Nhóm 3:
Lê Nguyễn Thiên Kim 90901320
Phạm Công Hoài Vũ 90903361
Võ Lý Huy 90904253
Hoàng An Nghiệp 90904410
Nguyễn Thị Ngọc Linh 90904336
Nguyễn Ngọc Bình 90904045
LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH TÀI NGUYỆN NƯỚC
1. Tầm quan trọng của tài nguyên nước
“Nước là tài nguyên quan trọng nhất của loài người và sinh vật trên trái đất. Viện sĩ
Xiđorenko khẳng định “nước là khoáng sản quý hơn các loại khoáng sản”. Vai trò quan
trọng của nước thể hiện rõ nét trong tất cả mọi mặt của đời sống con người: nước chiếm
99% trọng lượng sinh vật sống trong môi trường nước và 44% trọng lượng cơ thể con
người, ngoài chức năng tham gia vào chu trình sống trên, nước còn mang năng lượng (hải
triều, thuỷ năng, chất mang vật liệu và là tác nhân quan trọng điều hoà khí hậu, thực hiện
các chu trình tuần hoàn vật chất trong tự nhiên. Có thể nói, sự sống của con người và mọi
sinh vật trên trái đất phụ thuộc vào nước.
Hiện nay, sự suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên đang diễn ra với mức độ nghiêm
trọng, trong đó có nguồn tài nguyên nước. Với những ý nghiã to lớn như vậy, nguồn tài
nguyên nước luôn là điều kiện cần cho tất cả mọi hoạt động diễn ra trên trái đất, nhưng
có một thực tế, đây cũng chính là nguồn tài nguyên bị con người lạm dụng nhiều nhất, và
luôn ảo tường về tính vô tận của nó.trên trái đất, 97% lượng nước là nước mặn, 2% nước
ngọt tập trung ở 2 cực, 0,6% là nước ngầm, còn lại là nước sông hồ. Trong những năm
gần đây do sự bùng nổ về dân số. Tài nguyên thiên nhiên như rừng bị khai thác cạn kiệt,
điều kiện kinh tế xã hội phát triển mạnh, yêu cầu dùng nước ngày càng tăng, chất thải
trong nông nghiệp, công nghiệp và trong đời sống xã hội ngày càng nhiều, sự tác động
của con người vào thiên nhiên ngày càng mạnh, cộng với thiên nhiên ngày càng biến đổi
khắc nghiệt dẫn đến tình trạng nguồn nước ngày càng khan hiếm, cạn kiệt. Nếu trong thời
gian này chúng ta không nhìn nhận nước là tài nguyên quý giá, phải có biện pháp bảo vệ
sẽ dẫn đến tình trạng chiến tranh để giành nguồn nước phục vụ cuộc sống.
2. 4 nguyên tắc Dulin
Các nguyên tắc về nước và phát triển bền vững của Hội nghị quốc tế Dublin năm 1992
như sau:
- Nước được coi là một loại hàng hóa, các quyết định đầu tư then chốt về một loại dự án
phải được xây dựng dựa trên những yêu cầu chung của người dùng.
- Quản lý nước phải được chú trọng tại cấp thấp nhất thích hợp.
- Phải áp dụng một tiếp cận tổng thể trong sử dụng nước.
- Vai trò của phụ nữ trong quản lý nước là rất quan trọng.
3. Hiện trạng tài nguyên nước Việt Nam
Nước ta có khoảng 830 tỷ m
3
nước mặt trong đó chỉ có 310 tỷ m
3
được tạo ra do mưa rơi
trong lãnh thổ Việt Nam chiếm 37% còn 63% do lượng mưa ngoài lãnh thổ chảy vào.
Tổng trữ lượng tiềm tàng khả năng khai thác nước dưới đất chưa kể phần hải đảo ước
tính khoảng 60 tỷ m
3
/năm. Trữ lượng nước ở giai đoạn tìm kiếm thăm dò sơ bộ mới đạt
khoảng 8 tỷ m
3
/năm (khoảng 13% tổng trữ lượng).
Nếu kể cả nước mặt và nước dưới đất trên phạm vi lãnh thổ thì bình quân đầu người đạt
4400 m
3
/người, năm (Thế giới 7400m
3
/người, năm). Theo chỉ tiêu đánh giá của Hội Tài
nguyên nước Quốc tế IWRA thì quốc gia nào dưới 4000m
3
/người, năm là quốc gia thiếu
nước. Như vậy, nước ta là một trong những nước đang và sẽ thiếu nước trong một tương
lai rất gần (Thực tế nếu kể cả lượng nước từ các lãnh thổ nước ngoài chảy vào thì Việt
Nam trung bình đạt khoảng 10.600m
3
/người, năm). Lượng nước sản sinh từ ngoài lãnh
thổ chiếm xấp xỉ 2/3 tổng lượng nước có được, rất khó chủ động, thậm chí không sử dụng
được. Sự phân bố của cả nước mặt lẫn nước dưới đất rất không đều. Theo không gian, nơi
có lượng mưa nhất là Bạch Mã 8000mm/năm, Bắc Quang, Bà Nà đạt khoảng
5000mm/năm, trong khi Cửa Phan Rí chỉ đạt xấp xỉ 400mm/năm. Theo thời gian, mùa lũ
chỉ kéo dài từ 3- 5 tháng nhưng chiếm tới 70- 85% lượng nước cả năm. Mùa lũ, lượng
mưa một ngày lớn nhất đạt trên 1500mm/ngày song mùa cạn tồn tại hàng nhiều tháng
không có giọt mưa nào. Mưa, lũ đạt kỷ lục trong vùng Đông Nam Á là ven biển Miền
Trung. Hạn hán xảy ra nghiêm trọng. Điều đó cần phải tích nước trong mùa lũ để điều
tiết bổ sung mùa cạn là giải pháp tích cực nhất, quan trọng nhất.Nước ta có khoảng 2360
con sông có chiều dài lớn hơn 10 km. Trong số 13 lưu vực sông chính và nhánh có diện
tích lớn hơn 10.000 km
2
thì có đến 10/13 sông có quan hệ với các nước láng giềng, trong
đó có 3/13 sông thượng nguồn ở Việt Nam, hạ nguồn chảy sang nước láng giềng, 7 sông
thường nguồn ở nước láng giềng, hạ nguồn ở Việt Nam. Điều này Việt Nam không
những bị ràng buộc nguồn lợi về nước của quốc gia thứ hai, thứ ba… chia sẻ, đồng thuận.
