Khóa luận tốt nghiệp
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
********************
NGÔ THỊ PHƢƠNG CHÚC
ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN NHÀN
(NGUYỄN BỈNH KHIÊM) GẮN LIỀN
VỚI ĐỜI SỐNG THỰC TIỄN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Ngữ văn
HÀ NỘI - 2014
Khóa luận tốt nghiệp
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
********************
NGÔ THỊ PHƢƠNG CHÚC
ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN NHÀN
(NGUYỄN BỈNH KHIÊM) GẮN LIỀN
VỚI ĐỜI SỐNG THỰC TIỄN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Ngữ văn
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
Th.S NGUYỄN THỊ MAI HƢƠNG
HÀ NỘI - 2014
Khóa luận tốt nghiệp
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả các Thầy Cô giáo
trong khoa Ngữ Văn – Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 và đặc biệt là các
thầy cô trong tổ phương pháp dạy học Ngữ Văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc của mình tới cô giáo – Thạc sỹ Nguyễn
Thị Mai Hương, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình tôi hoàn thành
khóa luận này.
Mặc dù đã có cố gắng tìm tòi nhất định, song chắc chắn trong quá
trình hoàn thành khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong
nhận được ý kiến đóng góp của thấy cô và tất cả các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2014
Sinh Viên
Ngô Thị Phƣơng Chúc
Khóa luận tốt nghiệp
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi,
dưới sự hướng dẫn và giúp đỡ của Thạc sĩ Nguyễn Thị Mai Hương, chưa từng
được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào. Nếu có gì sai sót, tôi xin
chịu hoàn toàn trách nhiệm theo đúng quy định của việc nghiên cứu khoa học.
Hà Nội, tháng 05 năm 2014
Sinh Viên
Ngô Thị Phƣơng Chúc
Khóa luận tốt nghiệp
DANH MỤC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
STT
Kí hiệu
Ý nghĩa
1
GS
Giáo sƣ
2
GV
Giáo viên
3
HS
Học sinh
4
NXBGD
Nhà xuất bản giáo dục
5
THPT
Trung học phổ thông
6
SGK
Sách giáo khoa
Khóa luận tốt nghiệp
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài . 1
2. Lịch sử vấn đề . 2
3. Mục đích nghiên cứu . 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu . 4
5. Đối tượng nghiên cứu . 4
6. Phạm vi nghiên cứu . 4
7. Phương pháp nghiên cứu . 4
8. Dự kiến đóng góp . 5
9. Bố cục của khóa luận . 5
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 6
1.1. Cơ sở lý luận . 6
1.1.1. Khái niệm văn học trung đại………………………………………… . . 8
1.1.2. Khái niệm thơ trữ tình…………………………………………………. 8
1.1.3. Khái niệm thơ trữ tình trung đại Việt Nam… . 8
1.1.4. Đặc trưng của thơ ca trung đại……………………………………… 10
1.2. Cơ sở thực tiễn 13
1.2.1. Thực trạng tiếp nhận văn bản trữ tình ở trường THPT hiện nay 14
1.2.2. Đọc hiểu văn bản thơ trung đại gắn với đời sống 16
CHƢƠNG 2. CÁC BIỆN PHÁP DẠY HỌC ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
“NHÀN” CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM GẮN LIỀN VỚI ĐỜI SỐNG
THỰC TIỄN 18
2.1. Các biện pháp chung……………………………………………… . . 18
2.1.1. Đọc tiếp cận văn bản “Nhàn” (Nguyễn Bỉnh Khiêm) 18
Khóa luận tốt nghiệp
2.1.2. Tái hiện hình tượng nhân vật. 23
2.1.3. Phân tích, cắt nghĩa văn bản “Nhàn” 23
2.1.4. Đánh giá cảm xúc của nhân vật trữ tình 25
2.2. Biện pháp dạy học văn bản “Nhàn” (Nguyễn Bỉnh Khiêm) gắn liền
với đời sống thực tiễn. 25
2.2.1. Định hướng dạy học văn bản “Nhàn” (Nguyễn Bỉnh Khiêm) trong
trường THPT gắn với đời sống thực tiễn. 25
2.2.2. Quan niệm nhân sinh mới mẻ trong văn bản “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh
Khiêm. 39
CHƢƠNG 3. GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM 42
KẾT LUẬN 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Khóa luận tốt nghiệp
Ngô Thị Phương Chúc 1 K36B – SP Ngữ văn
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Môn Ngữ văn có vai trò đặc biệt quan trọng trong nhà trường nó giữ
vai trò là bộ môn học chính. Vì vậy, vấn đề giảng dạy Ngữ văn trong nhà
trường THPT cũng cần được chú ý quan tâm. Bởi văn học là tri thức đời sống.
