Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Vai trò của Đạo hồi đối với sự ra đời và phát triển nước Arập ( thế kỉ VII - thế kỉ VIII) (KL03836)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.55 KB, 56 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử
1

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên em xin phép được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến
Thạc sĩ Nguyễn Thị Tuyết Nhung, người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em
tận tình, chu đáo để em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp.
Em xin cảm ơn các thầy, các cô giáo của khoa Lịch sử trường Đại học
Sư phạm Hà Nội 2, đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập
và nghiên cứu đề tài.
Sự thành công của em ngày hôm nay phải kể đến sự cổ vũ động viên và
tạo mọi điều kiện của gia đình, người thân và bạn bè.
Do sự hạn chế về thời gian, nên khoá luận tốt nghiệp không tránh khỏi
những thiếu sót. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo
và các bạn sinh viên.
Một lần nữa em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đối với các thầy cô
và người thân!

Hà Nội, ngày 03 tháng 05 năm 2011
Tác giả khoá luận


Đỗ Kim Oanh


Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử
2



LỜI CAM ĐOAN

Khoá luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của
Thạc sĩ Nguyễn Thị Tuyết Nhung. Em xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng em.
Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 3 tháng 5 năm 2011
Tác giả khoá luận


Đỗ Kim Oanh






















Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử
3

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nhắc đến Arập người ta nghĩ ngay đến nơi sản sinh ra một trong những
tôn giáo lớn trên thế giới; đó chính là đạo Hồi (đất nước Arập cũng là cái nôi
hình thành và phát triển tôn giáo này). Đạo Hồi (tôn giáo của tộc người Hồi)
là cách gọi của người Trung Quốc gọi đạo Islam (theo tiếng Arập nghĩa là
phục tùng theo ý chân chủ) xuất hiện ở bán đảo Arập vào khoảng thế kỉ thứ
VII do Môhamét là người sáng lập và truyền bá. Xét về mặt lịch sử, đạo Hồi
là tôn giáo mang tính quốc tế ra đời muộn nhất, nhưng lại là tôn giáo phát
triển nhanh nhất. Ngày nay, đạo Hồi đã trở thành một tôn giáo đa văn hóa,
còn những tín đồ của thánh Ala là cả một cộng đồng tôn giáo bao trùm lên
nhiều khu vực địa lí và nhiều nền hóa của thế giới.
Đạo Hồi ra đời có vai trò xác lập quyền thống trị của giai cấp quý tộc
và đi tới thành lập nước Arập. Đạo Hồi ra đời do hàng loạt nguyên nhân kinh
tế, xã hội, tư tưởng gắn liền với quá trình chuyển biến từ chế độ công xã
nguyên thuỷ sang xã hội có giai cấp của các tộc người vùng Trung Cận Đông
và yêu cầu thống nhất các bộ lạc trong bán đảo Arập thành một nhà nước
phong kiến thần quyền.
Ra đời vào đầu thế kỉ VII, đạo Hồi đã dần dần được truyền bá và phát
triển ra các vùng ở Châu Á, Châu Phi, đặc biệt là Tây Á, Bắc Phi, đại lục
Nam Á và Đông Nam Á. Từ đầu thế kỉ XX trở lại đây, đạo Hồi đã được
truyền bá mạnh mẽ tới Tây Âu và bắc Mĩ. Hiện nay, tín đồ đạo Hồi chiếm tới

gần 1 tỉ người, một số lượng tín đồ lớn thứ hai trong số các tín đồ của ba tôn
giáo lớn trên thế giới (chỉ đứng sau đạo Cơ Đốc). Những người Hồi giáo có
mặt trên mọi lục địa, nhưng tập trung đông nhất là ở Đông Á, Trung Đông và
Châu Phi.
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử
4

Trong lịch sử nước Arập, thế kỉ VII - VIII là thời kì hình thành và phát
triển nước Arập. Thời kì này gắn liền với sự hình thành và bành trướng mạnh
mẽ của đạo Hồi và đạo Hồi trở thành hệ tư tưởng chính thống giữ vai trò chủ
đạo trong mọi mặt của nước Arập lúc bấy giờ.
Nghiên cứu đề tài để thấy được vai trò của đạo Hồi đối với sự ra đời và
phát triển nước Arập. Từ đó, chúng ta có cái nhìn toàn diện, đầy đủ và khoa
học về lịch sử quốc gia Hồi giáo Arập trong thời kì này.
Việc nghiên cứu đề tài sẽ giúp chúng ta hiểu rõ thêm về một trong
những tôn giáo lớn; ảnh hưởng và sự bành trướng một cách mạnh mẽ, nhanh
chóng của tôn giáo này mà trong lịch sử thế giới chưa từng có một tôn giáo
nào có thể làm được. Đến tận ngày nay, đạo Hồi vẫn là một trong những tôn
giáo lớn có sức ảnh hưởng mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Việc tìm hiểu đề tài giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn về vị trí của
Hồi giáo trong đời sống văn hóa tinh thần của thế giới.
Với những lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Vai trò của đạo Hồi
đối với sự ra đời và phát triển nước Arập (Thế kỉ VII - Thế kỉ VIII)” để làm
khoá luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề đạo Hồi ở Arập đã thu hút nhiều học giả nghiên cứu; đến nay đã
có một khối lượng lớn các công trình nghiên cứu về đạo Hồi được công bố
trên sách, báo, tạp chí, các tài liệu chuyên khảo và là tài liệu giảng dạy chính
thức trong các trường đại học, cao đẳng. Các công trình nghiên cứu này đã đi

sâu và tìm hiểu vấn đề đạo Hồi ở những khía cạnh, góc độ khác nhau.
Cuốn “Mười tôn giáo lớn trên thế giới” (1999) của Hoàng Tâm Xuyên,
Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, đã đề cập đến vấn đề đạo Hồi là một trong
mười tôn giáo lớn ở trên thế giới (bối cảnh ra đời, quá trình phát triển, những
giáo lí cơ bản ).
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử
5