Tổng lượng nước năm ứng với p = 75% khoảng 720 tỷ m
3
, tổng lượng nước mùa cạn có
khoảng 170 tỷ m
3
(kể cả 30 tỷ m
3
điều tiết từ các hồ chứa tính đến năm 2010). Tổng nhu
cầu nước năm 2010 là 110 tỷ m
3
, trong mùa cạn khoảng 85 tỷ m
3
(chưa kể đến lưu lượng
nước đảm bảo môi trường sinh thái hạ lưu). Nếu quản lý không tốt thì đến năm 2010 khả
năng thiếu nước đã rõ ràng vào từng nơi, từng thời kỳ, đặc biệt là các vùng Ninh Thuận,
Bình Thuận, Daklak, Daknông, ĐBSCL, Trung du S. Thái Bình và sông Hồng và dải ven
biển.
Không những nguồn nước mặt mà nguồn nước ngầm cũng đang ở trong tình trạng bị suy
thoái nghiêm trọng. Đặc biệt là hàm lượng asen trong các mẫu nước ngầm điển hình như
khu vực đồng bằng Bắc bộ nói chung đều cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn cho phép.
Trong khi đó việc khai thác nước ngầm cũng chưa có quy hoạch hoàn chỉnh, tình trạng
người dân tự khoan giếng diễn ra khắp nơi nên tình trạng ô nhiễm ngày càng nghiêm
trọng.
Dân số tăng, chỉ số lượng nước trên đầu người giảm. Năm 1943 là 16.641 m
3
/người, nếu
dân số nước ta tăng lên 150 triệu người thì chỉ còn đạt 2467 m
3
/người, năm xấp xỉ với
những quốc gia hiếm nước. Theo Cục Bảo vệ môi trường, chất lượng nước 3 LVS Cầu,
Nhuệ - Đáy, Đồng Nai - Sài Gòn đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Thậm chí có những đoạn
sông thuộc 3 LVS trên đã "chết" hoàn toàn, nhất là ở các vùng hạ lưu. Trên LVS Nhuệ -
Đáy, các sông ở nội thành Hà Nội, sông Nhuệ từ thị xã Hà Đông đến thị xã Phủ Lý bị ô
nhiễm rất nghiêm trọng. Trên LVS Đồng Nai - Sài Gòn, đoạn hạ lưu sông Đồng Nai,
sông Sài Gòn, sông Thị Vải tồn tại nhiều đoạn sông "chết". Các LVS bị ô nhiễm nặng
chủ yếu là do nước thải từ sinh hoạt, sản xuất công nghiệp, các làng nghề, bệnh viện, sản
xuất nông nghiệp và thủy sản, chất thải rắn, khai thác khoáng sản…Theo Cục Thủy lợi
(Bộ Nông nghiệp và PTNT), TNN trên LVS Hồng cũng đang suy giảm về số lượng, bởi
vì mực nước sông Hồng đang ngày càng hạ thấp hơn vào mùa kiệt. Mùa khô 2004 - 2005
mực nước sông Hồng xuống tới mức 1,36m - thấp nhất trong vòng 100 năm qua. Mùa
khô 2006 - 2007, mực nước sông Hồng xuống tới 1,12m - mức thấp nhất kể từ khi có
trạm quan trắc trên sông Hồng.
4. Một số văn bản pháp luật về Tài nguyên nước
179/1999/NĐ-CP Nghị định Thi hành Luật Tài nguyên nước ban hành ngày 26/02/2008.
117/2007/NĐ-CP Nghị định về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch ban hành ngày
11/07/2007.
120/2008/NĐ-CP Nghị định của chính phủ về quản lí lưu vực sông ngày 01/12/2008.
34/2005/NĐ-CP Nghị định của Chính phủ Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực tài nguyên nước.
149/2004/NĐ-CP Nghị định về Cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước,
xả nước thải vào nguồn nước ban hành ngày 27/07/2004.
162/2003/NĐ-CP Nghị định về Ban hành Quy chế thu thập, quản lý, khai thác, sử dụng
dữ liệu, thông tin về tài nguyên nước ban hành ngày 19/12/2003.
25/2009/NĐ-CP Nghị định Về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển
đảo.
179/2002/NĐ-CP Nghị định Quy định việc thi hành Luật Tài nguyên nước ban hành ngày
30/12/1999
67/2003/NĐ-CP Nghị định Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ngày
13/06/2003
112/2008/NĐ-CP Nghị định của Chính phủ về quản lý, bảo vệ, khai thác tổng hợp tài
nguyên và môi trường các hồ chứa thuỷ điện, thuỷ lợi ngày 20/10/2008.
567/QĐ-TTg Quyết định của Thủ tướng chính phủ về việc cử Uỷ viên thường trực hội
đồng quốc gia về tài nguyên nước ban hành ngày 30/10/2007.
42/QĐ-TNN Quyết định về việc thành lập Văn phòng tiếp nhận và trả kết quả tại Cục
quản lý tài nguyên nước.
