thịt, thần kinh, sức óc) của người sản xuất hàng hóa.
- Đặc trưng:
+ Lao động trừu tượng là lao động xã hội, là sự quy đổi các lao động khác thành lao
động chung, đồng nhất, giống nhau.
+ Lao động trừu tượng tạo ra giá trị.
+ Lao động trừu tượng là phạm trù lịch sử.
- Mối quan hệ lao động cụ thể và lao động trừu tượng:
Mặt thống nhất: Lao động cụ thể và lao động trừu tượng là hai mặt của một quá
trình lao động sản xuất hàng hóa. Do đó chúng thống nhất với nhau.

Mặt mâu thuẫn: thể hiện ở chỗ lao động cụ thể vận động cùng chiều với năng suất
lao động, nhưng với tư cách là lao động trừu tượng, sự hao phí sức lao động của người
sản xuất hàng hóa lại vận động ngược chiều với năng suất lao động.
c. Mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa giản đơn
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có quan hệ với tính chất tự
nhân và tính chất xã hội của nó. Đó là:
18
+ Một mặt, hoạt động sản xuất hàng hóa là việc làm riêng của họ, trực tiếp mang
tính chất tự nhân.
+ Mặt khác, nó nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên hoạt động sản
xuất của họ lại mang tính xã hội. Nếu hàng hóa sản xuất ra mà bán được có nghĩa là lao
động tự nhân của họ được xã hội thừa nhận. Còn nếu không bán được tức là lao động tư
nhân không được xã hội thừa nhận, không chuyển thành lao động xã hội.
+ Kết luận:
• Vậy mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa giản đơn là mâu thuẫn giữa lao
động tư nhân và lao động xã hội.
• Mâu thuẫn này là mầm mống của mọi mâu thuẫn của kinh tế hàng hóa. Nó còn
được thể hiện ở mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị. Những mâu thuẫn này vừa
thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển vừa là tiềm ẩn của khủng hoảng kinh tế.
3. Lượng giá trị và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
a. Thước đo lượng giá trị hàng hóa
Chất giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng kết tinh trong hàng hóa. Vậy
lượng giá trị hàng hóa là do số lượng lao động hao phí để làm ra hàng hóa quyết định.
Nhưng như vậy là chưa đủ, vì trong thực tế, có trường hợp nhiều người sản xuất
ra một loại sản phẩm như nhau, nhưng số lượng thời gian lao động hao phí lại không
bằng nhau. Ví dụ: cùng làm nghề dệt vải và cùng dệt một số lượng vải như nhau (10m),
người thứ nhất hao phí 10h lao động, người thứ hai 7h, người thứ ba 5h…sở dĩ có sự
khác về lượng thời gian lao động hao phí như vậy là do số lượng và chất lượng TLSX
của mỗi người không giống nhau; khả năng và trình độ thành thạo riêng của từng người,
cũng không như nhau. Do đó, nếu chỉ nói số lượng thời gian lao động sản xuất ra hàng

hóa quyết định số lượng giá trị của hàng hóa thì dẫn đến là người sản xuất càng kém
bao nhiêu thì giá trị do người đó tạo ra càng lớn bấy nhiêu.
Nhưng C.Mác đã vạch ra rằng lượng giá trị của hàng hóa không phải được quyết
định bởi thời gian lao động cá biệt mà bởi thời gian lao động xã hội cần thiết để sản
xuất hàng hóa.
19
- Khái niệm thời gian lao động xã hội cần thiết: là thời gian lao động cần thiết để
sản xuất ra 1 hàng hóa nào đó trong những điều kiện bình thường của xã hội với 1 trình
độ thành thạo trung bình, 1 trình độ kỹ thuật trung bình và cường độ lao động trung
bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định.
Thông thường, thời gian lao động xã hội cần thiết trùng hợp với thời gian lao
động cá biệt của những người cung cấp đại bộ phận loại hàng hóa nào đó trên thị
trường.
b. Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi nên lượng giá trị của hàng
hóa cũng là 1 đại lượng không cố định. Sự thay đổi này phụ thuộc vào ba nhân tố: Năng
suất lao động, cường độ lao động, và mức độ phức tạp hay giản đơn của lao động.
- Nhân tố ảnh hưởng thứ nhất: Năng suất lao động xã hội
Khái niệm năng suất lao động: Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người
lao động. Nó được tính bằng: Số lượng sản phẩm/1 đơn vị thời gian hoặc Số lượng thời
gian lao động cần thiết/1 đơn vị sản phẩm.
+ Có 2 loại năng suất lao động: NSLĐ cá biệt và NSLĐ xã hội.
NSLĐ cá biệt ảnh hưởng đến giá trị cá biệt và NSLĐ xã hội ảnh hưởng đến giá trị
xã hội của hàng hóa.
NSLĐ xã hội càng tăng, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hóa
càng giảm lượng giá trị của 1 đơn vị sản phẩm càng ít. Ngược lại, NSLĐ xã hội càng
giảm thì thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hóa càng tăng và lượng giá
trị của 1 đơn vị sản phẩm càng nhiều.
Kết luận: Lượng giá trị hàng hóa của 1 đơn vị sản phẩm hàng hóa tỷ lệ thuận với
số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với NSLĐ xã hội. Như vậy, muốn giảm giá trị

