TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
*********
NGUYỄN ĐỨC KHÁ
HOẠT ĐỘNG BUÔN BÁN NÔ LỆ
CỦA NGƢỜI ANH TRÊN ĐẠT TÂY DƢƠNG
(1660 - 1807)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Thế giới
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. NGUYỄN VĂN VINH
HÀ NỘI, 2014
LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn của Th.s
Nguyễn Văn Vinh. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 05 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Đức Khá
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Th.s
Nguyễn Văn Vinh. Thầy đã tận tình hƣớng dẫn trong suốt quá trình viết khóa luận
tốt nghiệp.
Qua đây, em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô khoa Lịch Sử của
Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã giảng dạy, chỉ bảo em trong suốt thời gian
qua và tạo điều kiện để em hoàn thành khóa luận này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn gái Trần Thị Loan đã giúp đỡ
tôi cả về mặt vật chất và tinh thần để tôi có thể hoàn thành bài khóa luận này.
Với điều kiện hạn chế về thời gian cũng nhƣ kiến thức của bản thân, nên
khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình nghiên cứu, em kính mong
nhận đƣợc sự đóng góp của các thầy cô và các bạn để giúp khóa luận của em hoàn
thiện hơn.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Đức Khá
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1.Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu Error! Bookmark not defined.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 2
5. Đóng góp của đề tài 3
6. Bố cục đề tài. 3
CHƢƠNG 1. BUÔN BÁN NÔ LỆ CỦA CÁC NƢỚC CHÂU ÂU TRÊN ĐẠI
TÂY DƢƠNG TỪ THẾ KỈ XV- XIX 4
1.1. NGUỒN GỐC BUÔN BÁN NÔ LỆ DA ĐEN 4
1.2. BUÔN BÁN NÔ LỆ CỦA CÁC NƢỚC CHÂU ÂU Ở ĐẠI TÂY DƢƠNG
THẾ KỈ XV - XIX 11
1.2.1. Buôn Bán nô lệ của ngƣời Bồ Đào Nha 11
1.2.2. Buôn Bán nô lệ của ngƣời Tây Ban Nha 18
1.2.3. Buôn bán nô lệ của ngƣời Hà Lan 25
CHƢƠNG 2. BUÔN BÁN NÔ LỆ CỦA ANH TRÊN ĐẠI TÂY DƢƠNG
(1660 - 1807) 37
2.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ 37
2.2. BUÔN BÁN NÔ LỆ CỦA ANH Ở ĐẠI TÂY DƢƠNG (1660 - 1807) 40
2.2.1. Buôn bán nô lệ của Anh từ 1660 - 1807 40
2.2.2. Lợi nhuận của việc buôn bán nô lệ đối với thu nhập quốc gia 51
2.2.3. Hệ thống tam giác mậu dịch đối với nền kinh tế nƣớc Anh 54
2.2.4. Đấu tranh đi đến xóa bỏ buôn bán nô lệ 58
KẾT LUẬN 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO 64
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năm 1492, sau khi Columbus “khám phá” ra châu Mĩ và tuyến đƣờng mới
tới Ấn Độ vào năm 1497 bởi Vasco de Gama thì quá trình buôn bán Đông - Tây
diễn ra tấp lập hơn trƣớc rất nhiều. Trên Đại Tây Dƣơng đã dần hình thành nên Tam
giác mậu dịch buôn bán nô lệ giữa châu Phi - châu Mĩ - châu Âu. Điều này đã làm
sống lại việc buôn bán nô lệ đã bị thủ tiêu từ lâu.
Với tuyến đƣờng thƣơng mại trên Đại Tây Dƣơng đời sống của ngƣời châu
Âu nâng lên một cách đáng kể, theo ghi chép thì trƣớc năm 1650 các mặt hàng nhƣ
đƣờng, cà phê, thuốc lá… là những mặt hàng xa xỉ chỉ ngƣời giàu mới có cơ hội sử
dụng thì đến những năm 1700 những ngƣời dân với mức thu nhập trung bình cũng
có thể đƣợc biết đến. Thêm vào đó, ngƣời châu Âu cũng đƣa một số lƣợng lớn
khoảng 10 - 15 triệu ngƣời châu Phi sang Tân Thế giới làm nô lệ trong các đồn
điền. Theo nhiều ý kiến việc buôn bán nô lệ thu lại nhiều lợi nhuận khổng lồ cho
các nƣớc châu Âu, các nhà tƣ tƣởng Marxit cho rằng lợi nhuận đó là một trong
những nguồn tích lũy nguyên thủy tƣ bản để đƣa tới cuộc cách mạng công nghiệp ở
các nƣớc tƣ bản - mà sẽ diễn ra sớm nhất ở nƣớc Anh. Cùng với đó việc buôn bán
nô lệ cũng có ảnh hƣởng to lớn tới châu Phi, chính vì vậy châu Phi ngày nay vẫn là
lục địa đói nghèo với biết bao bệnh dịch, tệ nạn… hay vẫn còn đƣợc gọi với một cái
tên là lục địa đen.
Nhằm tìm hiểu về một trong những trang sử đen tối trong lịch sử nhân loại,
tôi đã quyết định chọn vấn đề: “Hoạt động buôn bán nô lệ của Anh ở Đại Tây
Dƣơng (1660 - 1807)” làm đề tài khóa luận của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đối với đề tài nghiên cứu về việc buôn bán nô lệ của Anh trên Đại Tây
Dƣơng thì đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và bài viết của học giả nƣớc ngoài
đề cập tới vấn đề này với nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Có thể kể một vài
công trình tiêu biểu sau đây:
Đầu tiên, khi nghiên cứu buôn bán nô lệ ta không thể không kể đến tác
phẩm: “Capitalism & Slavery” của Eric Williams do The University of North
2
Carolina Press ấn hành. Đây là công trình nghiên cứu tỷ mỉ về những đánh giá về
lợi nhuận trong hệ thống tam giác mậu dịch đối với nƣớc Anh. Qua đây ta có thể
hiểu thêm về nguồn lợi mà các nƣớc châu Âu thu đƣợc từ các đồn điền ở châu Mỹ.
Tiếp theo là công trình: “Slavery, Atlantic Trade and the British Economy,
1660-1800” của Kenneth Morgan, Cambridge University Press, xuất bản năm 2000
đã nghiên cứu về việc buôn bán nô lệ của ngƣời Anh trên Đại Tây Dƣơng từ 1660 -
1800, qua nghiên cứu của mình tác giả đã có cái nhìn đối chiếu việc buôn bán nô lệ
đem lại lợi nhuận có vai trò nhƣ thế nào đối với nền kinh tế nƣớc Anh thời kì tiền
công nghiệp.
Hay sử gia Jonh Henrikn Clarke với tác phẩm “Chistopher Columbus and the
Afrikan Holocaust Slavery and the rise of European Capitalism” do Publishers
Groud xuất bản năm 2001 đã đề cập đến một số vấn đề nhƣ châu Phi trƣớc khi tham
gia vào hệ thống thƣơng mại tam giác, đồng thời tác giả còn có đánh giá hậu quả
của việc buôn bán nô lệ đối với châu Phi và tác giả cho rằng việc mang nô lệ đến
châu Mỹ là một trong những nhân tố dẫn đến cuộc Cách mạng công nghiệp ở Anh.
Thêm vào đó, nếu chúng ta muốn tìm hiểu nguyên nhân của việc buôn bán nô
lệ có thể đọc tác phẩm “Súng, Vi Trùng Và Thép” của Jared Diamond đƣợc Nxb
Tri Thức mua bản quyền, để có một lời giải về nguyên nhân của những cái chết
của ngƣời bản địa khi những ngƣời châu Âu đặt chân tới đây.
Nhìn chung, ở mỗi công trình nghiên cứu đều có những phát hiện, khám phá
mới. Đây chính là những nguồn tƣ liệu rất mới mẻ để ta có thể có cái nhìn bao quát
hơn về vấn đề buôn buôn bán nô lệ ở Đại Tây Dƣơng.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích, nhiệm vụ
Với đề tài này, do tài liệu chủ yếu là tiếng Anh nên ngƣời viết chỉ muốn phân
tích lợi nhuận của việc buôn bán nô lệ của ngƣời Anh trên Đại Tây Dƣơng, 1660 -
1807 đối với nền kinh tế nƣớc Anh chứ không có tham vọng phân tích đánh giá tác
động của việc buôn bán nô lệ của một số nƣớc trên Đại Tây Dƣơng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu về hoạt động buôn bán nô lệ
của ngƣời Anh trên Đại Tây Dƣơng.