59/2006/QĐ-BTC Quyết định Về việc quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử
dụng phí thẩm định, lệ phí cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả
nước thải vào nguồn nước và hành nghề khoan nước dưới đất.
17/2006/QĐ-BTNMT Quyết định Ban hành Quy định về việc cấp phép hành nghề khoan
nước dưới đất ban hành ngày 12/10/2006.
1115/QĐ-BTNMT Quyết định về việc phê duyệt Đề án: “Gỉam thiểu tác hải của Arsenic
trong nguồn nước sinh hoạt ở Việt Nam”.
969/QĐ-BTNMT Quyết định 969/QĐ- BTNMT về việc ủy quyền cho Cục trưởng Cục
Quản lý tài nguyên nước cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước và hành
nghề khoan nước dưới đất.
81/2006/QĐ-TTg Quyết định Phê duyệt Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm
2020 ban hành ngày 14/04/2006.
23/2012/QĐ-UBND Quyết định ban hành Quy định về quản lý tài nguyên nước (TNN)
trên địa bàn tỉnh Kiên Giang ban hành ngày 17/9/2012
37/2012/QĐ-UBND Quyết định Sửa đổi, bổ sung một số điều quy định về quản lý tài
nguyên nước trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
32/2011/TT-BTNMT Thông tư Quy định quy trình quan trắc chất lượng nước mưa ban
hành ngày 01/08/2011.
30/2011/TT-BTNMT Thông tư Quy định quy trình kỹ thuật quan trắc môi trường nước
dưới đất ban hành ngày 01/08/2011.
26/2009/TT-BTNMT Thông tư Quy định về định mức kinh tế - kỹ thuật điều tra, đánh
giá tài nguyên nước ban hành ngày 30/11/2009.
05/2005/TT-BTNMT Thông tư Hướng dẫn thi hành Nghị định số 34/2005/NĐ-CP ngày
17/03/2005 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài
nguyên nước ban hành ngày 22/07/2005.
02/2005/TT-BTNMT Thông tư Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 149/2004/NĐ-CP
ngày 27 tháng 7 năm 2004 của Chính phủ quy định việc cấp phép thăm dò, khai thác, sử
dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước ban hành ngày 24/06/2005.
18/2004/TT-BTNMT Thông tư Về việc hướng dẫn thực hiện Nghị định số 109/2003/NĐ-
CP ngày 23 tháng 9 năm 2003 của Chính phủ về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng
đất ngập nước ban hành ngày 25/08/2004.
03/1999/TTLT/BXD-BVGCP Thông tư liên tịch Về việc hướng dẫn phương pháp định
giá và thẩm quyền quyết định giá tiêu thụ nước sạch đô thị, khu công nghiệp, cụm dân cư
nông thôn ban hành ngày 16/06/1999.
5. Luật Tài nguyên nước năm 1998
Luật Tài nguyên Nước được ban hành vào ngày 20 tháng 5 năm 1998. Sau 12 năm thi
hành luật, nhiều quy định của Luật đã được triển khai trên thực tế và đạt nhiều kết quả
khả quan, đặc biệt là đã khai thác sử dụng tốt hơn nguồn nước để đáp ứng yêu cầu phát
triển Kinh tế - Xã hội của đất nước
Công tác quản lý Nhà nước về tài nguyên nước đã có nhiều tiến bộ và từng bước đi vào
nề nếp từ sau khi thành lập Bộ Tài nguyên Môi trường, hệ thống Văn bản quy phạm pháp
luật được bổ sung hoàn thiện, công tác thanh tra, kiểm tra được tăng cường.
Sau mười hai năm thi hành Luật, nhiều quy định của Luật đã được triển khai trên thực tế
và đạt nhiều kết quả khả quan, đặc biệt là đã khai thác, sử dụng tốt hơn các nguồn nước
để đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Công tác quản lý nhà
nước về tài nguyên nước có nhiều tiến bộ và từng bước đi vào nề nếp, nhất là từ sau khi
thành lập Bộ Tài nguyên và Môi trường: hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã được
bổ sung, hoàn thiện thêm một bước để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý và đòi hỏi từ
thực tiễn; công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực tài nguyên nước được tăng cường
hơn trước; công tác cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn
nước và hành nghề khoan nước dưới đất cũng được triển khai đồng bộ ở cả trung ương và
địa phương, v.v
Tuy nhiên, thực tế thi hành Luật tài nguyên nước năm 1998 trong thời gian qua cho thấy
còn một số tồn tại, bất cập, cụ thể là:
- Các quy định về khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống và khắc phục
hậu quả tác hại do nước gây ra liên quan trực tiếp đến quy định của nhiều văn bản pháp
luật thuộc các lĩnh vực khác như: Đầu tư, Bảo vệ môi trường, Đất đai, Khoáng sản, Thuế
tài nguyên, v.v Trong khi các văn bản pháp luật thuộc các lĩnh vực này đã được sửa đổi,
bổ sung hoặc ban hành mới thì các quy định có liên quan của pháp luật về tài nguyên
nước vẫn chưa được điều chỉnh, bổ sung để đồng bộ;
- Nhiều quy định của Luật tài nguyên nước năm 1998 đã không còn phù hợp với thực tế,
gây khó khăn, bất cập trong quá trình thực hiện; một số quan hệ mới trong khai thác, sử
dụng, bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra
phát sinh trong thực tiễn cần được bổ sung vào nội dung của Luật; nhiều quy định đã
được kiểm nghiệm qua thực tiễn thi hành, nhưng mới chỉ được thể hiện trong các văn bản
dưới luật nên tính pháp lý còn thấp;
- Các quy định về cấp phép tài nguyên nước (về điều kiện cấp giấy phép, quyền và nghĩa
vụ của tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép về tài nguyên nước) chưa chặt chẽ;
- Luật chưa quy định đầy đủ, toàn diện một số nội dung rất quan trọng của quản lý tài
nguyên nước, như: quy hoạch tài nguyên nước; quản lý lưu vực sông; điều hoà, phân bổ
