Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ (1830-1865)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.22 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Nước Mỹ là một quốc gia phát triển và văn minh, nhưng trong lịch sử lại từng
tồn tại một chế độ nô lệ tàn ác khi mà những người da đen được đưa đến từ châu Phi
xa xôi phải lao động cực nhọc mà không được đối xử như con người. Ngày nay, nhân
loại tiến bộ đang hướng tới việc xây dựng một thế giới không phân biệt đối xử, thì
đứng dưới góc độ lịch sử, việc nghiên cứu phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở
Mỹ trong thế kỷ XIX (1830 - 1865) vẫn có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Những
hoạt động lẻ tẻ đấu tranh chống lại chế độ nô lệ đã khởi phát từ cuối thế kỷ XVIII
nhưng phải đến thập niên 30 của thế kỷ XIX nó mới phát triển thành một phong trào
rầm rộ cho đến tận năm 1865. Đối với nô lệ da đen, chế độ nô lệ quá khắc nghiệt và
tự do với họ là khát khao cháy bỏng nhất. Đối với người da đen tự do, dù không phải
là tài sản sở hữu của chủ nô nhưng họ vẫn bị kìm kẹp và cảm thấy khó thở trong xã
hội bất công của người da trắng. Còn trong suy nghĩ của những người da trắng miền
Bắc dù dưới góc độ kinh tế, tôn giáo hay đạo đức, xã hội thì chế độ nô lệ là đều cần
phải xóa bỏ. Ngược lại, các chủ nô ở miền Nam lại muốn duy trì sự tồn tại của chế độ
nô lệ. Vào thế kỷ XIX, mâu thuẫn giữa hai miền Nam Bắc nước Mỹ lại càng gay gắt
mà đỉnh cao là cuộc Nội chiến lịch sử (1861-1865) và sự tồn tại của chế độ nô lệ
chính là nút thắt. Có thể thấy, sở hữu nô lệ và sự tồn tại của chế độ nô lệ là một vấn
đề phức tạp, nhạy cảm, liên quan đến lợi ích của các nhóm thế lực đối lập, thậm chí
liên quan đến sự bền vững của quốc gia. Như vậy, lịch sử nước Mỹ đã giải quyết vấn
đề này như thế nào, phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ trong 35 năm
trước Nội chiến Mỹ có gì khác hơn so với các hoạt động đấu tranh trước đó và tại sao
đến thế kỷ XX, phong trào đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho người da đen vẫn tiếp
tục, vai trò của người da trắng và người da đen trong cuộc đấu tranh này như thế nào
là những vấn đề khoa học tác giả muốn lý giải. Thực tế cho thấy ở Mỹ hiện nay, dù
người Mỹ gốc Phi đã có một vị thế mới và đóng góp đáng kể cho sự thịnh vượng
chung của nước Mỹ song tình trạng phân biệt chủng tộc và định kiến nặng nề với
người da đen vẫn còn tồn tại ở nhiều bang. Đồng thời, việc hiểu rõ hơn về lịch sử xã
hội Mỹ cũng góp phần thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau trong quá trình phát triển quan
1


hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trên nhiều phương diện. Bản thân tác giả cũng mong
muốn nghiên cứu các vấn đề liên quan đến quyền con người, chế độ nô lệ trong quá
khứ và chế độ nô lệ hiện đại, những vấn đề xã hội liên quan đến các nhóm yếu thế
trong xã hội trong đó có các nạn nhân của nạn buôn bán người. Vì thế tác giả chọn đề
tài “Phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ (1830 – 1865)” làm hướng
nghiên cứu cho luận án Tiến sĩ Lịch sử của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ
Mục đích của luận án là làm rõ vị trí, tác động của phong trào đấu tranh xóa bỏ
chế độ nô lệ giai đoạn từ năm 1830 đến năm 1865 trong toàn bộ quá trình đấu tranh
xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ và tác động của phong trào này đối với nước Mỹ và thế
giới. Để thực hiện được mục đích trên, tác giả tập trung vào giải quyết những nhiệm
vụ chủ yếu sau đây: Một là, phân tích cơ sở cũng như những nhân tố tác động đến
phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ từ năm 1830 đến năm 1865; Hai là,
khôi phục lại một cách hệ thống và toàn diện về phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ
nô lệ ở Mỹ từ năm 1830 đến năm 1865; Ba là, phân tích các kết quả, những mặt tích
cực và hạn chế của phong trào từ đó khái quát những đặc trưng của phong trào đấu
tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ từ năm 1830 đến năm 1865.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô
lệ ở Mỹ từ năm 1830 đến năm 1865.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Về phạm vi không gian: luận án làm rõ nội dung của phong trào đấu tranh xóa
bỏ chế độ nô lệ trên các bang sáp nhập vào lãnh thổ Mỹ trước năm 1865.
Về phạm vi thời gian: đề tài giới hạn từ năm 1830 đến năm 1865.
4. Các nguồn tư liệu
Các tư liệu gốc liên quan đến hoạt động của phong trào đấu tranh xóa bỏ chế
độ nô lệ như các tờ báo chống nô lệ, các bài viết chống lại chế độ nô lệ, các câu
chuyện kể của những nô lệ bỏ trốn, những tự truyện về cuộc đời nô lệ của họ, các văn
bản pháp luật của Mỹ liên quan đến việc xóa bỏ chế độ nô lệ thế kỷ XIX Các tài
liệu tham khảo khác bao gồm các chuyên khảo, các bài nghiên cứu, một số website

2
lịch sử, thư viện chính thống trên internet, các công trình chuyên khảo về lịch sử Mỹ,
và phong trào giải phóng nô lệ.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.Về phương pháp luận: Luận án quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nghiên
cứu khoa học lịch sử.
5.2. Về phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp lịch sử
Phương pháp logic
Phương pháp nghiên cứu tư liệu
Phương pháp bổ trợ khác như tổng hợp, so sánh…
6. Đóng góp của luận án
Trước hết, luận án là công trình nghiên cứu có hệ thống về phong trào đấu
tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ giai đoạn 1830 đến 1865 dưới góc độ của nhà nghiên
cứu Việt Nam; Hai là, trên cơ sở những tư liệu thu thập được, luận án làm sáng tỏ vị
trí, tác động, đặc điểm của giai đoạn đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ từ năm 1830
đến năm 1865 ở Mỹ; Ba là, luận án đã góp phần bổ sung vào hệ thống tài liệu tham
khảo và nâng cao chất lượng của hoạt động nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Mỹ, lịch sử
thế giới cũng như các ngành khoa học xã hội liên quan.
7. Bố cục luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án
được trình bày trong 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề
Chương 2: Cơ sở và những nhân tố tác động của phong trào đấu tranh xóa bỏ
chế độ nô lệ ở Mỹ (1830 -1865)
Chương 3: Tiến trình của phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ
(1830-1865)
Chương 4: Một số nhận xét về phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ
(1830-1865)

3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1.Tình hình nghiên cứu của các học giả Việt Nam
Nhóm thứ nhất: Bao gồm các giáo trình lịch sử thế giới đại cương và những
công trình về lịch sử nước Mỹ. Nhóm thứ hai, bao gồm các chuyên khảo về các vấn
đề cụ thể trong lịch sử nước Mỹ, trong đó có vấn đề về chế độ nô lệ và đấu tranh xóa
bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ. Đặc điểm chung của các công trình trên là tuy có nhắc đến vấn
đề nô lệ và phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ nhưng chưa được trình
bày một cách kỹ càng, chưa thấy được rõ những hoạt động, tác động và đặc điểm của
phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ, đặc biệt trong thế kỷ XIX.
1.2. Tình hình nghiên cứu của các học giả ngoại quốc
Các công trình bằng tiếng Anh có thể chia thành từng nhóm liên quan đến nội
dung luận án như sau: Nhóm thứ nhất, tìm hiểu về chế độ nô lệ nước Mỹ, thân phận
người nô lệ da đen ở Mỹ và sự phản kháng của họ trong các đồn điền ở miền Nam
nước Mỹ. Nhóm thứ hai, tìm hiểu về phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ, những
nhân vật lịch sử có đóng góp to lớn cho phong trào và những thành tựu của phong
trào này ở Mỹ vào thế kỷ XIX. Nhóm thứ ba, là tìm hiểu về tác động của chế độ nô
lệ, phong trào giải phóng nô lệ tới các sự kiện chính trị, xã hội, luật pháp ở Mỹ thế kỷ
XIX. Nhóm thứ tư, các công trình nghiên cứu toàn diện về chế độ nô lệ Mỹ, phong
trào giải phóng nô lệ và kết quả của nó trong lịch sử nước Mỹ
1.3. Nhận xét
Tại Việt Nam chủ đề về “phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ từ
năm 1830 đến năm 1865” nhìn chung chưa được đề cập một cách chuyên sâu và hệ
thống. Ưu điểm của các công trình nước ngoài mà tác giả tiếp cận được là nguồn tài
liệu phong phú, quý giá, thậm chí ở một số công trình còn đưa ra những tư liệu gốc
hết sức có giá trị. Tuy nhiên, do đa phần các công trình mà tác giả đã tiếp cận đều viết
dưới dạng tập hợp tư liệu, tập hợp sự kiện, tập hợp ý kiến chứ hầu như không có sự
kết hợp đánh giá tác động và ảnh hưởng của phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ
đối với lịch sử nước Mỹ, cuộc sống của người Mỹ gốc Phi cũng như tới thế giới. Vì