3
Về thời gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu trong khoảng thời gian từ 1660 –
1807.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tƣ liệu
Nguồn tƣ liệu mà ngƣời viết thu thập và sƣu tầm để nghiên cứu đề tài này chủ
yếu là sách dịch và sách ngoại văn.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp chính khi viết bài nghiên cứu này chủ yếu là miêu tả quả trình
buôn bán nô lệ của thực dân Anh trên Đại Tây Dƣơng dựa trên tri thức lịch sử, địa
lý, văn hóa. Đồng thời, tôi còn kết hợp nhiều phƣơng pháp: tổng hợp, so sánh,
chứng minh, phân tích đánh giá. Trong quá trình viết bài nghiên cứu, các phƣơng
pháp trên không dƣợc tôi sử dụng một cách tách bạch mà có sự kết hợp tổng hợp để
rút ra kết luận cuối cùng.
5. Đóng góp của đề tài
Chọn đề tài này, tôi mong muốn sẽ mang đến một số đóng góp cho việc
nghiên cứu tình hình buôn bán nô lệ ở Đại Tây Dƣơng, đồng thời góp một chút tài
liệu tham khảo cho độc giả. Đi sâu tìm hiểu “Hoạt động buôn bán nô lệ của Anh
ở Đại Tây Dƣơng (1600 -1807)”, tôi mong muốn có một góc nhìn về việc buôn bán
nô lệ của các nƣớc châu Âu trên Đại Tây Dƣơng từ thế kỉ XVI - XIX. Đồng thời tìm
hiểu tác động của việc buôn bán nô lệ với nền kinh tế nƣớc Anh.
6. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài đƣợc cấu
trúc thành hai chƣơng chính:
Chƣơng 1: Buôn bán nô lệ của các nƣớc châu Âu trên Đại Tây Dƣơng từ thế kỉ
XV - XIX.
Chƣơng 2: Buôn bán nô lệ của ngƣời Anh trên Đại Tây Dƣơng từ 1660 - 1807.
4
CHƢƠNG 1
BUÔN BÁN NÔ LỆ CỦA CÁC NƢỚC CHÂU ÂU TRÊN ĐẠI TÂY
DƢƠNG TỪ THẾ KỈ XV- XIX
1.1. NGUỒN GỐC BUÔN BÁN NÔ LỆ DA ĐEN
Trong khoảng thời gian từ 1400 - 1900, theo ƣớc tính của các sử gia thì có
khoảng 10 - 15 triệu ngƣời da đen ở châu Phi đƣợc mang tới châu Mỹ biến thành nô
lệ làm các công việc trong các hầm mỏ, đồn điền [26; 13]. Tuy nhiên, chế độ nô lệ
và việc buôn bán nô lệ không phải lúc đó mới hình thành và cũng không phải do
ngƣời châu Âu tạo ra. Chế độ nô lệ tồn tại từ trƣớc đó rất lâu, thậm chí nó tồn tại
trƣớc khi ngƣời ta viết về nó. Ở nhiều xã hội cổ đại, nô lệ thƣờng là tội phạm, tù
binh, hoặc những ngƣời nghèo không trả đƣợc nợ nên đã bị biến thành nô lệ. Nô lệ
tồn tại ở nhiều khu vực, chẳng hạn ở Trung Đông thời kỳ cổ đại đã tồn tại một bộ
luật do vua Hammurabi đặt ra đó là tử hình bất cứ kẻ nào giúp đỡ nô lệ chạy thoát
cũng nhƣ việc che giấu nô lệ bỏ trốn. Ở Ai Cập thời cổ đại thì các Pharaon đã sử
dụng nô lệ để xây dụng các công trình Kim Tự Tháp… Nô lệ cũng từng tồn tại ở
một số nƣớc châu Á nhƣ Trung Hoa, Ấn Độ. Nô lệ tồn tại trong xã hội Trung Hoa
trong một thời gian dài từ thời nhà Hán (206.TCN - 25.SCN) đến năm 1911 sau
cuộc Cách mạng Tân Hợi thì chế độ nô lệ mới chấm dứt. Theo ƣớc tính, nô lệ chiếm
khoảng 5% dân số Trung Hoa. Ở Ấn Độ nô lệ tồn tại dai dẳng cùng với chế độ phân
biệt đẳng cấp, đến năm 1800, Ấn Độ vẫn còn 5 triệu ngƣời bị biến thành nô lệ.
Ở châu Phi, nô lệ cũng tồn tại phổ biến trƣớc khi ngƣời châu Âu đến đây bắt
nô lệ sang thuộc địa ở châu Mỹ. Nô lệ châu Phi thƣờng là những tù binh chiến
tranh, những ngƣời nghèo không trả đƣợc nợ… có một số gia đình thì bán con để
đổi lấy chút lƣơng thực. Nô lệ tồn tại phổ biến ở các nƣớc Tây Phi, việc sở hữu
nhiều nô lệ thể hiện sự giàu có của các cá nhân. Không chỉ có vậy, từ thế kỉ VII,
vƣơng quốc của những ngƣời theo Hồi giáo đƣợc thành lập thì với việc ngƣời Hồi
giáo tiếp xúc với ngƣời châu Phi Đen từ rất sớm bằng các nƣớc giữa sông Niger và
Darfour - những điểm buôn bán ở Đông Phi, họ là những ngƣời thực hiện với quy
mô lớn việc buôn bán ngƣời da đen.
5
Đặc biệt, Hy Lạp thời kỳ cổ đại nổi tiếng là quốc gia sáng tạo ra nền dân chủ.
Tuy nhiên, nô lệ ở đây không thể thiếu đối với nền dân chủ Hy Lạp, thành bang
Athen của Hy Lạp không thể tồn tại đƣợc nếu không có những nô lệ tham gia việc
đồng áng, lao động thủ công… Năm 450 TCN, thành bang Athen có khoảng
300.000 ngƣời thì nô lệ chiếm khoảng 1/3 - 1/4 dân số. Aristotle, một triết gia nổi
tiếng của Hy Lạp cũng biện minh về sự tồn tại của chế độ nô lệ này: “Không có nô
lệ để sản xuất và phụ nữ làm công việc nhà thì đàn ông Hy Lạp không thể làm được
những công việc cao xa” [29]. Theo đó Aristotle cho rằng có 2 loại nô lệ: “Những
kẻ sinh ra đã làm nô lệ và những kẻ buộc làm nô lệ. Những kẻ mà trời sinh ra kém
thông minh, không làm gì khác hơn chỉ làm những công việc tay chân, thì những kẻ
ấy sinh ra đã làm nô lệ. Đó là những kẻ không đủ trí phán đoán khôn ngoan. Những
kẻ như vậy có được chủ nhân là điều tốt cho họ” [29]. Ngoài ra những kẻ bị bắt
trong các cuộc chiến tranh cũng bị buộc trở thành nô lệ. Ngƣời Hy Lạp cũng nhƣ
Aristotle đều cho rằng: “Những kẻ chiến bại chắc chắn kém hơn người chiến thắng
chứ không làm sao thua được? Như vậy, bị bắt làm nô lệ cũng phải thôi”.[29]
Vào thời kỳ La Mã cổ đại, chế độ nô lệ ngày càng phổ biến trong xã hội. Theo
tính toán thì thời kì vua Julius Caear (40TCN), La Mã có khoảng “2 triệu nô lệ phục
vụ” [26; 19]. Hầu hết những ngƣời La Mã cũng nhƣ ngƣời Hy Lạp đều cho rằng sự
tồn tại của nô lệ trong xã hội nhƣ một phần thiết yếu của xã hội.
Đến năm 476TCN, Đế chế La Mã sụp đổ, nhƣng chế độ nô lệ vẫn còn tồn tại
trong đời sống châu Âu cũng nhƣ các nền văn hóa khác. Nó tồn tại ở các nƣớc theo
Thiên Chúa giáo qua suốt thời Trung cổ, tuy nhiên dần dần bị vƣợt qua bởi định chế
nông nô. Nó thông thƣờng đƣợc những ngƣời Thiên Chúa giáo chấp nhận cho đến
bao giờ mà những ngƣời nô lệ không phải là ngƣời của Thiên Chúa giáo. Nó cũng
tồn tại khá phổ biến tại Italya. Trong thời kì thực dân thì các cƣờng quốc châu Âu
chỉ chấp nhận chế độ này tại các thuộc địa ở hải ngoại, nơi tồn tại qua việc cải đạo
ngƣời nô lệ sang Thiên Chúa giáo.