nguồn nước một cách hợp lý, cân bằng lợi ích kinh tế - xã hội - môi trường; sử dụng nước
tiết kiệm, hiệu quả; duy trì dòng chảy tối thiểu trên sông, ngưỡng giới hạn khai thác nước
dưới đất. Luật cũng chưa điều chỉnh đầy đủ hoặc rõ các vật thể chứa nước, các công trình
điều tiết nước và nguyên tắc vận hành các công trình đó;
- Tài nguyên nước là tài sản quốc gia, là tài nguyên đặc biệt quan trọng, bảo đảm phát
triển kinh tế - xã hội bền vững và bảo vệ môi trường nhưng chưa có biện pháp, cơ chế
quản lý phù hợp, chưa thực sự coi tài nguyên nước là một loại tài sản; thiếu các quy định,
công cụ, biện pháp kinh tế, tài chính để tăng cường trách nhiệm của tổ chức, cá nhân
trong hoạt động khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước nên tình trạng khai thác, sử
dụng còn lãng phí, thiếu hiệu quả và không bền vững còn phổ biến;
- Trong những năm gần đây, nhận thức về tầm quan trọng của tài nguyên nước đối với
phát triển bền vững có sự chuyển biến rõ rệt so với trước. Theo đó, đã đặt ra yêu cầu phải
quản lý bền vững và hiệu quả hơn các hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên
nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra; quản lý tài nguyên
nước bước đầu đã theo phương thức tổng hợp, sử dụng đa mục tiêu và phải gắn với các
tài nguyên thiên nhiên khác. Phương thức quản lý tổng hợp tài nguyên nước đã được áp
dụng thành công ở một số nước trên thế giới và ngày càng chứng tỏ là một phương thức
quản lý hiệu quả, được nhiều quốc gia nghiên cứu áp dụng. Ở nước ta, Chiến lược quốc
gia về tài nguyên nước đến năm 2020 cũng đã đề cập đến quản lý tổng hợp tài nguyên
nước, tuy nhiên, Luật tài nguyên nước hiện hành chưa thể hiện đầy đủ và đúng mức
phương thức quản lý này.
Thực hiện Nghị quyết số 48/2010/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2010 của Quốc hội về
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011, điều chỉnh Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh năm 2010 và bổ sung Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc
hội nhiệm kỳ khóa XII, Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì xây
dựng Dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Ngày 21 tháng 6 năm 2012, tại kỳ họp thứ
3, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật tài nguyên nước. Luật đã tập trung xử lý các tồn
tại nêu trên, thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng, chiến lược phát triển đất nước
có liên quan đến tài nguyên nước và thể hiện quan điểm hiện đại của thế giới về quản lý
tổng hợp tài nguyên nước.
Trong bối cảnh 2/3 lượng nước của nước ta là từ nước ngoài chảy vào, các quốc gia
thượng nguồn đang tăng cường hoạt động khai thác, sử dụng nước, biến đổi khí hậu,
nước biển dâng, cùng với việc sử dụng nước lãng phí, kém hiệu quả, công tác bảo vệ
các nguồn nước chưa đáp ứng yêu cầu dẫn đến tình trạng khan hiếm nước, thiếu nước, ô
nhiễm nguồn nước ngày càng gia tăng, đồng thời là nguy cơ lớn trong việc bảo đảm an
ninh nguồn nước quốc gia, thì việc sửa đổi, bổ sung toàn diện và ban hành Luật tài
nguyên nước để khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên nhằm tăng cường hiệu lực
quản lý nhà nước về tài nguyên nước, bảo vệ vững bền nguồn nước quốc gia, sử dụng
nước tiết kiệm, hiệu quả và phòng, chống tác hại do nước gây ra được tốt hơn có ý nghĩa
hết sức quan trọng và cần thiết.
6. Luật Tài Nguyên nước 2012
Luật tài nguyên nước gồm 10 chương với 79 điều, quy định việc quản lý, bảo vệ, khai
thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây ra trên
lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luật không điều chỉnh đối với nước
khoáng, nước nóng thiên nhiên và nước biển thuộc vùng thềm lục địa, vùng đặc quyền
kinh tế của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bên cạnh đó, những vấn đề về lũ,
lụt và các tác hại khác của nước do thiên tai gây ra được điều chỉnh bằng pháp luật khác.
Cụ thể các chương của Luật như sau:
Chương I. Những quy định chung
Chương II. Điều tra cơ bản, chiến lược, quy hoạch tài nguyên nước
Chương III. Bảo vệ tài nguyên nước
Chương IV. Khai thác, sử dụng tài nguyên nước
Chương V. Phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra
Chương VI. Tài chính về tài nguyên nước
Chương VII. Quan hệ quốc tế về tài nguyên nước
Chương VIII. Trách nhiệm quản lý tài nguyên nước
Chương IX. Thanh tra chuyên ngành tài nguyên nước, giải quyết tranh chấp về tài
nguyên nước
Chương X. Điều khoản thi hành
Nội dung chính của Luật Tài nguyên nước 2012
- Chương I. Những quy định chung: gồm 9 điều (từ Điều 1 đến Điều 9)
Nội dung chương này quy định về: phạm vi điều chỉnh của Luật; giải thích từ ngữ;
nguyên tắc quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc
phục hậu quả tác hại do nước gây ra; chính sách của Nhà nước về tài nguyên nước; phổ
biến, giáo dục về tài nguyên nước; lấy ý kiến của cộng đồng dân cư và các tổ chức, cá
nhân liên quan trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước;
danh mục lưu vực sông, danh mục nguồn nước;lưu trữ, sử dụng thông tin về tài nguyên
nước và các hành vi bị nghiêm cấm.
