Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Hát trống quân ở xã liên thuận huyện thanh liêm tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (950.13 KB, 71 trang )


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN





ĐINH THỊ THU HIỀN



HÁT TRỐNG QUÂN Ở XÃ LIÊM THUẬN
HUYỆN THANH LIÊM - TỈNH HÀ NAM


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Việt Nam học


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. NGUYỄN THỊ TÍNH




HÀ NỘI - 2014

Khóa luận tốt nghiệp Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2
Đinh Thị Thu Hiền Lớp: K36E - Việt Nam học


LI CM N

Trong quỏ trỡnh thc hin khúa lun Hỏt Trng quõn xó Liờm Thun
- huyn Thanh Liờm - tnh H Nam, tỏc gi thng xuyờn nhn c s ch
bo giỳp ca cỏc thy giỏo, cụ giỏo trong khoa Ng Vn v cỏc thy giỏo cụ
giỏo trong t Vn hc Vit Nam, c bit l s ch bo tn tỡnh ca cụ giỏo ThS.
Nguyn Th Tớnh - ngi trc tip hng dn khoa hc.
Tỏc gi xin by t lũng bit n chõn thnh ca mỡnh ti cỏc thy giỏo
cụ giỏo ó tn tỡnh hng dn, ch bo to iu kin giỳp tỏc gi hon
thnh khoỏ lun ny.
Tỏc gi xin chõn thnh cm n ụng Nguyn ỡnh Lõu - cỏn b hu trớ
xó Liờm Thun, ó giỳp , to mi iu kin thun li tỏc gi cú th
hon thnh c khúa lun.
Nhng li cm n sau cựng xin dnh cho ba m - ngi sinh thnh,
nuụi dng, ngi luụn bờn cnh chia s bo ban cng nh ng viờn tỏc
gi trong sut thi gian qua, v tỏc gi cng mun gi li cm n n nhng
bn bố ó ht lũng giỳp tỏc gi hon thnh khúa lun ny.
L mt sinh viờn bc u lm khoa hc nờn cũn nhiu b ng v
khụng trỏnh khi nhng thiu sút vỡ vy tỏc gi rt mong nhn c nhng ý
kin úng gúp ca thy cụ v cỏc bn.
Xin chõn thnh cm n!
H Ni, ngy 20 thỏng 05 nm 2014
Sinh viờn

inh Th Thu Hin



Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn Líp: K36E - ViÖt Nam häc


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài “Hát Trống quân ở xã Liêm Thuận, huyện
Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam” là một đề tài do chính tôi thực hiện dƣới sự chỉ
bảo tận tình của ThS. Nguyễn Thị Tính.
Tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của tôi trong khóa luận
này.
Hà Nội, ngày 20 tháng 5năm 2014
Sinh viên


Đinh Thị Thu Hiền



Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn Líp: K36E - ViÖt Nam häc

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục tiêu nghiên cứu 3
4. Mục đích nghiên cứu. 3
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3
6. Phƣơng pháp nghiên cứu 3
7. Bố cục của khóa luận 3
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG 4
1.1. Một số vấn đề liên quan về hát Trống quân ở vùng đồng bằng Bắc Bộ 4

1.1.1. Khái niệm về hát Trống quân 4
1.1.2. Một số nét về hát Trống quân 4
1.1.3. Khái quát lịch sử hình thành hát Trống quân 5
1.2. Khái quát về xã Liêm Thuận - huyện Thanh Liêm - tỉnh Hà Nam 10
1.2.1. Điều kiện tự nhiên 10
1.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 11
1.2.3. Đặc sắc văn hóa xã Liêm Thuận 11
Chƣơng 2. ĐẶC ĐIỂM HÁT TRỐNG QUÂN Ở XÃ LIÊM THUẬN 15
2.1. Nguồn gốc hát Trống quân ở xã Liêm Thuận 15
2.2. Thời gian và không gian diễn xƣớng 17
2.2.1. Thời gian diễn xƣớng 17
2.2.2. Không gian diễn xƣớng 18
2.3. Đặc điểm về chiếc trống trong các cuộc hát Trống quân 19
2.4. Đặc điểm ở tiết tấu của hát Trống quân 21
2. 5. Đặc điểm về cách hát Trống quân 22
2.6. Nội dung của câu hát Trống quân Liêm Thuận 34

Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn Líp: K36E - ViÖt Nam häc

2.6.1. Những câu hát Trống quân miêu tả nếp sống sinh hoạt của ngƣời Liêm
Thuận 34
2.6.2. Những câu hát Trống quân ca ngợi tình yêu đôi lứa 38
2.6.3. Những câu hát Trống quân thể hiện tình yêu quê hƣơng đất nƣớc 41
KẾT LUẬN 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC





















Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn 1 Líp: K36E - ViÖt Nam häc

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Xã Liêm Thuận xƣa (huyện Thanh Liêm - tỉnh Hà Nam) là vùng chiêm
trũng, thuộc đồng bằng Sông Hồng, nơi có nền văn minh lúa nƣớc lâu đời gắn
với những giá trị lịch sử, văn hóa vô cùng sâu sắc.
Xã Liêm Thuận xƣa là cái “rốn nƣớc” của huyện, nhân dân trong xã phải
sống trong cảnh nƣớc ngập quanh năm, dân cƣ thƣa thớt, đi lại khó khăn “6
tháng đi chân, 6 tháng đi tay”, cuộc sống của ngƣời dân quanh năm nghèo
khó. Nhƣng cũng chính vì cuộc sống nghèo khó nhƣ vậy mà con ngƣời nơi
đây có ý thức vƣơn lên rất cao và sáng tạo ra nhiều giá trị văn hóa tốt đẹp

nhƣ: tục hát nõ nƣờng, tục cƣớp lão, hội vật võ Liễu Đôi, có vị quan Lê Tung
làm tới chức Thƣợng thƣ dƣới triều Lê…
Đặc biệt là ở mảnh đất Liêm Thuận còn có làn điệu hát Trống quân
mƣợt mà, đầy sức sống.
Hát Trống quân ở xã Liêm Thuận cũng giống nhƣ bao vùng quê khác
thuộc đồng bằng Bắc Bộ là loại dân ca đối đáp thi tài đua trí với nội dung là
những câu dao duyên tình tứ, những nhận biết và kinh nghiệm sống giữa
những ngƣời trung niên, thanh niên trong xã hội nông nghiệp. Hát Trống quân
đƣợc tổ chức chính vào tết Trung Thu hàng năm.
Những câu hát Trống quân của ngƣời dân nơi đây có đề tài rất phong
phú, phản ánh mọi mặt của cuộc sống, là một phần không thể thiếu trong đời
sống tinh thần của ngƣời dân nơi đây.
Ngày nay, xã Liêm Thuận đã có nhiều đổi thay: đói nghèo đƣợc đẩy
lùi, chiêm mùa hai vụ tốt tƣơi, nhà cửa san sát, đƣờng xóm đƣợc giải bê tông
sạch sẽ… đặc biệt, các giá trị văn hóa tốt đẹp trong đó có hát Trống quân vẫn
đƣợc đặt ở vị trí quan trọng và đƣợc công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể
của tỉnh Hà Nam năm 2006.

Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn 2 Líp: K36E - ViÖt Nam häc

Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nƣớc, toàn tỉnh Hà Nam
đang thực hiện đƣờng lối đổi mới của Đảng và Nhà nƣớc, ra sức phát triển
kinh tế - xã hội, đồng thời cũng đẩy mạnh việc duy trì, bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hóa dân tộc.
Tuy nhiên, ở một số nơi, Di sản Văn hóa không phải lúc nào cũng đƣợc
coi trọng đúng mức, không ít nơi phục hồi một cách tùy tiện, thiếu định hƣớng,
làm cho biến dạng, méo mó những giá trị tốt đẹp trong các Di sản Văn hóa,
hoặc quay lƣng với giá trị văn hóa truyền thống và xem đó là cái lỗi thời. Vì
thế, các Di sản Văn hóa cần đƣợc nhìn nhận một cách khoa học, khách quan.

Từ những lý do nêu trên, với lòng tự hào là ngƣời con sinh ra trên mảnh
đất Thanh Liêm - Hà Nam và là sinh viên ngành Việt Nam học, tôi mạnh dạn
chọn vấn đề “Hát Trống quân ở xã Liêm Thuận, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà
Nam” để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử vấn đề
Năm 1995, qua cuốn sách Khảo sát văn hóa truyền thống Liễu Đôi, tác
giả Bùi Văn Cƣờng và Nguyễn Tế Nhị đã cho ngƣời đọc thấy đƣợc một số
đặc điểm chính về cách làm trống và không gian diễn ra hội hát Trống quân.
Năm 2000, Trung tâm Văn hóa tỉnh Hà Nam đã lựa chọn và biên soạn
một số làn điệu, trong đó có hát Trống quân để chƣơng trình VTV3 Đài
truyền hình Việt Nam ghi thành đĩa CD Dân ca Hà Nam, và cũng trong năm
này, nhạc sĩ Phạm Trọng Lực biên soạn tập nhạc Dân ca Hà Nam.
Năm 2003, một số cán bộ ở Trung tâm cùng Bảo tàng tỉnh Hà Nam
phối hợp với Cục di sản Văn hóa, Bộ Văn hóa Thể Thao và Du lịch tiến hành
khảo sát phục dựng để bảo tồn “Hát Trống quân trên cạn và dƣới thuyền ở xã
Liêm Thuận”.
Trong những năm từ 2001 tới 2005 có các bài viết liên quan tới hát
Trống quân của tác giả Nguyễn Đình Lâu in trên báo Đảng - Hà Nam.

Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn 3 Líp: K36E - ViÖt Nam häc

Những công trình nghiên cứu kể trên đã nêu ra một số điểm sơ lƣợc về
hát Trống quân Liêm Thuận. Vì vậy trong khóa luận này, từ việc tiếp thu
thành tựu của những công trình nghiên cứu trƣớc, tôi muốn tìm hiểu một cách
khái quát để làm nổi bật một số đặc điểm và giá trị của hát Trống quân ở xã
Liêm Thuận, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Khái quát đƣợc không gian văn hóa của mảnh đất Liêm Thuận -
Thanh Liêm - Hà Nam.

- Tìm hiểu nguồn gốc ra đời, chỉ ra các đặc điểm chính trong hát Trống quân.
4. Mục đích nghiên cứu.
- Khẳng định đƣợc nội dung chính mà những bài hát Trống quân ở xã
Liêm Thuận đề cập đến, từ đó giúp bạn đọc có cái nhìn toàn diện hơn về làn
điệu hát Trống quân.
- Tiếp tục nghiên cứu để đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả, giữ gìn và bảo tồn, phát huy các giá trị của hát Trống quân.
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Hát Trống quân ở xã Liêm Thuận, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Các thôn: Sông, Gừa, Lau, Chảy, Vải, Nga, Thị, Chằm xã Liêm Thuận.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp điền dã
- Phƣơng pháp liên ngành, đa ngành
- Phƣơng pháp phân tích tổng hợp
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
khóa luận gồm 2 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận
Chƣơng 2: Đặc điểm của hát Trống quân ở xã Liêm Thuận

Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn 4 Líp: K36E - ViÖt Nam häc

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG

1.1. Một số vấn đề liên quan về hát Trống quân ở vùng đồng bằng Bắc Bộ
1.1.1. Khái niệm về hát Trống quân

Tác giả Trần Việt Ngữ cho rằng: “Hát Trống quân là loại dân ca đối
đáp thi tài, đua trí với nội dung là những câu giao duyên tình tứ, trao đổi
những nhận biết và kinh nghiệm sống giữa những ngƣời trung niên, thanh
niên trong xã hội nông nghiệp. Hát Trống quân đƣợc tổ chức chính vào tết
Trung Thu hàng năm, phổ biến ở nhiều vùng trung châu và đồng bằng phía
Bắc Việt Nam” [4; 12]
1.1.2. Một số nét về hát Trống quân
Hát Trống quân thuộc dạng hát nói, hát kể, nƣơng theo niêm luật và
thanh điệu câu chữ của thơ lục bát bằng trắc, song thất lục bát, đôi khi cả thất
ngôn bát cú biến thể chút ít. Nó đòi hỏi ngƣời hát phải phát tiếng nhả lời sao
cho thật từ rõ dấu, chuyển âm tạo điệu ở dạng năm cung nguyên sơ, với tiết tấu
vui tƣơi, dí dỏm qua những nhịp đảo, nhịp nghịch nhƣng chấm câu rơi vào âm
lửng với tiếng trống đất “thình thùng thình” dứt câu vấn, câu đáp, câu xƣớng,
câu họa, gây cảm giác dở dang nửa chừng, gợi thúc đối phƣơng mau đáp họa
lại. Bởi thế, dù phải hát những câu mang nội dung thƣơng nhớ buồn sầu, tâm
trạng nghệ nhân vẫn không bị quyến quyện vào ý tứ, lời chữ, mà ngƣợc lại họ
tách ra thoải mái, dƣờng nhƣ đứng ngoài, đứng trên câu đang hát.
Ngƣời hát thuộc về mọi tầng lớp trong xã hội: nông dân, nhà nho, thƣ
sinh hát với con gái gia đình kỳ mục, giàu có hay gia đình thƣờng dân… họ
hoàn toàn không phải ca sỹ chuyên nghiệp mà chỉ là “tài tử” nghiệp dƣ sinh
hát, biết hát… phần đông là trai và gái đến tuần cập kê đi hát hội để tìm gặp
tài sắc, định ƣớc tƣơng lai.

Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn 5 Líp: K36E - ViÖt Nam häc

Thính khán giả của hát Trống quân là bà con trong làng trong tổng, gặp
lúc nông nhàn rủ nhau kéo đến thƣởng thức. Bà con đứng ngồi túm năm, tụm
ba vây quanh bãi hát, nhiệt tình tán thƣởng những câu vấn ý tứ sâu xa, câu đố
lắt léo khó giải, những câu đáp câu họa đón đỡ chí tình, văn vẻ, sắc bén. Họ

càng thích thú hơn khi đƣợc nghe những cách bẻ câu đổ giọng ngọt ngào.
Ngƣời dân coi hát Trống quân là đặc sản nghệ thuật của mọi ngƣời
trong tết Trung Thu, không những để vui chơi thử trí trao duyên lúc mùa
màng thƣ nhàn, mà còn để cha ông soi ngắm trăng sao thời tiết, đoán định
bƣớc làm ăn sắp tới. Họ bảo nhau rằng “Muốn ăn lúa tháng năm hãy xem
trăng rằm tháng Tám”, rằng “Trăng trong thì đƣợc lúa mùa, trăng đục mờ mờ
ắt đƣợc lúa chiêm”. Họ cũng sắm sửa mọi đủ thứ đèn cù, đèn sao, đèn cá, đầu
sƣ tử, cùng với bƣởi bòng, na chuối, bánh trái, tò he, làm bữa, bày cỗ cho
cháu con vui chơi dƣới trăng.
1.1.3. Khái quát lịch sử hình thành hát Trống quân
Sử chép, các triều Lý, Trần, Lê vào dịp rằm tháng 8 thƣờng mở những
hội đua đèn, đua thuyền, đua các trò khéo, trò khỏe, trò múa rối leo dây, kéo
dài dăm bảy ngày, thu hút đông đảo dân chúng các nơi về Thăng Long dự
xem, có ý phô trƣơng uy đức đấng cầm quyền, tự hào bộc lộ những cảnh ăn
chơi xa hoa của thời mình hơn là nhằm làm vui cho lớp lớp chúng dân hoặc
trẻ em. Mở hội ắt có hát múa, song sử sách của ngƣời xƣa cũng chỉ ghi đôi ba
dòng nhắc đến hát múa chung chung; mãi đến thế kỷ XVII mới thấy chép tới
những câu hát quê đối đáp.
Tới thế kỷ XIX, đất nƣớc bị đế quốc Pháp đô hộ, có mấy học giả
phƣơng Tây sang tìm hiểu văn hóa cổ truyền ở ta, mới thấy họ viết sơ sài về
loại hát đối đáp giao duyên dân dã phổ biến trên sứ Bắc. G.Knosp miêu tả
trống “đất” là một đoạn hóp (hoặc thanh tre) dài 4-5 mét đặt ngang trên chạc hai
đầu cọc tre khoảng 1 mét, một đầu cọc đóng trắc xuống đất; dƣới đất đào một hố

Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn 6 Líp: K36E - ViÖt Nam häc

vuông mỗi cạnh chừng 40 cm, lấy ván mỏng làm nắp đậy ghịt lại làm thành
thùng vang, lấy dây mây (dây móc hay lạt tre) buộc vít từ giữa hóp kéo xuống
giữa nắp hố đất [4; 15]


A.Schaeffner miêu tả trống “đất” là hố đất che nắp, có que chống thay
ngựa, đội lên quãng giữa dây mây (dây tre) vít chặt hai dầu [4; 16]

Có nơi đặt chum sành vào hố đất:

Lại có nơi đặt chum sành trên nền đất cho đội dây căng sát mặt miệng
chum mà không dùng que chống:

Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn 7 Líp: K36E - ViÖt Nam häc


Đến năm 1934, Nguyễn Văn Huyên du học tại Pháp, qua luận văn Tiến
sĩ viết về “Những khúc hát đối đáp giữa trai gái ở nƣớc Nam”, đã nói về mặt
dân tộc và phong tục của hát trống quân, rằng “vùng Bắc Ninh những 30, 40
dùng vỏ thùng dầu hỏa (bằng sắt dát mỏng gọi là sắt tây), có que chống dài
khoảng 50 cm làm ngựa, đội dây đồng (hoặc dây thép) dài chừng 4-5 mét, néo
ghịt hai đầu vào cọc cắm chắc xuống đất cho căng lên” [4; 17]


“Vùng Hải Dƣơng” cũng dùng vỏ thùng dầu hỏa, nhƣng úp lên ngay
mặt nền đất (hoặc sân gạch) và không dùng que chống mà căng thẳng dây
đồng (dây thép) ngang qua mặt thùng.

Năm 1940 học giả Doãn Kế Thiện viết báo, đặt hát Trống quân vào
danh mục của kho tàng văn nghệ dân tộc truyền thống. Năm 1941, nhà báo
Anh Ngân miêu tả khá rõ “Một cuộc hát Trống quân giữa Trai Xuân Cầu với
gái Khúc Lộng”. Hai bài báo này không thấy miêu tả hoặc minh họa trống
“đất” [4; 18].


Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn 8 Líp: K36E - ViÖt Nam häc

Tuy nhiên, đến những năm 1942 - 1943, Nhật bắt nông dân phá lúa
trồng đay, thu gom tận kiệt thóc gạo, máy bay Đồng Minh bắn phá… nên hầu
khắp hoạt động hát xƣớng ở các nơi bị đình trệ suy sụp. Các đám hát Trống
quân không còn giữ nổi đội ngũ và lề thói diễn hát nhƣ trƣớc.
Sau cách mạng 1945, cũng có một số bài nói đến tính phổ biến với sinh
hoạt sơ lƣợc và giai điệu riêng của hát Trống quân, song chƣa tác giả nào đi
sâu giới thiệu nội dung và nghệ thuật của nó một cách rõ ràng.
Cùng dạng với trống “đất”, A.Schaeffner còn viết trong cuốn Nguồn
gốc các nhạc cụ (Paris 1936), rằng những năm 60, 70 thế kỷ XIX, mấy bộ lạc
Bônggô, Công gô ở vùng Trung bộ Châu Phi, mỗi khi cộng đồng vui hát,
cũng đào hố đất, đậy nắp hố bằng vỏ cây khô ghịt chắc, lấy cỏ dai làm dây dài
4-5 mét, buộc một đầu dây vào giữa nắp vỏ cây, đầu kia buộc vít vào đầu cây
cọc cắm chắc xuống đất cho dây căng lên, rồi lấy mảnh tre (gỗ) cƣa vào dây
cho phát ra âm thanh [4; 18].