Tuy nhiên, đến năm 1492, Columbus đại diện cho nền quân chủ Tây Ban Nha
“khám phá” ra châu Mỹ. Với vệc khám phá ra một châu lục mới này đã thúc đẩy
6
quá trình thƣơng mại và cạnh tranh quốc tế. Thời kì này đƣợc các học giả phƣơng
Tây gọi là toàn cầu hóa 1.0. Toàn cầu hóa này là đề cao các quốc gia và sức
mạnh cơ bắp. Trong giai đoạn này các quốc gia và chính phủ đi đầu trong việc
xóa bỏ các bức tƣờng và kết nối thế giới lại với nhau. Chính toàn cầu hóa 1.0 này
làm cho thế giới co lại từ kích thƣớc lớn thành kích thƣớc trung bình [10; 25].
Cuối thế kỉ XV-XVI, hai nƣớc Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đi đầu trong công
cuộc phát kiến địa lý, để tránh việc cạnh tranh nhau, hai nƣớc đã nhờ đến sự phân
xử của Đức giáo hoàng về phạm vi ảnh hƣởng của hai nƣớc. Năm 1493, với việc
Đức giáo hoàng là Alexandre VI đứng ra làm trọng tài thì hai nƣớc đã kí kết Hiệp
ƣớc Tordesillas qua đó phân định ngƣời Bồ Đào Nha đƣợc độc quyền buôn bán,
truyền giáo ở phía Đông, Tây Ban Nha ở phía Tây (sau này điều chỉnh cho phép
ngƣời Bồ Đào Nha có quyền sở hữu Brazil). Khi Hiệp ƣớc này đƣợc kí kết thì gặp
phải sự phản đối từ các nƣớc châu Âu. Năm 1497, với chuyến thám hiểm của Cabot
đại diện cho chính quyền Anh đến Bắc Mỹ là câu trả lời cho Hiệp ƣớc Tordesillas.
Vua nƣớc Pháp là Francis I cũng đã nên tiếng phản đối: “Mặt trời chiếu sáng cho
tôi cũng như cho người khác. Tôi rất muốn nhìn thấy di chúc của Adam về việc loại
bỏ tôi ra khỏi một phần thế giới” [16; 4]. Vua Đan Mạch từ chối chấp nhận phán
quyết của Đức giáo hoàng Alexandre VI về vùng Đông Ấn mà Đan Mạch quan tâm.
Một chính khách nổi tiếng dƣới thời Elizabeth là William Cecil cũng phủ nhận
đƣờng ranh giới mà Đức giáo hoàng Alexandre VI đã phân chia. Năm 1580, chính
quyền Anh cho rằng không có “hòa bình dưới đường kẻ”[16; 4]. Chính những sự
phản đối của các quốc gia châu Âu làm cho ngƣời Tây Ban Nha khó có thể độc
quyền chiếm giữ các thuộc địa trong thời gian dài. Anh, Pháp, Hà Lan thậm chí còn
thách thức bản Hiệp ƣớc giữa hai nƣớc trên bán đảo Iberia, đồng thời đòi vị trí của
mình trong ánh mặt trời. Ngƣời da đen cũng có vị trí của mình trong đó, mặc dù họ
không yêu cầu nó. “Ánh mặt trời” họ nhận đó chính là ánh mặt trời trong các đồn
điền trồng mía, đƣờng, bông ở Tân Thế giới.
Theo Adam Smith, thì sự thịnh vƣợng của thuộc địa phụ thuộc vào một yếu tố
đó chính là có “nhiều đất tốt”. Năm 1776, thuộc địa của Anh đƣợc chia làm hai loại:
7
thuộc địa với nền kinh tế tự cung tự cấp - là những thuộc địa với nền kinh tế đa dạng
của những nông trại nhỏ, loại này phổ biến ở khu vực Bắc Mỹ. Loại thứ hai, đó là
những đồn điền chuyên canh các cây công nghiệp phục vụ cho xuất khẩu nhƣ đồn
điền thuốc lá ở lục địa và các đồn điền trồng mía ở vùng biển Caribbean. Đất đai và
vốn đầu tƣ của các thuộc địa tuy nhiều song còn cần một yếu tố nữa đó chính là lực
lƣợng lao động thì các thuộc địa mới có thể mang lại lợi nhuận cho chính quốc.
Khi Colombo “khám phá” ra châu Mĩ thì dân số của Châu Mĩ có khoảng 75
triệu ngƣời, có lẽ dân số châu Mĩ tƣơng đƣơng với dân số châu Âu cùng thời [6; 8].
Còn Noble David Cook cho rằng đến năm 1492 dân số Anh điêng có khảng 35-
40 triệu [14;48]. Với ƣu thế về vũ khí, ngựa, các nƣớc Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha, Anh, Pháp, Hà Lan đã nhanh chóng chiếm đóng những vùng đất mới vừa
tìm đƣợc và thành lập các đồn điền trồng cà phê, mía, cao su ở châu Mĩ. Với việc
thành lập các đồn điền nhƣ vậy ngƣời châu Âu cần nhiều lao động để làm việc ở
các đồn điền của mình. Vì thế việc buôn bán và sử dụng nô lệ ở Tân Thế giới là
rất phức tạp.
Những nô lệ đầu tiên ở Tân Thế giới không phải là ngƣời da đen mà là ngƣời
châuMỹ bản địa. Tuy nhiên, ngƣời châu Mỹ bản địa đã không chịu nổi các yêu cầu
của chủ các đồn điền. Họ không có khả năng thích nghi với cuộc sống mới, họ quen
với cuộc sống tự do mà không thể quen sự khắc nghiệt với việc bị biến thành nô lệ
trong các đồn điền. Đồng thời, ngƣời châu Mỹ bản địa không có hệ miễn dịch
chống lại các căn bệnh mà ngƣời châu Âu mang tới. Chính bệnh dịch đã làm cho
dân số châu Mỹ ở Tân Thế giới giảm sút nghiêm trọng. Có một thực tế là“Số người
châu Mỹ bản địa chết trên giường vì các vi trùng của Âu -Á nhiều hơn số người chết
trên chiến trường vì súng và gươm của người châu Âu” [ 7; 252].
Những bệnh từ các dân tộc đi xâm lƣợc vốn đã mang kháng thể đáng kể lây
nhiễm sang các dân tộc không có kháng thể. Bệnh đậu mùa, bệnh sởi, cúm, sốt
phát ban, dịch hạch và những bệnh truyền nhiễm khác ở châu Âu đã đóng vai trò
quyết định trong việc giết chết nhiều dân tộc châu Mỹ bản địa. Chẳng hạn, một
trận đậu mùa đã giết chết gần một nửa dân số Aztec sau khi diễn ra cuộc tấn
8
công đầu tiên của ngƣời Tây Ban Nha vào năm 1520 thất bại. Khắp nơi ở châu
Mỹ, những căn bệnh đã giết chết rất nhiều ngƣời bản địa: “Dân số Mêxicô ban
đầu có khoảng 20 triệu người nhưng đến năm 1618 chỉ vỏn vẹn còn có 1,6 triệu
người” [7; 252].
Sau này, những nhà truyền giáo, linh mục dòng Tên và tín đồ dòng Menno,
các thƣơng nhân từ Montreeal, Charleston tất cả bọn họ đều kể những câu chuyện
kinh khủng về bệnh đậu mùa và ngƣời bản xứ: “Năm 1738, bệnh đậu mùa tiêu diệt
½ dân số Cherokee, năm 1759 ½ dân số Catawbas, trong những năm đầu thế kỉ XIX
khoảng 2/3 dân số Omahas và có lẽ toàn bộ dân số ở giữa sông Missouri và New
Mexico. Năm 1837 - 1838 dân số ở Mandans và có lẽ ½ người da đỏ ở đồng bằng
bị tiêu diệt” [14; 25].