Cuốn “Lịch sử văn hoá thế giới cổ trung đại” (2001) do Lương Ninh
(cb), Nxb Giáo dục, đã nhìn nhận đạo Hồi trên nhiều khía cạnh khác nhau:
thành tựu văn hóa truyền thống, giáo lí cơ bản, các giáo phái.
Trong cuốn “Lịch sử văn minh thế giới” (2001) do Vũ Dương Ninh
(cb), Nxb Giáo dục, là cuốn sách trình bày về các nền văn minh lớn trên thế
giới, trong đó có đề cập đến đất nước Arập và đạo Hồi. Cuốn sách đã trình
bày một cách khái quát sự ra đời của nhà nước Arập, hệ thống giáo lí, giáo
luật và những thành tựu văn hoá của Arập.
Cuốn “Lịch sử Trung Cận Đông” (2002), Nxb Giáo dục TPHCM,
là sách tài liệu tham khảo, trong đó có đề cập tới sự ra đời và phát triển của
Hồi giáo.
Cuốn “Hồi giáo” (2002) của Dominique Sourdel, Nxb Thế giới,
Hà Nội, đã trình bày về sự ra đời, giáo lí, giáo luật và phong trào của các giáo
phái Hồi giáo.
Cuốn “Lịch sử văn minh Arập” (2003) của Will Durant, Nxb Văn hoá
- Thông tin, Hà Nội, đã trình bày khá đầy đủ về sự hình thành và phát triển
của quốc gia Arập, những giáo lí, giáo luật, các lĩnh vực văn hoá - xã hội của
đạo Hồi.
Trong cuốn “Đạo Hồi và thế giới Arập” (2004) của Tiến sĩ
Nguyễn Thọ Nhân, Nxb Tổng hợp TPHCM, đã đưa ra một số thông tin về đạo
Hồi và những biến động của nó.

Bên cạnh đó, còn có rất nhiều các công trình nghiên cứu của các nhà
học giả khác được đăng tải trên các sách báo, các tạp chí khoa học, tạp chí
nghiên cứu tôn giáo và cả các bài viết được đăng tải trên mạng Internet đề cập
tới đạo Hồi và nhà nước Arập. Đây là những tài liệu bổ ích trong việc tham
khảo để tôi tiến hành làm khoá luận tốt nghiệp.
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử
6

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích
Nghiên cứu đề tài để thấy được vai trò của đạo Hồi đối với sự ra đời
nhà nước Arập thế kỉ VII và ảnh hưởng của đạo Hồi đối với việc phát triển đế
quốc Arập ở thế kỉ VIII cũng như ảnh hưởng của nó trong đời sống chính trị,
văn hoá, xã hội của Arập lúc bấy giờ.
3.2. Nhiệm vụ
Đề tài phải làm rõ những vấn đề sau:
Quá trình sáng lập đạo Hồi.
Vai trò của đạo Hồi đối với sự ra đời nhà nước Arập ở thế kỉ VII.
Vai trò của đạo Hồi đối với sự phát triển của đế quốc Arập (Thế kỉ VII
- Thế kỉ VIII).
3.3. Phạm vi
Đề tài chủ yếu đi sâu nghiên cứu về vai trò của Hồi giáo đối với sự ra
đời và phát triển nước Arập từ thế kỉ VII đến thế kỉ VIII.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Để hoàn thành khóa luận này, tôi sử dụng các nguồn tư liệu sau:
Các công trình nghiên cứu chuyên khảo về đề tài Hồi giáo.
Các cuốn sách viết về Hồi giáo ở Arập, các tài liệu ở thư viện quốc gia Việt
Nam, viện nghiên cứu tôn giáo.

Các báo chí, tạp chí nghiên cứu tôn giáo, …
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp chặt chẽ với phương
pháp logic. Ngoài ra, khoá luận còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khác như: so sánh, đối chiếu, tổng hợp, diễn dịch,…
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử
7

5. Đóng góp của khóa luận
Góp phần làm rõ về quá trình ra đời của đạo Hồi và vai trò của nó trong
quá trình thống nhất bán đảo Arập, truyền bá văn hoá Hồi giáo, đồng thời góp
phần khắc hoạ một cách rõ nét quá trình phát triển của đế quốc Arập từ thế kỉ
VII đến thế kỉ VIII.
Khóa luận là tài liệu tham khảo bổ ích cho những ai quan tâm đến
Hồi giáo và quá trình phát triển của nó trên phạm vi thế giới nói chung.
6. Bố cục khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa luận
gồm có 2 chương:
Chương 1: Sự ra đời của đạo Hồi ở thế kỉ VII
Chương 2: Vai trò của đạo Hồi đối với sự ra đời và phát triển nước
Arập (Thế kỉ VII - Thế kỉ VIII)
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử
8

Chương 1
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẠO HỒI Ở THẾ KỈ VII

1.1. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH BÁN ĐẢO ARẬP TRƯỚC THẾ

KỈ VII

1.1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, dân cư
Arập là một bán đảo lớn hình chữ nhật nằm ở Tây Nam Châu Á với
diện tích gần 3 triệu km
2
, lớn bằng 1/3 Hoa Kì và bằng 8 lần diện tích Việt
Nam. Sở dĩ vùng này được gọi là bán đảo vì nó được bao bọc ba phía bởi biển
hoặc đại dương: phía Đông giáp Vịnh Ba Tư, phía Nam giáp Ấn Độ Dương
và phía Tây giáp Hồng Hải (Biển Đỏ), phía Bắc của bán đảo này là vùng sa
mạc hoang vu chạy dài tới biên giới Syria và Palestine. Người ta gọi nó là sa
mạc Syro - Arabia vì nó ở giữa hai nước Ảrập và Syria. Đi băng qua sa mạc
này bằng đường bộ là một điều nguy hiểm nếu không dự trữ đủ nước uống.
Khách lữ hành phải đi những quãng đường rất xa mới gặp được một ốc đảo.
Các ốc đảo trong sa mạc được tạo thành do những hồ nước ngầm ở dưới mặt đất.
Bán đảo Arập là một khu vực có điều kiện tự nhiên hết sức đa dạng và
phức tạp, bao gồm phần lớn là những miền đất hoang dã, khô cằn và những
cao nguyên đang biến dần thành sa mạc. Về mặt khí hậu, theo Will Durant
“nơi đây bốn chục năm tuyết mới rơi một lần, ban đêm lạnh tới 0
o
C, ban ngày
ánh nắng làm cháy da, máu trong người muốn sôi lên. Sự chênh lệch nhiệt độ
giữa ngày và đêm khiến đá cũng vỡ vụn ra” [6, tr.12]. Khí hậu sa mạc rất khô,
thường chỉ có mưa vào mùa xuân. Vùng có mưa nhiều nhất là vùng cực nam
bán đảo Arập (tức nước Yêmen ngày nay). Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt
khiến cho cuộc sống người dân Arập bấp bênh, không ổn định, phụ thuộc vào
thiên nhiên. Bên cạnh đó, chính nơi đây đã sản sinh ra một nền văn minh độc
đáo, phong phú, đầy những biến động thăng trầm suốt chiều dài lịch sử của nó.
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử

9

Bán đảo Arập là quê hương của người Arập, thuộc chủng Sêmít,
phân biệt thành hai nhóm: Là hậu duệ của Abraham: Người Arập miền Nam
(hay người Yêmen) con cháu dòng dõi Quatar và người Arập miền bắc (hay
người Nidarit) con cháu của Ismael. Họ chia thành nhiều nhánh khác nhau,
trong đó có một vài nhánh - Quais, Koraich trong số những người Nidarit.
Còn Lakhm, Kinda, Ghassas trong số những người Yêmen - đóng vai trò quan
trọng trong lịch sử.
1.1.2. Về kinh tế, chính trị, xã hội, tôn giáo Arập trước thế kỉ VII
Về kinh tế: Do vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên nên vào thế kỉ VI đầu
thế kỉ VII, kinh tế nông nghiệp Arập trong tình trạng thấp kém duy nhất có
vùng Yêmen ở phía tây nam là có nguồn nước phong phú và nhiều đất đai để
canh tác. Họ biết trồng lúa và rau, nuôi được gia súc. Khoảng 5/6 dân cư trên
bán đảo Arập là người chăn nuôi du mục; họ chăn nuôi lạc đà, ngựa, cừu và
gia súc có sừng lớn, kinh tế của họ bấp bênh và phụ thuộc vào thiên nhiên.
Do tiếp giáp với biển thương nghiệp trên bán đảo khá phát triển và là
nghề được dân bán đảo ưa chuộng; tại vùng đất phía tây chạy dài song hành
với biển Đỏ tạo thành một dãy đất hẹp và dài; trở thành một con đường thông
thương quan trọng từ Á sang Âu. Dọc hai bên đường thương lộ này đã mọc
lên nhiều thành trấn; trong đó có Mécca “Mecca là một thành trấn quan trọng
nằm giữa đường của thương lộ. Trước và sau thế kỉ VI, cư dân Mecca có
chừng 15000 người. Họ chủ yếu sống bằng nghề thương nghiệp và dịch vụ,
cũng có một số người làm nghề thủ công” [10, tr.256].
Như vậy, trái với nông nghiệp thì thương nghiệp lại khá phát triển và
đem lại nguồn lợi lớn cho người dân.
Về chính trị - xã hội: Trước khi đạo Hồi ra đời, cư dân Arập đang trong
quá trình chuyển biến từ công xã thị tộc sang xã hội có giai cấp và nhà nước.
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử

10

Đầu thế kỉ VII sau công nguyên, trên bán đảo Arập diễn ra những biến đổi
quan trọng đó là xuất hiện chế độ tư hữu và giai cấp đưa đến sự phá vỡ trật tự
xã hội cũ. Những cuộc chiến tranh trên bán đảo xảy ra liên miên, đời sống xã
hội không bao giờ được ổn định do sự chống đối của tầng lớp dân nghèo và
nô lệ đối với tầng lớp quý tộc; xung đột giữa các bộ lạc; giữa quý tộc và quý
tộc. Để trấn áp những cuộc chống đối của quần chúng nhân dân, khống chế
con đường vận chuyển hàng hoá, tiến tới cướp đoạt những vùng đất mới, tầng
lớp quý tộc Arập đã có nhu cầu xây dựng một cơ quan quyền lực quốc gia
mạnh mẽ, thống nhất cả bán đảo.
Về tín ngưỡng - tôn giáo: Trước thế kỉ VII, người Arập theo tín ngưỡng
đa thần giáo, sùng bái tự nhiên, tôn thờ các yếu tố như: đá, sông, suối,…và
các vị thần đặt trong ngôi đền Caaba. Tại đây, thờ nhiều tượng thần của các
bộ lạc và một tảng đá đen được coi là biểu tượng sùng bái chung của các bộ lạc.
“Nhiều người Arập cho rằng vị thần của mặt trăng là Allah (thượng đế)
và coi ngài là tổ tiên của họ và là vị thần dẫn dắt các vị thần khác. Allah có lẽ
là thần của bộ lạc Koraich, ba vị thần khác là con gái của Allah, Al-Lat
(Thần Mặt Trời), Manat (Thần Vận Mệnh) và Al-Uzza (Thần Vạn Năng) cũng
được sùng bái rộng rãi” [6, tr.24].
Vào thời kì này đạo Kitô và Do Thái đã xuất hiện xong ảnh hưởng của
những tôn giáo này là không lớn.
1.2. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẠO HỒI
1.2.1. Yêu cầu lịch sử khách quan của bán đảo Arập đầu thế kỉ VII
Về chính trị - xã hội: Đến thế kỉ VII, do có vị trí chiến lược nằm cận kề
con đường thông thương từ Đông sang Tây, Arập trở thành miếng mồi ngon
để các thế lực nhòm ngó và xâu xé, tiêu biểu là hai đế quốc Ba Tư và
Byzantine. Cuộc chiến tranh giành bán đảo Arập diễn ra căng thẳng và dai
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử

11

dẳng trong suốt thế kỉ VI. Điều này đã làm ảnh hưởng nặng nề đến kinh tế của
cư dân trên bán đảo. Đồng thời cuộc hỗn chiến giữa các hoàng đế Byzantine
và các vua chuyên chế Ba Tư đã cản trở việc đạt đến sự thống nhất chính trị
của Cận Đông rất cần cho sự phát triển thương nghiệp. Điều đó đã gây nên sự
sụp đổ của các thành thị Arập. Các thành thị lớn như Mécca, Yatơríp vốn có
một quá khứ phồn thịnh nay chỉ còn là một đống hoang tàn đổ nát, rơi vào
thảm cảnh tiêu điều, xơ xác. Mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt, giai cấp quí
tộc muốn thống trị nhân dân trong vòng vương quyền của mình, trấn áp mọi
tư tưởng chống đối và ý muốn nổi dậy của nhân dân, nên cần một lực lượng
đủ mạnh, xu hướng liên kết giữa các thị tộc bộ lạc được ủng hộ với mục đích
cao nhất là bảo vệ quyền lợi giai cấp và quyền lợi thương mại.
Về tôn giáo: Tín ngưỡng đa thần giáo đã gây trở ngại lớn đối với quá
trình thống nhất bán đảo Arập. Các bộ lạc chỉ thờ một vị thần tổ của riêng
mình. Muốn thống nhất các bộ lạc trên bán đảo Arập thì trước tiên phải thống
nhất về tín ngưỡng. Bên cạnh đó, đạo Do Thái và Cơ Đốc giáo cũng ra sức phát
huy ảnh hưởng của mình; đây cũng là một rào cản cho công cuộc thống nhất.
Tình hình trên là điều kiện thuận lợi cho sự ra đời một tôn giáo mới phù
hợp với tín ngưỡng, nguyện vọng của nhân dân.
1.2.2. Môhamét sáng lập ra đạo Hồi
Môhamét (Muhammad - nghĩa là “Người được tôn vinh”) (570-632) là
người thuộc bộ lạc Carét, sinh ra tại Mécca (nay thuộc Arập Xê út). Ông là
người “Trung bình, không cao không thấp. Nước da trắng hồng, mái tóc đẹp,
dầy và láng, rủ xuống hai vai… Nét mặt thật hiền từ, tới nỗi ai thấy một lần
rồi thì không thể rời được nữa” [11, tr.26-27]. Ông mồ côi cha từ lúc ra đời,
đến năm 6 tuổi thì bà mẹ Amina mất; được ông nội Abd al - Muttalib, sau đó
là chú Abu - TaLib nuôi dạy. Thủa nhỏ, ông đi chăn gia súc, dẫn đường cho
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử

12

thương nhân qua sa mạc để kiếm sống. Đến tuổi trưởng thành ông trở thành
thương gia và nhanh chóng có uy tín nhờ sự trung thực. Năm 25 tuổi, ông
giúp việc cho một goá phụ giàu có là Khadia, năm 26 tuổi ông cưới Khadia
làm vợ. Đây là một sự chuyển biến lớn trong cuộc đời ông. Sự ra nhập vào
đẳng cấp cao hơn đã tạo điều kiện cho Môhamét sáng tạo giáo lí, giáo luật và
thiết lập các mối quan hệ cho việc hình thành quốc gia thống nhất sau này.
Với sự hiểu biết cùng trí thông minh và khôn ngoan ông bước lên vũ đài
chính trị và sáng lập ra đạo Hồi.
Tục truyền rằng, khi Môhamét được 40 tuổi, ông một mình vào trong
một hang nhỏ ở núi Xira ngoài Mécca để tu luyện và trầm ngâm suy tưởng.
Trong một đêm, thánh Ala (chân chủ) đã cử thiên sứ Gabrien đến truyền đạt
Thần dụ và lần đầu tiên “khải thị” cho ông chân lí của Kinh Coran khiến ông
trở thành “Thánh thụ mệnh”. Lúc đầu, Môhamét chưa tin vào số mệnh của
mình nhưng được vợ cổ vũ ông đã nhận thức sứ mệnh và bắt đầu đi truyền đạo.
Năm 610 Sau công nguyên, Môhamét bắt đầu đi truyền giáo ở Mécca.
Người đầu tiên đi theo tôn giáo của ông chính là vợ ông, người em họ Ali,
người nô lệ Zaid và hai người bạn thân thiết là Abu Bakr và Umar, về sau là
hai vị Calipha đầu tiên của cộng đồng Hồi giáo. Sau này, những người đi theo
ông là những phụ nữ, nô lệ và dân nghèo. Hoạt động truyền giáo và thu nhận
tín đồ của Môhamét ở Mécca vấp phải sự chống đối của giới quý tộc Koraich
vì sự phát triển của Hồi giáo đe doạ trực tiếp tới quyền lợi của họ.
Hoạt động truyền giáo của Môhamét gặp khó khăn cho đến năm 622,
một số thương nhân ở Yatơríp hành hương tới Mécca, Môhamét đã thuyết
giáo và gây được sự chú ý của họ. Do đạo Hồi không khác gì mấy đạo của họ
nên được họ chấp thuận.
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử
13


“Năm 622, 73 người dân Yathrib lấy tư cách cá nhân lại thăm
Muhammad mời ông về Yathrib. Họ cam kết thừa nhận Muhammad là nhà
tiên tri, và thề sẽ trung thành chiến đấu vì Thượng đế và Sứ giả của người”
[11, tr.34-35].
Môhamét đã tới Yatơríp để làm người hoà giải cho những bất đồng thị
tộc theo sự thỉnh cầu của người dân nơi đây và cuộc di cư bí mật của những
tín đồ Hồi giáo tới Yatơríp bắt đầu (diễn ra vào năm 622) đánh dấu sự kiện
trọng đại trong lịch sử Hồi giáo gọi là Hijra (Đại di cư). Mười bảy năm sau,
Calipha Umar quyết định lấy năm 622 là năm khởi đầu cho kỉ nguyên Hồi
giáo. Tháng 7 năm 622 được coi là mở đầu kỉ nguyên Hồi giáo. Vì vào thời
gian này hội thánh được thành lập vừa phục vụ cho việc truyền giáo, vừa
chuẩn bị lãnh đạo đánh chiếm Mécca.
Cuộc Đại di cư này là sự khởi đầu của Hồi giáo với tư cách là một tôn
giáo có tính chất xã hội. Ở Yatơríp, tôn giáo trở thành một hiện tượng xã hội,
góp phần phát triển lịch sử cũng như tạo ra các điều luật phức tạp. Yatơríp
được đổi tên thành Mêđina (Thành phố của Nhà Tiên Tri). Môhamét nhanh
chóng thăng tiến về địa vị xã hội; từ chỗ chỉ là một sứ giả đơn thuần ông trở
thành người lãnh đạo chính trị, tôn giáo, xã hội của toàn thể cộng đồng.
Sau khi vững chân ở Mêđina, Môhamét chuyển trọng tâm hoạt động
sang giải quyết những vấn đề xã hội, phát động và tổ chức những cuộc đấu
tranh trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, tôn giáo.
Lúc này, sự phản đối Hồi giáo ngày càng phát triển cuối cùng dẫn đến
“thánh chiến”. Theo quan điểm của tín đồ Hồi giáo tất cả những người không
tin tưởng và thờ phụng đều không có quyền bình an.
Năm 624 “Cuộc chiến Badr” nổ ra giữa quân của Môhamét và quân đội
Mécca, kết quả cuối cùng quân đội của Môhamét đã dành được thắng lợi. Vị
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử
14