vậy, với đề tài này, tác giả mong muốn lấp đầy những khoảng trống về vấn đề nghiên
cứu trong nước, đồng thời đưa ra những luận giải cá nhân dưới góc độ đa chiều,
khách quan của một nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam.
4
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI PHONG TRÀO
ĐẤU TRANH XÓA BỎ CHẾ ĐỘ NÔ LỆ Ở MỸ (1830-1865)
2.1. Cơ sở của phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ (1830-1865)
2.1.1.Cơ sở nhận thức
Phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ chính là sản phẩm từ nhận thức
của người Mỹ về chế độ nô lệ. Nền tảng của những nhận thức chính là những tư
tưởng tiến bộ về quyền con người của các nhà triết học châu Âu tiêu biểu như John
Locke (1632-1704) và Thomas Paine (1731-1809). Nhận thức của người nô lệ sau
năm 1787 đến trước Nội chiến (1861-1865) mới chỉ dừng lại ở việc tự giải phóng
mình khỏi thân phân nô lệ. Nhưng trong thời kỳ Nội chiến, nhận thức của các nô lệ
đã thay đổi. Họ bắt đầu ý thức được rằng trong cuộc chiến này, tự do của họ gắn liền
với chiến thắng của Liên bang miền Bắc và sự thất bại của Liên minh miền Nam. Lúc
này, họ đã đặt sự tự do của mình trong mối quan hệ chính trị với cả dân tộc nên cuộc
đấu tranh của họ không còn mang tính chất tự phát như thời kỳ trước mà gắn liền với
những hoạt động chung của Liên bang nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh, bảo
toàn sự thống nhất của quốc gia. Bên cạnh các nô lệ thì những người da đen tự do
cũng nhận thức được yêu cầu xóa bỏ chế độ nô lệ Mỹ, họ coi cuộc đấu tranh xóa bỏ
chế độ nô lệ là một nhiệm vụ của mình và gắn nó với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc và đòi quyền bình đẳng cho người da đen. Trong khi đó, sau năm
khi Hiến pháp Mỹ ra đời năm 1787, nhận thức của những người da trắng về chế độ
nô lệ đã có sự khác biệt giữa hai miền Nam – Bắc. Ở miền Nam, người da trắng tìm
cách ngăn cản sự nổi dậy của các nô lệ bằng các đạo luật ngày càng nghiêm khắc, tàn
bạo và lên án các hoạt động đấu tranh chống lại chế độ nô lệ. Ở miền Bắc, nhận thức
của người Mỹ về chế độ nô lệ được đặt trên nhiều phương diện khác nhau từ kinh tế,
chính trị đến đạo đức, xã hội. Quan điểm đạo đức cho rằng chế độ nô lệ là tội lỗi,

quan điểm chính trị cho rằng sự mở rộng của chế độ nô lệ về phía Tây bởi nó sẽ làm
cho cán cân quyền lực nghiêng về các chủ nô miền Nam, quan điểm kinh tế cho rằng
chế độ nô lệ bởi nó làm tổn hại nghiêm trọng đến nền sản xuất công thương, xuất
phát từ quan điểm xã hội, những người phụ nữ cũng lên án chế độ nô lệ bởi sự bất
5
công, bất bình đẳng. Trong giai đoạn 1861-1865, nhận thức của người miền Bắc về
chế độ nô lệ được đặt trong mối quan hệ với nhiệm vụ bảo toàn sự thống nhất của
Liên bang dù ban đầu không phải như vậy. Điển hình cho nhận thức của những người
miền Bắc về yêu cầu xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ chính là Abraham Lincoln. Mặc dù có
sự chia rẽ giữa những người da trắng miền Nam ủng hộ chế độ nô lệ và những người
da trắng miền Bắc phản đối sự tồn tại của nó nhưng cả hai đều có điểm chung tương
đồng trong định kiến chủng tộc với người da đen. Bởi vậy, thời kỳ đầu, phong trào
đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ chính là việc đưa những người da đen trở về châu Phi.
Ngay cả những nhà lãnh đạo có quan điểm tiến bộ như Jefferson hay Lincoln cũng
vẫn chưa thoát khỏi định kiến này. Điều này cũng là nguyên nhân lý giải tại sao
phong trào đấu tranh từ năm 1830 đến năm 1865 dù đã xóa bỏ được chế độ nô lệ
nhưng người da đen lại không thực sự được giải phóng và cuộc đấu tranh của người
da đen vẫn còn kéo dài trong thế kỷ tiếp theo.
1.1.2.Cơ sở thực tiễn
1.1.2.1.Thực trạng chế độ nô lệ
*Sự ra đời của chế độ nô lệ
Chế độ nô lệ ở Mỹ được hình thành từ thập niên 60 của thế kỷ XVII, hoàn chỉnh
vào thập niên 80 của thế kỷ XVII, sau đó được phát triển và mở rộng vào thế kỷ XVIII,
với sự tấp nập trong hệ thống buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương. Cơ sở của chế độ
nô lệ là hệ thống lao động da đen được nhập khẩu từ châu Phi. Lợi nhuận to lớn từ việc
sử dụng nô lệ da đen đã khiến chế độ nô lệ trở thành một hệ thống kinh tế xã hội vững
chắc đến nỗi cuộc chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ hay còn
được coi là cuộc cách mạng tư sản lần thứ nhất không thể xóa bỏ được.
*Bản chất khắc nghiệt của chế độ nô lệ
Theo các nhà nghiên cứu, có hai yếu tố khiến chế độ nô lệ ở Mỹ trở thành một

hình thức tàn bạo nhất trong lịch sử nô lệ thế giới đó là khát vọng lợi nhuận từ kinh
doanh nông nghiệp kiểu tư bản và hai là sự phân biệt chủng tộc hà khắc. Sự phân biệt
chủng tộc này thể hiện ngay từ việc bắt bớ và buôn bán nô lệ. Chế độ nô lệ ở nước
Mỹ là một chế độ cưỡng bức vì được quản lý bởi một loạt các đạo luật nô lệ hà khắc.
Các bộ luật nô lệ là cơ sở pháp lý cho sự tồn tại vững chắc của chế độ nô lệ. Chính sự
6
khắc nghiệt của chế độ nô lệ đã thúc đẩy cuộc đấu tranh giải phóng nô lệ và xóa bỏ
chế độ nô lệ.
1.1.2.2. Hoạt động đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ trước năm 1830
*Hành động phản kháng của nô lệ da đen
Ngay từ thời điểm ban đầu khi bị bắt làm nô lệ, những người da đen đã liên tục
phản kháng để đòi tự do cho bản thân mình. Điều đó thể hiện từ thái độ chống đối,
hành động phá hoại, bỏ trốn hoặc thậm chí tìm đến cái chết để thoát khỏi cảnh nô lệ.
Cuộc chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ đã tạo điều kiện cho
các nô lệ bỏ trốn hoặc nổi loạn. Sau cách mạng, chế độ nô lệ dù có bị tấn công chủ yếu
ở miền Bắc nhưng lại vẫn phát triển mạnh mẽ ở miền Nam và lan rộng ra miền Tây
nước Mỹ. Sự phản kháng của họ diễn ra dưới nhiều hình thức, nhưng tất cả đều mang
tính chất tự phát, lẻ tẻ và không đưa đến thắng lợi. Tuy nhiên, những phản kháng ban
đầu này cũng chính là cơ sở thúc đẩy cho phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở
giai đoạn sau.
*Hoạt động của các lực lượng da trắng tiến bộ
Lực lượng chống chế độ nô lệ của người da trắng trước năm 1830 chủ yếu là
lực lượng tôn giáo. Để hỗ trợ cho các hoạt động chống lại chế độ nô lệ, nhiều tổ chức
và nhóm xã hội đã được thành lập nhằm chống buôn bán, nhập khẩu nô lệ, chống bắt
cóc và hỗ trợ kinh tế cho các nô lệ tự do, nô lệ bỏ trốn. Bên cạnh các hội chống chế
độ nô lệ, là sự xuất hiện của phong trào thuộc địa hóa cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ
XIX. Ban đầu, hoạt động của phong trào này thu hút sự tham gia của nhiều cá nhân
tiến bộ. Tuy nhiên, sau đó dần lụi tàn do những hạn chế về tài chính cũng như định
kiến phân biệt chủng tộc. Sự đi xuống của phong trào thuộc địa hóa buộc các nhà
hoạt động chống lại chế độ nô lệ cần phải thành lập các tổ chức khác với mục tiêu và