của mỗi đơn vị hàng hóa phải tăng NSLĐ xã hội.
* Các nhân tố ảnh hưởng đến NSLĐ:
+ Trình độ khéo léo của người lao động;
+ Sự phát triển của khoa học-kỹ thuật và trình độ ứng dụng của tiến bộ kỹ thuật
vào sản xuất;
20
+ Sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất;
+ Quy mô và hiệu quả của TLSX;
+ Điều kiện tự nhiên.
- Nhân tố ảnh hưởng thứ hai: Cường độ lao động
+ Khái niệm cường độ lao động: Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, căng
thẳng mệt nhọc của lao động. Nó được tính bằng: Số lượng lao động hao phí/1 đơn vị
thời gian.
+ Tăng cường độ lao động là tăng số lượng số lượng lao động hao phí trong 1 đơn
vị thời gian, hoặc tăng mức độ khẩn trương và nặng nhọc của lao động
+ So sánh giữa tăng cường độ lao động và tăng năng suất lao động.
Giống nhau: Chúng đều làm tăng số lượng sản phẩm sản xuất trong 1 thời gian
nhất định.
Khác nhau: Tăng năng suất lao động thì tổng giá trị tạo ra trong 1 đơn vị thời gian
không đổi do đó giá trị của tổng khối lượng hàng hóa sản xuất ra không đổi; nhưng giá
trị của 1 đơn vị hàng hóa giảm xuống. Còn tăng cường độ lao động thì tổng giá trị tạo ra
trong 1 đơn vị thời gian không đổi.
Như vậy, tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động.
- Nhân tố ảnh hưởng thứ ba: Tính chất của lao động (lao động giản đơn và lao
động phức tạp).
+ Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ 1 người bình thường nào có khả năng
lao động dù chưa qua đào tạo đều có thể tiến hành được.
+ Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới có thể
tiến hành được.
Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra

nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. Xét về mặt lượng giá trị thì lao động phức
tạp là lao động giản đơn nhân bội lên. Trong quá trình trao đổi hàng hóa, mọi lao động
phức tạp đều được quy thành lao động giản đơn theo những tỷ lệ nhất định. Tỷ lệ quy
đổi này được tiến hành một cách tự phát trên thị trường.
21
Kết luận:
- Giá trị hàng hóa là lao động xã hội trừu tượng giản đơn trung bình của người sản
xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
- Lượng giá trị hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn
trung bình.
c. Cơ cấu lượng giá trị hàng hóa
Để sản xuất ra hàng hóa cần phải chi phí lao động bao gồm lao động quá khứ tồn
tại trong các yếu tố như tư liệu sản xuất: máy móc, công cụ, nguyên vật liệu và lao động
sống hao phí trong quá trình chế biến tư liệu sản xuất thành sản phẩm – hàng hóa mới.
Sự kết tinh của lao động quá khứ trong giá trị của tư liệu sản xuất chính là giá trị cũ, còn
lao động sống hao phí trong quá trình sản xuất ra sản phẩm mới chính là giá trị mới. Vì
vậy,cơ cấu lượng giá trị hàng hóa bao gồm 2 bộ phận: 1/Bộ phận giá trị cũ; 2/ Bộ phận
giá trị mới.
Như vậy : W = C + V + m
IV. Quy luật giá trị
Sản xuất hàng hóa chịu sự tác động của quy luật kinh tế chung như: Quy luật
quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; quy luật
tiết kiệm thời gian lao động; quy luật tăng năng suất lao động…Nhưng vai trò cơ sở cho
sự chi phối nền sản xuất hàng hóa thuộc về quy luật giá trị.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Ở
đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy
luật giá trị.
1. Nội dung (yêu cầu) của quy luật giá trị
Theo quy luật giá trị, sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí
lao động xã hội cần thiết. Trong kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất tự quyết định hao

phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị của hàng hóa không phải được quyết định
bởi hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hóa, mà bởi hao phí lao động
xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hóa, bù đắp cho chi phí và có lãi, người
22
sản xuất phải điều chỉnh làm cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức
chi phí mà xã hội chấp nhận được.
Trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, và trao
đổi phải theo nguyên tắc ngang giá.(giải thích rõ về nguyên tắc trao đổi ngang giá)
Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa. Vì
giá trị là cơ sở của giá cả, hay giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, nên trước hết
giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và
ngược lại.
Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như:
Cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền (Phân tích rõ những nhân tố này).
Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường tách rời
giá trị và lên xuống xoay quanh giá trị của nó . Đó chính là cơ chế hoạt động của quy
luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác
dụng nó.
2. Tác động của quy luật giá trị
Trong sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác động chủ yếu sau:
- Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa
Điều tiết sản xuất là điều hòa, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các
lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dụng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của
giá cả hàng hóa trên thị trường dưới tác động của quy luật cung cầu.Nếu ở ngành nào đó
khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hóa sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy, lãi cao,
thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động được
chuyển dịch vào ngành ấy sẽ tăng lên. Ngược lại, khi cung ở ngành ấy đó vượt quá cầu,
giá cả hàng hóa giảm xuống, hàng hóa bán không chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình đó
buộc người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc chuyển sang đầu tư vào
ngành có giá cả hàng hóa cao.

Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị trường. Sự
biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp
đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hóa trở nên thông suốt.
23
Như vậy, sự biến động của giá cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến
động về kinh tế, mà còn tác động điều tiết nền kinh tế hàng hóa.
- Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao
động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất hàng hóa là một chủ thể kinh tế
độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản
xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt của mỗi người khác nhau, người sản xuất
nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của hàng hóa ở thế có
lợi, sẽ thu được lãi cao. Người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí
lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế cạnh tranh và tránh
nguy cơ vỡ lợ, phá sản họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình, sao cho bằng
hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải
tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh
tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết
quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.
- Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa
thành người giàu, người nghèo.
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dễn đến kết quả là những người có
điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao
phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên
nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược
lại những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong
kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn tới phá sản trở thành nghèo khó.
Những tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn hết sức to lớn: một mặt quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào
thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển; mặt khác, phân hóa xã hội

thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội.
24
CHƯƠNG 2. HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
I. Sự chuyển hóa tiền thành tư bản
1. Công thức chung của tư bản
Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hóa, đồng thời cũng là hình thức
biểu hiện đầu tiên của tư bản. Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số
tiền nhất định. Nhưng bản thân tiền không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản
trong những điều kiện nhất định, khi chúng được sử dụng để bóc lột lao động của người
khác.
Tiền được coi là tiền thông thường thì vận động theo công thức H-T-H (hàng-
tiền-hàng).
Tiền được coi là tư bản, thì vận động theo công thức T-H-T (tiền –hàng-tiền). Bất
cứ tiền nào vận động theo công thức T-H-T đều chuyển hóa thành tư bản.
So sánh công thức lưu thông hàng hóa giản đơn H-T-H và công thức lưu thông
của tư bản T-H-T.
Giống nhau: Đều có quá trình mua và bán, đều gồm các nhân tố vật chất tiền và
hàng và đều bao gồm người bán và người mua.
Khác nhau: Công thức lưu thông hàng hóa giản đơn H-T-H bắt đầu bằng việc
bán (H-T) và kết thúc bằng việc mua (T-H). Điểm xuất phát và kết thúc đều là hàng
hóa, tiền chỉ đóng vai trò trung gian.
Còn công thức lưu thông của tư bản bắt đầu bằng việc mua (T-H) và kết thúc bằng việc
bán (H-T). Điểm xuất phát và kết thúc đều là tiền tệ, hàng hóa chỉ đóng vai trò trung
gian.
25

×