thế về kinh tế, chính trị của Môhamét được tăng cao. Sau trận Badr, quân đội
Mécca quyết định trả thù và quyết định tấn công Mêđina. Trận chiến giữa
hai bên tại Uhud (ngày 23-3-625), trong trận đấu này quân đội của
Môhamét bị thua.
Tháng 3 năm 627, khoảng 10000 quân Mécca bao vây Mêđina nhưng
không chiếm được. Sự thất bại của quân Mécca đã chứng tỏ sức mạnh của
quân Hồi giáo ở Mêđina.
Năm 630, thủ lĩnh của bộ lạc Koraich, Abu Sufyan đã thuận theo
Hồi giáo.
Mùa xuân năm 632, tại Mécca, Môhamét tuyên bố hình thành đạo Hồi.
Cùng năm này, Môhamét cử hành một lễ hành hương tới Caaba, rồi quay lại
Mêđina. Cuối đời, ông thực hiện cuộc “hành hương giã từ” tới Mécca và cuộc
hành hương này đã trở thành khuôn mẫu cho một trong những nghi lễ Hồi
giáo quan trọng nhất - nghi lễ hành hương - Hajj. Sau khi trở về Mêđina, một
thời gian sau Môhamét mắc bệnh rồi qua đời ở tuổi 63.
Môhamét chết đi để lại một di sản vô cùng lớn lao; cho đến tận ngày
nay tên tuổi của ông vẫn được truyền tụng và tôn thờ ở nhiều quốc gia dân tộc.
Với tài năng và sự thông thái của mình, Môhamét đã biết kết hợp nhiều
nguồn giáo lí khác nhau để xây dựng nên một tôn giáo mới với những quan
điểm hết sức tiến bộ lúc bấy giờ. Những người lãnh đạo đã sử dụng đạo Hồi
như một thứ vũ khí tư tưởng để củng cố cơ cấu xã hội mới trong nước và thực
hiện chính sách chinh phục rộng lớn ra ngoài biên giới Arập. Với tôn giáo mà
Môhamét đã sáng lập, người Arập có quyền tự hào về dân tộc của mình,
người Arập được xem là đã được Thượng đế lựa chọn vì Kinh Coran được
truyền tụng đầu tiên ở đây. Đây là một bộ kinh thiêng liêng của người Hồi
giáo vì nó là pháp luật duy nhất mà mọi tín đồ phải luôn tuân thủ trong bất kì
hoạt động nào của đời sống hàng ngày.
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử

15

1.2.3. Khái quát giáo lí, giáo luật của đạo Hồi
Giáo lí của Hồi giáo rất đơn giản nhưng luật lệ và lễ nghi rất phức tạp
và nghiêm khắc thậm chí đến mức khắt khe và nhiều khi nó vượt ra khỏi
phạm vi tôn giáo và trở thành một chuẩn mực pháp lí của xã hội. Giáo lí cơ
bản của Hồi giáo là Kinh Coran (Coran theo nguyên nghĩa tiếng Arập là
“tụng đọc”).
“Kinh này là lời nói của Allah, tức những lời nói của Allah thông qua
sứ giả của mình truyền đến cho người đời… Theo đó thì nguyên lí cơ bản của
đạo Islams được chia ra thành tín ngưỡng tôn giáo và nghĩa vụ tôn giáo”
[10, tr.259].
Giáo lí Hồi giáo gồm các điểm cơ bản sau:
Ala là đấng tối cao sinh ra trời đất.
Ala là đấng tối cao sinh ra muôn loài trong đó có con người.
Con người là bình đẳng trước Ala nhưng số phận và tài năng tạo nên sự
khác nhau giữa những con người.
Số phận con người có tính định mệnh và do Ala sắp đặt.
Tín đồ Hồi giáo phải luôn có thái độ đúng: trong cộng đồng (Hồi giáo)
thì phải kiên nhẫn chịu đựng, phục tùng Ala, đối với người ngoài thì phải kiên
quyết bảo vệ mọi lợi ích của Hồi giáo và phải có tinh thần thánh chiến.
Về y lý: khuyên bảo con người phải giữ gìn sức khoẻ.
Những lời khuyên về đạo lí:
Tôn thờ thần cao nhất là Ala.
Sống nhân từ độ lượng.
Thưởng phạt công minh, trừng phạt chủ yếu đối với kẻ thù.
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử
16


Thánh chiến là thiêng liêng và bắt buộc.
Kiên định và nhẫn nại trong mọi thử thách.
Tin vào định mệnh và sự công minh của Ala.
Cấm một số thức ăn: thịt lợn, rượu bia và các chất có men.
Trung thực; không tham của trộm cắp.
Làm lễ và tuân thủ các nghi lễ Hồi giáo.
Tín ngưỡng Hồi giáo: Xét về niềm tin, tín đồ Hồi giáo tin vào Ala, sứ
giả Môhamét, thiên sứ, thiên kinh, hậu thế.
Tin vào Ala: Ala là vị thần duy nhất trong vũ trụ, tự sinh ra và bất tử,
sáng tạo ra thế giới và là chúa tể. Hồi giáo không thờ ảnh tượng của Ala vì họ
quan niệm Ala toả khắp nơi, không một hình tượng nào đủ để thể hiện Ala.
Tin vào sứ giả Môhamét: Ala đã cử 5 sứ giả đến truyền đạt ngôn luận
cho con người; Môhamét là sứ giả cuối cùng mà Ala lựa chọn, là sứ giả xuất
sắc nhất và là người nhận được những ngôn luận của Ala một cách đầy đủ nhất.
Tin vào Thiên kinh: Kinh Coran là bộ kinh điển cuối cùng nhưng đầy
đủ nhất; dưới con mắt người Hồi giáo đây là bộ kinh điển thần thánh duy nhất.
Tin vào Thiên sứ: Thiên sứ do Ala tạo ra, là một loại linh hồn, vô hình
trước con người, không có tinh thần. Mỗi Thiên sứ có một nhiệm vụ. Trong
Thiên sứ cũng có sự phân chia cao thấp. Cao nhất là Thiên sứ Gabrien. Con
người không phải phủ phục trước Thiên sứ.
Tin vào hậu thế: Sẽ có ngày tận thế. Trong ngày ấy, mọi sinh linh sẽ kết
thúc để rồi tất cả sống lại nhận sự phán xét của Ala.
Nghĩa vụ Hồi giáo: Hệ thống nghĩa vụ của Hồi giáo rất rộng và chi tiết,
dựa trên cơ sở kinh Co ran và sách Thánh huấn. Có 5 nghĩa vụ chủ yếu; đó là:
niệm, lễ, trai, khoá, triều. Đây là 5 trụ cột của Hồi giáo, tạo nên sườn cốt cho
đời sống của người Hồi giáo.
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử
17