định hướng hoạt động hợp lý hơn.
2.2. Những nhân tố tác động tới phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ
ở Mỹ (1830-1865)
2.2.1. Phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ trên thế giới
Vào năm 1788, Jacques Pierre Brissot đã sáng lập Hội bạn bè của người da
đen để đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ. Vào ngày 27 tháng 4 năm 1848, dưới nền Cộng
7
hòa thứ hai (1848-1852), Hiến pháp chính thức quy định xóa bỏ chế độ nô lệ trên
toàn đế quốc Pháp. Năm 1807, nước Anh tuyên bố xóa bỏ mua bán nô lệ châu Phi.
Vào năm 1833, Nghị viện Anh đã thông qua Luật giải phóng nô lệ. Đến năm 1838,
tất cả các nô lệ ở đế quốc Anh được tự do. Bên cạnh chính sách của các nước thực
dân trong việc xóa bỏ chế độ nô lệ thì cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ trên thế
giới, đặc biệt là ở châu Mỹ đã tác động trực tiếp đến cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ nô
lệ ở Mỹ.
2.2.2. Phong trào tôn giáo “Đại thức tỉnh” lần thứ nhất và lần thứ hai
Hai phong trào tôn giáo lớn mang tên cuộc “Đại thức tỉnh lần thứ nhất” (1720-
1770) và cuộc “Đại thức tỉnh lần thứ hai” (1790-1850) đều có ảnh hưởng tới các nhà
hoạt động đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ trên nhiều phương diện. Nếu như tư
tưởng tôn giáo cải cách trong phong trào “Đại thức tỉnh lần thứ nhất” hướng tới sự
cứu rỗi công bằng, khoan dung tôn giáo và coi chế độ nô lệ là một tội ác nhằm thay
đổi nhận thức về mặt đạo đức của cá nhân thì cuộc “Đại thức tỉnh lần thứ hai” ảnh
hưởng đến các nhà hoạt động trong phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ
theo hai hướng cơ bản. Thứ nhất, sự cứu rỗi trong tôn giáo trở thành một phương tiện
để thực hiện các cải cách xã hội trong đó có xóa bỏ chế độ nô lệ. Thứ hai, tại miền
Nam sau khi tiếp thu tư tưởng tôn giáo cải cách từ các nhà truyền giáo, mục sư người
da trắng thì bản thân các nô lệ đã chủ động tổ chức nên các “chiến dịch phục hưng
tôn giáo của người da đen”, xây dựng niềm tin và thực hiện những nghi lễ tôn giáo
của riêng họ.
2.2.3.Sự phát triển của nền kinh tế tư bản Mỹ và nhu cầu xóa bỏ chế độ nô lệ
Từ sau cuộc chiến tranh giành độc lập, nền kinh tế Mỹ bắt đầu có những bước

chuyển mạnh mẽ. Trái ngược với sự phát triển kinh tế công thương nghiệp ở miền
Bắc, miền Nam lại tập trung vào kinh tế nông nghiệp đồn điền. Mặc dù có đầy đủ các
điều kiện cho phát triển công nghiệp như tài nguyên về nước, than đá và sợi bông
nhưng nền công nghiệp ở miền Nam vẫn tụt hậu hơn nhiều so với miền Bắc.Xét dưới
góc độ kinh tế, chế độ nô lệ đang đi ngược lại lịch sử bởi nó ngăn cản sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản. Nước Mỹ muốn xây dựng một thuế quan thống nhất, muốn sử
8
dụng lao động tự do, muốn thúc đẩy các sáng tạo về kỹ thuật công nghiệp thì cần phải
xóa bỏ chế độ nô lệ.
2.2.4. Mâu thuẫn giữa hai miền Nam Bắc nước Mỹ
Vào thế kỷ XIX, hai miền Nam Bắc nước Mỹ có những mâu thuẫn sâu sắc tác
động lớn đến lịch sử nước này. Xét về mặt kinh tế, trong khi các bang miền Bắc chủ
yếu phát triển công thương nghiệp thì miền Nam lại duy trì nền nông nghiệp đồn điền
sử dụng sức lao động của nô lệ. Xét về mặt chính trị, mâu thuẫn giữa hai miền Nam
Bắc phản ánh sự hai quan điểm khác nhau giữa một bên ủng hộ việc tập trung quyền
hành ở chính quyền Liên bang được Đảng Cộng hòa của A.Lincoln ủng hộ (chủ yếu
ở miền Bắc) và việc phân chia quyền hành cho các tiểu bang vốn được ủng hộ bởi
Đảng Dân chủ (đa phần ở miền Nam). Xét về mặt đạo đức tôn giáo, đa phần người
Quaker ở miền Bắc ủng hộ tư tưởng khoan dung tôn giáo, coi chế độ nô lệ là tội ác đi
ngược lại với Kinh thánh. Tất cả các lý do trên dù xét dưới góc độ nào, dù trực tiếp
hay gián tiếp đều phản ánh hai quan điểm trái ngược về vấn đề nô lệ giữa hai miền
Nam-Bắc nước Mỹ. Vào đầu thế kỷ XIX, cuộc đấu tranh giữa chủ nô miền Nam và
giai cấp tư sản miền Bắc diễn ra khá gay gắt khi những bang mới gia nhập Liên bang.
Tháng 3 năm 1820, Quốc hội thông qua một dự án thỏa hiệp mang tên gọi Thỏa ước
Missouri tạo ra thế cân bằng giữa hai bên chống chế độ nô lệ và muốn duy trì chế độ
này. Sự nhượng bộ của tư sản miền Bắc vẫn không ngăn cản được ý định muốn mở
rộng chế độ sang phía Tây của chủ nô miền Nam. Năm 1854, Quốc hội đã thông qua
Đạo luật Kansas – Nebraska, kết quả của đạo luật này là một chuỗi các cuộc chạm
trán giữa những người ủng hộ và chống chế độ nô lệ diễn ra ở lãnh thổ Kansas và một
số thị trấn gần bang Missouri giữa năm 1854 và 1861. Cùng với những xung đột ở

Kansas, các nghị sĩ trong Quốc hội với hai quan điểm đối lập cũng công kích lẫn
nhau ngay trong các cuộc họp. Đỉnh cao của các mâu thuẫn là cuộc chiến đau thương
chưa từng có mà lịch sử gọi là Nội chiến Mỹ (1861-1865). Dù mục đích tham chiến
ban đầu không phải là giải phóng nô lệ nhưng những nhà lãnh đạo Liên bang đã biết
khéo léo hướng đến tới việc thủ tiêu chế độ nô lệ để giành chiến thắng trong khi đó
miền Nam lại thất bại vì vẫn cố chấp bảo vệ vật cản đó.
9
CHƯƠNG 3
TIẾN TRÌNH CỦA PHONG TRÀO ĐẤU TRANH XÓA BỎ
CHẾ ĐỘ NÔ LỆ Ở MỸ (1830-1865)
3.1. Tiến trình đấu tranh bí mật, bất hợp pháp
3.1.1. Đấu tranh bí mật – Hoạt động của “Đường sắt ngầm”
“Đường sắt ngầm” là một mạng lưới được hình thành và phát triển trong
khoảng 30 năm trước Nội chiến (1861-1865) nhằm hỗ trợ nô lệ da đen miền Nam bỏ
trốn đến với vùng đất tự do. Để tới được “miền đất hứa” của mình, nô lệ đã phải trải
qua một hành trình đầy gian nan và vất vả. Kinh phí hoạt động của “Đường sắt
ngầm” chủ yếu được quyên góp, ủng hộ từ những người Quaker, những cá nhân có
tấm lòng hảo tâm và những người tham gia hoạt động trong tuyến “Đường sắt ngầm”.
Các hoạt động của “Đường sắt ngầm” là hoàn toàn bí mật nên các ngôn ngữ giao tiếp
đều phải được mật mã hóa.
3.1.2. Đấu tranh bạo lực
3.1.2.1.Sự phản kháng của nô lệ da đen trước Nội chiến
Bên cạnh việc bỏ trốn, nô lệ cũng không ngần ngại tiến hành các cuộc nổi loạn,
khởi nghĩa vũ trang dù trên thực tế đa phần không đem lại thắng lợi mà chỉ là sự đàn áp
đẫm máu. Nhưng tất cả các hành động đó luôn cho thấy sự kiên cường, tinh thần chiến
đấu đến cùng vì tự do của bản thân, gia đình và cộng đồng người da đen. Trong giai
đoạn này có nhiều cuộc khởi nghĩa và nổi loạn ám ảnh người miền Nam như Nat
Turner (1831), Creole (1841), Cherokee Nation (1842). Sự nổi dậy và lòng quả cảm
của các nô lệ chứng tỏ họ có khả năng tự giải phóng nếu được trang bị về mặt vũ khí
và huấn luyện quân sự. Đó chính là mong muốn của John Brown khi tiến hành cuộc