Ở đảo Madagascar trẻ em chăn bò đào hố đất, kiếm bãi phân bò khô
làm nắp đậy lên, lấy que cắm xuyên nắp qua hố sâu xuống đất làm ngựa, dây
mây (cỏ dai) khoảng 4 - 5 mét cột hai đầu vào cọc, căng qua ngựa lệnh quãng
thanh 3/4, 1/4, rồi lấy que gõ vào từng bên dây cho phát ra tiếng “trầm”, tiếng
“bổng” [4; 19].


Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn 9 Líp: K36E - ViÖt Nam häc


Nhƣ vậy, ở Trung Phi cũng nhƣ ở miền Bắc nƣớc ta, đến thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX, nhiều vùng vẫn dùng trống “đất” làm nhạc cụ đặc thù của một
loại ca hát dân gian, nhạc cụ đặc thù này nằm giữa ranh giới hai loại nhạc cụ
gõ và nhạc cụ dây.
Có điều, nếu G.Knosp và A.Schaeffner chỉ cắt nghĩa nguyên cớ dùng
trống “đất” là do điều kiện và hoàn cảnh sinh sống của cộng đồng ngƣời đó qui
định thì cha ông ta, lại hiểu chuỗi trống “thình thùng thình” là tiếng vọng của
Đất Mẹ cất lên nâng giấc, vỗ về an ủi với những câu hát chứa chan nghĩa tình
với biết bao kinh nghiệm sống đời của cháu con, cũng nhƣ những hồi trống
đồng, trống da từng khi gióng lên là nhằm ý kính thỉnh Trời Cha giáng hạ,
chứng tri tấm lòng thơm thảo chí thành của chúng dân đang sống vui dƣới thế.
Về nguồn gốc và thời điểm ra đời của hát Trống quân cho tới nay chƣa
có một công trình khoa học nào khẳng định chính xác hát Trống quân có từ
bao giờ, mà chỉ có mấy giả thuyết nói về nguồn gốc của các học giả nhƣ sau:
Hát Trống quân xuất hiện từ thời Trần, nửa sau thế kỷ XIII, thời kỳ
chống quân Nguyên xâm lƣợc, binh sĩ ta khi nghỉ ngơi đã ngồi thành hai hàng
đối nhau gõ vào tang trống, cứ bên hát xƣớng lại bên hát đáp; sau chiến thắng
điệu hát đƣợc phổ biến ra nhiều nơi trên miền Bắc.
Hát Trống quân xuất hiện từ khi vua Quang Trung thần tốc ra Bắc đánh
đuổi giặc Thanh cuối thế kỷ XVIII: để binh lính đỡ mỏi mệt, vua cho bày trò
một bên giả gái hát đối đáp trao tình với bên quân lính, kèm theo trống đánh
điểm nhịp, lúc nghỉ cũng nhƣ lúc đi đƣờng.

Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn 10 Líp: K36E - ViÖt Nam häc


Do đọc chệch từ “trung quân”, vì đã lấy điệu hát giải trí của đội Trung
Quân mà vua Quang Trung tuyển trọn ở Nghệ Tĩnh trong cuộc hành quân ra
Bắc diệt Thanh.
Các nhà nho Việt Nam thì cho rằng “trống quân” do hai chữ “tống quân”
mà ra. Theo tƣơng truyền, xƣa kia có lệ khi quan đổi lị sở thƣờng đƣợc bạn đồng
liêu theo tiễn một quãng đƣờng, tay cầm khẩu trống điểm nhịp hát câu tiễn bạn,
trong đó có đoạn “tống quân Nam phố, thƣơng nhi chi hà” (nghĩa là: tiễn bạn về
phƣơng Nam, nhớ thƣơng không gì đo đếm đƣợc). Lời hát tiễn bạn của giới nhà
quan sau lan ra dân gian và đọc chệch “tống quân” thành “trống quân”.
Từ hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị vào Nam không có hát Trống quân. Từ
Thanh Hóa trở ra loại hát này chỉ để hát vào thu nhất là trong tháng tám. Nhƣng
không hát vào ban ngày mà chỉ hát vào những đêm trăng, nhất là đêm rằm.
1.2. Khái quát về xã Liêm Thuận - huyện Thanh Liêm - tỉnh Hà Nam
1.2.1. Điều kiện tự nhiên
Hà Nam nằm ở phía Tây Nam đồng bằng Bắc Bộ trên tọa độ 200 vĩ độ
Bắc và giữa 105 - 110 kinh độ Đông. Diện tích tự nhiên hơn 850km
2
, đất đai
và địa hình Hà Nam tƣơng đối đa dạng. Do quá trình biến đổi địa chất và biến
đổi địa hình của đồng bằng sông Hồng nên Hà Nam có nhiều vùng trũng,
thƣờng xuyên bị ngập úng và bị chua phèn, không thuận tiện cho canh tác
nông nghiệp.
Thanh Liêm là một huyện nằm ở phía Nam của tỉnh địa hình thấp dần
từ Tây sang Đông, với đặc điểm của ba vùng kinh tế là vùng lúa, vùng bán
sơn địa và vùng núi nên đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn.
Liêm Thuận là một xã nằm ở phía Đông Bắc núi đất Thanh Liêm - một xã
chiêm trũng của huyện, tuyệt đại bộ phận đất đai vùng này ngày xƣa đều chìm sâu
dƣới mặt nƣớc trong một thời gian dài chỉ có một số gò đống nổi lên trên mặt nƣớc.


Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn 11 Líp: K36E - ViÖt Nam häc

1.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Xã Liêm Thuận xƣa do là vùng trũng nên dân cƣ thƣa thớt, dân cƣ tập
trung ở dải theo bãi bồi của một dòng sông nhỏ, nhà nọ xen xít nhà kia thành
những xóm làng tƣơng đối riêng biệt với lũy tre xanh bao bọc xung quanh,
các làng nối với nhau bởi những con đƣờng nhỏ về mùa mƣa thƣờng bị ngập
nên ngƣời dân đi lại chủ yếu bằng thuyền và kiếm sống chủ yếu bằng nghề
chài lƣới. Nơi đây xƣa là vùng đầm lầy rậm rạp nhiều lau lách, ruộng cấy còn
rất ít, ngƣời dân nơi đây đi làm thuê cuốc mƣớn mọi nơi kiếm kế sinh nhai.
Nghề nông là nghề chính của ngƣời dân địa phƣơng nhƣng do ngập lụt
gần nhƣ quanh năm nên chỉ canh tác vào vụ chiêm vì thế mà mảnh đất này
đƣợc gọi là vùng chiêm trũng.
Từ 1945 tới nay, xã Liêm Thuận đƣợc hợp nhất từ hai làng là làng
Thanh Cao và làng Liêm Thuận. Hiện nay xã Liêm Thuận gồm các thôn:
Sông, Gừa, Lau, Chảy, Vải, Nga, Thị, Chằm, Nga Bắc.
Nay xã Liêm Thuận đã có nhiều đổi thay đói nghèo đã đƣợc đẩy lùi,
nhà cửa san sát, việc đi lại đã thuận tiện hơn nhƣng so với những nơi khác còn
rất khó khăn, đƣờng lớn rất ít.
1.2.3. Đặc sắc văn hóa xã Liêm Thuận
Thiên nhiên khắc nghiệt nhƣng bù lại Liêm Thuận có cảnh quan văn hóa
đặc sắc. Trải qua nhiều thế kỷ với bao biến cố và thăng trầm của lịch sử, diện
mạo văn hóa vật thể và phi vật thể của xã còn lại rất phong phú và sâu sắc.
Đến Liêm Thuận, điều đáng chú ý đầu tiên là đình làng Chảy. Đây là
một ngôi đình lớn, kiến trúc từ thời Lê, có giá trị lịch sử đáng đƣợc lƣu ý.
Trong đình chạm trổ đẹp, mang nhiều nét dân dã, phản ánh sinh động hiện
thực chiến đấu, lao động cũng nhƣ tinh thần thƣợng võ và tình yêu cuộc sống
của nhân dân xã này.
Liêm Thuận xƣa còn có đền Bạch Y Công chúa. Theo truyện kể ngƣời

con gái này có khả năng thay đổi dung nhan; trƣớc ba quân thì có nét mặt oai

Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn 12 Líp: K36E - ViÖt Nam häc

nghiêm của đại tƣớng, trƣớc ngƣời yêu thì có nét mặt của một thôn nữ yêu
kiều, vào chỗ địch thì đẹp hoặc xấu, hồng hoặc trắng, hoặc đen để thích nghi
với hành động và mƣu cơ.
Liêm Thuận là quê hƣơng của Trƣơng Nguyên, tƣớng giỏi của vua
Đinh, nay còn đền thờ. Đây còn là quê hƣơng của Lê Tung nhà thơ, nhà sử
học thời Lê.
Đây cũng là quê hƣơng của tƣớng Lại Tƣ Tùy, tƣớng của Tây Sơn. Con
ngƣời này gắn bó với Hội vật võ Liễu Đôi và đã lừng danh tại hội này. Ca dao
còn ghi:
Ai về vật võ Liễu Đôi
Thấy anh khố đỏ thì thôi đừng vào.
“Anh khố đỏ” ấy chính là Tƣ Tùy.
Ẩn sâu trong những xóm làng trầm mặc, những lũy tre xanh dày đặc
chắn sóng, những cồn đống lau lách đìu hiu của mảnh đất Liêm Thuận là
nhiều phong tục lạ.
Tục thờ và tục hát nõ nƣờng ở đình làng Chảy: tục lệ này, cử hành từ
rằm đến 18 tháng Giêng âm lịch hằng năm. Tục thờ nõ nƣờng ở đây có một số
điểm khác so với các nơi khác. Cái hình sinh thực khí không phải là cái đƣợc
đẽo gọt cho kì giống thực tế và quanh năm đặt ở nơi trang trọng để làng của
đình làng để khói hƣơng cúng bái, mà chỉ là một đoạn tre đực chừng 3m sơn
son, gọi là nõ nƣờng hoặc gọi là cây “thƣờng bƣơng” quanh năm ngâm ở dƣới
đáy hồ trƣớc cửa đình, đến ngày hội lễ mới vớt lên cọ rửa, rồi rƣớc vào đình
làng thờ phụng. Cúng xong cây thƣờng bƣơng đƣợc rƣớc ra bắc ngang giữa
hai cột đình, trai gái chia hai bè, ngồi dƣới nõ nƣờng quay mặt vào nhau mà
hát đối đáp gọi là hát nõ nƣờng. Trƣớc khi vào hát, cả hai bè nam nữ đều vào

vái nõ nƣờng mấy vái, rồi mới vào chiếu ngồi. Kết thúc mỗi bè hát, cũng vái
nõ nƣờng rồi mới lui ra nhƣờng chỗ cho những ngƣời sau. Suốt ba ngày ba

Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn 13 Líp: K36E - ViÖt Nam häc

đêm, cuộc hát diễn ra liên tục để “cầu yên” cho làng, để cầu cho mọi cuộc đôi
lứa nhân duyên của làng mình trăm năm bền chặt cho trai có vợ đoan chính
dịu dàng, cho gái có chồng. Ngày cuối cùng, khi kết thúc cuộc hát, ngƣời ta
cùng tiễn nõ nƣờng. Ngƣời đứng đầu kỳ hội cầm một thanh tre bƣớc ra mà
xƣớng rằng:
Ơ này nõ nƣờng (gõ một hồi vào nõ nƣờng)
Một hồi này tống khứ (gõ một hồi vào nõ nƣờng)
Một hồi này bỏ mày đi (gõ một hồi vào nõ nƣờng)
Một hồi hƣơng đẳng gia khang (gõ một hồi vào nõ nƣờng)
Một hồi này hƣơng đẳng tộc khang (gõ một hồi vào nõ nƣờng)
Một hồi này xã tắc đông hƣơng hội ẩm, thiên phù nhân đa vật thịnh (gõ
một hồi vào nõ nƣờng)
Một hồi này đồng hƣớng tống khứ mày đi (gõ một hồi vào nõ nƣờng).
Gõ xong hồi cuối cùng này, ngƣời đứng đầu hội dùng thanh tre hẩy
mạnh cây nõ nƣờng xuống đất, mỗi ngƣời một tay cùng hẩy cây nõ nƣờng ra
sân, ra bờ hồ, rồi ấn chìm xuống bùn ngâm đấy, đợi sang năm lại vớt lên rƣớc
lễ, mở hội. Tục hát nõ nƣờng ở đây đƣợc cải biên, làm cho chất hoang sơ
nguyên thủy giảm đi một cách rất có dụng ý.
Tục Nghinh thổ ở làng Lau: đây là một tục lệ biểu thị sự quý trọng đất
đai, xem hòn đất trên đồng ruộng quê hƣơng thiêng liêng nhƣ của thần thánh
trời đất ban cho, và cầu mong mọi việc tốt đẹp. Lễ tiến hành vào sáng ngày
mồng một hàng năm. Các họ trong làng nổi chiêng, mỗi họ rƣớc một hòn đất
to lấy trên đồng ruộng trƣớc đó mấy hôm (đã đƣợc phơi phóng bao gói cẩn
thận) lên đình làng, cùng đặt lên án thƣ làm lễ tế thần rồi mang đất ra sân đình

tung lên cao. Hòn đất đó rơi xuống càng vỡ vụn càng quý. Mọi ngƣời xô nhau
vào cƣớp những mảnh đất ấy gọi là cƣớp “lộc thổ”, mang về rắc vào vƣờn nhà
mình, cầu cho “ngoài đồng tốt lúa, trong vƣờn tốt cau”.

Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn 14 Líp: K36E - ViÖt Nam häc

Ở làng Lau và làng Gừa của xã Liêm Thuận còn có tục chiêng lệnh mở
mắt diễn ra hàng năm vào ngày mồng 6 tháng Giêng để tƣởng nhớ và để thức
tỉnh một vị thần vốn là một ngƣời con rất anh hùng của vùng đất này - ông
Tru Thiên.
Ngày mùng 6, vào lúc canh ba, sau khi làng tế lễ ông Tru Thiên thì đống
lửa giữa đồng đƣợc đốt lên. Hai trai đinh đứng bên đống lửa đánh một hồi
chiêng lệnh. Hồi chiêng lệnh ấy vừa kết thúc thì nhà nào nhà ấy có thứ gì gõ
kêu thành tiếng thì mang thứ ấy ra mà đập mà gõ, họ thi nhau gõ cho thật kêu,
thật dồn dập, ầm ĩ cho tới khi trời sáng. Họ làm nhƣ thế gọi là “chiềng thanh
lấy khƣớc”. Khi âm thanh ấy ngừng bặt thì làng xóm, không gian bỗng im lặng
lạ lùng, nó gợi lên một không khí thiêng liêng, trang trọng. Bấy giờ những cặp
vợ chồng hiếm muộn con cái hay những cặp vợ chồng mới bèn nhập phòng để
cầu mong đƣợc đứa con nối dõi tài hiền nhƣ cha ông thuở trƣớc.
Tục lệ này không chỉ để tƣởng nhớ, để “mở mắt” cho một vị thần và nó
cũng là một cách chuẩn bị phƣơng tiện, tập duyệt cách thức báo động để khi
làng có giặc. Nó góp phần giáo dục tinh thần cảnh giác cho nhân dân, nó nhắc
nhở mọi ngƣời luôn phải tỉnh táo để đề phòng kẻ thù xâm lƣợc. Nhƣ vậy cội
nguồn của tục lệ này chính là lòng yêu nƣớc của nhân dân.
Liêm Thuận còn nhiều phong tục nhƣ tục lệ quý nhƣ: tung cầu, tục thổi
cơm thi, đồ xôi thi…
Tại Liêm Thuận trữ lƣợng ca dao tục ngữ cũng thật phong phú, nhƣng
phong phú nhất là những bài hát đối đáp trong lễ hội nõ nƣờng và hát trống
quân trên thuyền.






Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn 15 Líp: K36E - ViÖt Nam häc

Chƣơng 2
ĐẶC ĐIỂM HÁT TRỐNG QUÂN Ở XÃ LIÊM THUẬN

2.1. Nguồn gốc hát Trống quân ở xã Liêm Thuận
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau nói về nguồn gốc của hát
Trống quân ở Liêm Thuận. Nhƣng theo những ghi chép ở sách thần phả và
theo lời các cụ cao niên trong xã thì có hai quan điểm chính nói về nguồn gốc
của hát Trống quân:
Thứ nhất, theo thần phả ở đình làng Gừa và lời kể của các cụ cao niên
làng Gừa thì: cụ Trƣơng Nguyên là ngƣời làng Gừa. Tuổi trẻ cụ là ngƣời tài
cao học rộng, võ nghệ cao cƣờng. Cụ có công lớn trong việc giúp Đinh Bộ
Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, góp phần xây dựng độc lập đầu tiên của nƣớc Đại
Việt. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, hiệu là Đinh Tiên Hoàng đặt tên nƣớc
là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lƣ.
Ngày đất nƣớc độc lập, cụ không màng danh lợi đã xin vua về quê
chăm sóc mẹ già. Ngày cụ về quê, có nhiều ngƣời lính cùng quê dƣới quyền
cụ cũng xin đƣợc về theo, số binh lính đó cụ vẫn giữ nguyên cơ đội “động vi
binh, tĩnh vi dân” có nghĩa là lúc có giặc thì là lính, lúc thời bình là dân cày
cuốc sinh nhai. Chính vì thế, dân làng luôn đƣợc sống trong cảnh thái bình.
Không chỉ đem lại cuộc sống bình yên cho dân làng mà cụ còn tìm cách rèn
luyện sức khỏe, trí tuệ để dân làng giữ mãi sự bình yên, không bị trộm cắp
quấy nhiễu. Cụ đã dạy cho dân những trò rèn binh tuyển tƣớng, những môn

võ vật, cƣớp cầu, đặc biệt là hát Trống quân.
Theo các cụ làng Gừa kể lại tiếng Trống quân bắt nguồn từ câu hát
sang canh của ngƣời lính gác từ thời cụ Trƣơng Nguyên mang từ Hoa Lƣ về
để canh gác thôn làng ngày đêm. Ngƣời đời xƣa chia một ngày làm 12 canh
chia đêm 5 canh ngày 7 khắc, họ lấy việc đốt cháy một nén hƣơng để báo

Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn 16 Líp: K36E - ViÖt Nam häc