Niệm: Tín đồ phải thường xuyên tụng niệm thành tiếng tín điều cơ bản
(Vạn vật không phải là Chúa, chỉ có Chân chúa, Môhamét là sứ giả của Chúa).
Lễ: tức là lễ bái, các tín đồ mỗi ngày lễ năm lần (sáng, trưa, chiều, tối,
đêm). Thứ 6 hàng tuần thì làm lễ tại thánh đường một lần vào buổi trưa.
Trước khi làm lễ, tín đồ phải rửa mặt, tay chân, quỳ xuống, hướng về đền
Caaba để cầu nguyện.
Trai: tức là trai giới. Tháng 9 theo lịch Hồi là tháng trai giới của Hồi
giáo. Trong tháng này mọi sinh hoạt đều vào buổi đêm, trừ một số trường
hợp đặc biệt.
Khoá: Các tín đồ có nghĩa vụ đóng góp cho các hoạt động từ thiện. Sự
đóng góp đó có thể là tự nguyện, nhưng cũng có khi là bắt buộc dựa vào tài
sản của tín đồ (khoảng 1/40 tài sản).
Triều: Các tín đồ phải có nghĩa vụ hành hương về Mécca ít nhất một
lần trong cuộc đời, để triều bái Caaba trong tháng 12 theo lịch Hồi (hành
hương Haji). Cuộc triều bái này kéo dài trong 10 ngày, vào ngày cuối cùng tín
đồ sẽ hiến lễ là một con cừu hoặc lạc đà, hoặc một con vật có sừng.
Ngoài ra, Hồi giáo còn có nhiều quy định cụ thể về hành vi của tín đồ
trong các mối quan hệ xã hội.
Về tổ chức Hồi giáo:
Thánh đường Hồi giáo là nơi sinh hoạt tập thể và có tính chất thiêng
liêng đối với các tín đồ.
Hệ thống chức sắc gồm có: Giáo chủ (Mufty), Phó giáo chủ (Naib
Mufty), Giáo cả (Ha Kim), Phó giáo cả (Naib Ha Kim), Imân, Khatib, Tuan,
Bilat, Slak, HaDji.
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử
18

Tóm lại, bản thân xã hội Hồi giáo là một xã hội hỗn hợp tôn giáo
- chính trị nên tất cả những điều luật đều được thi hành không kém gì luật

pháp ngoài đời. Mọi người dù ở mọi cương vị đều không được làm trái luật.
Do đó, đạo Hồi không những không bị mất đi mà còn bành trướng rất nhanh.
Đối với các tín đồ, Hồi giáo đã tạo nên một “típ” người phục tùng Chúa
một cách tuyệt đối, kiên trì, nhẫn nhục trước mọi thử thách. Họ chấp nhận
định mạng vì tin tưởng vào định mạng. Rộng lượng, khoan hòa, dễ dàng
chấp nhận người khác và trọng danh dự triệt để; họ cũng rất ngoan cố trong
việc bảo vệ đức tin của mình. Họ chấp nhận người ngoại đạo nhưng không
để người ngoại đạo ra nhập vào xã hội mình một cách bình đẳng. Các tín đồ
Hồi giáo đã trở thành những con người cuồng tín. Đây cũng là một trong
những lí do làm cho đạo Hồi phát triển rất nhanh và không ngừng mở rộng
ảnh hưởng ra bên ngoài.

Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử
19

Chương 2
VAI TRÒ CỦA ĐẠO HỒI ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI VÀ
PHÁT TRIỂN NƯỚC ARẬP (THẾ KỈ VII - THẾ KỈ VIII)

2.1. VAI TRÒ CỦA ĐẠO HỒI ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI NHÀ NƯỚC ARẬP
2.1.1. Điều kiện để Môhamét thống nhất Arập
Vào đầu thế kỉ VII, sự khủng hoảng về kinh tế, chính trị, xã hội diễn ra
một cách trầm trọng trên bán đảo Arập. Nổi bật lên là các cuộc chiến tranh
đẫm máu mà tiêu biểu là chiến tranh giữa hai đế quốc Byzantine và Ba Tư;
cuộc chiến tranh tranh giành lãnh thổ diễn ra quyết liệt, căng thẳng trong suốt
thế kỉ VI. Điều này đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế của cư dân
Arập, đặc biệt là kinh tế thương nghiệp. Chính điều này đã dẫn đến sự suy yếu
và sụp đổ của các thành thị: Mécca, Yatơríp và Yêmen.
Thời kì này, Arập đang trong quá trình tan rã của chế độ công xã

nguyên thuỷ, cùng với sự phân hoá giàu nghèo diễn ra mạnh mẽ thì mâu
thuẫn xã hội cũng phát triển cao (dân nghèo, nô lệ với quý tộc; các bộ lạc;
quý tộc với quý tộc) kéo theo nó là nhiều phong trào đấu tranh của quần
chúng nhân dân chống lại quý tộc, chủ nô và bọn cho vay nặng lãi.
Sự tồn tại của tín ngưỡng đa thần giáo gây trở ngại cho sự thống nhất
bán đảo Arập.
Lúc này, nhiều quốc gia trên thế giới đang trong quá trình hình thành
chế độ phong kiến (riêng Trung Quốc đang ở giai đoạn phát triển cao của chế
độ phong kiến); Arập thì đang ở trong quá trình chuyển biến từ chế độ công
xã thị tộc sang xã hội có giai cấp và nhà nước. Trong bối cảnh đó, xã hội Arập
không thể có một bước đi tuần tự bình thường mà buộc phải bỏ qua một hình
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử
20

thái kinh tế xã hội đi thẳng từ chế độ công xã nguyên thủy lên chế độ phong
kiến. Nhu cầu thống nhất quốc gia trở thành xu thế lịch sử tất yếu của bán
đảo Arập.
Tất cả khát khao có một nhà nước thống nhất, hùng mạnh để đoàn kết
các bộ lạc Arập, giành lại những con đường thông thương vốn có, đẩy lùi sự
xâm lăng của các nước láng giềng. Môhamét đã xuất hiện và đáp ứng được
yêu cầu bức thiết đó của lịch sử. Môhamét đã sáng lập và truyền bá đạo Hồi;
dựa vào nó để tiến hành cuộc cách mạng chính trị - xã hội trên toàn bán đảo;
tiến tới thống nhất và phát triển mở rộng lãnh thổ của đế quốc Arập sau này.
2.1.2. Quá trình hình thành nhà nước Arập
Quá trình thành lập nhà nước Arập trải qua một thời gian dài, gắn liền
với tên tuổi và cuộc đời của Môhamét. Sau khi đã được thần linh “khải thị”,
vào năm 40 tuổi (năm 610) Môhamét đã bắt đầu truyền giáo. Ban đầu
Môhamét bí mật truyền giáo, sau đó dần dần chuyển sang công khai; từ chỗ
những người được truyền giáo là người thân của nhà tiên tri chuyển dần sang

quảng đại quần chúng Mécca và một số người đã tin theo ông. Những tư
tưởng mà ông truyền bá chính là sự bình đẳng, lòng nhân từ và phê phán việc
thờ thần tượng. Từ năm 610 đến năm 621, Môhamét nỗ lực kêu gọi người dân
Mécca hãy tin và nghe theo lời giảng dạy của Thượng Đế, chấp nhận
Thượng Đế độc tôn. Thời gian đầu, mọi cố gắng của Môhamét trong quá trình
truyền đạo không mấy thành công. Tầng lớp quý tộc lúc đầu tỏ ra thờ ơ nhưng
về sau họ chống đối mạnh mẽ và đạo Hồi bị phản đối ở Mécca. Một mặt vì
những người cầm đầu nơi đây cho rằng tư tưởng độc thần đã phá vỡ tín
ngưỡng đa thần ở địa phương – mà việc này liên quan đến việc buôn bán,
kinh doanh của những quý tộc ở đây. Mặt khác, vì những người lao động ở
Mécca cho rằng đạo mà Môhamét đang truyền chỉ hứa hẹn chung chung về sự
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử
21