- Chương II. Điều tra cơ bản, chiến lược, quy hoạch tài nguyên nước: gồm 2 mục, 15
điều (từ Điều 10 đến Điều 24)
Mục 1. Điều tra cơ bản tài nguyên nước, gồm 4 điều quy định về: trách nhiệm của Nhà
nước trong điều tra cơ bản tài nguyên nước; quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài
nguyên nước; các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên nước và tổ chức thực hiện điều tra
cơ bản tài nguyên nước.
Mục 2. Chiến lược, quy hoạch tài ngưyên nước, gồm 11 điều quy định về: chiến lược tài
nguyên nước; các loại quy hoạch tài nguyên nước; nguyên tắc, căn cứ lập quy hoạch tài
nguyên nước; nội dung của quy hoạch tài nguyên nước chung của cả nước, quy hoạch tài
nguyên nước lưu vực sông liên tỉnh và quy hoạch tài nguyên nước của tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương; nhiệm vụ quy hoạch tài nguyên nước; lập, phê duyệt, điều chỉnh
quy hoạch tài nguyên nước; công bố, tổ chức thực hiện quy hoạch tài nguyên nước và
quy định điều kiện của đơn vị tư vấn lập quy hoạch tài nguyên nước.
- Chương III. Bảo vệ tài nguyên nước: gồm 14 điều (từ Điều 25 đến Điều 38)
Nội dung của Chương này quy định về: trách nhiệm bảo vệ tài nguyên nước; phòng,
chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước; ứng phó, khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn
nước và phục hồi nguồn nước bị ô nhiễm, cạn kiệt; quan trắc, giám sát tài nguyên nước;
bảo vệ và phát triển nguồn sinh thủy; bảo đảm sự lưu thông của dòng chảy; hành lang bảo
vệ nguồn nước; bảo vệ chất lượng nguồn nước sinh hoạt; bảo vệ chất lượng nguồn nước
trong sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, sản xuất công nghiệp, khai thác khoáng
sản và các hoạt động khác; phòng, chống ô nhiễm nước biển; bảo vệ nước dưới đất; hành
nghề khoan nước dưới đất; xả nước thải vào nguồn nước; quyền và nghĩa vụ của tổ chức,
cá nhân được cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước.
- Chương IV. Khai thác, sử dụng tài nguyên nước: gồm 3 mục, 19 điều (từ Điều 39 đến
Điều 57)
Mục 1. Sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả: gồm 4 điều quy định về các biện pháp sử dụng
nước tiết kiệm, hiệu quả; hạn chế thất thoát nước trong các hệ thống cấp nước; ưu đãi đối
với hoạt động sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả; phát triển khoa học, công nghệ sử dụng
nước tiết kiệm, hiệu quả.
Mục 2. Khai thác, sử dụng tài nguyên nước: gồm 11 điều quy định về quyền, nghĩa vụ
của tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước; đăng ký, cấp phép khai thác, sử
dụng tài nguyên nước; khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho sinh hoạt và khai thác, sử
dụng tài nguyên nước cho sản xuất nông nghiệp, thủy điện, sản xuất muối và nuôi trồng
thủy sản, sản xuất công nghiệp, khai thác, chế biến khoáng sản, giao thông thủy và các
mục đích khác; thăm dò, khai thác nước dưới đất và quy định về hồ chứa, khai thác, sử
dụng nước hồ chứa.
Mục 3. Điều hoà, phân phối tài nguyên nước: gồm 4 điều quy định về điều hòa, phân
phối tài nguyên nước; chuyển nước lưu vực sông; bổ sung nhân tạo nước dưới đất và gây
mưa nhân tạo.
- Chương V. Phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra: gồm 6 điều (từ
Điều 58 đến Điều 63)
Nội dung Chương này quy định về: trách nhiệm, nghĩa vụ phòng, chống và khắc phục
hậu quả tác hại do nước gây ra; phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại của nước do
thiên tai gây ra; phòng, chống hạn hán, lũ, lụt, ngập úng nhân tạo; phòng, chống xâm
nhập mặn; phòng, chống sụt, lún đất; phòng, chống sạt, lở bờ, bãi sông.
- Chương VI. Tài chính về tài nguyên nước: gồm 2 điều (Điều 64 và Điều 65)
Chương này quy định về: nguồn thu ngân sách nhà nước từ hoạt động tài nguyên nước;
tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước nhằm tạo nguồn thu từ tài nguyên nước, bảo
đảm công bằng trong khai thác, sử dụng và nâng cao ý thức của tổ chức, cá nhân.
- Chương VII. Quan hệ quốc tế về tài nguyên nước: gồm 4 điều (Điều 66 đến Điều 69)
Chương này quy định các nội dung về: nguyên tắc áp dụng trong quan hệ quốc tế về tài
nguyên nước; trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích của Việt Nam đối với nguồn nước liên
quốc gia; hợp tác quốc tế trong quản lý và phát triển tài nguyên nước; giải quyết tranh
chấp, bất đồng về nguồn nước liên quốc gia.
- Chương VIII. Trách nhiệm quản lý tài nguyên nước: gồm 5 điều (từ Điều 70 đến Điều
74)
Nội dung tại Chương này bao gồm: trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên nước của
Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ; trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên nước của
Ủy ban nhân dân các cấp; điều phối, giám sát hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài
nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra trên lưu vực
sông; thẩm quyền cấp, gia hạn, điều chỉnh, đình chỉ, thu hồi giấy phép về tài nguyên
nước; Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước.