đột kích ở Harpers Ferry.
3.1.2.2.Cuộc đột kích của John Brown
John Brown là một người da trắng có quan điểm chống nô lệ triệt để. Ông cho
rằng, cách duy nhất để xóa bỏ chế độ nô lệ là tiến hành khởi nghĩa vũ trang. Cuộc đột
kích vào kho vũ khí Harpers Ferry không nằm ngoài dự định đó. Rạng sáng ngày 17
tháng 10 năm 1859, quân Brown tiến hành đột kích. Dù có sự chuẩn bị kỹ lưỡng,
nhưng quân đội của Brown vẫn thất bại.
10
3.1.2.3.Sự phản kháng của nô lệ da đen trong thời kỳ Nội chiến
Nội chiến bùng nổ, đối với nhiều nô lệ miền Nam đây là cơ hội vàng để tự giải
phóng. Chiến tranh khiến các chủ nô miền Nam gặp khó khăn trong việc quản lý nô
lệ. Họ lao động ít hơn, bỏ trốn ra ngoài nhiều hơn. Những nô lệ bỏ trốn được sự hỗ
trợ rất lớn từ các tổ chức từ thiện và tôn giáo của miền Bắc.
3.2. Tiến trình đấu tranh công khai, hợp pháp
3.2.1. Xây dựng và phát triển mạng lưới các tổ chức chống chế độ nô lệ
3.2.1.1.Tổ chức của người Mỹ gốc Phi
Điển hình là Hội nghị của người da đen tự do – Negro Conventions (1830-
1864). Các Hội nghị của người da đen tự do thể hiện sự phát triển của mạng lưới các
nhà hoạt động xã hội da đen vào giữa thế kỷ XIX. Từ cuộc gặp đầu tiên vào năm
1830 ở Philadelphia đã có hàng chục các Hội nghị khác diễn ra trước khi Nội chiến
bùng nổ với các cấp độ khác nhau từ liên bang cho đến bang rồi các hạt cơ sở, vùng,
miền. Mục tiêu của các Hội nghị là kêu gọi sự hợp tác giữa người da trắng và người
da đen trong cuộc chiến chống lại chế độ nô lệ và đòi quyền bình đẳng cho người da
đen tự do. Các đại biểu tham dự Hội nghị chủ yếu là nô lệ từng bỏ trốn. Họ đến từ
nhiều ngành nghề và vị trí khác nhau như mục sư, thương nhân, chính trị gia, nhà
văn, nhà báo và các nhà hoạt động chống chế độ nô lệ.
3.2.1.2. Hội chống chế độ nô lệ
Vào cuối thế kỷ XVIII, một số người Quaker và người da trắng tiến bộ khác đã
thành lập nên các Hội chống chế độ nô lệ rải khắp nước Mỹ. Mục đích ban đầu của các
hội này là ngăn chặn quá trình nô lệ hóa những người da đen tự do và bảo vệ quyền

của họ. Về sau, cùng với việc tăng nhanh số lượng nô lệ bỏ trốn từ miền Nam sang
miền Bắc, các Hội này lại bí mật quyên góp hỗ trợ nô lệ bỏ trốn. Hoạt động của Hội
chống chế độ nô lệ đạt đến đỉnh điểm vào thập niên 30 của thế kỷ XIX khi Hội chống
chế độ nô lệ nước Mỹ được thành lập và William Lloyd Garrison cho xuất bản tờ báo
chống lại chế độ nô lệ đầu tiên mang tên Người giải phóng.
* Hội chống chế độ nô lệ nước Mỹ (AASS)
Đầu năm 1831, một nhóm người chống chế độ nô lệ gặp nhau ở thành phố
New York để lên kế hoạch thành lập một Hội chống chế độ nô lệ của toàn Liên bang.
11
Trụ sở của AASS đóng ở thành phố New York. Để thực hiện mục tiêu xóa bỏ hoàn
toàn chế độ nô lệ, Hội đã xây dựng một mạng lưới hệ thống cơ sở và tiến hành nhiều
hoạt động khác nhau. Hoạt động chủ yếu tại cơ sở của AASS là tổ chức các cuộc họp
thảo luận về phương pháp đấu tranh, gửi đơn kiến nghị lên Quốc hội, xuất bản ấn
phẩm tuyên truyền, tổ chức các buổi diễn thuyết Hai cơ quan phát ngôn chính thức
của AASS là tờ “ The Liberator ” (Người giải phóng) của William Lloyd Garrison
thành lập năm 1831 và tờ tạp chí hàng tuần mang tên “ National Anti-Slavery
Standard ” (Ngọn cờ chống chế độ nô lệ quốc gia) của Lydia Maria Child và David
Lee Child thành lập năm 1840.
*Hội chống chế độ nô lệ Mỹ và quốc tế (AFSS)
Hội chống chế độ nô lệ Mỹ và quốc tế (AFSS) được thành lập vào tháng 5 năm
1840 bởi một nhóm các nhà hoạt động chống chế độ nô lệ tách ra khỏi AASS vì sự
khác biệt trong chủ trương chống chế độ nô lệ. Những người sáng lập nên AFSS
không đồng tình với việc phát huy vai trò của phụ nữ trong đấu tranh xóa bỏ chế độ
nô lệ. Cơ quan tuyên truyền chính thức của AFSS là “American and Foreign Anti-
Slavery Reporter” (Báo Hội chống chế độ nô lệ và quốc tế). Ngoài ra, “The Liberty
Almanac” (Niên giám tự do) cũng được xuất bản như một cơ quan phát ngôn của
Đảng Tự do. AFSS theo đuổi quan điểm ôn hòa trong phong trào chống chế độ nô lệ.
Họ tin tưởng rằng chế độ nô lệ sẽ bị xóa bỏ nếu dựa vào hoạt động chính trị. Một chủ
trương nữa là phủ nhận quyền của phụ nữ trong các hoạt động xã hội. Thời gian tồn
tại của AFSS không kéo dài, năm 1855, họ chấm dứt các cuộc họp thường niên và

đến năm 1859, Ban chấp hành của AFSS chính thức giải tán.
3.2.2. Đấu tranh trên lĩnh vực truyền thông
3.2.2.1.Báo chí
Tờ báo có ảnh hưởng lớn đầu tiên trong lịch sử đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở
Mỹ là tờ “The Liberator” (Người giải phóng) ra đời năm 1831 của William Lloyd
Garrison. Tờ báo này không phải là ấn phẩm duy nhất trong thế kỷ XIX có nội dung
đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ, nhưng sự ra đời của nó đã đánh dấu một bước tiến vượt
bậc trong phong trào, tạo nền tảng cho hàng loạt hoạt động đấu tranh khác trên lĩnh vực
truyền thông. Garrison cho rằng, tuyên truyền về tội ác của chế độ nô lệ là cách duy
12
nhất để chấm dứt chế độ Ngoài tờ “Người giải phóng” của William Lloyd Garrison,
nhiều tờ tạp chí khác cũng góp phần là những công cụ tuyên truyền có sức ảnh hưởng
mạnh mẽ trong phong trào xóa bỏ chế độ nô lệ trong giai đoạn từ năm 1830 đến năm
1865. Nhiều nhà báo người Mỹ gốc Phi bằng tài năng của mình đã phơi bày một cách
chân thực nhất sự tàn ác của chế độ nô lệ và nỗ lực tìm tự do của nô lệ.
3.2.2.2.Sách, tác phẩm văn học
Nhiều tác phẩm văn học thời kỳ này không chỉ có giá trị nghệ thuật to lớn mà
còn là một bức tranh sinh động lột tả một cách chân thực đầy màu sắc về số phận
khốn khổ của những người nô lệ như tiểu thuyết “Uncle Tom’s Cabin” (Túp lều bác
Tom) của Harriet Beecher Stowe và cuốn sách “The Impending Crisis of the South:
How to Meet It ” (Cuộc khủng hoảng trước mắt của miền Nam: Làm thế nào để đối
mặt với nó). Bên cạnh các cuốn sách của người da trắng là những tác phẩm của người
da đen như Magaret Matilda Odell với cuốn “Memoir và Poems của Phillis
Wheatley” (Hồi ức và thơ của nữ thi sĩ Phillis Wheatley), “Một nô lệ bỏ trốn” của
William Wells Brown, “Đời sống nô lệ” của Richard Hildreth, “Những hồi ức” của
Archy Moore, loạt chuyện kể về David Barrett của Hiram Wilson, hồi ký của Jermain
Wesley Lougen (1859), hồi ký của James W.C Pennington, “12 năm nô lệ” của
Solomon Northup hay tự truyện của Fredrick Douglass
3.2.2.3.Diễn thuyết trước công chúng
Để vạch trần tội ác của chế độ nô lệ và kêu gọi sự ủng hộ, AASS đã tổ chức