giải thoát ở thế giới bên kia. Bên cạnh sự chống đối của quý tộc thì trong nội
bộ tín đồ của ông nảy sinh những quan điểm khác biệt và những người ở
Mécca bắt đầu khủng bố họ. Môhamét buộc phải gửi tám mươi người của
mình đến Abissinia (Êtiôpia) lánh nạn. Đặc biệt, khi người vợ đầu Khadia và
chú Abu - Talip qua đời, ông không còn được bảo vệ bởi bộ tộc Koraich.
Trong lúc khốn quẫn cơ may lại đến với ông. Tại thành phố Yatơríp (sau đổi
tên thành Mêđina), nhiều năm nay có hai bộ tộc xung đột với nhau và
Môhamét đã được cử làm người hoà giải. Môhamét đã quyết định cùng với
những tín đồ của mình chuyển đến Yatơríp (vào năm 622). Năm này được lấy
làm năm mở đầu kỉ nguyên Hồi giáo, hay còn được gọi là năm Hêgira
(Năm tị nạn). Năm 622 đã mở ra một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp truyền
giáo của Môhamét.
Giai đoạn đầu tại Mêđina (622-627)
Mêđina là một ốc đảo rộng chừng hai mươi dặm vuông, cách Mécca
250 dặm về phía bắc. Cư dân sinh sống bằng nghề trồng cây chà là và ngũ

cốc. Năm 622 có tất cả tám thị tộc sinh sống trên ốc đảo này, trong đó có ba
thị tộc người Do Thái chiếm được những vùng đất tốt và tỏ ra có ưu thế hơn
cả. Ở thời điểm Môhamét truyền bá đạo của mình thì các thị tộc xảy ra những
xung đột mạnh mẽ dẫn đến cuộc chiến Buat (năm 618); sau trận chiến bất
đồng này thì những mâu thuẫn vẫn không được giải quyết. Họ bắt đầu hi vọng
vào Môhamét và khẩn cầu ông sẽ là người hoà giải cho những xung đột này.
Ở Mêđina, với tư cách là Nhà Tiên Tri, Môhamét đã dần nâng cao địa
vị của mình và trở thành nhà ngoại giao chuyên hoà giải những xung đột bộ
lạc. ông liên minh với những bộ lạc láng giềng một mặt để giữ vững sự ổn
định khu vực, mặt khác để truyền đạo cho họ. Những nỗ lực của ông nhằm
thực hiện một cuộc cách mạng tôn giáo. Ông bắt đầu thành lập nên một cộng
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử
22

đồng Hồi giáo với hệ thống chính quyền, luật pháp và những thể chế riêng.
Ông đề xuất tư tưởng “Muslim và anh em” - những người theo đạo Hồi được
gọi là Muslim, có nghĩa là “Phục tùng Allah và Người Tiên Tri” [10, tr.259].
Để củng cố cộng đồng Muslim, Môhamét còn đặt ra “Hiến chương Mêđina”
với các nguyên tắc về quan hệ đối nội, đối ngoại và chính trị. Như vậy, trong
thời gian ở Mêđina, Môhamét đã phải đề xuất hàng loạt những chủ trương cải
cách đời sống xã hội, những nguyên tắc pháp luật, quy phạm đạo đức,…
để xử lý các vấn đề xảy ra tại Mêđina đồng thời nhằm tạo nên sức mạnh cho
chính quyền. Môhamét đã làm cho Mêđina được thống nhất và bước đầu xây
dựng được một chính quyền hợp nhất; chính quyền này lấy hình thức là
Umma (Cộng đồng Hồi giáo).
Nhằm truyền bá đạo Hồi và củng cố chính quyền non trẻ do mình vừa
lập ra, Môhamét cho tổ chức lực lượng vũ trang ở Mêđina; Môhamét biết
trước những người đa thần giáo ở Mécca sớm muộn cũng sẽ tấn công cộng
đồng Hồi giáo tại Mêđina. Ông lo tăng cường binh lực bằng cách cuớp lạc đà,

ngựa, vũ khí và tích luỹ lương thực. Môhamét luôn kêu gọi cộng đồng Hồi
giáo tại Mêđina phải sẵn sàng chiến đấu và tích cực tham gia “thánh chiến”.
Ý niệm “thánh chiến” trong Hồi giáo không chỉ có nghĩa là sẵn sàng tử vì đạo
mà còn có nghĩa là một “bổn phận thiêng liêng” của mọi tín đồ phải tham gia
chiến đấu trên mọi mặt trận, từ tinh thần đến vật chất, từ kinh tế đến chính trị.
Môhamét hoàn toàn khác với Jesus vì ông không bao giờ chấp nhận “đưa má
cho người ta tát”. Ông đưa ra một học thuyết được mệnh danh là “Thần Học
Chiến Tranh Chính Đáng”. Dưới ngọn cờ “Chiến đấu vì đạo của Ala” và
khích lệ bằng tư tưởng “Những chiến sĩ tử vì đạo sẽ được lên thiên đàng”.
Từ năm 622 đến năm 627, là giai đoạn đầu tại Mêđina với những cuộc “thánh
chiến” đẫm máu.
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử
23

Tiêu biểu là trận đánh Badr vào tháng 3 năm 624, Môhamét nghe tin
một đại thương gia của Mécca là Abu Sufyan sẽ dẫn một đoàn lữ hành
khoảng trên một nghìn người chở nhiều hàng quý giá của ngoại quốc đem về
Mécca. Môhamét đã tổ chức tấn công và giành được thắng lợi, chiếm được
hàng trăm lạc đà và ngựa, tịch thu nhiều vũ khí, quân trang và hàng hoá ngoại
nhập đủ loại cùng bảy mươi tù binh. Vào ngày 23-3-625, trận chiến giữa tín
đồ đa thần giáo ở Mécca và đội quân Muslim diễn ra tại Uhad, quân đội của
Môhamét thất trận với 65 người bị giết. Tuy vậy, những chiến binh Muslim
trải qua những trận chiến như vậy đã tạo được một niềm tin vào chiến thắng
để đến những trận chiến sau này họ càng đánh càng hăng và liên tiếp giành
nhiều thắng lợi to lớn.
Giai đoạn đầu đạo Hồi gặp phải sự chống đối của giới quí tộc Mécca và
các thế lực thù địch. Tại ốc đảo Mêđina, Môhamét dưới danh nghĩa là Nhà
Tiên Tri cùng với tài năng của mình đã làm cho đạo Hồi trở thành tôn giáo
hợp pháp, đáp ứng nguyện vọng của người dân. Môhamét tiếp tục củng cố thế