Nói đến những xã hội đông dân nhất ở Tân Thế giới vào năm 1492, chúng
ta thƣờng nghĩ tới ngƣời Aztec và ngƣời Inca. Chúng ta quên mất rằng ở Bắc Mỹ
cũng từng là nơi có xã hội Anh-điêng định cƣ đông đúc nhất ở thung lũng sông
Misissippi, một trong những vùng nông nghiệp trù phú nhất của Hoa Kỳ ngày
nay. Tuy nhiên, trong trƣờng hợp Bắc Mỹ, ngƣời châu Âu không trực tiếp hủy
diệt xã hội đó mà chính vi trùng Âu - Á đã lan đến trƣớc con ngƣời đã làm điều
đó. Theo các khai quật khảo cổ và cùng với việc nghiên cứu kỹ lƣỡng những mô
tả của chính các nhà thám hiểm đặt chân lên bờ biển Hoa Kỳ cho thấy, thật ra
Bắc Mỹ từng có đến khoảng 20 triệu ngƣời Anh-điêng. Nếu tính chung toàn bộ
Tân Thế giới thì trong vòng một, hai thế kỉ sau khi Columbus đặt chân tới đây,
dân số Anh-điêng đã sụt giảm 95%.
Tác nhân gây chết ngƣời chính là các vi trùng của Cựu Thế giới mà ngƣời
Anh - điêng chƣa bao giờ tiếp xúc nên chƣa hề đƣợc miễn dịch cũng không hề có
kháng thể di truyền. Đậu mùa, sởi, cúm và sốt phát ban tranh nhau dẫn đầu trong
tác nhân gây chết ngƣời này. Nhƣng ngần ấy vẫn chƣa đủ, vẫn cần kể đến các
căn bệnh: bệnh bạch hầu, sốt rét, quai bị, ho, dịch hạch, lao và sốt hoàng nhiệt.
Với dịch bệnh nhƣ vậy làm dân số ngƣời bản địa giảm sút không có khả năng
đáp ứng đƣợc đầy đủ nguồn lao động mà ngƣời châu Âu cần trong các đồn điền.
9
Do việc không thể sử dụng lao động bản địa nên tình trạng thiếu nô lệ ở Tân Thế
giới ngày một nghiêm trọng. Chính vì vậy, ngƣời châu Âu đã nghĩ ra nhiều cách
để cung ứng đủ số nô lệ cần thiết cho Tân Thế giới.
Với việc biến ngƣời châu Mỹ bản địa thành nô lệ là rất khó thì ngƣời châu
Âu đã biết cách bù đắp sự thiếu hụt nô lệ đó bằng việc bắt ngƣời da đen đến lao
động trên những mảnh đất mà ngƣời da trắng đã cƣớp của ngƣời bản địa Thậm
chí “người Tây Ban Nha phát hiện ra sức khỏe của một người da đen bằng bốn
lần người Idian” [16; 9]. Mặt khác, những ngƣời da đen còn có khả năng đề
kháng các loại bệnh của vùng nhiệt đới nhƣ bệnh sốt rét, bệnh sốt da vàng mà
ngay cả ngƣời châu Âu cũng không thể chịu đƣợc và tử vong cao. Vì thế, vào thế
kỉ XIX có một tuyên bố về nghiên cứu của quân đội Anh cho biết “sức chịu đựng
của 1 người châu Phi gấp 3.2 lần người châu Âu” [11;101-4]. Chính những điều
đó mà vào năm 1518 chính quyền Hispanio đã cho phép đƣa ngƣời da đen vào
lao động thay thế cho ngƣời châu Mỹ bản địa. Vì ngƣời Anh điêng quá yếu nên
họ chỉ đƣợc đƣa làm những công việc trong một thời gian ngắn nhƣ tham gia vào
các trang trại trồng ngô…. Trong tƣơng lai, các mặt hàng chủ yếu của Tân Thế
giới là đƣờng, bông. Những công việc này cần những lao động khỏe mạnh nên
với thể lực yếu thì ngƣời Anh-điêng không thể làm đƣợc do vậy việc sử dụng nô
lệ da đen là rất phổ biến. Theo Lauber cho rằng: khi so sánh số tiền phải trả cho
ngƣời da đen cùng với thời gian trả cho ngƣời Anh-điêng thì lƣơng của ngƣời
Anh-điêng là thấp hơn rất nhiều.
Ngoài việc, bắt ngƣời da đen làm việc trên các đồn điền ở Tân Thế giới thì còn
có ngƣời da trắng nghèo làm những công việc khác nhau. Nguồn gốc của lao động
da trắng khác nhau đó có thể là những ngƣời di cƣ, tù nhân… đƣợc đƣa sang Tân
Thế giới lao động nhƣng có một điểm khác của lao động da trắng và da đen đó là
ngƣời da trắng họ đƣợc chính quyền ở chính quốc bảo lãnh bằng việc ký các bản
giao kèo lao động. Trong đó có một điều khoản quy định việc họ phải làm việc một
thời gian nhất định sau đó sẽ đƣợc tự do. Ở Anh trong khoảng thời gian từ 1654 -
1685 có khoảng 10.000 chuyến tàu từ Bristol đến Tây Ấn và Virginia. Năm 1683,
10
những ngƣời di cƣ da trắng chiếm 1/6 dân số ở Virginia, chiếm 2/3 dân nhập cƣ ở
Pennsyvania trong thế kỉ XVIII.
Việc bắt cóc ngƣời da trắng sang Tân Thế giới diễn ra thƣờng xuyên ở London
và Bristol. Có những đứa trẻ ở đây bị dụ dỗ bằng kẹo ngọt rồi đƣa lên tàu cùng với
những ngƣời đàn ông, phụ nữ đƣa sang bên kia Đại Tây Dƣơng.
Có những tội phạm bị đƣa sang Tân Thế giới lao động dù chỉ ăn cắp 1 bảng
Anh. Năm 1664, ở Anh đề ra đạo luật đƣa ngƣời sang Tân Thế giới đó là những
ngƣời ăn không ngồi rồi, kẻ trộm cắt vặt… Năm 1667, đề ra luật đƣa tất cả vợ kẻ
cắp nào ăn trộm hàng hóa từ 3-4 bảng Anh phải sang lao động ở Tân Thế giới. Đặc
biệt với sự bất ổn chính trị từ 1640 – 1740, số lƣợng lao động da trắng sang Tân Thế
giới ngày một nhiều. Thời gian này, những ngƣời tham gia phong trào cải cách tôn
giáo khi thất bại cũng đã chạy sang Tân Thế giới làm việc trong các đồn điền trồng
mía, bông…
Tuy nhiên, việc sử dụng lao động da trắng thay cho ngƣời bản địa cũng gặp
nhiều điều phức tạp nhƣ việc kí bản giao kèo với việc ngƣời da trắng chỉ cần phục
vụ trong các đồn điền trong một thời gian nhất định là có thể đƣợc tự do hoặc lao
động da trắng ở các đồn điền dễ dàng bỏ trốn khỏi các đồn điền. Còn nô lệ da đen
khó có cơ hội bỏ trốn vì dù họ có bỏ trốn thì họ vẫn bị bắt vào các đồn điền khác
làm nô lệ. Ngoài ra, ở một số hòn đảo Caribben với khí hậu nhiệt đới“với những
căn bệnh như sốt rét, nhiệt hoàng đã bắt đầu lan tràn sang châu Mỹ theo tàu buôn
châu Âu, chúng lại trở thành trở ngại chính cho việc thực dân hóa vùng nhiệt đới ở
Tân Thế giới. Một ví dụ quen thuộc cho vai trò của hai căn bệnh này là người Pháp
đã từ bỏ ý định xây kênh đào Panama còn người Mỹ suýt nữa cũng từ bỏ ý định dù
họ đã xây thành công con kênh đào” [7; 257]. Đồng thời, chủ đồn điền ở Tân Thế
giới muốn sử dụng nô lệ da đen vì nguyên do chính đó là lợi nhuận từ việc nô lệ da
đen với giá rẻ hơn lao động da trắng. Chính quyền ở Barbados cho rằng: “giá thuê
một lao động da trắng có giá đắt gấp 3 lần thuê một nô lệ da đen”[16; 19], đó cũng
chính là nguồn gốc của việc mang ngƣời da đen sang Tân Thế giới làm việc. Nó
không phải là sự phân biệt chủng tộc, không phải màu da của nô lệ mà chính là
11
nguồn lợi nhuận của việc sử dụng nô lệ nào là đem lại hiệu quả cao nhất. Với sự so
sánh giữa ngƣời Anh-điêng, lao động da trắng thì nô lệ da đen là lựa chọn tốt nhất.