- Chương IX. Thanh tra chuyên ngành tài nguyên nước, giải quyết tranh chấp về tài
nguyên nước: gồm 2 điều (Điều 75 và Điều 76)
Chương này quy định về: thanh tra chuyên ngành tài nguyên nước; giải quyết tranh chấp
về tài nguyên nước.
- Chương X. Điều khoản thi hành: gồm 3 điều (từ Điều 77 đến Điều 79)
Chương này quy định về chuyển tiếp đối với giấy phép tài nguyên nước đã được
cấp và việc thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước; hiệu lực thi hành của Luật từ
1/1/2013 và việc quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật.
7. Điểm khác biệt giữa Luật năm 1998 và 2012
Giải thích từ ngữ để làm rõ tài nguyên nước không chỉ có nước mà bao gồm cả sông,
suối, hồ chứa để tránh bỏ sót đối tượng quản lý; quy định về lấy ý kiến cộng đồng dân
cư, tổ chức, cá nhân liên quan trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào
nguồn nước nhằm thực hiện chủ trương dân chủ hóa cơ sở, đề cao trách nhiệm của chủ
đầu tư dự án, minh bạch thông tin về những tác động tiêu cực có thể gây ra ngay từ khi
chuẩn bị thực hiện dự án; bổ sung quy định phân loại lưu vực sông, nguồn nước làm căn
cứ phân công, phân cấp quản lý và bổ sung quy định về phổ biến, giáo dục pháp luật.
Bổ sung quy định cụ thể về các biện pháp phòng chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt
nguồn nước và ứng phó, khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước; quy định giám sát tài
nguyên nước, các hoạt động khai thác, sử dụng nước và xả nước thải vào nguồn nước;
bảo vệ và phát triển nguồn sinh thủy; quy định hành lang bảo vệ nguồn nước, các biện
pháp bảo vệ lòng, bờ, bãi sông, bảo đảm sự lưu thông của dòng chảy
- Bổ sung các quy định về sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả; về quy hoạch, xây dựng và
khai thác, sử dụng nước hồ chứa, điều hòa, phân phối tài nguyên nước, các biện pháp hạn
chế khai thác nước dưới đất nhằm bảo đảm sử dụng nước tổng hợp, đa mục tiêu. Điều
chỉnh một số quy định về chuyển nước lưu vực sông, thăm dò, khai thác nước dưới đất,
các quy định về khai thác, sử dụng nước cho sinh hoạt, thủy điện và các mục đích khác.
- Điều chỉnh việc phòng chống và khắc phục hậu quả tác hại của nước do hoạt động liên
quan khai thác, sử dụng tài nguyên nước của con người gây ra như phòng chống hạn hán,
lũ lụt, ngập úng nhân tạo, xâm nhập mặn, sụt, lún đất, sạt lở bờ, bãi sông.
- Bổ sung trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND các cấp tại vùng biên
giới có nguồn nước liên quốc gia chảy qua trong việc theo dõi, giám sát, tổng hợp tình
hình về các nguồn nước liên quốc gia, kịp thời báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
hoặc cấp trên trực tiếp xử lý các vấn đề nhằm bảm đảo quyền và lợi ích của Việt Nam.
Nhà nước Việt Nam chủ động tham gia các tổ chức quốc tế về tài nguyên nước nhằm
thúc đẩy hợp tác, khai thác, sử dụng và phát triển bền vững nguồn nước liên quốc gia.
- Cụ thể trách nhiệm quản lý Nhà nước về tài nguyên nước của Bộ Tài nguyên và Môi
trường, các Bộ, ngành và chính quyền địa phương các cấp, thẩm quyền cấp phép về tài
nguyên nước; bổ sung về điều phối, giám sát, khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước
và phòng, chống tác hại do nước gây ra trên lưu vực sông nhằm đảm bảo tính hệ thống,
thống nhất của tài nguyên nước trên lưu vực sông và đề cao trách nhiệm của các Bộ,
ngành, địa phương liên quan trong việc giải quyết những vấn đề về tài nguyên nước trong
khuôn khổ lưu vực sông.
- Bổ sung quy định thanh tra chuyên ngành tài nguyên nước trực thuộc cơ quan quản lý
Nhà nước về tài nguyên nước và hoạt động theo quy định của Luật tài nguyên nước và
pháp luật về thanh tra; bổ sung cụ thể hơn về giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước.
Luật còn quy định tổ chức, cá nhân đang thực hiện khai thác tài nguyên nước phải nộp
tiền cấp quyền khai thác tàin guyên nước theo quy định của Luật đối với phần còn lại của
thời hạn ghi trong giấy phép. Kể từ ngày 01/1/2013, các tổ chức, cá nhân có giấy phép về
tài nguyên nước phải nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.
Bên cạnh nghe giới thiệu về những điểm mới của Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), đại
biểu còn được nghe các báo cáo viên trình bày báo cáo tham luận về những vấn đề như:
Thực trạng về tổ chức và hoạt động Lưu vực sông ở Việt Nam; quá trình thành lập, chức
năng và nhiệm vụ của Ủy ban bảo vệ Môi trường lưu vực sông Nhuệ - Đáy; chức năng và
thực trạng hoạt động của Ban Quản lý quy hoạch lưu vực sông Hồng - Thái Bình.
8. Hiện trạng quản lý tài nguyên nước ở Việt Nam
Thực chất công tác quản lý tổng hợp nguồn nước được đề cập và đưa vào thực tế Việt
Nam mới chỉ một đến hai thập kỉ trở lại đây.
Từ sau năm 1995,được sự quan tâm của Đảng, Chính phủ, sự cố gắng của các Bộ, các
ngành và sự hỗ trợ tích cực của các tổ chức quốc tế như Đan Mạch, Hà Lan, Úc, Nhật,
WB, ADB, IUCN…Việc quản lý tổng hợp tài nguyên nước ở Việt Nam đã được nâng lên
tầm cao mới và đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ.