lực, truyền bá đạo Hồi, sử dụng đạo Hồi như một thứ vũ khí sắc bén để tiến
tới thống nhất toàn bán đảo Arập.
Giai đoạn sau tại Mêđina (627-632)
Sau năm năm đầu chiếm cứ Mêđina (622-627), Môhamét và cộng đồng
Hồi giáo đã gây ra nhiều cuộc đột kích đẫm máu để tấn công các đoàn thương
buôn của Mécca nhằm mục đích cuớp lạc đà, ngựa, vũ khí, tiền bạc và đủ loại
hàng hoá vừa để sống tại ốc đảo Mêđina vừa để tăng cường lực lượng quân
sự. Danh tiếng của Môhamét lan đi khắp vùng và ai cũng phải nể sợ. Lúc này,
tình hình vô cùng thuận lợi, Môhamét quyết định: Trước hết thống nhất tất cả
các bộ lạc Arập thành một quốc gia. Bộ lạc nào tách rời sẽ bị trừng phạt. Sau
đó chiếm thành phố Mécca làm thủ đô phát triển đạo Hồi.
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử
24

Bằng mưu lược chính trị, dù chưa phải là một quốc vương nhưng
Môhamét đã viết thư và sửa soạn những món quà quý giá rồi cử nhiều phái
đoàn đến yết kiến các hoàng đế của đế quốc Byzantine và đế quốc Ba Tư,
các vua Ai Cập và Êtiôpia. Sau đó, ông gửi thư đến các bộ lạc Arập, không
phân biệt họ theo tôn giáo nào. Trong thư ông nhấn mạnh đạo Do Thái là đạo
của con cháu Jacob, đạo Hồi là đạo của con cháu Ismael. Kinh Thánh Cựu
Ước bằng tiếng Hebrew của Do Thái, Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp của Ki Tô
Giáo, Kinh Koran bằng tiếng Arabic là Kinh Thánh của người Arập. Ông
không yêu cầu mọi người theo đạo Hồi nhưng yêu cầu tất cả các bộ lạc Arập
gia nhập “Cộng đồng Arập”, tương tự như “Umma” ở Mêđina. Sau thư mời
nói trên, nhiều bộ lạc Arập xin gia nhập “Umma”, đặc biệt là các bộ lạc
Bedouine. Chỉ còn lại ba bộ lạc không chịu gia nhập là các bộ lạc Asad,
Thalabah và Sad. Từ cuối năm 627 đến cuối năm 628, Môhamét mang quân
đi tấn công để trừng phạt ba bộ lạc nói trên.
Cũng trong thời gian này, Môhamét mở những cuộc tấn công các đoàn

thương mại Mécca với chủ đích phá vỡ hoàn toàn thế độc quyền thương mại
của thành phố này với các xứ phương Bắc. Để chính thức cạnh tranh với
Mécca, Môhamét lập các đoàn lữ hành tải hàng từ Mêđina đi bán ở Syria và
Ba Tư, sau đó mua các hàng quý hiếm của ngoại quốc đem về Mêđina để biến
ốc đảo này trở nên một thành phố sầm uất.
Vào năm 627, tầng lớp quý tộc ở Mécca do Abu Sufyan cầm đầu đã
liên hiệp với bảy bộ lạc khác có quân số khoảng một vạn người tấn công
Mêđina. Môhamét đã ra lệnh cho các tín đồ đào một hệ thống hào sâu, chứa
đầy nước cách thành hai mươi dặm, để dựa vào đó chống lại quân địch, được
lịch sử gọi là cuộc đại chiến bằng hào sâu. Trong cuộc đại chiến này
“Môhamét đã giành được thắng lợi quyết định, bắt sống 439 người, trong đó
có 60 thủ lĩnh được phân phối cho các chiến sĩ mang về làm nô lệ, 160 người
được giữ lại Mêđina để làm ruộng, còn 200 người khác thì chuộc bằng tiền để
trở về” [10, tr.282].
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Đỗ Kim Oanh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Lớp K33 - CN Lịch sử
25

Sau cuộc chiến thực lực của Muslim lớn mạnh chưa từng thấy và giờ
đây chinh phục Mécca trở thành mục tiêu chính trị trọng đại của Môhamét.
Bằng mưu lược chính trị, năm 628, Môhamét đã tiến hành đàm phán với quý
tộc Mécca do Abu Sufyan đứng đầu. Hoà ước Hôpita được kí kết với nội
dung: Hai bên ngừng chiến đấu mười năm và hoạt động triều bái của những
người Muslim chuyển sang năm sau. Lợi dụng thời gian ngừng chiến,
Môhamét cử sứ giả tới các bộ lạc láng giềng để truyền bá đạo Hồi; cho quân
đi chinh phục người Do Thái ở Khaibar… Cho đến năm 630, lực lượng quân
của Môhamét đã đủ mạnh để đánh chiếm Mécca.
Năm 630, với lí do người Koraich vi phạm điều ước, Môhamét đã chỉ
huy một vạn người tiến đánh Mécca. Các quý tộc ở Mécca buộc phải tiếp
nhận đạo Hồi và Môhamét là “Nhà Tiên Tri”. Về phía Môhamét, ông thừa

nhận Mécca là thánh địa của đạo Hồi và ngôi đền cổ Caaba và phiến đá đen là
thánh vật của đạo Hồi. Mécca trở thành hậu thuẫn vững chắc để Môhamét tiến
hành chinh phục các bộ lạc Arập. Với những hoạt động tôn giáo - chính trị
mạnh mẽ của Môhamét lần đầu tiên trong lịch sử, các bộ lạc Arập được kết lại
với nhau bằng một tôn giáo và một thượng đế. Môhamét trở thành người đứng
đầu lập pháp, là đầu não của một chính quyền mới, là thống soái tối cao của
những người Hồi giáo.
Sau khi chiếm thành phố Mécca, vào tháng 1 năm 630, Môhamét sát
nhập quân của thành phố này với quân của Mêđina để thành lập một đạo quân
Hồi giáo lên tới 30000 người. Sau hơn một năm ở Mécca, Môhamét lại trở về
Mêđina. Các bộ lạc đã lần lượt cử người đến xin thần phục và theo đạo Hồi.
Những tín đồ Do Thái và Cơ Đốc cử người tới kí hoà ước và nộp cống vật để
đổi lấy sự khoan dung về tôn giáo. Với chiến dịch Tabuh (tháng 10 năm 630),
đây cũng là chiến dịch cuối cùng do Môhamét tham gia; ba vạn đại quân Hồi

×