Với cuộc thảo luận tại North Carolina thì Busett cho rằng: “Độ bền, sức chịu đựng,
sự nghe lời của nô lệ da đen vượt trội hơn so với người Anh-điêng hay người da
trắng”. Việc buôn bán nô lệ da đen chỉ là một giải pháp trong những hoàn cảnh lịch
sử khác nhau. Nô lệ ở Tân Thế giới ở từng thời điểm khác nhau thì cũng sử dụng
khác nhau: ngƣời Anh-điêng, lao động da trắng, nô lệ da đen… Có thể nói từ 1650 -
1850 nếu không có những nô lệ da đen sẽ không có những đồn điền trồng mía,
bông… ở vùng biển Caribben. Và ngƣời dân châu Âu, từ đầu năm 1700 với mức
thu nhập trung bình sẽ không thể dùng các mặt hàng xa xỉ nhƣ đƣờng, cà phê, thuốc
lá… mà trƣớc năm 1650 chỉ phục vụ cho những tầng lớp giàu có.
1.2. BUÔN BÁN NÔ LỆ CỦA CÁC NƢỚC CHÂU ÂU Ở ĐẠI TÂY DƢƠNG
THẾ KỈ XV - XIX
1.2.1. Buôn bán nô lệ của ngƣời Bồ Đào Nha
Trong suốt thế kỷ XV - XVI, nhờ thám hiểm hàng hải, Bồ Đào Nha đã thành
lập một đế quốc toàn cầu bao gồm những thuộc địa ở châu Phi, châu Á và Nam Mỹ,
trở thành một trong những nền kinh tế, chính trị và quân sự mạnh nhất thế giới.
Đồng thời, Bồ Đào Nha cũng là nƣớc đi đầu trong việc buôn bán nô lệ trên Đại Tây
Dƣơng. Những thành công của ngƣời Bồ Đào Nha có thể đạt đƣợc là do một số yếu
tố sau:
Thứ nhất, ngƣời Bồ Đào Nha là một nƣớc thống nhất sớm ở châu Âu. Với điều
kiện thống nhất và ổn định đã tạo điều kiện thuận lợi cho họ phát triển thƣơng mại,
nó khác xa với những xung đột ở các thành bang Ý hoặc những bất ổn ở Anh-Pháp.
Ở Bồ Đào Nha đã hình thành một nền quân chủ mạnh mẽ cùng với việc giới quý tộc
có sự hòa giải và tầng lớp trung lƣu đƣợc tham gia vào Nghị viện. Chính những
thành công về mặt chính trị là điều cần thiết cho một tƣơng lai tƣơi sáng của Bồ
Đào Nha.
Thứ hai, không chỉ có sự ổn định về chính trị trong nƣớc, Bồ Đào Nha nằm ở
phía Tây Nam châu Âu gần với trung tâm buôn bán Địa Trung Hải và lục địa châu
12
Phi chính điều này cũng là một lợi thế cho Bồ Đào Nha phát triển buôn bán. Đặc
biệt, do sự tiếp xúc với các thƣơng nhân ngƣời Ý, các thƣơng nhân Bồ Đào Nha đã
học hỏi đƣợc rất nhiều kinh nghiệm trong việc hoạt động mậu dịch buôn bán. Đầu
thế kỉ XV, cụ thể vào năm 1415, Bồ Đào Nha đã có một thành trì quan trọng ở
Ceuta, châu Phi, một cảng biển quan trọng trong việc đƣa ngƣời Bồ Đào Nha đến
đây tìm kiếm vàng và nô lệ da đen.
Thứ ba, tầng lớp thƣơng nhân ở đây tuy không lớn nhƣng nó hình thành và
phát triển trong một thời gian dài và có tầm ảnh hƣởng lớn đến hai thành phố là
Lisbon với số dân là 4000 ngƣời, và Oporto với 8000 dân. Ở đây họ trao đổi nhộn
nhịp với các thƣơng nhân Hà Lan, Bỉ, Pháp, Anh, phần lớn các tàu buôn thuộc
quyền sở hữu của họ.
Đặc biệt với sự tiến bộ của kĩ thuật hàng hải nhƣ việc đóng đƣợc tàu Caravel
với thiết kế nhỏ gọn, tốc độ nhanh nên nó là một phƣơng tiện phù hợp với việc
khám phá dọc bờ biển châu Phi. Ngoài ra, nhƣ Abbé Raynal cho rằng “Sở dĩ người
Bồ Đào Nha đi đầu trong việc phát kiến địa lý và buôn bán trên Đại Tây dương thế
kỉ XV là do sự cuồng tín tôn giáo cùng với niềm đam mê sự giàu có của châu Phi -
châu Á”[19; 18].
Hoàng tử Henry là một trong những ngƣời hết lòng ủng hộ các cuộc phát kiến
địa lý. Tuy nhiên, ông không phải là ngƣời đầu tiên quan tâm đến việc buôn bán nô lệ
da đen. “Chỉ đến năm 1444 thuyền của Lancarote và Gil Eannes mang 235 nô lệ da
đên từ Lagos về, điều này đã làm hoàng tử Henry bắt đầu quan tâm tới việc buôn bán
nô lệ. Chính nó đã đã đánh dấu việc buôn bán nô lệ trên Đại Tây Dương” [19; 19].
Năm 1434, một số chiếc thuyền nhỏ đã đến bờ biển châu Phi và buôn bán tại
một số cảng ở đó. Năm 1441, ngƣời Bồ Đào Nha đã mua một số tù binh chiến tranh
để làm nô lệ. Năm 1482, ngƣời Bồ Đào Nha đã cho xây dựng thành trì Elemma, sau
đó là các pháo đài ở dọc bờ biển châu Phi để bảo vệ họ khỏi ngƣời châu Phi - đánh
dấu mở đầu việc buôn bán nô lệ [22; 60].
Lúc đầu, nô lệ da đen bị ngƣời Bồ Đào Nha trực tiếp bắt giữ bằng những cuộc
tấn công bất ngờ nhƣ việc tấn công vào Congo và Angola làm cho chế độ quân chủ
13
Congo sụp đổ năm 1665. Tuy nhiên, do dân số châu Phi sống không tập trung nhƣ
các nƣớc châu Âu nên những cuộc tấn công vào ngƣời da đen tỏ ra không thu đƣợc
nhiều hiệu quả. Vì thế ngƣời Bồ Đào Nha đã nghĩ ra một cách khác để bắt ngƣời da
đen đó là tiến hành mang nhiều hàng hóa sang đổi lấy nô lệ. Năm 1448, ngƣời Bồ
Đào Nha đã cho đặt thƣơng điếm ở trên đảo Arguim, với việc đặt thƣơng điếm này
đánh dấu cho sự chuyển đổi từ việc dùng vũ lực sang buôn bán với ngƣời châu Phi.
Từ Arguim, ngƣời Bồ Đào Nha đã giải quyết đƣợc vấn đề buôn bán với ngƣời
Tây Phi, Arập để thu mua nô lệ và vàng bạc và bán những mặt hàng nhƣ len, khăn
vải… Sau khi hoàng tử Henry qua đời thì các thủy thủ Bồ Đào Nha đã khám phá ra
các cửa sông Senegal và Gambia. Với những khám phá này đã đƣa ngƣời Bồ Đào
Nha có thể buôn bán dọc phía Nam Sierra Leone.
Bên cạnh, với việc thăm dò dọc bờ biển châu Phi thì Bồ Đào Nha cũng khám
phá đƣợc một số hòn đảo ở Đại Tây Dƣơng. Năm 1419, Maderia đã phát hiện ra
hòn đảo Arores, trong khoảng thời gian từ 1456 - 1460 việc khám phá ra Cape
Verdes - những hòn đảo không có ngƣời ở nhƣng vô cùng quan trọng đối với việc
trung chuyển - buôn bán nô lệ trên Đại Tây Dƣơng đến Tân Thế giới.