nhiều buổi diễn thuyết trước công chúng khắp miền Bắc. Nhiều nhà diễn thuyết sử
dụng các quan điểm về tôn giáo để tuyên truyền chống lại tội ác của chế độ nô lệ. Số
khác như Tappan hay Garrison thì thường hướng vào các vấn đề cải cách giáo dục, cải
cách đất đai, sự phát triển của nền kinh tế công thương hay quyền công dân cho người
da đen. Còn đối với những diễn giả vốn là nô lệ thì lại nhấn mạnh vào các câu chuyện
thực tế từ cuộc đời của mình để làm bài học thúc đẩy sự vươn lên của các nô lệ.
3.2.3.4. Các tài liệu tuyên truyền khác
Một trong số đó là “Appeal to the Christian Women of the South” (Lời kêu gọi
phụ nữ theo đạo Thiên chúa ở miền Nam) của Angelina Emily Grimké. Grimké
hướng vào phụ nữ theo Thiên chúa giáo ở miền Nam để kêu gọi họ đứng lên chống
13
lại chế độ nô lệ. Nhiều tài liệu khác được in dưới dạng các cuốn sách nhỏ, các tờ rơi,
các pano, áp phích nhằm giúp độc giả tiếp cận một cách dễ dàng nhất và dễ hiểu đối
với mọi tầng lớp. Điển hình là tờ áp phích nổi tiếng mang tên “Anti-Slavery Wafers”
(Những chiếc bánh thánh chống chế độ nô lệ) và tờ áp phích tuyên truyền có tên gọi
“Slave Market of America” (Chợ nô lệ của Mỹ).
3.2.3. Đấu tranh nghị trường
3.2.3.1.Gửi các đơn kiến nghị, bản trưng cầu dân ý
Một hoạt động không thể thiếu trong đấu tranh nghị trường của các Hội chống
chế độ nô lệ là gửi các kiến nghị, bản trưng cầu dân ý lên Quốc hội. Thời kỳ hoạt
động sôi nổi nhất của hình thức này là giai đoạn từ 1837 đến 1839 dù trước đó Ban
chấp hành AASS cũng đã tập hợp chữ ký quần chúng và đệ trình lên Quốc hội Mỹ
nhiều lần nhằm xóa bỏ chế độ nô lệ.
3.2.3.2.Thành lập các đảng phái
Đảng Tự do ra đời vào tháng 12 năm 1839 do một nhóm những nhà hoạt động
chống chế độ nô lệ thành lập. Trong năm 1848, nhiều thành viên của Đảng Tự do gặp
nhau ở Buffalo, New York thành lập một Đảng mới với tên gọi Đảng Đất Tự do.
Đảng này sau đó sáp nhập vào Đảng Cộng hòa năm 1854. Nền tảng của Đảng Cộng
hòa cũng chính là những cá nhân hoạt động tích cực trong phong trào đấu tranh xóa
bỏ chế độ nô lệ. Đại hội chính thức đầu tiên của Đảng Cộng hòa được tổ chức vào

ngày 6 tháng 7 năm 1854 tại Jackson, Michigan Từ đó Đảng Cộng hòa nhanh chóng
tạo được ảnh hưởng sâu rộng ở các bang miền Bắc. Vào cuộc bầu cử năm 1860, với
sự trúng cử của Abraham Lincoln, Đảng Cộng hòa đã thật sự kiểm soát được Quốc
hội. Kết quả này đã tác động mạnh vào hệ thống luật pháp nhằm thay đổi các quy
định về chế độ nô lệ, mang lại quyền tự do cho người Mỹ gốc Phi.
3.2.4. Lồng ghép với phong trào xã hội khác
3.2.4.1. Phong trào tôn giáo và xóa bỏ chế độ nô lệ
Sang thế kỷ XIX, các cuộc cải cách tôn giáo đã thúc đẩy tiến trình phát triển
của phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ. Ở miền Bắc các cuộc cải cách tôn giáo
phát triển mạnh mẽ, được các nhà sử học gọi là cuộc “Đại thức tỉnh tôn giáo lần thứ
hai”. Phụ nữ là một thành phần tích cực trong phong trào cải cách tôn giáo. Nói cách
14
khác, tôn giáo cũng là một công cụ hữu hiệu cho phong trào đòi quyền bình đẳng giới
cho phụ nữ. Nhiều nữ diễn giả đã sử dụng Kinh thánh làm cơ sở cho việc thuyết phục
xóa bỏ chế độ nô lệ. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa hai miền Nam - Bắc về chế độ nô lệ
đã dẫn tới sự chia rẽ về tôn giáo giữa hai miền trong những năm 1836-1840. Trong
khi nhiều nhà thờ miền Bắc đấu tranh đòi xóa bỏ chế độ nô lệ, coi chế độ nô lệ là đi
ngược lại với Kinh thánh thì ở miền Nam quan niệm rằng chế độ nô lệ chỉ là một điều
không tốt chứ không phải là tội lỗi. Cho đến trước khi Nội chiến bùng nổ, vai trò của
tôn giáo trong cuộc chiến chống lại chế độ nô lệ được thể hiện rất rõ, từ việc khai
thác những nội dung nhân đạo trong Kinh thánh để tác động vào niềm tin của giáo
dân đến sự tham gia của nhiều vị giám mục, mục sư, giáo sĩ trong các hoạt động của
phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ, thậm chí tại nhiều nơi, nhà thờ còn là địa
điểm họp mặt của các nhà hoạt động trong phong trào dù gặp phải không ít sự phản
đối từ các giáo dân là chủ nô ở miền Nam.
3.2.4.2. Phong trào nữ quyền và xóa bỏ chế độ nô lệ
Phụ nữ trong phong trào xóa bỏ chế độ nô lệ hoạt động khá yên lặng, không
gây chú ý nhưng có tính tổ chức và mang lại hiệu quả khá cao. Đầu tiên, họ tham gia
vào các hội kín, các tổ chức tôn giáo, các câu lạc bộ phụ nữ bí mật đòi quyền bình
đẳng cho phụ nữ và nô lệ như Hội chống chế độ nô lệ Mỹ, Hội những người bạn…

Họ gặp nhau, cầu nguyện, góp quỹ cho các hoạt động, viết báo và xuất bản sách.
Năm 1837, 71 đại biểu từ 8 bang miền Bắc tổ chức Hội nghị giải phóng nô lệ đầu tiên
của phụ nữ Mỹ ở New York; họ đã xuất bản những ấn phẩm nói về nghị quyết của đại
hội, hình thành ủy ban điều hành hoạt động hội, tổ chức chiến dịch vận động lấy chữ
ký trong các cuộc đấu tranh giải phóng nô lệ gửi tới Quốc hội Mỹ . Hàng trăm phụ nữ
da trắng đã trở thành những nhà hoạt động tích cực trong phong trào giải phóng nô lệ
dù họ xuất thân từ các gia đình chủ nô giàu có. Bên cạnh sự đóng góp của những phụ
nữ da trắng và phong trào phụ nữ đối với kết quả của phong trào xóa bỏ chế độ nô lệ
thì cũng có những phụ nữ da đen đã dũng cảm ghi tên mình vào lịch sử chống lại chế
độ nô lệ.
3.2.4.3.Phong trào công nhân và xóa bỏ chế độ nô lệ
15
Phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ còn thu hút nhiều người công
nhân và cộng sản Mỹ tham gia, đặc biệt trong giai đoạn từ năm 1848 đến năm 1865.
Sự tồn tại của chế độ nô lệ là đi ngược lại với lợi ích của những người lao động tự do
da trắng – những người không thể cạnh tranh với nguồn lao động giá rẻ như nô lệ da
đen. Một khi chế độ nô lệ bị xóa bỏ, sức lao động được giải phóng, không chỉ tạo điều
kiện cho phát triển kinh tế quốc gia mà còn tác động tích cực đối với tầng lớp lao động
nghèo nước Mỹ. Với nhận thức như vậy, trong những thập niên 40, 50 của thế kỷ XIX,
những người công nhân, những người lao động nghèo, những chủ đất nhỏ ở Mỹ đã
cùng với những người da đen và những chủ tư sản cùng đứng lên vì mục tiêu xóa bỏ
chế độ nô lệ và hỗ trợ Liên bang giành chiến thắng trong Nội chiến.
CHƯƠNG 4
MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH XÓA BỎ CHẾ ĐỘ NÔ
LỆ Ở MỸ (1830-1865)
4.1. Kết quả của phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ (1830-
1865)
4.1.1. Sự ra đời “Tuyên ngôn giải phóng nô lệ” năm 1863
Kết quả lớn đầu tiên của phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ từ năm 1830
đến năm 1865 là sự ra đời của Tuyên ngôn giải phóng nô lệ vào năm 1863. Mặc dù

