Tải bản đầy đủ (.doc) (159 trang)

Luyện tập cho học sinh một số dạng hoạt động học tập ngoài giờ chính khóa nhằm khắc sâu, phát triển kiến thức sách giáo khoa toán trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (970.79 KB, 159 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_______________________
PHẠM THỊ VIỆT THÁI
LUYỆN TẬP CHO HỌC SINH MỘT SỐ DẠNG
HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP NGOÀI GIỜ CHÍNH KHÓA NHẰM
KHẮC SÂU, PHÁT TRIỂN KIẾN THỨC SÁCH GIÁO KHOA
TOÁN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
2
NGHỆ AN, 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ VIỆT THÁI
LUYỆN TẬP CHO HỌC SINH MỘT SỐ DẠNG HOẠT ĐỘNG
HỌC TẬP NGOÀI GIỜ CHÍNH KHÓA NHẰM KHẮC SÂU,
PHÁT TRIỂN KIẾN THỨC SÁCH GIÁO KHOA TOÁN
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
CHUYÊN NGHÀNH: LÍ LUẬN VÀ PP DẠY HỌC BỘ MÔN TOÁN
MÃ SỐ CHUYÊN NGHÀNH: 60. 14. 01. 11
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : GS. TS ĐÀO TAM
3
NGHỆ AN, 2014
LỜI CÁM ƠN
Luận văn được hoàn thành tại trường Đại học Vinh dưới sự hướng dẫn khoa
học của Thầy giáo GS.TS Đào Tam. Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và lòng biết ơn
sâu sắc tới Thầy, người đã định hướng đề tài và trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi
thực hiện nghiên cứu của mình.


Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn trân trọng tới các Thầy giáo, Cô giáo của
trường Đại học Vinh đã tham gia giảng dạy lớp CH 20_ Chuyên nghành Lí luận
và PPDH bộ môn Toán.
Cũng xin gửi lời cám ơn trân trọng tới các Thầy giáo, Cô giáo tại trường
THPT Nghèn đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình lấy số liệu
điều tra cũng như giúp đỡ tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm.
Tôi xin gửi lời cám ơn sâu sắc đến gia đình tôi, bạn bè và đồng nghiệp của
tôi, những người đã luôn luôn ở bên tôi, động viên và khuyến khích giúp đỡ tôi
trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
Xin chân thành cám ơn tất cả những sự quan tâm, giúp đỡ quý báu đó!
Tuy đã có nhiều cố gắng, song luận văn chắc chắn không thể tránh khỏi
những thiếu sót cần được góp ý, sửa chữa. Rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp của các thầy cô và các bạn.
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
Tác giả luận văn
Phạm Thị Việt Thái
4

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Từ viết tắt Từ đầy đủ
ĐC Đối chứng
đpcm Điều phải chứng minh
GV Giáo viên
HS Học sinh
HS THPT
Học sinh trung học phổ thông
Nxb Nhà xuất bản
PT
Phổ thông
SGK Sách giáo khoa

Tr. Trang
THPT Trung học phổ thông
TN Thực nghiệm


5
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
4. Giả thuyết khoa học 4
5. Phương pháp nghiên cứu 4
6. Đóng góp của luận văn 4
7. Cấu trúc luận văn 5
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN 6
1.1. Quan niệm hoạt động trong học tập 6
1.1.1. Khái niệm về hoạt động học tập 6
1.1.2. Bản chất của hoạt động học 7
1.1.3. Đối tượng của hoạt động học 8
1.1.4. Phương tiện học tập 8
1.1.5. Điều kiện học tập 9
1.1.6. Sự hình thành hoạt động học tập 9
1.1.6.1. Động cơ học tập 9
1.1.6.2. Mục đích học tập 11
1.1.6.3. Sự hình thành các hành động học tập 13
1.2. Các hình thức học tập của học sinh ngoài giờ chính khóa 12
1.2.1. Các dạng hoạt động học tập của học sinh 12
1.2.2. Các dạng hoạt động học tập chủ yếu của học sinh ngoài giờ chính khóa 14
6

1.2.2.1. Hoạt động học tập ở nhà với đặc trưng là cá nhân tự học 14
1.2.2.2 . Hoạt động học tập theo nhóm ở nhà hay là học tập trong hợp tác ở nhà
(có hướng dẫn của giáo viên) 15
1.2.2.3. Hoạt động ngoại khóa Toán học 16
1.3. Vai trò của việc khắc sâu và phát triển kiến thức sách giáo khoa Toán 17
1.3.1. Quan niệm về khắc sâu kiến thức sách giáo khoa Toán 17
1.3.2. Quan niệm về p hát triển kiến thức SGK Toán 21
1.3.2.1. Về phương diện lí thuyết 22
1.3.2.2. Về phương diện các dạng Toán 24
1.3.2.3. Vai trò của việc khắc sâu và phát triển kiến thức SGK Toán 32
1.4. Kết luận chương 1 33
CHƯƠNG 2. KHẢO SÁT THỰC TRẠNG VỀ VIỆC TỔ CHỨC CÁC HOẠT
ĐỘNG HỌC TẬP NGOÀI GIỜ CHÍNH KHÓA CHO HS THPT 34
2.1. Mục tiêu của việc khảo sát 34
2.2. Đối tượng khảo sát 34
2.3. Nội dung khảo sát 34
2.4. Phương thức khảo sát 35
2.5. Công cụ khảo sát 35
2.6. Kết quả thu được từ quá trình khảo sát 35
2.6.1. Kết quả định lượng 35
2.6.2. Kết quả định tính 35
2.6.2.1. Đối với giáo viên 35
2.6.2.2. Đối với học sinh 36
2.7. Kết luận chương 2 37
CHƯƠNG 3. THIẾT KẾ VÀ TỔ CHỨC MỘT SỐ DẠNG HOẠT ĐỘNG HỌC
TẬP NGOÀI GIỜ CHÍNH KHÓA CHO HỌC SINH NHẰM KHẮC SÂU, PHÁT
TRIỂN KIẾN THỨC SÁCH GIÁO KHOA TOÁN THPT 38
7
3.1. Một số cơ sở khoa học sư phạm của việc thiết kế và tổ chức một số dạng
học tập ngoài giờ chính khóa nhằm khắc sâu, phát triển kiến thức SGK