Học văn là học cách cảm nhận cuộc sống. Tiếp nhận vốn tri thức văn học là tiếp
nhận vốn tri thức có khả năng đem lại cho con người vốn hiểu biết sâu rộng.
Tuy nhiên vấn đề dạy và học Ngữ văn trong nhà trường THPT hiện nay
chưa đáp ứng được nhu cầu trên. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới hậu quả đó:
trước hết do một bộ phận không nhỏ học sinh chưa thực sự hứng thú với môn
văn, chưa tìm được lợi ích trong việc học văn. Tiếp đó là một số giáo viên
chưa tâm huyết với bài giảng của mình, còn hời hợt trong việc dạy – dạy cho
xong tiết. Hơn nữa trong thực trạng xã hội hiện nay có nhiều khối thi, ngành
nghề cho học sinh lựa chọn, các em thường thiên về những môn thuộc khoa
học tự nhiên hơn là những môn thuộc hoa học xã hội nên dẫn tới việc sao
nhãng với các môn khoa học xã hội trong đó có bộ môn Ngữ văn. Văn
chương trong nhà trường thường quá xa dời đời sống thực tiễn, nặng kiến
thức giáo điều. Chính vì vậy dẫn tới một cách học ăn sâu vào tiềm thức học
sinh là cách học đối phó, thiếu kiến thức thực tế.
Đối với việc đọc hiểu văn bản văn học trung đại (TK X – XIX) thuộc
thể loại thơ trữ tình trung đại. Do có khoảng cách về mặt thời gian, về tư duy
nghệ thuật, về cách tiếp cận nên việc dạy và học tương đối khó.
Trước thực tế khó khăn trong việc dạy và học tác phẩm trữ tình phần văn học
Việt Nam trung đại chúng tôi lựa chọn đề tài: Đọc - hiểu văn bản Nhàn
(Nguyễn Bỉnh Khiêm) gắn liền với đời sống thực tiễn, với hi vọng đổi mới
phương pháp tiếp cận văn bản trữ tình trung đại ở trường THPT giúp giờ học
Ngữ văn hấp dẫn và có ý nghĩa hơn.
Khóa luận tốt nghiệp
Ngô Thị Phương Chúc 2 K36B – SP Ngữ văn
2. Lịch sử vấn đề
Văn học trung đại Việt Nam từ TKX - XIX là một trong những giai
đoạn hình thành và phát triển rực rỡ của văn học Việt Nam. Trong chương
trình THPT văn học trung đại Việt Nam được đưa vào giảng dậy và chiếm
một phần không nhỏ. Vì vậy việc dạy và học thơ trữ tình trung đại Việt Nam
sao cho hiệu quả là mục tiêu hầu hết của các giáo viên.
Bàn về phương pháp dạy học và dạy học văn có từ rất sớm, xuất phát
đầu tiên ở các nước phương Tây. Xuất hiện với một số cuốn sách như:
Phương pháp dạy luận học văn của IA.REZ: Trình bày phương pháp
học một cách rất cụ thể. Nhấn mạnh vai trò đọc sáng tạo coi đó là phương
pháp đặc thù nhằm phát triển năng lực cảm thụ của học sinh. Cảm thụ văn học
trên phương diện nghệ thuật thông qua đọc - hiểu.
Phương pháp dạy học văn ở trường THPT của V.A. Nhiconxki (Ngọc
Toàn và Bùi Lê dịch) có vị trí và vai trò chủ đạo đối với người học trong nhà
trường và hoạt động đọc diễn cảm trong quá trình tiếp nhận.
Ở Việt Nam những năm 80, những cuốn sách bàn về đọc văn và học
văn: Cảm thụ văn học giảng dạy văn học, GS Phan Trọng Luận: Tầm quan
trọng của việc đọc, đọc từng câu, từng chữ không thể nhảy cóc. Đọc không
chỉ dừng lại ở việc quan sát bề mặt câu chữ mà phải thấy được bề sâu tầng ý
nghĩa mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm: Văn học và nhân cách, GS
Nguyễn Thanh Hùng cũng nhấn mạnh tới sự phát triển của quá trình đọc được
hoạt động liên tưởng, tưởng tượng và giới thiệu nghệ thuật.