còn nhiều hạn chế nhưng xét về mặt quân sự, bản Tuyên ngôn giải phóng nô lệ đã
mang lại những tác động đúng như mong muốn bằng việc tạo ra sự hỗn loạn ở miền
Nam và lấy đi của quân Liên minh nhiều nguồn lao động giá trị. Xét về mặt ngoại
giao, thì văn kiện này cũng đã thành công trong việc tập hợp cho miền Bắc sự ủng hộ
của hàng nghìn người lao động Anh và Châu Âu – những người luôn muốn chứng kiến
nhân dân lao động giành quyền tự do ở khắp nơi trên thế giới. Xét về mặt nhân quyền,
văn kiện đã mang lại hy vọng cho hàng triệu người da đen vào một tương lai tươi sáng,
khôi phục lại niềm tin cho những người đã tham gia đấu tranh bền bỉ vì nền tự do của
nước Mỹ. Đó chính là kết quả đầu tiên quan trọng nhất của phong trào đấu tranh xóa
bỏ chế độ nô lệ. Không dừng lại ở đó, bản Tuyên ngôn giải phóng nô lệ đã tạo đà cho
những bước tiến sâu sắc hơn với sự ra đời của các Tu chính án thứ 13, 14 và 15.
4.1.2. Các tu chính án
16
Với việc bổ sung các nội dung liên quan đến xóa bỏ chế độ nô lệ và công nhận
quyền công dân của người da đen trong Hiến pháp Mỹ, người Mỹ gốc Phi đã bước
sang một trang sử mới, vị thế luật pháp thay đổi, có quyền bầu cử và tham gia chính
thức vào các hoạt động chính trị. Đây chính là những kết quả sâu sắc nhất mà phong
trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ hướng tới và đã thành công.
* Tu chính án thứ 13 (Sửa đổi Hiến pháp lần thứ 13)
Ngày 18 tháng 12 năm 1865, Tu chính án thứ 13 chính thức được thông qua xóa
bỏ hoàn toàn chế độ nô lệ trên lãnh thổ Liên bang Mỹ.
* Luật các quyền dân sự năm 1866 và Tu chính án thứ 14 (1868)
Luật các quyền dân sự năm 1866 là một bước tiến quan trọng trong quá trình đòi
nhân quyền cho người da đen vào thời kỳ sau Nội chiến. Đạo luật chứa đựng ba yếu tố
cơ bản đưa người da đen vào dòng chảy của lịch sử xã hội nước Mỹ một cách công
bằng với người da trắng: là công nhận quyền bình đẳng của mọi người dân bất kể màu
da, chỉ rõ các quyền công dân của họ và đưa ra chế tài cho bất cứ một hành vi bất bình
đẳng nào với người da đen. Tu chính án thứ 14 được đề xuất ngày 13 tháng 6 năm
1866 và phê chuẩn ngày 9 tháng 7 năm 1868, đề cập đến quyền bình đẳng của công
dân trước pháp luật trong đó có những người công dân mới - tức những nô lệ mới

được trả tự do sau Nội Chiến.
* Tu chính án thứ 15 (Sửa đổi Hiến pháp lần thứ 15)
Tu chính án thứ 15 được đề xuất vào ngày 26 tháng 2 năm 1869 và phê chuẩn
chính thức vào ngày 3 tháng 2 năm 1870. Tu chính án đảm bảo quyền được bỏ phiếu
của tất cả các công dân (bao gồm cả những người “công dân mới được trả tự do”) sau
Nội chiến.
4.2. Tác động tích cực của phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ
(1830-1865)
4.2.1. Tác động tới diễn biến và kết quả Nội chiến (1861-1865)
Thái độ và hành động của nô lệ khiến cho cả quân Liên bang và Liên minh
phải thay đổi các chính sách dù trực tiếp hay gián tiếp nhằm kết thúc chế độ nô lệ. Đó
cũng là một cách giúp nô lệ đến gần với tự do hơn. Chính phủ Liên bang nhờ biết
cách tập hợp lực lượng cũng đã giành ưu thế trong cuộc chiến.
17
4.2.1.1. Quân Liên bang giành ưu thế từ các chính sách hỗ trợ nô lệ
Thứ nhất là các chính sách hỗ trợ cựu nô lệ.
Thứ hai là các chính sách tuyển lính da đen.
Thứ ba là chính sách giải phóng nô lệ.
4.2.1.2. Chính sách của chính phủ Liên minh với nô lệ
Trước mùa thu năm 1862, chính phủ Liên minh đã cho phép sung công các nô
lệ. Không chỉ vậy, một số người da trắng miền Nam còn muốn vũ trang cho những
người da đen ngay từ khi chiến tranh bắt đầu và những nhà cầm quyền địa phương đã
cho phép tuyển mộ người da đen làm các công việc phục vụ quân đội. Tuy nhiên, do
có quá nhiều ý kiến phản đối trong chính phủ Liên minh cho nên khi đưa ra luật
tuyển lính da đen vào năm 1863 thì Liên minh gần như đã bị phá hủy bởi sự tấn công
dữ dội của các lực lượng Liên bang và những xung đột nội bộ của chính nó. Sự thất
bại lớn nhất của miền Nam ở chỗ, chế độ mà họ đang muốn bảo vệ lại là vật cản của
họ trong cuộc Nội chiến.
4.2.2. Tác động tới cuộc sống của người Mỹ gốc Phi
Phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ đã thực hiện được mục tiêu lớn nhất

của nó sau Nội chiến là giải phóng nô lệ da đen. Người Mỹ gốc Phi giờ đây về mặt luật
pháp được công nhận bình đẳng với người da trắng. Một là, những tác động tích cực
về mặt kinh tế. Tự do đồng nghĩa với vị thế kinh tế mới đối với người da đen đã được
xác lập. Từ địa vị của những người nô lệ không sở hữu bất cứ tư liệu sản xuất nào giờ
đây họ đã được sở hữu đất đai. Hai là, tác động tích cực về mặt xã hội. Về tôn giáo,
trước khi chế độ nô lệ kết thúc, nô lệ da đen không được tham gia nhà thờ của người da
trắng nhưng khi tự do họ đã xây dựng nhà thờ của riêng mình. Đa số các nhà thờ của
người da đen thuộc Hội thánh Baptist và Hội Giám lý (gốc từ đạo Tin lành). Về giáo
dục, người da đen đã có cơ hội được học tập nhiều hơn. Ba là, tác động tích cực trong
đời sống chính trị. Thứ nhất, việc ban hành các bộ luật về nhân quyền và bổ sung các
điều khoản mới của Hiến pháp giúp người da đen có cơ sở pháp lý để thực hiện
quyền công dân. Hai là, người da đen được tham gia vào các cơ quan nhà nước, vào
bộ máy chính quyền các bang và Liên bang. Như vậy, tác động tích cực nhất của
phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ (1830-1865) là thay đổi vị trí của
18
người Mỹ gốc Phi trong xã hội hay nói cách khác là chính thức “trao quyền” cho họ
về luật pháp, tạo cho họ có cơ hội được sống và cống hiến cho nước Mỹ.
4.2.3. Tác động tới sự phát triển của kinh tế, xã hội Mỹ
* Tác động tới kinh tế tư bản Mỹ
Khi chế độ nô lệ kết thúc, kinh tế Mỹ có điều kiện phát triển phát triển mạnh
mẽ cả về công nghiệp và nông nghiệp. Cơ sở tồn tại của kinh tế miền Nam là bóc lột
nô lệ, phát triển nền nông nghiệp dựa trên việc bóc lột sức lao động của nô lệ là chủ
yếu bị lung lay đến tận gốc, buộc thế lực chủ nô ở miền Nam phải thay đổi phương
thức kinh doanh. Sự phát triển nông nghiệp trang trại tư bản với quy mô lớn đã tạo ra
hậu thuẫn vững chắc cho sự phát triển công nghiệp. Chỉ chưa tới 50 năm sau Nội
chiến, Hoa Kỳ đã chuyển từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp. Các
nhà máy lớn và xưởng công nghiệp luyện thép, các tuyến đường sắt xuyên lục địa,
các thành phố sầm uất, các khu nông nghiệp rộng lớn xuất hiện khắp đất nước.
* Tác động tới xã hội Mỹ
Sự bình đẳng về mặt luật pháp dành cho con người cụ thể là trao quyền cho