Toán THPT 38
3.1.1. Đáp ứng mục đích của việc dạy học Toán trong nhà trường phổ
thông
38
3.1.2. Dựa trên định hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay 39
3.1.3. Đảm bảo sự tôn trọng, kế thừa và khai thác phát triển tiềm năng
SGK 39
3.1.4. Phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của HS THPT 40
3.1.5. Đảm bảo tính vừa sức 41
3.2. Một số biện pháp chuẩn bị cho học sinh các kỹ năng phù hợp với nhiệm vụ
học tập ngoài giờ chính khóa 42
3.2.1. Biện pháp 1. Tạo nhu cầu cho học sinh hoạt động 42
3.2.1.1. Tạo nhu cầu bên trong 43
3.2.1.2. Tạo nhu cầu bên ngoài 50
3.2.2. Biện pháp 2. Trau dồi cho học sinh cách tự học 55
3.2.2.1. Rèn luyện các hoạt động trí tuệ cơ bản trong học Toán 55
3.2.2.2. Hướng dẫn những kỹ năng cần thiết cho nhiệm vụ tự học môn
Toán 62
3.2.3. Biện pháp 3. Bồi dưỡng kỹ năng làm việc theo nhóm 70
3.3. Thiết kế và tổ chức một số dạng hoạt động học tập ngoài giờ chính khóa cho
học sinh nhằm khắc sâu và phát triển kiến thức SGK Toán
THPT
82
3.3.1. Xây dựng hệ thống bài tập ra về nhà theo hướng khắc sâu, phát triển kiến
thức SGK 82
8
3.3.1.1. Dạng 1. Yêu cầu HS tìm tòi, đào sâu những cách giải mới đối với một
bài toán đã biết 82
3.3.1.2. Dạng 2. Yêu cầu HS khai thác, mở rộng một bài toán trong SGK nhờ
phân tích, dự đoán, khái quát hóa, đặc biệt hóa, tương tự hóa, mở rộng

số chiều từ phẳng sang không gian 90
3.3.2. Khai thác hoạt động hợp tác thông qua hình thức học nhóm 99
3.3.2.1. Dạng 3. Yêu cầu HS khai thác vai trò ứng dụng của một khái niệm hay
một định lí trong giải bài tập 100
3.3.2.2. Dạng 4. Yêu cầu HS soạn kiến thức ôn tập
chương 107
3.3.3. Tổ chức hoạt động ngoại khóa Toán học cho HS 110
3.3.3.1. Một số hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa Toán học thường
gặp 110
3.3.3.2. Ví dụ 111
3.3.4. Bồi dưỡng, giúp đỡ diện học sinh đặc biệt 123
3.3.4.1. Bồi dưỡng học sinh giỏi 123
3.3.4.2. Giúp đỡ học sinh yếu kém 123
3.4. Kết luận chương 3 124
CHƯƠNG 4. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 125
4.1. Mục đích thực nghiệm sư phạm 125
4.2. Tổ chức thực nghiệm sư phạm 125
4.3. Nội dung thực nghiệm sư phạm 125
4. 4. Kết quả thực nghiệm 126
4.4.1. Phân tích định tính 126
4.4.2. Phân tích định lượng 127
4.5. Kết luận chương 4 131
KẾT LUẬN CHUNG 132
TÀI LIỆU THAM KHẢO 133
9
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong thời đại ngày nay, với tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học

kỹ thuật và công nghệ, việc nhanh chóng hòa nhập vào cộng đồng khu vực và thế
giới, đòi hỏi giáo dục phổ thông phải có những bước tiến mới mạnh mẽ, giúp học
sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ
bản, hình thành nhân cách toàn vẹn con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chuẩn
bị cho các em tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động sáng tạo, tham gia
xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng [4] nêu rõ: “Đổi mới căn bản toàn diện
nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa; đổi mới cơ chế
quản lí giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục, đào tạo.
Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục, đạo đức lối
sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành”.
Chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020 [26] do thủ tướng chính phủ
phê duyệt có nêu: “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả
học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo và năng
lực tự học của người học”.
Luật Giáo dục sửa đổi năm 2010 [15] cũng nêu rõ: “Phương pháp giáo
dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
sinh, phù hợp với đặc điểm của từng môn học, lớp học, bồi dưỡng phương pháp
tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh ”
1.2. Những giá trị đạo đức và năng lực nghề nghiệp của người lao động, rõ
ràng được hình thành cơ bản không chỉ bằng giờ học trên lớp mà phải được rèn
2
luyện, củng cố và phát triển thông qua các hoạt động giáo dục phong phú, đa dạng,
đặc biệt là các hoạt động học tập ngoài giờ chính khóa.
Hoạt động học tập ngoài giờ chính khóa là các hoạt động học tập nằm
ngoài chương trình học chính khóa và là sân chơi tự nguyện tham gia của học sinh,
thường mang tính chất tự nguyện và tích cực. Học sinh được tham gia hoạt động
học tập ngoài giờ chính khóa với nhiều hình thức như : tự học ở nhà, học nhóm