Hiện nay, công tác quản lý tài nguyên nước ở Việt Nam được sơ bộ như sau:
Cấp Chính phủ
Việt Nam có 4 cấp hành chính Quốc gia:
+ Trung ương
+ Tỉnh, thành phố
+ Quận (thành thị), Huyện (nông thôn)
+ Phường (thành thị), xã (nông thôn)
Mỗi cấp hành chính đều có Hội đồng Nhân dân được bầu theo Khoá của UBND các cấp,
hoạt động và quyền hạn của các tổ chức này theo quy định chung. Việt Nam được chia ra
làm 63 tỉnh và thành phố.
Tư vấn cho Chính phủ về quản lý tài nguyên nước (theo luật Tài nguyên nước) còn có
Hội đồng Quốc gia về Tài nguyên nước. Văn phòng Hội đồng đặt tại Bộ TT&MT.
Cấp Bộ
Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ các bộ có liên quan đến tài nguyên nước bao
gồm:
+ Bộ Tài nguyên và Môi trường + Bộ Khoa học và Công nghệ
+ Bộ NN&PTNT + Bộ Xây Dựng
+ Bộ Kế hoạch và Đầu tư + Bộ Giao thông vận tải
+ Bộ Công Thương + Bộ Tài Chính
Cấp tỉnh
Giúp việc cho các tỉnh là các Sở chuyên ngành
Cấp lưu vực
Tổ chức Lưu vực sông đã được xác định trong Luật Tài nguyên nước với tên gọi là Ban
quản lý quy hoạch lưu vực sông. Đây là tổ chức có chức năng lập quy hoạch và quản lý
tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan trong lưu vực.
Ngoài ra để hỗ trợ cho công tác quản lý còn có các trường chuyên ngành, các Viện
nghiên cứu, Viện quy hoạch thuỷ lợi thực hiện các nghiên cứu khoa học, đào tạo nguồn
nhân lực và quy hoạch các lưu vực sông.
Việt Nam là nước đang phát triển, kinh nghiệm quản lý còn rất yếu, phương tiện quản lý
nghèo nàn, kinh phí đầu tư cho quản lý chưa đáp ứng…nên việc tăng cường hợp tác quốc
tế trong lĩnh vực quản lý rất được các cấp chính quyền quan tâm và đặc biệt cũng được
các nước và các tổ chức quốc tế tận tình giúp đỡ như Hà Lan, Đan Mạch, Úc, Nhật, WB,
ADB, GWP, UNICEF, UNIDO…Đối với lĩnh vực quản lý tổng hợp nguồn nước, hiệu
quả của sự hợp tác này thông qua các dự án mà họ tài trợ.
+ Dự án TA2871 ViE – Quản lý tổng hợp nguồn nước lưu vực sông Hồng
+ Dự án tăng cường năng lực quản lý tài nguyên nước ADB TA 3528 – ViE
+ Dự án hỗ trợ TNN do AusAID tài trợ
+ Dự án ADB-TA 3892VIE
+ Dự án hỗ trợ ngành nước (Water SPS) do DANIDA tài trợ
+ Dự án đánh giá ngành nước Việt Nam. Dự án đã đánh
Ngoài ra còn nhiều dự án do Uỷ ban quốc gia Mêkông thực hiện, các cuộc hội thảo trong
nước và nước ngoài do ADB, NARBO, MRC, WB và các tổ chức khác tổ chức nhằm
nâng cao trình độ quản lý về tổng hợp TNN.
9. Những vấn đề khó khăn khi thực hiện Luật
- Nhiều văn bản pháp quy về quản lý tổng hợp TNN do Nhà nước ban hành đã lâu đến nay
không phù hợp.
Ví dụ như Luật Tài nguyên nước năm 1998 không có sự đồng bộ và liên kết giữa các
ngành khác như Đầu tư, Khoáng sản, Nông nghiệp…
Nhiều quy định đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn thi hành nhưng mới chỉ được thể hiện
trong các văn bản dưới luật nên tính pháp lý còn thấp
Hoạt động khai thác, sử dụng bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống và khắc phục hậu quả
tác hại do nước gây ra chưa được đề cập tới.
- Các văn bản do các Bộ ban hành tuy nhiều nhưng còn mang nặng tính chuyên ngành, còn
chồng chéo nên khó thực hiện.
- Nhiều văn bản liên quan đến TNN mà các Bộ trình Chính phủ ký, do thiếu sự kiểm tra kỹ
lưỡng nên sau khi được ban hành, hiệu quả không cao.
- Trong gần một thập kỉ qua, do có sự chồng chéo về chức năng quản lý TNN giữa các Bộ,
nên đã xảy ra hiện tượng giành chức năng lẫn nhau.
- Các tổ chức lưu vực sông, Uỷ ban bảo vệ môi trường lưu vực được thành lập nhưng hoạt
động không có hiệu quả.
- Một số văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành Luật chậm được ban hành
Quản lý lưu vực sông là nội dung cốt lõi của quản lý tổng hợp và thống nhất tài nguyên
nước nhưng do sự phân công quản lý lưu vực sông có sự chồng chéo nên mãi đến tháng
12 năm 2008, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 120/2008/NĐ-CP về quản lý lưu
vực sông.
Các văn bản về cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào
nguồn nước; xử phạt vi phạm hành chính chậm được ban hành đã gây ra không ít khó
khăn trong công tác quản lý trên thực tế.
Một số nội dung Luật đã phân cấp cho các địa phương quy định cụ thể để áp dụng phù
hợp với từng địa bàn nhưng chậm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành, như quy định
quy mô khai thác, sử dụng nước, xả nước thải quy mô nhỏ, vùng bảo vệ công trình khai
thác, Điều này cũng dẫn đến việc thi hành luật ở các địa phương bị trậm trễ.