nhóm người Mỹ gốc Phi cũng tác động không nhỏ tới làn sóng nhập cư vào nước Mỹ.
Trong con mắt của những người nhập cư, nền cộng hòa Mỹ là nền cộng hòa tôn trọng
công dân. Chính việc xóa bỏ chế độ nô lệ, giải phóng và trao quyền công dân cho
người Mỹ gốc Phi đã thúc đẩy người dân trên thế giới tin tưởng vào sự công bằng xã
hội ở Mỹ. Kết quả của phong trào đấu tranh xóa bỏ nô lệ cũng góp phần thúc đẩy
phong trào đấu tranh đòi bình đẳng của các nhóm yếu thế khác trong xã hội Mỹ trong
đó điển hình là phụ nữ.
4.2.4. Tác động tới thế giới
*Tác động về tinh thần, tư tưởng
Sự phát triển và những kết quả đạt được của phong trào đấu tranh xóa bỏ chế
độ nô lệ ở Mỹ thế kỷ XIX có tác dụng thúc đẩy tư tưởng nhân văn, nhân đạo, vì
quyền con người trên toàn thế giới.
*Tác động tới thực tiễn đấu tranh chống áp bức trên toàn thế giới
Tác động lớn lao nhất của phong trào giải phóng chế độ nô lệ là thúc đẩy
phong trào giải phóng nô lệ ở các nước thuộc địa. Ở châu Phi, chế độ nô lệ dần bị xóa
19
bỏ ở các thuộc địa của Anh như Bờ Biển Vàng (1874), Ai Cập (1895), Zanzibar
(1897), Sudan (1900), Nigeria (1901), Kenya (1907) và Sierra Leone (1928), muộn
hơn là các nước Afganistan (1923), Nepal (1926), Ả rập Saudi (1962) và Oman
(1970) Không chỉ ở các nước thuộc địa, phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ
Mỹ thế kỷ XIX ở một mặt nào đó còn tác động đến cả các nước đế quốc. Như vậy,
phong trào xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ đã thúc đẩy sự ra đời của những chiến thắng cả
về mặt luật pháp và mặt đạo đức xã hội nhằm xóa bỏ chế độ nô lệ và sự thống trị của
giai cấp bóc lột nói chung và chủ nô nói riêng trên toàn thế giới.
4.3. Hạn chế của phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ (1830-
1865)
Xóa bỏ chế độ nô lệ trước hết là phải xóa bỏ những rào cản pháp lý tức luật pháp
phải đứng ra để công nhận và bảo vệ quyền của người da đen giống như người da trắng,
trong xã hội cũng không được tồn tại bất cứ một sự phân biệt đối xử nào gây tổn hại về
mặt thể chất và tinh thần cho người da đen. Chiến thắng của Liên bang miền Bắc trong

Nội chiến Mỹ (1861 - 1865) đã xóa bỏ chế độ nô lệ về pháp lý nhưng phong trào đấu
tranh xóa bỏ chế độ nô lệ (1830-1865) vẫn còn nhiều hạn chế trên thực tế và người Mỹ
gốc Phi chưa hề nhận được sự bình đẳng.
Thứ nhất, Tuyên ngôn giải phóng nô lệ ra đời là một kết quả rất quan trọng
trong phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ (1830-1865), nhưng trên thực tế
không một nô lệ nào được giải phóng. Bởi bản Tuyên ngôn này chỉ áp dụng cho
những vùng không thuộc quyền kiểm soát của Liên bang, không bao gồm bốn bang
có nô lệ và những vùng ở miền Nam do Liên bang chiếm đóng.
Thứ hai, dù đã được giải phóng và được công nhận quyền công dân nhưng sự
tự do của người Mỹ gốc Phi vẫn bị hạn chế trên nhiều phương diện. Chính những
điều này đã khiến cuộc đấu tranh đòi quyền bình đẳng và chống phân biệt chủng tộc
còn tiếp diễn ở thế kỷ sau. Về kinh tế, người da đen không thể sở hữu những mảnh đất
canh tác có giá trị như người da trắng. Họ bị ép ký kết các hợp đồng lao động bất
bình đẳng và hoạt động kinh doanh của những người da đen luôn bị cản trở nên vị trí
kinh tế của họ luôn thấp kém. Về mặt xã hội, sau Nội chiến, tình trạng bạo lực đối với
người da đen ở miền Nam hết sức nghiêm trọng. Nhiều cuộc nổi loạn, đánh đập, giết
20
hại của người da trắng với người da đen liên tục diễn ra từ năm 1866 đến năm 1876.
Dù vậy, hầu như không có bất cứ một nỗ lực nào nhằm ngăn chặn bạo lực và bảo vệ
quyền lợi của người da đen. Song song với những nỗ lực giáo dục của người da đen
là những phản ứng tiêu cực của người da trắng ở miền Nam. Họ cho rằng, giáo dục
cho nô lệ cũ là điên rồ vì đầu óc họ không thể tiếp thu được kiến thức. Họ dọa giết
giáo viên, đốt trường và phản đối chính phủ vì làm hao tổn ngân sách của quốc gia
cho giáo dục người da đen. Về chính trị, do những biến đổi về mặt kinh tế và chính trị
vào thập niên 80 của thế kỷ XIX, quyền công dân của người da đen vẫn bị xem nhẹ
và bị tước bỏ trong những năm cuối thế kỷ XIX.
4.4. Đặc điểm của phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ (1830-
1865)
Tính chất của phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở nước Mỹ (1830-
1865) có sự thay đổi xét về phía lực lượng tham gia và theo tiến trình thời gian. Với

người Mỹ gốc Phi, đây là cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, mà kết quả của nó
quyết định đến tương lai của người da đen bao gồm cả những nô lệ và những người
da đen tự do. Về phía những người Mỹ da trắng tiến bộ thì phong trào đấu tranh xóa
bỏ chế độ nô lệ là một cuộc cải cách xã hội nhằm lên án và tấn công vào một thể chế
tàn bạo trong xã hội văn minh. Đến thời kỳ Nội chiến, phong trào đã mở rộng sang cả
biện pháp quân sự nhằm đảm bảo sự thắng lợi của quân đội Liên bang, một giải pháp
chính trị để đi đến kết thúc chiến tranh, bảo toàn sự thống nhất của Liên bang Mỹ
cũng đã được xác lập. Với dân tộc Mỹ, nếu coi cuộc chiến tranh giành độc lập của 13
thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ là cuộc cách mạng tư sản lần thứ nhất và cuộc Nội chiến là
cuộc cách mạng tư sản lần thứ hai thì việc xóa bỏ chế độ nô lệ là nhiệm vụ dân chủ
kéo dài qua hai cuộc cách mạng. Và chỉ đến lần thứ hai nó mới được giải quyết triệt
để nhằm xóa bỏ mọi sự chia rẽ giữa hai miền Nam – Bắc tạo nên một thị trường
thống nhất thúc đẩy chủ nghĩa tư bản phát triển. Từ đó, có thể thấy phong trào đấu
tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ từ năm 1830 đến năm 1865 có những đặc điểm nổi
bật sau:
Thứ nhất, phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ giai đoạn từ năm 1830
đến 1865 có tính tổ chức cao, hình thức đấu tranh phong phú và có hiệu quả.
21
Thứ hai, phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ giai đoạn từ năm 1830
đến 1865 có lực lượng tham gia đông đảo không phân biệt giới tính, nghề nghiệp,
chủng tộc.
Thứ ba, phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ giai đoạn từ năm 1830
đến 1865 mang đậm màu sắc tôn giáo.
Thứ tư, phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ (1830-1865) vẫn còn hạn
chế vì bị chi phối nhiều bởi lợi ích của người Mỹ da trắng mà chưa thực sự hướng tới
nhu cầu của người Mỹ gốc Phi.
KẾT LUẬN
1.Chế độ nô lệ ở Mỹ được hình thành từ giữa thế kỷ XVII, phát triển mạnh mẽ
vào thế kỷ XVIII cùng với sự phát triển của các đồn điền nông nghiệp là một chế độ
tàn bạo, khắc nghiệt trong lịch sử nước Mỹ. Trong chế độ đó, nô lệ da đen từ châu