bạn, hoặc tham gia các hoạt động ngoại khóa ở lớp/trường hay ngoài xã hội, như:
Hoạt động xã hội, văn hóa - thể thao, nghệ thuật hay tổ chức các hoạt động câu lạc
bộ bộ môn …
Những hoạt động học tập như thế này có ý nghĩa vô cùng đặc biệt và nó
huy động được sự tham gia của nhiều học sinh trong lớp, trong trường tham gia.
Không chỉ vậy, nó còn đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức đã học ở
lớp chính khóa một cách tổng hợp, đầy đủ, linh hoạt, nhạy bén. Qua đó, các kiến
thức sẽ được liên hệ với thực tiễn sinh động.
Hoạt động ngoài giờ chính khóa là một phần quan trọng, có mối quan hệ
gắn bó khăng khít với nội khóa. Những hoạt động này bổ sung và nâng cao chất
lượng của chính khóa lên một bước, bởi lẽ phạm vi một giờ lên lớp không cho
phép người dạy truyền đạt hết tất cả những vấn đề mà việc dạy học phải hướng
đến.
Theo AX.Macarenco “quá trình giáo dục không chỉ diễn ra trong lớp học mà
còn tiếp diễn trên từng mét vuông của chúng ta theo đúng nghĩa của từ này”. Thật
vậy, quá trình giáo dục không chỉ là quá trình lên lớp của giáo viên mà quá trình
giáo dục phải diễn ra mọi lúc, mọi nơi và dưới nhiều hình thức khác nhau. Giáo
dục để làm sao “phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù
hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, có phương pháp, động cơ học tập
đúng đắn và được phát triển về mặt năng khiếu; tác động đến tình cảm; đem lại
niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. (điều 24. 2. Luật giáo dục nước Cộng
hòa xã hội Việt Nam, năm 1998).
3
Để nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và giáo dục trung học phổ
thông nói riêng, giáo viên phải biết nâng cao chất lượng dạy học nội khóa đồng
thời phải biết khơi dậy ở học sinh niềm đam mê, yêu thích môn học. Điều đó, có ý
nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc đạt tới mục đích và nhiệm vụ giáo dục học
sinh.
Do đó, việc đầu tư thời gian hợp lí vào các hoạt động học tập ngoài giờ

lên lớp là một trong những vấn đề cần được quan tâm bởi việc quản lý và chi tiêu
thời gian nói chung của mỗi cá nhân đã và đang là một kỹ năng rất quan trọng và
cần thiết trong thời đại ngày nay.
1.3. Trong thời gian qua, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về việc tổ chức
các hoạt động ngoại khóa như tác giả Nguyễn Bá Kim [13], tác giả Đào Tam [21],
[23], tác giả Bùi Văn Nghị [16], [17].
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên phương diện rộng, chưa đi vào cụ
thể, chưa có tác giả nào nghiên cứu về việc luyện tập cho học sinh một số hoạt
động học tập ngoài giờ chính khóa trong dạy học Hình Học ở bậc THPT.
Xuất phát từ những lí do trên đây, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu của
mình là : “ Luyện tập cho học sinh một số dạng hoạt động học tập ngoài giờ chính
khóa nhằm khắc sâu, phát triển kiến thức sách giáo khoa Toán trung học phổ
thông”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một số vấn đề về lí luận và thực tiễn của hoạt động học tập và
quan niệm khắc sâu và phát triển kiến thức SGK; đưa ra một số vấn đề cần rèn
luyện cho học sinh nhằm khắc sâu và phát triển kiến thức SGK thông qua hoạt
động học tập ngoài giờ chính khóa khi dạy nội dung Hình Học ở cấp THPT. Từ
đó góp phần giáo dục ý thức tự học, tinh thần hợp tác và bước đầu phát triển khả
năng giao tiếp toán học của học sinh.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có nhiệm vụ trả lời 5 câu hỏi khoa học sau đây:
4
3.1. Hiểu thế nào là hoạt động học tập của học sinh ngoài giờ chính khóa? Và
các hoạt động đó thì có những dạng nào?
3.2. Khắc sâu và phát triển kiến thức sách giáo khoa là gì?
3.3. Những căn cứ khoa học sư phạm của việc thiết kế và tổ chức một số dạng
học tập ngoài giờ chính khóa nhằm khắc sâu, phát triển kiến thức SGK
Toán THPT?
3.4. Phương thức xây dựng và tổ chức các hoạt động như thế nào để có thể khắc

sâu và phát triển kiến thức SGK ở ngoài giờ chính khóa?
3.5. Thực tiễn sư phạm của phương thức đề xuất có khả thi không?
4. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng được các biện pháp thích hợp nhằm tập luyện cho học sinh
các dạng hoạt động học tập ngoài giờ chính khóa thì có thể giúp học sinh sử dụng
quỹ thời gian cá nhân một cách có ích, hợp lí hơn, kích thích trí tìm tòi, lòng ham
hiểu biết khoa học của học sinh. Từ đó nâng cao chất lượng dạy học Toán ở trường
THPT.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu lý luận: Tìm hiểu các cơ sở tâm lí học, giáo dục học, triết học của
vấn đề nghiên cứu ; Tìm hiểu các định hướng đổi mới PPDH nói chung và
đổi mới PPDH môn Toán nói riêng của Đảng và Nhà nước, của Bộ GD -
ĐT; Tham khảo các luận án tiến sỹ, các luận văn có liên quan đến đề tài;
Nghiên cứu chương trình và SGK hiện hành thuộc phân môn Hình học ở
bậc THPT.
5.2. Nghiên cứu, điều tra thực tiễn, Thăm dò ý kiến chuyên gia: Phỏng vấn các
chuyên gia giáo dục về vấn đề nghiên cứu; Điều tra thực trạng nhận thức và
hoạt động của đội ngũ giáo viên và học sinh đối với vấn đề nghiên cứu qua
các hình thức: sử dụng phiếu điều tra, dự giờ, quan sát thực tiễn.
5.3. Thực nghiệm sư phạm: Tổ chức thực nghiệm sư phạm để xem xét tính khả
thi và hiệu quả của các biện pháp sư phạm đã được đề xuất.
5
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Hệ thống hóa quan điểm của một số tác giả về hoạt động trong học tập. Làm
sáng tỏ các dạng hoạt động học tập của học sinh nói chung và các dạng
hoạt động học tập của học sinh ngoài giờ chính khóa nói riêng.
6.2. Hệ thống được quan niệm của việc khắc sâu và phát triển kiến thức SGK.
6.3. Xây dựng các cơ sở khoa học sư phạm; đề xuất các biện pháp tập luyện nhằm
hình thành và rèn luyện cho học sinh THPT các kĩ năng học tập ngoài giờ
chính khóa theo hướng khắc sâu và phát triển kiến thức SGK Toán THPT.