Theo giáo sư Nguyễn Sĩ Cần, dạy học thơ cổ phải xuất phát từ kết cấu,
xuất phát từ ngôn ngữ thơ Đường và phải xuất phát từ đặc điểm tổng hợp
trong thơ cổ. Trong hướng xuất phát từ kết cấu, tác giả cho rằng: “Với thơ
Đường luật nên áp dụng theo phương pháp bổ ngang dựa theo kết cấu bài thơ
mà phân tích. Theo hướng xuất phát từ ngôn ngữ thơ Đường tác giả chỉ rõ:
Khóa luận tốt nghiệp
Ngô Thị Phương Chúc 3 K36B – SP Ngữ văn
thơ xưa hàm xúc nên việc nghiên cứu, giảng dạy cần coi trọng khai thác từng
tiếng, từng từ.
Tác giả Phan Trọng Luận và Hoàng Hữu Bội cho rằng: muốn hiểu thơ
cổ trước tiên phải hiểu nghĩa của từ cổ. Theo các tác giả để lĩnh hội nghĩa của
ngôn từ thơ cổ, người học cần phải chú ý tới các vấn đề: phải tích lũy cho mình
vốn từ phong phú, đa dạng, có tri thức về những cách dùng từ trong thơ cổ.
Trong bài viết “Dạy đọc hiểu là nền tảng văn hóa cho ngưới đọc” tác
giả chỉ ra đọc hiểu sẽ giúp hình thành và củng cố, phát triển năng lực, nắm
vững và sử dụng Tiếng Việt thành thạo. Từ bình diện văn hóa ấy bài viết xác
định: Đọc là hoạt động văn hóa có ý nghĩa cơ bản cho sự phát triển nhân cách.
Tất cả các nghiên cứu văn chương cho rằng đọc là hoạt động tiếp nhận
đầu tiên của nghiên cứu văn chương. Các ngành nghiên cứu đã nhấn mạnh
vai trò của đọc - hiểu và giảng dạy văn bản trữ tình trung đại trong nhà trường
THPT. Dựa vào nghiên cứu trên trong khóa luận này chúng tôi tiến hành tổ
chức: Đọc - hiểu văn bản Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm) gắn liền với đời
sống thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi nhằm mục đích:
Xác lập các hoạt động dạy, các bước dạy văn bản “Nhàn” (Nguyễn
Bỉnh Khiêm) theo hướng đọc - hiểu.
Làm rõ các vấn đề xoay quanh dạy văn gắn với đời sống thực tiễn.
Khóa luận này đi nghiên cứu đặc điểm thể loại thơ trữ tình trung đại góp phần
xây dựng quy trình dạy văn gắn với đời sống.
Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học thể loại thơ trung đại ở
trường THPT theo dạy văn là dạy học sinh biết cách làm người – con người
không chỉ có tri thức mà còn có khả năng thích ứng cao, biết giao tiếp ứng xử
trong đời sống.
Khóa luận tốt nghiệp
Ngô Thị Phương Chúc 4 K36B – SP Ngữ văn
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận thực hiện những nhiệm vụ sau:
Tìm hiểu cơ sở của dạy văn gắn với đời sống và quy trình dạy học đọc -
hiểu văn bản thơ trung đại ở trường THPT gắn với đời sống thực tiễn.
Vận dụng những hiểu biết trên để đọc – hiểu văn bản “Nhàn” của
Nguyễn Bỉnh Khiêm (SGK Ngữ văn 10 tập 1 Nxb GD) trong trường THPT
gắn liền với đời sống thực tiễn.
5. Đối tƣợng nghiên cứu
Chúng tôi tập trung nghiên cứu:
Phương pháp dạy học Ngữ văn
Lý thuyết đọc – hiểu, đọc – hiểu gắn với đời sống thực tiễn.
Vận dụng và hướng dẫn học sinh biết đọc – hiểu văn bản “Nhàn” của
Nguyễn Bỉnh Khiêm (SGK Ngữ văn lớp 10 tập 1 Nxb Gd) trong nhà trường
THPT gắn với đời sống thực tiễn.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi các đặc trưng chung của thể loại thơ
trung đại mà cụ thể là thơ trữ tình trung đại. Đặc biệt đi sâu vào hoạt động
hướng dẫn đọc - hiểu văn bản Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm) trong tường THPT
gắn liền với đời sống thực tiễn.
Do năng lực có hạn, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu thực nghiệm ở
một văn bản, nếu có điều kiện chúng tôi sẽ mở rộng phạm vi nghiên cứu ở đề
tài sau.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp lý thuyết: Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp
so sánh đối chiếu.
Khóa luận tốt nghiệp
Ngô Thị Phương Chúc 5 K36B – SP Ngữ văn
Phương pháp thực nghiệm: Vận dụng lý thuyết đọc – hiểu vào thiết kế
bài giảng văn bản Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm (SGK Ngữ văn lớp 10 tập 1)
trong trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn.