ngƣời lính cứ hết một canh thì đổi một ca gác, cứ hết một ca gác thì đánh ba
tiếng trống giao ca, dân gian gọi đây là tiếng trống sang canh. Ngày xƣa
không có đồng hồ để báo thức nên binh lính đã đốt hƣơng để đo thời gian, trời
vừa tảng sáng, cũng là lúc nén hƣơng cuối cùng đốt hết, ngƣời lính cuối cùng
vừa phải đánh trống, vừa phải cất tiếng gọi thật to để đánh thức mọi ngƣời,
lúc đầu họ chỉ nghêu ngao cho vui:
Dậy thôi trời đã sáng rồi,
Tôi đánh ba tiếng trống gọi mọi ngƣời dậy thôi.
Sau đó những ngƣời lính canh còn thêm vào những từ “ê, a” dần dần
ngƣời ta bắt chƣớc nhau cùng cất lên giọng cao, giọng thấp thế là thành câu hát:
Dậy thôi (thời) trời đã (thời) sáng rồi,
Đánh ba (thời) tiếng trống (thời) mọi ngƣời (thời) dậy thôi.
Qua thời gian, qua quá trình lao động sản xuất, những câu hát đƣợc gọt
giũa trở nên mềm mại hơn. Để tƣởng nhớ công lao to lớn mà cụ Trƣơng để
lại, dân làng đã phong cụ làm Thành hoàng làng, lập đền thờ ngay trên đất
sinh từ của cụ, giữ nguyên, trao truyền các trò chơi nhƣ cƣớp cầu, võ vật để
làm lễ tế cụ lúc khai hội vào ngày mùng 4 Tết hàng năm.
Nhƣ vậy theo thần phả, theo lời các cụ cao niên thì câu hát Trống quân
có ở làng Gừa cách đây hàng ngàn năm vì cụ Trƣơng Nguyên là danh tƣớng
của vua Đinh mà vua Đinh lên ngôi 968.
Thứ hai, bên cạnh lời kể các cụ làng Gừa thì các cụ cao niên ở làng

Chảy tôn thờ các Vƣơng Trần lại kể thêm ý mới. Liêm Thuận xƣa có dòng
sông La Giang chảy qua, vùng này xƣa kia nƣớc ngập mênh mông nhƣ biển
cả, đây là nơi cát cứ và là nơi cất dấu quân lƣơng của các Vƣơng Trần.
Sông La Giang nối từ Tây Nha - Thái Bình quê hƣơng của các Vƣơng
Trần qua bến đò Nhật Tảo về Vĩnh Trụ - Lí Nhân ngày nay rồi nối vào Tam
Cốc - Bích Động tỉnh Ninh Bình nơi các vua Trần lánh giặc Nguyên Mông.

Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn 17 Líp: K36E - ViÖt Nam häc

Vƣơng Trần Nhật Duật đã cắm thuyền ở Bến Vạn và cũng từ Bến Vạn cất
quân thủy đánh trận Lảnh Giang thuộc đất Hòa Mạc - Duy Tiên ngày nay. Vì
Liêm Thuận là các cứ của các Vƣơng Trần nên thủy quân nhà Trần bơi thuyền
canh gác ngày đêm. Những câu hát trống canh, tiếng trống canh của binh lính
thời Trần đã có ở Liêm Thuận từ ngày ấy.
Các cụ làng Chảy còn kể câu chuyện có liên quan tới sự hình thành
trống ở trên thuyền. Truyện kể rằng: “Những ngày đầu, tất cả các thuyền canh
của binh lính nhà Trần thuyền nào cũng có sẵn một quả trống canh. Vì đồng
nƣớc ngập lội, trống lại luôn để ở sạp thuyền, thƣờng xuyên bị ẩm ƣớt nên
trống nhanh thủng chỉ còn cái tang gỗ. Lúc đầu, ngƣời lính kê cái dầm bơi lên
mặt cái tang trống để gõ thay cho tiếng trống, âm thanh này không rõ tiếng
trống lắm. Sau đó, ngƣời lính căng sợi dây thừng lên ngang mặt cái tang trống
để đánh âm thanh này nghe giống tiếng trống nhiều hơn. Tang trống bằng gỗ
lâu ngày cũng bị mục nát, ngƣời lính dùng cái vại sành để thay thế cái tang
trống hỏng rồi căng dây thừng lên để đánh trống canh. Nguồn gốc hình thành
cái trống làm bằng vò vại sành và căng dây thừng làm trống ở Liêm Thuận
bắt nguồn từ đây. Nhƣ vậy, theo các cụ làng Chảy thì tiếng trống quân có từ
thời Trần.
Tựu chung câu chuyện của các cụ cao niên trong xã, đặc biệt là ý kiến
của các cụ làng Chảy, làng Gừa và thần phả của hai làng thì câu hát Trống

quân đƣợc hình thành từ rất lâu đời, có mối quan hệ mật thiết với quân đội -
tức gắn liền với sự nghiệp chống giặc ngoại xâm của dân tộc, đó là một nguồn
gốc mang đậm dấu ấn lịch sử Đại Việt.
2.2. Thời gian và không gian diễn xƣớng
2.2.1. Thời gian diễn xƣớng
Xã Liêm Thuận xƣa kia là nƣớc ngập quanh năm. Ngƣời dân bƣớc chân đi
là bƣớc chân tới thuyền mà chèo, mà chở làm ăn buôn bán sinh hoạt cộng đồng.

Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn 18 Líp: K36E - ViÖt Nam häc

Những lúc hiu quạnh giữa cách đồng nƣớc mênh mông hay những khi phải làm
việc vất vả để kiếm sống, những lúc đi cấy họ thƣờng cất lên tiếng hát để xua đi
mệt mỏi, sự lẻ loi buồn tẻ trƣớc không gian rộng lớn. Cứ nhƣ thế, câu hát Trống
quân trở nên quen thuộc, ăn sâu vào nếp sống văn hóa của ngƣời dân Liêm Thuận.
Nhƣ vậy, có thể thấy đây là hình thức sinh hoạt Trống quân mang tính chất tự do,
những câu hát đƣợc cất lên mọi lúc, mọi nơi, thuộc về những cá nhân đơn lẻ.
Tiếng hát Trống quân không chỉ là sản phẩm của một ngƣời, mà mang
đậm giá trị, mùi vị của con ngƣời nơi đây ngƣời này hát ngƣời kia nghe thấy
hay lại hát theo, hay ngẫu hứng đáp lại, khiến cho những cuộc hát dần hình
thành và diễn ra một cách tự nhiên. Ban đầu chỉ là những đám hát nhỏ giữa
một vài ngƣời, sau lớn thành làng này đua tài với làng kia để rồi hình thành
nên cuộc hát hội Trống quân giữa các xóm làng trong xã. Hát hội Trống quân
diễn ra vào rằm tháng 8 hay hội làng hàng năm xƣa kia, để miêu tả lại cuộc
sống vất vả còn nhiều khó khăn nhƣng lúc nào cũng tràn ngập tiếng cƣời, để
nói lên những ƣớc muốn của con ngƣời nơi đây và những mối tình tốt đẹp nơi
thôn quê mà cao hơn hết là tình yêu quê hƣơng đất nƣớc. Nhƣ vậy từ các cuộc
hát đơn lẻ đã hình thành nên hội hát Trống quân giữa các làng và tính chất
cộng đồng làng xã đã đƣợc mở rộng.
Nhƣ vậy câu hát Trống quân gắn bó mọi lúc mọi nơi với con ngƣời nơi đây,

là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của họ. Hát Trống quân ở
Liêm Thuận ban đầu chỉ là hình thức sinh hoạt tự do của những cá nhân đơn lẻ,
nhƣng do môi trƣờng sống và nhu cầu giao tiếp mà đã hình thành thêm hình thức
sinh hoạt Trống quân có tổ chức, mang tính giao lƣu cộng đồng cao.
2.2.2. Không gian diễn xƣớng
Thời gian hát Trống quân làm nên dấu ấn, còn không gian hát làm nên
tính đa dạng. Nhiều nơi ở đồng bằng Bắc Bộ có tục hát Trống quân nhƣ: xã
Dạ Trạch (huyện Khoái Châu, tỉnh Hƣng Yên), xã Khánh Hà (huyện Thƣờng

Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn 19 Líp: K36E - ViÖt Nam häc

Tín, tỉnh Hà Tây cũ), xã Ninh Xá (huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) song
hát Trống quân ở Liêm Thuận có đặc điểm rất riêng so với những nơi khác.
Đó không chỉ là hát trên cạn mà còn hát dƣới thuyền.
Hát Trống quân ở trên cạn, các đám hát thƣờng hát ở dƣới gốc đa đầu
làng, bên cạnh đê, sân đình hay chùa đây thƣờng là khu đất vƣờn, hay bãi
đất gò rộng và bằng phẳng.
Ở vùng chiêm trũng Liêm Thuận, những câu hát Trống quân không chỉ gắn
bó với cây đa, sân đình, triền đê mà còn gắn bó mật thiết với chiếc thuyền, sông
nƣớc. Chiếc thuyền ở đây là phƣơng tiện quan trọng gần gũi, thiêng liêng. Bởi vào
mùa bão nƣớc ngập mênh mông, ngƣời dân đi từ làng này sang làng khác chủ yếu
bằng thuyền. Ở đây ngƣời dân có những "6 tháng đi tay", có nghĩa là cuộc sống
gắn bó với nhiều với thuyền nên họ đã mang Trống quân từ trên cạn xuống
thuyền. Cùng với triền đê, sân đình… thì giờ đây chiếc thuyền trôi trên những
cánh đồng vào mùa nƣớc hay dòng sông cũng trở thành nơi ngƣời ta tổ chức hát
Trống quân tới thâu đêm. Nhƣ vậy, thuyền ở đây là biểu tƣợng của sự sáng tạo, là
tinh thần ý chí vƣợt khó, vƣợt gian nan và là không gian của tình yêu.
Nhƣ vậy, nếu đám hát trên cạn, bên nam, bên nữ đứng hát với nhau ở
trạng thái tĩnh, thì hát Trống quân trên thuyền không gian cuộc hát ở trạng thái

động và mở: thuyền của hai bên có thể xếp đội hình đối mặt nhau để hát, cũng có
thể rong ruổi hai hàng song song, vừa chạy vừa hát trên mặt nƣớc. Mới đầu dân
làng hát tập thể sau vì môi trƣờng rộng và mở nên theo ý thích từng đôi thuyền
một tách ra hát với nhau, tạo nên không gian của cuộc hát thật ngoại mục.
2.3. Đặc điểm về chiếc trống trong các cuộc hát Trống quân
Trong các đám hát, hội hát thì chiếc Trống đóng một vai trò quan trọng,
nó là một nhạc khí thô sơ nhƣng không thể thiếu, là nhân tố cầm nhịp cho câu
hát, khỏa lấp chỗ trống khi ngƣời hát chƣa nghĩ ra lời.
Khi hát trên cạn thì chiếc trống đƣợc làm bằng cách: đào một cái hố
hàm ếch xuống đất, miệng hố càng bé hàm ếch càng sâu càng to thì tiếng

Khãa luËn tèt nghiÖp Tr-êng §HSP Hµ Néi 2
§inh ThÞ Thu HiÒn 20 Líp: K36E - ViÖt Nam häc

trống càng âm, càng vang. Đào hố đất xong thì ngƣời ta dùng chày đập vào
thành hố, miệng hố cho đất thật chắc, thật mịn. Miệng hố sau khi đã đƣợc nện
phẳng rồi ngƣời ta đậy kín một tấm ván mỏng lên, nếu tấm ván không đƣợc
đậy kín khít ngƣời ta phải dùng đất dẻo chát vít cho thật kín không để sót một
khe hở nào, sao cho hố trông thật hòm hơi, càng hòm hơi thì trống càng âm
hơn. Sau đó ngƣời ta căng một sợi dây thừng dài hơn 2 mét ngang qua chính
giữa tấm ván mỏng đậy ở hố đất ấy, hai đầu dây thừng đƣợc cột chặt vào hai
cái cột bằng tre dài khoảng 40 - 50 cm và đóng neo chếch hai cái cọc tre
xuống đất, chính từ cách đóng neo chếch cọc tre này mà cọc càng đóng chặt
thì dây càng căng ra, dây thừng càng căng càng tốt. Ngƣời ta dùng một thanh
tre dài khoảng 20 - 30 cm, chặt vuông cả hai đầu để lúc trống bắn dây không
bị trƣợt đổ hay ngƣời ta dùng một cái chạc ba, một đầu chống vào giữa tấm
ván một đầu bắn vào giữa đoạn dây thừng rồi lên ngựa bắn cho dây thật căng,
sao cho dây thừng chia làm hai phần dài ngắn để tạo thành hai âm “thì, thình”
cao thấp khác nhau. Vật dụng làm trống, cách làm trống thật đơn giản chỉ
gồm hố trống, dây trống, nắp trống, trụ trống và quai gõ, nhƣng tuyển đƣợc

hai âm “thì, thình” chuẩn xác, hợp giọng ca thì chỉ có ngƣời sành chơi, có đôi
tai nghệ thuật thì mới chọn đƣợc hai âm này.
Hát Trống quân ở trên thuyền giữa đồng nƣớc nổi mênh mông, bao la
thì cách làm trống cũng không khác mấy so với cách làm trống ở trên cạn.
Trống ở đây đƣợc làm bằng cách: ngƣời chơi mang theo một cái vò hay cái
vại sành, vò vại càng to càng sâu lòng thì càng tốt, rồi đặt vào giữa lòng
thuyền để thay thế cho việc đào cái hố đất làm trống ở trên cạn. Sau đó ngƣời
ta cũng đậy kín một tấm gõ mỏng lên miệng vò hay chiếc vại sành. Chính tấm
gỗ có néo một thanh tre già hay một thanh gỗ vào sợi dây căng, đƣợc buộc
chặt từ mũi thuyền đến lái (nếu là thuyền nhỏ) buộc vào hai mạn thuyền (nếu
là thuyền lớn). Khi gõ dùi trống vào sợi dây căng, thì ở vại sẽ phát ra âm

×