6.4. Minh họa các biện pháp đề xuất thông qua quá trình dạy học nội dung Hình
Học ở bậc học THPT.
7.…Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có bốn chương :
Chương 1. Cơ sở lí luận
Chương 2. Khảo sát thực trạng về việc tổ chức các hoạt động học tập ngoài giờ
chính khóa cho học sinh trung học phổ thông
Chương 3. Thiết kế và tổ chức một số dạng hoạt động học tập ngoài giờ chính
khóa cho học sinh nhằm khắc sâu, phát triển kiến thức sách giáo khoa
Toán THPT
Chương 4. Thực nghiệm sư phạm.
Ngoài ra, kèm theo luận văn còn có một phụ lục về: “Công cụ khảo sát và
kết quả định lượng thu được”.
6
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Quan niệm hoạt động trong học tập
1.1.1. Khái niệm về hoạt động học tập
Khi nói đến hoạt động học cần làm rõ khái niệm học và khái niệm hoạt động
học.
Từ ngàn xưa con người đã có nhiều phương thức học khác nhau: học ngẫu
nhiên, học kết hợp, học tập. Tuy nhiên không phải phương thức học nào cũng
mang lại hiệu quả. Đồng thời cũng thật nguy hiểm khi người học học theo kiểu mò
mẫm, tự tìm tòi mà không có sự hướng dẫn, không tổ chức, không mục đích rõ
ràng. Do đó, để việc học thu được kết quả tốt đẹp, có mục đích rõ ràng thì việc học
phải được triển khai bởi một hoạt động đặc thù: hoạt động học (học tập). Đây là
hoạt động đặc thù vì chỉ có ở người, nó nhằm thỏa mãn một nhu cầu nhất định,
được kích thích bởi động cơ học và được thực hiện bởi một hoạt động chuyên biệt:
có nội dung, phương pháp, phương tiện riêng. Bên cạnh đó là những tri thức người
học thu được qua hoạt động học là những tri thức khoa học đã được loài người
thực nghiệm và khái quát hóa thành những chân lí phổ biến. Ngày nay, xã hội càng

hiện đại, khoa học càng phát triển thì việc học tập của con người càng đóng vai trò
quyết định trong sự phát triển của cá nhân và xã hội. Cá nhân nào không học tập
tức là đang tự bước lùi, là tụt hậu. Vậy hoạt động học là gì ? Hoạt động học là
hoạt động đặc thù của con người được điều khiển bởi mục đích tự giác và lĩnh hội
những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mới, những hình thức hành vi và những dạng hoạt
động nhất định, những giá trị.
Trên thực tế, chỉ có phương thức đặc thù (phương thức nhà trường) mới có
khả năng tổ chức để cá nhân tiến hành hoạt động đặc biệt đó là hoạt động học, qua
đó hình thành ở cá nhân những tri thức khoa học, năng lực mới phù hợp với đòi hỏi
của thực tiễn; và trong tâm lý học sư phạm, hoạt động học là khái niệm chính được
7
dùng để chỉ hoạt động học diễn theo phương thức đặc thù, nhằm chiếm lĩnh tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo.
1.1.2. Bản chất của hoạt động học
Theo L. X. Vưgotxki, hoạt động học là một hoạt động đặc biệt, chú trọng
đến sự thay đổi của chính bản thân người học. Hoạt động học xảy ra một cách có
chủ định, có mục đích và không là yếu tố bổ sung cho bất kì hoạt động chủ đạo
nào khác. (dẫn theo Đào Tam, 2011, [22])
Hoạt động học tập là hoạt động chuyên hướng vào sự tái tạo lại tri thức ở
người học. Sự tái tạo ở đây hiểu theo nghĩa là phát hiện lại. Sự thuận lợi cho người
học ở đây đó là con đường đi mà để phát hiện lại đã được các nhà khoa học tìm
hiểu trước, giờ người học chỉ việc tái tạo lại. Và để tái tạo lại, người học không có
cách gì khác đó là phải huy động nội lực của bản thân (động cơ, ý chí, …), càng
phát huy cao bao nhiêu thì việc tái tạo lại càng diễn ra tốt bấy nhiêu. Do đó hoạt
động học làm thay đổi chính người học. Ai học thì người đó phát triển, không ai
học thay thế được, người học cần phải có trách nhiệm với chính bản thân mình, vì
mình trong quá trình học. Mặc dù hoạt động học có thể cũng có thể làm thay đổi
khách thể. Nhưng như thế không phải là mục đích tự thân của hoạt động học mà
chính là phương tiện để đạt được mục đích làm thay đổi chính chủ thể của hoạt
động.