Phi xa xôi phải chịu cảnh gông cùm và nô dịch. Ngay từ những ngày đầu bị bắt làm
nô lệ, những người da đen đã kháng cự quyết liệt, nhưng tất cả đều thất bại. Lợi
nhuận khổng lồ từ buôn bán nô lệ và sử dụng lao động nô lệ khiến chế độ này là một
yếu tố không thể thiếu trong nền kinh tế của 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ. Theo quy
luật, cùng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, chế độ nô lệ ngày càng trở thành một
“vật cản” của nước Mỹ đặc biệt từ sau cuộc chiến tranh giành độc lập. Sau cuộc cách
mạng, nhận thức về chế độ nô lệ và việc xóa bỏ nó có sự khác biệt giữa hai miền
Nam Bắc. Nếu như miền Nam với nhận thức cố hữu muốn duy trì sự tồn tại của chế
độ nô lệ thì người da trắng miền Bắc dưới góc độ kinh tế, xã hội hay đạo đức, tôn
giáo thì chế độ nô lệ đều cần phải xóa bỏ. Cùng với sự mở rộng lãnh thổ ra phía Tây,
mâu thuẫn giữa các nhóm thế lực tư sản công thương ở miền Bắc và chủ nô ở miền
Nam càng gay gắt. Từ những thỏa ước khoan nhượng tạo thế cân bằng (thỏa ước
Missouri 1820) cho đến những xung đột mang tính bạo lực không thể điều hòa được
(xung đột ở Kanas) đã dần châm ngòi nổ cho cuộc Nội chiến đau thương trong lịch sử
nước Mỹ. Nhìn rộng ra trên thế giới đầu thế kỷ XIX, có thể thấy, chế độ nô lệ đã
được xóa bỏ ở nhiều nơi, phong trào đấu tranh đòi giải phóng nô lệ ngày càng rầm rộ
và đạt được các kết quả khả quan.
22
2. Những thay đổi mạnh mẽ của bối cảnh trong nước và quốc tế đã thúc đẩy sự
phát triển của phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ vào thế kỷ XIX. Thập
niên 30 của thế kỷ XIX là thời gian quan trọng của phong trào, với sự ra đời của Hội
nghị của người da đen tự do (1830), của tờ báo chống nô lệ có ảnh hưởng đầu tiên
mang tên “Người giải phóng” của William Lloyd Garrison (1831), cuộc khởi nghĩa
của nô lệ da đen do Nat Turner lãnh đạo – làm chấn động các chủ nô phía Nam
(1831) cũng như sự phát triển mở rộng của mạng lưới hỗ trợ nô lệ bỏ trốn “Đường sắt
ngầm”. Cũng trong thập niên đó, nước Mỹ chứng kiến sự ra đời của các Hội chống
chế độ nô lệ với cương lĩnh được xây dựng dựa trên mục tiêu đấu tranh rõ ràng nhằm
xóa bỏ chế độ nô lệ đã khiến phong trào có tính tổ chức và hoạt động hiệu quả hơn rất
nhiều so với các hoạt động đấu tranh ở giai đoạn trước đó. Dù có nhiều quan điểm
khác nhau về đường lối đấu tranh nhưng chính sự đa dạng, phong phú về phương

pháp, hình thức đấu tranh đã giúp các nhà hoạt động trong phong trào thu được nhiều
kết quả. Đấu tranh bí mật, bạo lực luôn song hành cùng các hoạt động đấu tranh công
khai, hợp pháp như diễn thuyết, in sách báo hay vận động nghị trường. Tôn giáo là
một nhân tố quan trọng thúc đẩy phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ trong giai
đoạn 1830-1865. Niềm tin về sự bình đẳng tôn giáo giúp các tín đồ tham gia tích cực
hơn vào các hoạt động chống chế độ nô lệ. Ngoài ra, mục tiêu xóa bỏ chế độ nô lệ
còn được kết hợp chặt chẽ với các phong trào khác như phong trào nữ quyền hay
phong trào công nhân.
3. Kết quả lớn nhất mà phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ giai
đoạn 1830-1865 đạt được là Tuyên ngôn giải phóng nô lệ (1863) và các Tu chính án
thứ 13 (1865), Tu chính án 14 (1868) và Tu chính án 15 (1870). Dù còn nhiều hạn
chế nhưng việc xóa bỏ được hoàn toàn chế độ nô lệ ở nước Mỹ đã có những tác động
quan trọng đối với lịch sử xã hội Mỹ thế kỷ XIX và sau đó. Có thể thấy rằng, từ trước
khi có sự ra đời của Tuyên ngôn giải phóng nô lệ thì phong trào này cũng có những
tác động nhất định đến nhận thức, tinh thần thái độ của quần chúng da đen và da
trắng. Với những người nô lệ da đen đó là thúc đẩy họ đứng lên tự chủ trong cuộc
sống, với người da trắng tiến bộ đặc biệt là những người ở tầng lớp dưới, đứng lên
xóa bỏ chế độ nô lệ để thay đổi cuộc sống của chính mình. Điều đó đã trực tiếp ảnh
23
hưởng tới diễn biến và kết quả của cuộc Nội chiến Mỹ, tới chính sách của cả Liên
bang và Liên minh đối với vấn đề nô lệ. Chính phủ Liên bang vì nhanh nhạy hơn
trong việc thu hút lực lượng quân đội da đen nên đã giành được chiến thắng dù ngay
từ ban đầu Tổng thống Lincoln không hề có ý muốn đó. Nếu như đối với người Mỹ
gốc Phi phong trào là một cuộc giải phóng giai cấp, với người da trắng tiến bộ là một
cuộc cải cách xã hội thì đối với cả nước Mỹ đấy là một cuộc cách mạng lớn nhằm
thay đổi hệ thống kinh tế, gạt sạch rào cản cũ, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát
triển mạnh mẽ hơn. Tuy là một nước tư bản non trẻ song Mỹ đã vươn lên thành một
cường quốc trên thế giới trong thời gian ngắn ngủi kể từ khi lập quốc. Không thể phủ
nhận những tác động tích cực mà phong trào mang đến cho nước Mỹ nói riêng và thế
giới nói chung trong phong trào đấu tranh xóa bỏ áp bức, bất công, đòi quyền sống,

quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
4. Tổng thống Abraham Lincoln đã từng nói “Một ngôi nhà bị chia cắt không
thể đứng vững… chính phủ này không thể chấp nhận vĩnh viễn một nửa là chế độ tự
do, một nửa là chế độ nô lệ” [6, tr.380]. Nước Mỹ đã phải trả một cái giá quá đắt để
có thể hoàn thành nhiệm vụ còn dang dở của cuộc cách mạng tư sản lần thứ nhất. Bên
cạnh những ý nghĩa của những kết quả lớn lao mà phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ
nô lệ ở Mỹ có được, nhiều hạn chế vẫn tồn tại trên thực tế. Bản Tuyên ngôn giải
phóng nô lệ hay các Tu chính án vẫn chưa thể kết thúc được câu chuyện đòi nhân
quyền của người Mỹ gốc Phi vì họ vẫn phải đấu tranh trong gần một thế kỷ nữa để
giành được quyền công dân đích thực. Dù vậy, những trang sử đẫm máu về chế độ nô
lệ cũng đã khép lại vào năm 1865 và mở ra một thời kỳ mới cho dân tộc Mỹ. Nước
Mỹ dù chưa thể xóa bỏ được chủ nghĩa phân biệt chủng tộc nhưng đã và đang cố
gắng thực hiện các nguyên tắc nền tảng của cha ông từ thời lập quốc rằng “tất cả mọi
người sinh ra đều có quyền bình đẳng” dù màu da có khác biệt. Đúng như Foner đã
viết “Đây là sự khởi đầu của một kỷ nguyên mới của nền văn minh… phân chia rạch
ròi giữa quá khứ cũ kỹ và mệt mỏi với một tương lai mới và tươi sáng” [7, tr.44].
Năm 2008, vị Tổng thống người Mỹ gốc Phi đầu tiên – Barack Obama đã lên nắm
quyền – chứng tỏ một vị thế hoàn toàn mới của người da đen trên đất Mỹ, dù ở đâu
đó tại Liên bang Mỹ vẫn xuất hiện các hình thức phân biệt đối xử với người da đen.
24

×