Cuối thế kỉ XV, ngƣời Bồ Đào Nha đã thiết lập đƣợc hệ thống các thƣơng
điếm ở Guinea và dọc bờ biển Congo, Angola, Tây Phi và Trung Phi là thị trƣờng
cung cấp nô lệ cho ngƣời Bồ Đào Nha buôn bán trên Đại Tây Dƣơng. Năm 1482,
ngƣời Bồ Đào Nha đã cho xây dựng các thƣơng điếm ở bờ biển vàng /Gold Coast.
Bốn năm sau tại bờ sông Benin đã cho xây dựng hải cảng Ughoton để trao đổi với
Benin, một nhà nƣớc hùng mạnh ở châu Phi lúc bấy giờ.
Các thƣơng điếm phải lập ở gần bờ biển là vì các nhà lãnh đạo châu Phi
luôn ngăn cản việc ngƣời châu Âu bằng cách che giấu các thông tin liên quan
đến nô lệ, cùng với đó là ngƣời da trắng không thể chịu đƣợc căn bệnh nhiệt đới
ở Tây Phi, lục địa châu Phi thì đầy rẫy những nguy hiểm. Đã có những ghi chép
về việc những thủy thủ ngƣời Bồ Đào Nha bị giết bởi thổ dân châu Phi khi đi vào
trong đất liền. Chính vì vậy, năm 1494 vua Bồ Đào Nha đã có những thỏa thuận
với những ngƣời lãnh đạo bản địa cho phép mình đƣợc đặt các thƣơng điếm ở
dọc bờ biển để trao đổi với họ mà không đi vào sâu trong đất liền.
14
Tàu thuyền của ngƣời Bồ Đào Nha thƣờng xuyên tới các bờ biển Ngà, bờ biển
vàng/Gold Coast để trao đổi. Năm 1482, với việc khám phá ra cửa sông Congo, đến
cuối thế kỉ XV, Bồ Đào Nha bắt đầu thám hiểm bờ biển Vƣơng quốc Congo. Đặc
biệt với việc khám phá ra các vùng đất São Tomé và Principe (1470) thì ngƣời Bồ
Đào Nha đã đánh dấu việc đi đầu trong buôn bán - khai thác hơn 4000 dặm dọc bờ
biển châu Phi. Đồng thời mở ra con đƣờng buôn bán nô lệ trên Đại Tây Dƣơng.
Ở châu Phi các thƣơng nhân Bồ Đào Nha đã đặt một số thƣơng điếm để thu
mua nô lệ. Thời gian đầu ngƣời Bồ Đào Nha hƣớng tới Gold Coast để thu mua nô lệ
từ Benin song ở đây họ chỉ có thể lấy đƣợc vàng còn thu mua nô lệ không khả quan.
Chính vì vậy, đầu thế kỉ XVI, ngƣời Bồ Đào Nha đã chuyển các thƣơng điếm về
vùng Congo và một số vùng phía Bắc và Phía Nam châu Phi để thu mua nô lệ.
Ngƣời Bồ Đào Nha đã từng tăng cƣờng sức mạnh cho các đội thƣơng thuyền để
buôn bán ở châu Phi. Trong thời gian hoàng tử Henry trị vì ông không chỉ cấp phép
cho công ty Hoàng gia buôn bán mà còn cho các thƣơng nhân đến buôn bán tại châu
Phi. Nhƣng sau khi ông qua đời thì công ty Hoàng gia đã độc quyền buôn bán tại El
Mina. Đồng thời cho thiết lập Casa Dos Escraras để quản lý việc buôn bán vàng, hạt
tiêu, ngà voi của châu Phi để đổi lấy những mặt hàng của châu Âu nhƣ hàng dệt
may, đồng hồ, thủy tinh… Theo tính toán mới nhất của Elbl thì ngƣời Bồ Đào Nha
trong thế kỉ XV vận chuyển khoảng 81.000 nô lệ. Philip Curtin cho rằng, với sự
phân phối nô lệ của Bồ Đào Nha trong khoảng thời gian 1451 -1499, có khoảng
60.000 nô lệ đƣợc đƣa vào khắp châu Âu, 17.5000 nô lệ đƣợc vận chuyển ra các
hòn đảo trên Đại Tây Dƣơng. Còn khoảng 3.500 nô lệ đƣợc mang ra đảo São Tomé
và Principe [13;116].
Cùng với sự lớn mạnh của Bồ Đào Nha thì một nƣớc nằm cùng trên đảo
Iberian là Tây Ban Nha cũng lớn mạnh. Ngƣời Bồ Đào Nha sợ mất vị trí buôn bán ở
châu Phi, châu Á nên đã kiến nghị với Đức giáo hoàng về việc phân chia ảnh hƣởng
của hai nƣớc. Với Hiệp ƣớc Tordesllas (1493) ngƣời Bồ Đào Nha đƣợc độc quyền
buôn bán ở châu Phi, châu Á, sau này có cả Brazil. Còn Tây Ban Nha đƣợc độc
quyền buôn bán tại Tân Thế giới. Hiệp ƣớc này ra đời, đã gặp phải sự phản đối
15
quyết liệt của các nƣớc châu Âu nhƣ Anh, Pháp, Hà Lan. Đồng thời chống lại việc
Bồ Đào Nha thành lập các thƣơng điếm buôn bán nô lệ ở châu Phi.
Việc buôn bán nô lệ da đen có trƣớc khi ngƣời Tây Ban Nha tìm ra châu Mỹ.
Ngƣời Bồ Đào Nha đã buôn bán nô lệ với số lƣợng lớn từ trƣớc khi các thủy thủ của
họ tìm thấy Brazil. Trong thế kỉ XVI, ở Tân Thế giới hình thành hàng loạt các trung
tâm mua bán nô lệ. Theo tính toán của Philip Curtin trong khoảng thời gian 1451-
1866, ngƣời Bồ Đào Nha đƣa khoảng 4.298.830 ngƣời da đen ra khỏi châu Phi.
Giai Đoạn
Số lƣợng (nghìn ngƣời)
1451 -1518
142.300
1519 -1600
241.400
1601 -1700
560.000
1701 -1810
1.909.730
1811 -1866
1.445.400
Tổng số
4.298.830
Bảng số liệu buôn bán nô lệ của ngƣời Bồ Đào Nha trên Đại Tây Dƣơng
(1451-1866) [19;21]
Trong giai đoạn đầu, số nô lệ đƣợc ngƣời Bồ Đào Nha vận chuyển chủ yếu
đƣợc lấy từ thƣợng Guine, dọc bờ biển Senegal đến Sierra Leone. Sau đó, chủ yếu số
nô lệ đƣợc lấy từ Congo tới Angola, một phần từ núi Cape đến Cameron… Thời gian
đầu ngƣời Bồ Đào Nha chủ yếu trao đổi dọc bờ biển mà chƣa tiến sâu vào khu vực
nội địa châu Phi. Hoặc đóng ở pháo đài El Mina nơi đầu tiên Bồ Đào Nha đặt trụ sở
để trao đổi với châu Phi. Trong giai đoạn cuối, nổi lên hai vùng hạ Guinea và Angola
trong việc cung cấp nô lệ cho các thuộc điạ của Tây Ban Nha ở Tân Thế giới.
Ở dọc các bờ biển là các trại tập trung nô lệ chật ních ngƣời đang chờ các
thuyền buôn đến mang đi và số lƣợng chết trong trại cũng rất lớn theo ƣớc tính có
khoảng 4,5% chết trong qua trình trao đổi dọc các bờ biển, 12% chết trên các chuyến
thuyền vƣợt qua Đại Tây Dƣơng, 33% chết khi làm trong các đồn điền ở Mĩ.
Số nô lệ đƣợc ngƣời Bồ Đào Nha mang khỏi châu Phi đƣợc phân bố chủ yếu ở
các vùng sau: Euro, các đảo trên Đại Tây Dƣơng, São Tomé, thuộc địa của Tây Ban
Nha ở Tân Thế giới, Brazil.
16
Nửa đầu thế kỉ XV, một phần nô lệ đƣợc mang sang châu Âu để phục vụ các
công việc phục vụ trong các gia đình, thợ thủ công, tá điền… theo ƣớc tính số ngƣời
da đen tại châu Âu khoảng 50.000 ngƣời.