8. Dự kiến đóng góp
Định hướng việc dạy thơ trung đại trong nhà trường THPT gắn liền với
đời sống thực tiễn.
Chúng tôi mong muốn góp một phần nhỏ vào việc đổi mới phương
pháp dạy học. Đồng thời bản thân có dịp nâng cao kiến thức, trau dồi kinh
nghiệm, phục vụ sự nghiệp trong tương lai.
Bên cạnh đó khóa luận góp phần hình thành và phát triển khả năng tìm
tòi nghiên cứu khoa học của người viết.
9. Bố cục của khóa luận
Khóa luận gồm 4 phần:
Mở đầu
Nội dung
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Khóa luận tốt nghiệp
Ngô Thị Phương Chúc 6 K36B – SP Ngữ văn
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
Trong thời đại cơ sở thông tin bùng nổ như hiện nay, con người có rất
nhiều cách để tiếp cận một tác phẩm văn học. Trong đó đọc - hiểu là một
phương pháp đặc trưng giúp bạn chiếm lĩnh một tác phẩm văn học. Bởi văn
chương là nghệ thuật ngôn từ. Vì vậy để tiếp cận một tác phẩm văn học thì
không có cách nào khác là đọc - hiểu.
Theo SGK Ngữ văn nâng cao lớp 10: Đọc là “hoạt động nắm bắt ý
nghĩa trong các kí hiệu của văn bản, khác với nghe là hoạt động nắm bắt ý
nghĩa từ tín hiệu âm thanh”. Đọc ở đây đòi hỏi hiểu sâu nội dung từ ngữ, tình
cảm, cái đẹp của văn bản và có thể sử dụng văn bản đó vào đời sống cá nhân
và xã hội.
Hiểu và nắm bắt được thông tin và ý nghĩa của văn bản, giải thích, biểu
đạt được cái hay và ý tưởng của văn bản. Hiểu là ngộ ra, nhận ra những chân
lý đời sống, những triết lý nhân sinh được gửi gắm vào trong văn bản. Đồng
thời cũng có thể là sự bổ sung, tiếp thêm cho văn bản những giá trị, ý nghĩa mới.
Theo giáo sư Nguyễn Thanh Hùng: đọc - hiểu là đọc được cái chủ quan
của người viết bằng cách đồng hóa tâm hồn, tình cảm, suy nghĩ của mình vào
trang sách. Đọc - hiểu không chỉ tái tạo âm thanh, từ và chữ viết mà còn là
quá trình thấm nhuần tín hiệu nghệ thuật chưa mã hóa đồng thời với việc huy
động vốn sống, kinh nghiệm cá nhân người đọc để lựa chọn giá trị tư tưởng
thẩm mỹ và ý nghĩa vốn có của văn chương. Đọc - hiểu là đón đầu những gì
đang đọc qua từng từ, từng câu, từng đoạn rồi quay về những gì đã đọc để
kiểm chứng và đi tìm sự hợp sức của tác giả để tác phẩm được tái tạo trong
tính cụ thể và giàu tưởng tượng.
Khóa luận tốt nghiệp
Ngô Thị Phương Chúc 7 K36B – SP Ngữ văn
Sách giáo viên Ngữ Văn 6 là cuốn sách đầu tiên nêu lên khái niệm đọc
hiểu. Về phương pháp đọc hiểu cách làm chủ yếu vẫn là bằng hình thức nêu
câu hỏi hướng dẫn nhưng nhấn mạnh phương châm đề cao công việc hoạt
động của học sinh, nhằm tìm hiểu văn bản theo 3 hướng sau: đọc - hiểu, suy
nghĩ - vận dụng, liên tưởng - tích lũy của phương pháp dạy học hiện đại.
Từ những ý kiến và hiểu biết trên, chúng tôi đi đến xác lập khái niệm
về phương pháp đọc - hiểu trên tinh thần tham khảo và học hỏi:
Theo nghĩa rộng, đọc - hiểu là thuật ngữ chỉ chung cho phương thức và
mục đích của việc lĩnh hội tri thức và nắm bắt thông tin. Đó là hoạt động nhận
thức nói chung thông qua con đường giải mã văn bản ngôn từ.
Theo nghĩa hẹp, đọc - hiểu là hoạt động thưởng thức nghệ thuật ngôn
từ, hưởng thụ thẩm mỹ của con người. Nó bao gồm nhiều hành động thể chất
và thao tác tư duy (tưởng tượng, liên tưởng, phán đoán…) để đi đến đích là
cảm hiểu và thể nghiệm được nội dung, ý nghĩa của văn bản.