Một số quy định có tính nguyên tắc của Luật chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể.
- Công tác cấp phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước còn
nhiều bất cập
Việc lập quy hoạch, kế hoạch phát triển thuỷ lợi, thuỷ điện và thiết kế xây dựng các công
trình hồ đập, quy trình vận hành hồ đập… đều do các ngành thuỷ điện, thuỷ lợi… tự thẩm
định, phê duyệt mà không có sự tham gia của cơ quan quản lý tài nguyên nước. Mặt
khác, theo quy định của Nghị định số 149/2004/NĐ-CP về cấp phép thăm dò, khai thác,
sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước thì việc xin phép và cấp phép
được thực hiện trong giai đoạn thực hiện đầu tư. Thực tế, đến giai đoạn này các nội dung
liên quan đến vị trí, quy mô khai thác nước và các thông số kỹ thuật về thiết kế, vận hành
công trình liên quan đến nguồn nước đã được quyết định, phê duyệt bởi cấp có thẩm
quyền, vì vậy việc cấp giấy phép khó có thể đưa ra các điều kiện khả thi để bảo đảm thực
hiện các yêu cầu về duy trì dòng chảy tối thiểu, vận hành điều tiết nguồn nước cho hạ
du nhằm khai thác, sử dụng tổng hợp, hiệu quả nguồn nước.
Số lượng công trình khai thác nước dưới đất lớn, phạm vi phân bố rộng, số lượng hồ sơ
phải cấp phép nhiều trong khi lực lượng cán bộ quản lý còn mỏng, năng lực lập hồ sơ của
tư vấn còn hạn chế, vì vậy hồ sơ phải chỉnh sửa nhiều lần, khó đáp ứng được thời hạn
thẩm định cấp phép theo quy định hiện hành.
Hầu hết các nguồn nước đều chưa có phân vùng mục đích khai thác, sử dụng và bảo vệ;
chưa có quy hoạch phân vùng xả thải do vậy thiếu cơ sở cho việc cấp phép xả nước thải.
Do hạn chế về nguồn lực, lúng túng về phương pháp, công nghệ nên việc kiểm tra, giám
sát hoạt động khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước sau cấp phép còn
hạn chế. Vì vậy chưa phát huy được hiệu lực của công cụ giấy phép trong việc kiểm soát
việc thực hiện các yêu cầu về khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước theo quy
định.
- Công tác thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật về tài nguyên nước chưa thường
xuyên, chưa đáp ứng yêu cầu
Mặc dù trong thời gian gần đây, công tác thanh tra, kiểm tra đã được tăng cường một
bước so với trước đây nhưng do chưa có tổ chức thanh tra chuyên ngành về tài nguyên
nước, lực lượng thanh tra, kiểm tra còn mỏng, nên hoạt động thanh tra, kiểm tra chưa đáp
ứng yêu cầu của thực tế. Tình trạng khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào
nguồn nước, khoan thăm dò, khai thác nước dưới đất không xin phép còn diễn ra khá phổ
biến, việc chấp hành các quy định về bảo vệ tài nguyên nước còn chưa nghiêm túc. Chưa
phát huy được tác dụng của hoạt động thanh tra, kiểm tra trong việc nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật về tài nguyên nước của tổ chức, cá nhân.
- Công tác triển khai thi hành pháp luật về tài nguyên nước ở các địa phương còn chậm,
thụ động, có nhiều quy định cụ thể chưa được triển khai
Những quy định về cấp phép, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên
nước, bảo vệ nước dưới đất, đã được ban hành, hướng dẫn cụ thể từ nhiều năm trước
đây, nhưng, do tổ chức bộ máy chưa hợp lý, nguồn lực hạn chế nên có một số địa phương
mới bắt đầu triển khai công tác cấp phép, xử lý vi phạm, có địa phương còn chưa triển
khai các quy định về bảo vệ nước dưới đất.
10. Kết luận
Thúc đẩy công tác quản lý tổng hợp TNN để bảo vệ và phát triển bền vững TNN là việc
cần thiết đối với Nhà nước và toàn dân tộc.
Trong những năm qua, được sự quan tâm của Nhà nước, sự nỗ lực của các Bộ, ngành liên
quan đến TNN từ Trung ương đến địa phương và sự giúp đỡ của quốc tế, công tác quản
lý tổng hợp TNN bước đầu đã đạt được thành tích đáng kể từ việc đưa ra các văn bản
pháp quy, tái cơ cấu tổ chức, phát huy sự tham gia của người dân…đã đóng góp rất lớn
vào công việc bảo vệ nguồn tài nguyên quan trọng của quốc gia
Trước mắt và trong tương lai, công tác quản lý tổng hợp TNN còn nhiều khó khăn gian
khổ, nhất là trong điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng, Bộ TN&MT chủ trì và
phối hợp với các Bộ, ngành liên quan cần đưa ra chiến lược, kế hoạch hành động và lộ
trình phù hợp để thúc đẩy công tác quản lý tổng hợp TNN.
NHẬN XÉT CỦA THẦY
1. Nhận xét
Bổ sung lại đầy đủ Luật, không được cắt tùy ý.
Bổ sung thêm 4 nguyên tắc của Dublin
Bổ sung Hiện trạng quản lý tài nguyên nước tổng hợp ở Việt Nam.
Phần khó khăn nêu cụ thể hơn
Câu hỏi
Luật 2012 có giải quyết được hiện trạng của tài nguyên nước Việt Nam
Phân biệt giữa đa ngành và liên ngành
Quản lý tài nguyên nước tổng hợp