Hoạt động học là hoạt động tiếp thu những tri thức lý luận, khoa học. Nghĩa
là việc học không chỉ dừng lại ở việc nắm bắt những khái niệm đời thường mà học
phải tiến đến những tri thức khoa học, những tri thức có tính chọn lựa cao, đã được
khái quát hoá, hệ thống hoá. Hoạt động học tập không chỉ hướng vào việc tiếp thu
những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mà còn hướng vào việc tiếp thu cả những tri thức
của chính bản thân hoạt động học. Hoạt động học muốn đạt kết quả cao, người học
phải biết cách học, phương pháp học, nghĩa là phải có những tri thức về chính bản
thân hoạt động học.
8
Hoạt động học là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi học sinh. Do đó nó giữ vai
trò chủ đạo trong việc hình thành và phát triển tâm lý của người học trong lứa tuổi
này.
1.1.3. Đối tượng của hoạt động học
Nếu gọi chủ thể của hoạt động học là người học thì đối tượng của hoạt động
học hướng tới đó là tri thức. Nhưng tri thức mà học sinh phải học được lựa chọn từ
những khoa học khác nhau, theo những nguyên tắc nhất định, làm thành những
môn học tương ứng, và được cụ thể ở những đơn vị cấu thành như: khái niệm, kĩ
năng, thái độ… Đối tượng của hoạt động học có liên quan chặt chẽ với đối tượng
của khoa học. Tuy vậy, có sự khác nhau về nguyên tắc giữa hoạt động học và hoạt
động nghiên cứu khoa học. Hoạt động học là hoạt động tái tạo lại những tri thức đã
có từ trước ở người học, còn hoạt động nghiên cứu khoa học đó là phát hiện những
chân lý khoa học mà loài người chưa biết đến. Có thể nói: đối tượng của hoạt động
học là cái mới với cá nhân nhưng không mới đối với nhân loại.
1.1.4. Phương tiện học tập
Hoạt động bao giờ cũng hướng tới một đối tượng cụ thể, và chủ thể phải có
những phương tiện, những điều kiện cụ thể để chiếm lĩnh đối tượng. Trong hoạt
động học tập, ngoài những phương tiện như: giấy, bút, sách, giáo trình, máy tính…
mà nó còn mang tính chất đặc thù của hoạt động học tập đó là mọi yếu tố
của nó đều được hình thành trong quá trình học tập. Phương tiện của học tập không
có sẵn trong tâm lý chủ thể mà hình thành chính trong quá trình chủ thể tham gia

hoạt động học tập.
Phương tiện chủ yếu của hoạt động học tập đó là các hành động học tập: so
sánh, phân loại, phân tích, khái quát hoá Tâm lý học đã khẳng định so sánh,
phân loại là những hành động học tập là phương tiện đắc lực cho việc hình thành
những khái niệm kinh nghiệm, còn phân tích, khái quát hoá là phưong tiện để hình
thành nên những khái niệm khoa học.
9
Cần nhấn mạnh rằng trong hoạt động học, phương tiện chủ yếu là tư duy.
Trong giáo dục, tất cả các hình thức tư duy đều quan trọng và cần thiết.
1.1.5. Điều kiện học tập
Hoạt động học muốn được diễn ra phải có điều kiện của nó. Điều kiện đầu
tiên đó là có sự tham gia của các yếu tố bên ngoài (ngoại lực) như: có sự hướng
dẫn của thầy, sách, vở, bút, máy tính, giáo trình…Và điều kiện thứ hai đó là có sự
vận động của chính bản thân người học hay còn gọi là yếu tố nội lực. Đó là những
tri thức mà người học học được, trình độ trí tuệ hiện có của người học, động cơ, ý
chí, hứng thú của người học…Có đầy đủ những điều kiện đó, người học dù trong
hoàn cảnh có thầy, hay không có đối mặt với thầy thậm chí khi ra trường, hoạt
động học vẫn diễn ra. Từ đó có thể hiểu học là quá trình tương tác các yếu tố ngoại
lực và yếu tố nội lực thông qua hoạt động dạy và học. Trong đó, yếu tố nội lực ở
đây đóng vai trò quan trọng trong hoạt động học của người học.
1.1.6. Sự hình thành hoạt động học tập
1.1.6.1. Động cơ học tập
Hoạt động của con người là hoạt động có đối tượng, có ý thức. Hoạt động đó
luôn được thúc đẩy bởi những động cơ nhất định. Đó là những động lực bên trong
trực tiếp thúc đẩy tính tích cực hoạt động của con người. C. Mác đã khẳng định:
“con người ta sẽ không làm bất cứ điều gì, nếu nó không liên quan đến nhu cầu,
động cơ của họ”.
Nói đến hình thành hoạt động học, trước hết phải nói đến sự hình thành động
cơ học tập.
Theo tâm lí học Macxit, động cơ là sự phản ánh tâm lí về đối tượng có khả