Điều đáng ngạc nhiên là hòn đảo São Tomé với diện tích là 372 Km
2
song ở đây
đã nhập rất nhiều nô lệ làm việc trong các đồn điền trồng mía. Vào cuối thế kỉ XV có
những đồn điền sử dụng đến 300 nô lệ. Đến cuối thế kỉ XV, những hòn đảo trên Đại
Tây Dƣơng nhập khẩu khoảng 76.000 nô lệ, sau đó có những dấu hiệu giảm bớt.
Đặc biệt với việc khám phá ra Brazil đã đánh dấu bƣớc nhảy vọt của ngƣời Bồ
Đào Nha trong việc vận chuyển nô lệ da đen sang Tân Thế giới. Lúc đầu, với việc
khám phá ra vùng đất Brazil rộng lớn ngƣời Bồ Đao Nha cũng giống ngƣời Tây
Ban Nha đã có gắng bắt ngƣời dân bản địa làm việc trong các đồn điền nhƣng điều
này đã thất bại vì ngƣời bản địa không có sức đề kháng cần thiết để chống lại những
căn bệnh mà ngƣời châu Âu mang sang nhƣ bệnh sởi, dịch hạch… Chính điều này
đã thúc đẩy việc mang ngƣời da đen sang Tân Thế giới để thay ngƣời châu Mỹ bản
địa làm việc trong các đồn điền. Kể từ năm 1570, Brazil trở thành nơi nhập khẩu nô
lệ lớn nhất ở Tân Thế giới.
Cùng với đó là việc ngƣời Bồ Đào Nha đã lấy đƣợc các giấy phép asiento của
Tây Ban Nha. Với các giấy phép này, ngƣời Bồ trong khoảng thời gian 1595 - 1640
đã mang khoảng 143.998 nô lệ đến các thuộc địa của Tây Ban Nha. Đây là số lƣợng
nô lệ đƣợc ngƣời Tây Ban Nha cấp phép đƣợc mang đến các thuộc địa của mình ở
Tân Thế giới.
Năm
Số lƣợng nô lệ
(nghìn ngƣời)
1595 - 1600
30.568
1601 - 1611
39320
1615 - 1622
31.646
1622 - 1629
20.330
1630
1.200
1631 - 1640
20.934
Tổng
143.998
Hiệp ƣớc thƣơng mại của Bồ Đào Nha 1595 -1640 [15;75]
17
Mặc dù, Bồ Đào Nha đã độc quyền buôn bán nô lệ trong gần 1,5 thế kỉ song
sang thế kỉ XVII, họ bắt đầu gặp phải sự cạnh tranh của các nƣớc châu Âu khác nhƣ
Hà Lan, Anh, Pháp, Đan Mạch…Nhất là sự lớn mạnh của Hà Lan sau khi giành độc
lập, đã đe dọa nghiêm trọng sự độc quyền thƣơng mại của Bồ Đào Nha. Với sức
mạnh hải quân, Hà Lan đã chiếm đóng một số thuộc địa thuộc sở hữu của ngƣời Bồ
Đào Nha nhƣ vùng Đông Bắc Brazil, Angola, thƣơng điếm El Mina, Curacao. Tuy
nhiên đến thế kỉ XVII ngƣời Bồ Đào Nha vẫn chiếm ƣu thế trong việc buôn bán nô
lệ vì ngƣời Hà Lan chỉ chiếm đóng các thuộc địa của Bồ Đào Nha trong thời gian
ngắn. Ở Brazil trong một vài năm còn Angola gần một thập kỉ.
Đến đầu thế kỉ XVII, ngành sản xuất đƣờng ở Brazil ngày một phát triển nên việc
nhập nô lệ da đen là điều rất cần thiết cho các đồn điền, nhà máy… Sản lượng đường
của Brazil năm 1600 là 16.300 tấn đến năm 1650 đã tăng lên 28.500 tấn [ 19; 29].
Từ năm 1610 - 1640 ngƣời Bồ Đào Nha mở rộng mạng lƣới buôn bán của mình
từ phía Bắc Luanda đến bờ biển Loango, từ phía Đông và phía Nam Benguela đến bờ
bên kia sông Kwanza. Năm 1659, thƣơng mại của ngƣời Bồ Đào Nha có những thay
đổi lớn đó chính là việc Luanda thay thế cho thƣơng mại của Congo. Thống đốc và các
thƣơng nhân Luanda lấn át và thay thế São Tomé về việc buôn bán của Bồ Đào Nha.
Brazil thì trở thành nơi nhập khẩu lớn nhất thay cho São Tomé.
Đến thế kỉ XVII, Brazil chiếm 42% trong tổng số nô lệ đƣợc mang vào Tân
thế giới. Theo tính toán thì có khoảng 5.5 triệu nô lệ đến Brazil nhƣng chỉ có 4.8
triệu nô lệ đến đƣợc các đồn điền ở Brazil [17; 151], số nô lệ đƣợc mang sang
Brazil chủ yếu đƣợc lấy từ các vùng của Tây Phi, vịnh Benin khoảng 560.000 nô
lệ, trong đó Angola là nơi có đóng góp lớn về số nô lệ đƣợc mang sang. Ƣớc tính
xuất khẩu của Angola năm 1612 là 10.000 nô lệ, năm 1620 là 13.000 nô lệ, năm
1641 là 16.000 nô lệ. Nó đƣợc duy trì trong một thời gian dài và chiếm phần lớn
trong việc xuất khẩu và Brazil.
18
Số lƣợng nô lệ từ các vùng đƣợc mang đến Brazil từ 1561 - 1850 [17; 151]
Đến cuối thế kỉ XVIII, việc buôn bán nô lệ của Bồ Đào Nha có những quy
định về việc buôn bán nô lệ nhƣ truyền bá tôn giáo và làm lễ rửa tội trƣớc khi đƣa
họ lên thuyền. Cùng với đó, luật pháp cũng quy định số nô lệ đƣợc chở trên thuyền,
việc chăm sóc y tế… Sau cuộc chiến tranh Napoleonic, Anh đã thành công trong
việc thỏa thuận cùng ngƣời Bồ Đào Nha kí Hiệp ƣớc Anglo-Portuguese
(28/07/1817) qua đó sẽ cấm việc buôn bán nô lệ [19; 35], nhƣng ở Brazil việc buôn
bán vẫn tiếp tục đến 1888 mới chấm dứt.
1.2.2. Buôn Bán nô lệ của ngƣời Tây Ban Nha
Sau cuộc phát kiến địa lý, ngƣời Tây Ban Nha làm chủ cả một vùng đất rộng
lớn, thậm chí độc quyền buôn bán, khai thác ở Tân Thế giới sau khi Hiệp ƣớc
Tordesllas (1493) đƣợc kí kết với ngƣời Bồ Đào Nha. Với Hiệp ƣớc này, ngƣời
Tây Ban Nha làm chủ Tây Bán cầu nhƣng không có quyền đến các vùng đất ở châu
Phi. Chính vì vậy, việc sử dụng nô lệ da đen của ngƣời Tây Ban Nha chủ yếu thông
qua việc buôn bán với ngƣời Bồ Đào Nha sau này là các nƣớc Hà Lan, Anh, Pháp.
Đến năm 1778, mặc dù, Fernando Po và Annabon đã mua đƣợc một số vùng đất ở
Tây Phi song việc cung cấp nô lệ ở đây cũng không mấy khả quan.
Cùng với sự yếu kém trong việc ký Hiệp ƣớc với ngƣời Bồ Đào Nha thì bản
chất của Tây Ban Nha là thực dân không quan tâm đầu tƣ mở rộng thuộc địa nhƣ
các nƣớc khác mà họ chỉ quan tâm tới việc cƣớp vàng từ Tân Thế giới về Châu Âu.
Bờ biển Windward 0.1%
0.1%
Sierra Leone(0.2%)
Bờ biển Vàng (1.3%)
Senegambia(2.2%)
2.2%
Vịnh Biafra (2.4%)
Mozambique (5.7%)
5.7%
Vịnh Benin
(18%)
Tây – Trung châu
Phi (70.1%)
19
Chỉ đến năm 1759, vua Charles mới khuyến khích các thƣơng nhân Tây Ban Nha
tham gia buôn bán bằng đạo luật tự do thƣơng mại. Ngƣời Tây Ban Nha tham gia
buôn bán nô lệ chỉ trong thời gian khoảng 1,5 thế kỉ nhƣng cách thức buôn bán của
họ không giống với Bồ Đào Nha. Với việc kí Hiệp ƣớc Tordesllas (1493) và bản
chất thực dân của mình, ngƣời Tây Ban Nha đã thực hiện một chính sách cấp giấy
phép cho các tàu thuyền của ngƣời Bồ Đào Nha mang nô lệ da đen đến các thuộc
địa của ngƣời Tây Ban Nha ở Tân Thế giới.