năng thỏa mãn nhu cầu của chủ thể. Nhu cầu bao giờ cũng nhằm vào một đối
tượng nhất định. Nó thôi thúc con người hành động nhằm đáp ứng thỏa mãn và chỉ
khi gặp được đối tượng có khả năng thỏa mãn thì nó mới có thể trở thành động cơ
thúc đẩy, định hướng hoạt động của chủ thể, thôi thúc con người hoạt động nhằm
thỏa mãn nhu cầu.
10
Hoạt động học với chủ thể là người học, còn đối tượng của nó là những tri
thức khoa học, với mục tiêu cuối cùng là hình thành nhân cách cho người học. Khi
con người có nhu cầu học tập, xác định được đối tượng cần đạt thì xuất hiện động
cơ học tập. Vì vậy có thể hiểu động cơ học tập là sức mạnh tinh thần điều khiển,
điều chỉnh hoạt động học nhằm chiếm lĩnh tri thức khoa học, để thoả mãn nhu cầu
nào đó của người học.
Động cơ của hoạt động học tập ở học sinh được hiện thân ở những tri thức,
kĩ năng, kĩ xảo mà giáo dục ở nhà trường mang lại cho các em. Nhiều nhà tâm lí
học đều khẳng định: hoạt động học tập của học sinh được thúc đẩy bởi nhiều động
cơ. Theo L.I.Bozovik, A.K.Dusaviski . động cơ học tập của trẻ được phân thành
hai loại : động cơ hoàn thiện tri thức và động cơ quan hệ xã hội. Thuộc về loại
động cơ hoàn thiện tri thức ở đây là lòng ham mê, khát khao mở rộng tri thức, say
mê với những môn học. . . bản thân tri thức và phương pháp dành tri thức có sức
hấp dẫn, lôi cuốn học sinh. Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ này nó
không chứa những mâu thuẫn bên trong và nó đòi hỏi phải có những nỗ lực ý chí
để đạt được nguyện vọng chứ không phải hướng vào đấu tranh với chính bản thân
mình. Người có động cơ này luôn nỗ lực ý chí, khắc phục trở ngại từ bên ngoài để
đạt nguyện vọng bên trong.
Động cơ bên ngoài (động cơ quan hệ xã hội): học sinh học bởi sự lôi cuốn
hấp dẫn của các yếu tố khác như: đáp ứng mong đợi của cha mẹ, cần có bằng cấp
vì lợi ích tương lai, lòng hiếu danh hay sự khâm phục của bạn bè,…đây là những
mối quan hệ xã hội cá nhân được hiện thân ở đối tượng. Ở mức độ nào đó động cơ
này mang tính cưỡng bách, và có lúc xuất hiện như một vật cản cần khắc phục để
vượt qua đạt được mục đích của mình.

Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ hoàn thiện tri thức thường
không chứa đựng xung đột bên trong, không có những căng thẳng tâm lí. Hơn nữa,
động lực nội tâm còn chứng tỏ được khả năng “tự quyết định” , làm phát sinh tinh
thần độc lập, tự giải quyết các trở ngại, đem lại cho người học nhiều sáng kiến.
Còn hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ quan hệ xã hội ở mức độ nào đó
11
mang tính cưỡng bức, có những lực chống đối nhau (như kết quả học tập không
đáp ứng mong muốn của cha mẹ), vì thế nó gắn liền với sự căng thẳng tâm lý,
không đóng góp nhiều cho óc sáng tạo và khả năng giải quyết các trở ngại. Không
những thế, nó đòi hỏi phải đấu tranh với chính bản thân nên học sinh dễ vi phạm
nội quy, lơ là việc học….
Xét về mặt lý luận, mỗi hoạt động được thúc đẩy bởi một động cơ nhất định.
Hoạt động học hướng đến là những tri thức khoa học, thì chính nó (tức là đối
tượng của hoạt động học) trở thành động cơ của hoạt động ấy. Động cơ hoàn thiện
tri thức là động cơ chính của hoạt động học tập. Nhưng trên thực tế còn có động cơ
quan hệ xã hội. Nó “bám vào”, “hiện thân” trên động cơ hoàn thiện tri thức, trở
thành một bộ phận của động cơ hoàn thiện tri thức. Khi động cơ hoàn thiện tri thức
được đáp ứng thì đồng nghĩa với nó là động cơ quan hệ xã hội cũng được thoả
mãn. Cả hai loại động cơ này đều xuất hiện trong quá trình học tập và trong từng
hoàn cảnh cụ thể, điều kiện nào đó mà động cơ này hay động cơ kia chiếm vị trí
quan trọng hơn, nổi lên và chiêm ưu thế trong thứ bậc động cơ. Sự phân chia động
cơ như vậy chỉ có tính chất tương đối.
Trong quá trình dạy học, người giáo viên nên có các biện pháp chuyển hóa
từ động cơ bên ngoài sang động cơ bên trong đối với hoạt động học tập của học
sinh. Như là : giúp học sinh xác định được mục đích học tập; tăng hứng thú học
tập cho học sinh bằng cách chuẩn bị giáo án thật tốt, các phương tiện dạy học phải
hấp dẫn như lời nói uyển chuyển, lôi cuốn, hình ảnh trực quan sinh động… để làm
kích thích động lực học tập của học sinh; đặt ra các tình huống có vấn đề để học
sinh bị kích thích mà mày mò, khám phá tìm câu trả lời; những lời khen, những
điểm thưởng khi học sinh giải quyết xuất sắc vấn đề cũng là một niềm động lực to

lớn để học sinh cố gắng nỗ lực hơn trong những lần sau.
1.1.6.2. Mục đích học tập
Theo tâm lý học hoạt động, mục đích được hiểu là cái mà hành động đang
diễn ra hướng tới. Hoạt động học được thúc đẩy bởi động cơ và nó được tiến hành
dưới các hành động học. Vậy mục đích của hoạt động học là các khái niệm, các
12
giá trị, các chuẩn mực… mà hành động học đang diễn ra hướng đến nhằm đạt
được nó. Quá trình hình thành mục đích bắt đầu từ việc hình thành trong chủ thể
dưới các dạng là các biểu tượng sau đó được tổ chức để hiện thực hoá biểu tượng
trên thực tế, và khi thực tế có hoàn thành được thì mục đích được hoàn thành. Mục
đích của hoạt động học cũng được hình thành như vậy, chỉ có điều nó có tính đặc
thù riêng đó là việc hình thành mục đích học tập hướng đến là để thay đổi chính
chủ thể ở đây là người học. Và mục đích này chỉ có thể được bắt đầu hình thành
khi chủ thể bắt đầu bắt tay vào thực hiện hành động học tập của mình. Trên con
đường chiếm lĩnh đối tượng nó luôn diễn ra quá trình chuyển hoá giữa mục đích và
phương tiện học tập. Mục đích để chiếm lĩnh các mục đích tiếp theo.
1.1.6.3. Sự hình thành các hành động học tập
Học tập là một quá trình do đó khi nói đến hoạt động học tập phải nói đến sự
hình thành các hành động học tập. Hành động học ở đây được hiểu là hành động
trí óc, nhằm chiếm lĩnh tri thức. Hành động học có rất nhiều các hành động khác
nhau, và bản chất nhất, cơ bản nhất có các hành động chính sau: hành động phân
tích (tìm ra nguồn gốc nội tại, cấu trúc lôgíc của đối tượng), hành động mô hình
hoá (giúp con người diễn đạt các khái niệm một cách trực quan, nó bao gồm mô
hình gần giống với vật thật, mô hình tượng trưng, mô hình mã hoá, nó được dùng
nhiều trong sinh học…), hành động cụ thể hoá (nhằm vận dụng giúp người học
hiểu được rõ nhất bản chất của vấn đề, giải quyết những vấn đề trong mối liên hệ
cụ thể từng lĩnh vực.
1.2. Các hình thức học tập của học sinh ngoài giờ chính khóa
1.2.1. Các dạng hoạt động học tập của học sinh
Hoạt động học tập của học sinh có tính chất độc đáo về mục đích và kết quả