Đồng thời, ngƣời Tây Ban Nha đã đƣa ra các Hiệp ƣớc asiento để khuyến khích
các nƣớc mang nô lệ đến các thuộc địa của mình ở Tân Thế giới. Với các Hiệp ƣớc
asiento này các nƣớc châu Âu (chủ yếu là Bồ Đào Nha) đã mang đến các thuộc địa của
Tây Ban Nha với số lƣợng lớn nô lệ da đen. Theo các ghi chép của ngƣời Tây Ban Nha
về việc cấp phép cho các nƣớc đem nô lệ đến châu Mỹ trong giai đoạn 1510 - 1599, số
nô lệ đƣợc mang đến khoảng 119.377 nô lệ.[15; 74]
Năm
Số lƣợng nô lệ
(nghìn ngƣời)
1510 - 1519
4,865
1520 - 1529
1,711
1530 - 1539
9,530
1540 - 1549
15,345
1550 - 1559
242
1560 - 1569
25,213
1570 - 1579
18,486
1580 - 1589
28,667
1590 - 1599
15,318
Tổng
119,377
Số lƣợng nô lệ đƣợc cho phép mang tới thuộc địa
của ngƣời Tây Ban Nha ở châu Mỹ từ 1510 -1599 [15; 74]
Trên thực tế số lƣợng nô lệ đƣợc mang theo trên giấy cấp phép trong khoảng
thời gian 1505 - 1599 trung bình mỗi năm từ 1000 - 2000 nô lệ đƣợc mang qua Đại
Tây Dƣơng. Tuy nhiên nếu tính cả những chuyến tàu mang nô lệ bất hợp pháp vào
20
châu Mỹ theo nhƣ Vila Vilae tính toán thì có khoảng 132.000 nô lệ. Nhƣ vậy, trung
bình trong khoảng thời gian 1595 -1640 mỗi năm có khoảng 6000 nô lệ đƣợc mang
sang thuộc địa của Tây Ban Nha ở Tân Thế giới [15; 79]. Nô lệ đầu tiên đƣợc gửi
tới các thuộc địa của Tây Ban Nha ở Châu Mỹ chủ yếu đƣợc lấy từ châu Phi.
Từ thế kỉ XVI - XVII, nô lệ đƣợc nhập khẩu vào các thuộc địa của Tây Ban
Nha chủ yếu đƣợc lấy từ vùng thƣợng Guinea. Sau đó đƣợc dịch chuyển đến vùng
Tây - Trung Phi. Từ năm 1640, Angola trở thành nơi cung cấp nguồn nô lệ chính,
việc nhập khẩu nô lệ của Tây Ban Nha phụ thuộc rất lớn vào các nƣớc Bồ Đào Nha,
Hà Lan, Anh, Pháp. Đế chế Tây Ban Nha tồn tại ở Tân Thế giới trong một thời gian
dài. Chính vì vậy nó luôn bị các nƣớc châu Âu nhòm ngó các thuộc địa. Đặc biệt
với sự nổi lên của chủ nghĩa Tƣ bản và phong trào cải cách tôn giáo đã chống lại sắc
lệnh của Giáo hoàng về việc cho phép ngƣời Tây Ban Nha đƣợc độc quyền buôn
bán ở Tân Thế giới.
Năm
Senegambia
Vịnh
Benin
São
Tomé
Tây Phi
Đông
Nam
châu Phi
Tổng
1526 - 75
1.2
(67.5%)
_
0.4
(22.2%)
0.2
(10.2%)
_
1.7
1576- 1600
1.5
(12.4%)
_
0.2
(1.5%)
10.3
(86.1%)
_
11.9
1601- 25
9.6
(13.7%)
1.6
(2.3%)
1.4
(2.0%)
57.2
(81.7.6%)
0.1
(0.2%)
70.0
1626 - 50
3.3
(8.6%)
0.3
(0.8%)
_
34.4
(90.6%)
_
37.9
1651 -75
3.9
(31.5%)
4.5
(36.5%)
1.3
(10.9%)
2.6
(21.0%)
_
12.3
1676 -85
2.8
(46.4%)
_
0.9
(15.8%)
2.2
(37.8%)
_
5.9
Tổng các
năm
22.1
(15.8%
6.4
(4.6%
4.3
(3.1%)
106.9
(76.4%)
(0.1%)
139.8
Số nô lệ đƣợc mang từ các vùng đến thuộc địa
của Tây Ban Nha ở Tân Thế giới trƣớc năm 1685 (nghìn ngƣời)[15; 85]
21
Tuy nhiên, với chính sách này nó vẫn không cung cấp đủ số nô lệ mà các
thuộc địa của Tây Ban Nha cần. Cuối thế kỉ XVI với sự hợp nhất giữa Bồ Đào Nha
và Tây Ban Nha thì hàng loạt các Hiệp ƣớc cho phép các thuyền buôn của Tây Ban
Nha có thể trực tiếp đến một số địa điểm ở châu Phi để mua nô lệ. Đến đầu thế kỉ
XVIII các Hiệp ước asiento của Tây Ban Nha đƣợc coi là những phần thƣởng trong
quan hệ quốc tế giữa các nƣớc châu Âu. Tuy nhiên, đến năm 1789 ngƣời Tây Ban
Nha đã bãi bỏ việc cung cấp các giấy phép về việc buôn bán nô lệ của các nƣớc
châu Âu đến các thuộc địa của họ ở Tân Thế giới. Bởi vì với các giấy phép đó cũng
không mang đủ số nô lệ mà các thuộc địa cần, đồng thời cùng năm này ngƣời Tây
Ban Nha thực hiện chính sách tự do thƣơng mại trên Đại Tây Dƣơng, với chính
sách này đã làm cho “số lượng nô lệ ở Cuba tăng vọt từ 2.534 nô lệ năm 1790 đến
năm 1823 là 300.211 nô lệ. Cùng với việc tăng vọt số lượng nô lệ trong các đồn
điền trồng mía làm cho sản lương đường ở Cuba tăng vọt từ 63.274 thùng năm1786
đến năm 1823 là 300.211 thùng” [16; 214]. Với việc tự do thƣơng mại từ 1789 -
1820 Tây Ban Nha đã trở thành nhà cung cấp chính nô lệ cho Cuba, điều này trái
ngƣợc với lịch sử về sự phục thuộc việc nhập khẩu nô lệ của Tây Ban Nha. Những
tàu thuyền của Tây Ban Nha chiếm ½ số nô lệ đƣợc mang vào Cuba theo sau đó là
Anh, Pháp, Đan Mạch… Với việc tham gia buôn bán tại Cuba, theo tính toán (1815
- 1819) có khoảng 241 - 248 thuyền của Tây Ban Nha cập cảng Havana. Những
chiếc thuyền vận chuyển của Tây Ban Nha cũng giống nhƣ của ngƣời Anh nó rất
lớn chở đƣợc từ 142 -145 nô lệ lớn. Còn các thuyền của Mỹ tính trung bình chở
đƣợc 42 nô lệ.
Ngƣời Tây Ban Nha buôn bán cùng thời với ngƣời Bồ Đào Nha, theo ƣớc tính
số nô lệ đƣợc đƣa vào các thuộc địa của Tây Ban Nha ở Tân Thế giới trong năm
1600 là 75.000 nô lệ. Nếu so sánh số nô lệ này với nô lệ đƣợc nhập vào São Tomé
của Bồ Đào Nha thì nó vƣợt rất nhiều. Nhƣng cũng trong thời gian này việc nhập
khẩu nô lệ của Tây Ban Nha ở Tân Thế giới đã giảm và đứng vị trí thứ 2 sau Brazil.
Từ đầu thế kỉ XVIII -1810, Tây Ban Nha buôn bán chiếm 3/5 tàu thuyền đi lại trên
Đại Tây Dƣơng nhập khẩu số lƣợng nô lệ rất lớn từ 300.000 - 580.000 ngƣời và là