hoạt động. Đó là, khác với lao động, học tập không làm thay đổi đối tượng mà thay
đổi chính bản thân mình. Học sinh học tập để tiếp thu các giá trị đạo đức, lối sống,
văn hóa, các tri thức khoa học nhằm hình thành, phát triển những phẩm chất nhân
cách người lao động kiểu mới, phát triển toàn diện và có năng lực làm chủ tập thể.
13
Trong thực tiễn, hoạt động học tập của học sinh được tiến hành theo hai
dạng: học tập trong giờ chính khóa (nội khóa) và học ngoài giờ chính khóa
(ngoại khóa)
Trong đó, học tập trong giờ chính khóa vẫn là dạng hoạt động học tập chủ
yếu nhất, hình thức học tập nội khóa cung cấp những kiến thức cơ bản, cần thiết
nhất cho học sinh. Và hình thức dạy học kiểu lớp bài vẫn là hình thức dạy học cơ
bản. Trong hình thức học chính khóa, “hoạt động học tập của học sinh được diễn
ra trong điều kiện có kế hoạch, phụ thuộc vào nội dung, chương trình, mục tiêu,
phương thức và thời gian trên lớp. Trong một tiết học, mỗi công việc, mỗi hành
động, mỗi lời nói, mỗi thái độ của thầy giáo lúc lên lớp đều được quy định bởi một
tiêu chuẩn chung: thông qua một khối lượng kiến thức SGK đã được quy định
trong chương trình trong phạm vi thời gian của một tiết lên lớp, thầy xây dựng
được nhiều nhất, chắc chắn nhất cái đáng xây trong tâm hồn, trí tuệ của học sinh,
theo yêu cầu của mục tiêu đào tạo những người lao động kiểu mới”. [9, tr. 232].
Xã hội ngày càng phát triển và biến đổi từng ngày, kiến thức giảng dạy năm
nay chưa hẳn phù hợp cho ngày hôm sau. Vì vậy giáo viên phải học hỏi thường
xuyên để cải tiến, để theo kịp với thời gian, với biến chuyển không ngừng của khoa
học kĩ thuật và đặc biệt là theo kịp với tâm lý và thái độ của tuổi học trò biến
chuyển không ngừng và bất thường. Tôi xin mượn lời của viện sĩ Xukhômlinxki để
nói lên tầm quan trọng của việc giáo viên cần tích cực trau dồi tri thức: “Khi nào
tầm hiểu biết của giáo viên rộng hơn chương trình ở nhà trường một cách vô bờ
bến, thì lúc đó giáo viên mới là người thợ cả lành nghề, một nghệ sĩ, một nhà thơ
của quá trình sư phạm”.
Tuy nhiên, các bài giảng chính khoá có giới hạn của chúng, giáo viên chỉ
nêu lên những vấn đề cốt lõi, cơ bản. “Phạm vi một giờ lên lớp không cho phép

người dạy truyền đạt hết tất cả những vấn đề mà việc dạy học phải hướng đến.
Chính vì vậy người thầy giáo còn phải là người thông thạo việc tổ chức các hoạt
động ngoài giờ chính khoá để hướng dẫn, gợi mở học sinh biết tự nghiên cứu, tự
học hỏi để khuyến khích hỗ trợ phát triển kiến thức sách giáo khoa cũng như phát
14
triển tài năng riêng của họ” [29, tr. 165]. Bởi lẽ, mỗi trang sách giáo khoa không
chỉ chứa đựng những kiến thức tường minh về những đối tượng và những sự kiện
toán học nhất định mà học sinh phải nắm vững mà còn chứa đựng những kiến thức
ẩn tàng.
Những hoạt động học tập ngoài giờ chính khóa sẽ bổ sung và nâng cao
chất lượng của việc học chính khóa lên một bước. Không chỉ vậy, nó còn đòi hỏi
học sinh phải vận dụng những kiến thức đã học ở lớp chính khóa một cách tổng
hợp, đầy đủ, linh hoạt, nhạy bén. Qua đó, các kiến thức sẽ được liên hệ với thực
tiễn sinh động.
1.2.2. Các dạng hoạt động học tập chủ yếu của học sinh ngoài giờ chính khóa
1.2.2.1. Hoạt động học tập ở nhà với đặc trưng là cá nhân tự học
Theo Phạm Đình Khương [12, tr. 6]: “Trong tác phẩm “Học tập: một kho
báu tiềm ẩn” có khẳng định: học tập suốt đời là một trong những chìa khóa nhằm
vượt qua thách thức của thế kỉ XXI, học tập suốt đời, sẽ giúp con người đáp ứng
được những yêu cầu của một thế giới thay đổi nhanh chóng. Không thể thõa mãn
những đòi hỏi đó được nếu người học không học cách học. “Học cách học” chính
là học cách tự học, tự đào tạo”.
“Phát huy tính tích cực học tập một cách chủ động, sáng tạo được xem như
một nguyên tắc của quá trình dạy học, đã được nói đến từ lâu và được phát triển
mạnh mẽ trên thế giới từ các thập kỷ 60, 70 của thế kỷ XX. Ở nước ta, vấn đề này
cũng được đặt ra từ những năm 60 và được xác định là một trong những định
hướng của cải cách giáo dục triển khai ở các trường phổ thông từ năm 1980. Muốn
phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của người học thì cần rèn luyện PP học
tập cho HS, coi đây không chỉ là phương tiện nâng cao hiệu quả dạy học mà là
mục tiêu quan trọng của dạy học. Trong thời đại “bùng nổ thông tin” hiện nay, do

sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, sự gia tăng
nhanh chóng và thường xuyên của khối lượng thông tin, tri thức thì việc dạy
không thể hạn chế ở chức năng dạy kiến thức, mà phải tăng cường dạy cho học
sinh PP học, thời gian học ở nhà trường lại có hạn nên đòi hỏi con người phải có
15
những thái độ và năng lực cần thiết để tự định hướng, tự cập nhật và làm giàu tri
thức của mình nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Những đòi hỏi đó là:
con người phải có thói quen học tập suốt đời và phải tự học chứ không phải chỉ là
học trong nhà trường.
Nói tới phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học, đó là cầu nối
giữa học tập và nghiên cứu khoa học”. [12, tr. 7]
Để việc học tập mang lại hiệu quả tốt, người học sinh không chỉ học tập trên
lớp, mà việc tự học ở nhà cũng rất cần thiết và quan trọng. Thời gian tự học ở nhà
sẽ là lúc để học sinh có điều kiện tự mình nghiền ngẫm, tự do khám phá, đào sâu
hay mở rộng vấn đề học tập cũng như là lúc để các em tự giác, chủ động để giải
quyết các bài tập về nhà, các nhiệm vụ học tập của thầy cô giao phó theo yêu cầu,
với một phong cách riêng và với tốc độ thích hợp. Đó cũng là lúc học sinh tự mình
đào sâu suy nghĩ, đặt ra những câu hỏi, lật lại vấn đề nếu chưa thấy hài lòng với
những kiến thức giáo viên truyền đạt để xem giáo viên dạy có đúng không, sách
viết có đúng không. Nghĩa là luôn luôn có óc hoài nghi khoa học, thích tìm hiểu,
khám phá, không thụ động chấp nhận một cách máy móc những gì thầy cô dạy.
Điều đó không những giúp học sinh nắm vấn đề một cách chắc chắn và bền vững,
bồi dưỡng phương pháp học tập và kỹ thuật vận dụng tri thức mà còn là dịp tốt để
HS rèn luyện ý chí và năng lực hoạt động độc lập, sáng tạo. Đó là những điều
không ai cung cấp được cho học sinh nếu các em không thông qua hoạt động bản
thân. Năng lực tự học là phẩm chất cần thiết và thành đạt lâu dài của mỗi con
người.
1.2.2.2. Hoạt động học tập theo nhóm ở nhà hay là học tập trong hợp tác ở
nhà (có hướng dẫn của giáo viên)
Tục ngữ có câu: “Học thầy không tày học bạn”. Trong học tập, không phải

mọi tri thức, kỹ năng, thái độ đều được hình thành bằng những hoạt động độc lập
cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ
hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua
thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay
16
bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Mặt khác, ở giai đoạn
tuổi trung học, tình bạn là một điều rất thiêng liêng và có ảnh hưởng rất lớn. Vì
vậy người giáo viên cần quan tâm khai thác tính hiệu quả của việc kết hợp học
tập cá thể với học tập hợp tác, cần chú ý đến điều phối, dẫn dắt các mối quan hệ
trong lớp, để học sinh có thể hứng thú học khi cùng bạn bè đi khám phá tri thức.
Chẳng hạn như xây dựng và tổ chức các tình huống dạy học mang tính hợp tác để
học sinh làm việc theo nhóm, thành lập các nhóm học tiến có hạt nhân là một số
em có năng lực học tập khá để làm cầu nối giữa giáo viên với nhóm, phân công
việc theo nhóm…
Trong nhà trường, phương pháp học tập được tổ chức cấp nhóm, tổ, lớp hoặc
trường. Được phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác trong nhóm nhỏ 4 đến 6
người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết những
vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn
thành nhiệm vụ chung. “Sự tranh luận sôi nổi, thẳng thắn giữa các thành viên sẽ
góp phần làm sáng tỏ những nội dung và biện pháp giải quyết đối với các vấn đề
đã được lựa chọn. Thảo luận là cái rây để sàng lọc ra sự thật” [21, tr. 100]. Thông
qua hoạt động theo nhóm, tổ, tính cách, năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ,
uốn nắn; phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, cách thức làm việc tập thể, tinh thần
tương trợ.
“Cần lưu ý là việc học nhóm, tổ không thể thay thế được việc học tập, nghiên
cứu cá nhân. Kết quả học tập, nghiên cứu của nhóm tổ phụ thuộc vào mỗi cá nhân.
Chỉ khi nào, mỗi học sinh phát huy cao độ tinh thần độc lập, suy nghĩ về những
vấn đề cần đưa ra học tập, nghiên cứu thì khi đó, việc học nhóm tổ mới phát huy
được tác dụng. Cần chống tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào người khác”. [21, tr. 99].
1.2.2.3. Hoạt động ngoại khóa Toán học

Trong xu hướng đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, thực hiện phong
trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, trong những năm
gần đây hoạt động ngoại khóa hầu hết được các trường phổ thông triển khai mạnh
mẽ. Các chủ điểm sinh hoạt ngoại khóa đã thu hút rất đông đủ học sinh tham dự.

×