Như vậy đọc - hiểu không đơn giản là một kỹ năng như nhiều người đã
quan niệm mà nó chính là một con đường nhằm thu nhận kiến thức. Đọc –
hiểu là một thuật ngữ có hai phạm trù khác nhau là “đọc và hiểu” nhưng lại có
mối liên hệ mật thiết, gắn bó liên kết với nhau trong quá trình lĩnh hội, tiếp
nhận tác phẩm văn học. Nói cách khác đọc nhằm mục đích hiểu để làm giàu
vốn tri thức, vốn sống vốn văn hóa, hoàn thiện tâm lý và nhân cách cho bản
thân ngày càng tốt hơn. Đọc để hiểu các kỹ năng, phương pháp làm việc khoa
học sáng tạo, đạt hiệu quả trong công việc của bản thân.
Để đọc – hiểu một văn bản văn học cần trải qua năm bước:
Bước 1: Tạo tâm thế tiếp nhận văn bản văn học cho học sinh
Bước 2: Tri giác ngôn ngữ nghệ thuật hay chính là giúp học sinh đọc
hiểu khái quát văn bản.
Bước 3: Tái hiện hình tượng văn học.
Khóa luận tốt nghiệp
Ngô Thị Phương Chúc 8 K36B – SP Ngữ văn
Bước 4: Phân tích cắt nghĩa, khái quát hóa ý nghĩa nghệ thuật bằng
phương pháp đàm thoại diễn giảng…
Bước 5: Đánh giá và liên hệ thực tiễn.
1.1.1. Khái niệm văn học trung đại
Thể loại văn học là dạng thức của tác phẩm văn học được hình thành và
phát triển tương đối ổn định trong quá trình phát triển của lịch sử văn học thể
hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tổ phẩm, về các loại đặc điểm của
hình tượng đời sống và tính chất mối quan hệ giữa nhà văn và các hiện tượng
đời sống ấy.
Mỗi thể loại văn học lại có đặc điểm riêng về nội dung và hình thức
nhằm đáp ứng và phản ánh phù hợp với hiện tượng đời sống, quan điểm, tư
tưởng mà nhà văn muốn gửi gắm, phản ánh. Chính vì thế sự phân chia thể loại
là điều không thể thiếu. Nhìn chung cho đến nay còn nhiều sự tranh luận xung
quanh vấn đề phân chia thể loại nhưng với giới hạn của đề tài về vấn đề dạy
dạy học đọc hiểu theo đặc trưng thể loại gắn liền với đời sống thực tiễn nên
bài viết này chỉ đi sâu vào thể loại trữ tình mà cụ thể là thể loại trữ tình trung đại.
Đây là một khái niệm mà các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam dùng
để chỉ dòng văn học viết của Việt Nam bắt đầu từ TK X kéo dài đến hết TK
XIX. Dòng văn học này tồn tại và phát triển trong khuôn khổ xã hội phong
kiến có nền văn hóa riêng, hệ tư tưởng mĩ học riêng, do đó về hình thức cũng
có hệ thống thi pháp riêng, những quy luật vận động và kết tinh riêng.
1.1.2. Khái niệm thơ trữ tình
Thơ trữ tình là: “thuật ngữ chỉ chung các thể thơ thuộc loại trữ tình
trong đó có những cảm xúc và suy tư của nhà thơ hoặc của nhân vật trữ tình
trước các hiện tượng đời sống được thể hiện một cách trực tiếp. Tính chất cá
thể hóa của cảm nghĩ và tính chất chủ quan hóa của sự thể hiện là những dấu
hiệu tiêu biểu của thơ trữ tình. Là tiếng hát của tâm hồn, thơ trữ tình có khả
Khóa luận tốt nghiệp
Ngô Thị Phương Chúc 9 K36B – SP Ngữ văn
năng thể hiện những biểu hiện phức tạp của thế giới nội tâm, từ các cung bậc
của tình cảm cho tới những chính kiến, những tư tưởng triết học. Thuật ngữ
thơ trữ tình được sử dụng nhằm phân biệt với thơ tự sự thuộc loại tự sự. Tùy
theo truyền thống văn học cụ thể người ta có thể phân loại thơ trữ tình theo
nhiều cách khác nhau”.
1.1.3. Khái niệm thơ trữ tình trung đại Việt Nam
Theo giáo sư Trần Đình Sử: Xét về tên gọi trong quá khứ các nhà thơ
trung đại Việt Nam chưa bao giờ gọi thơ mình là thơ trữ tình. Trữ tình là một
khái niệm hiện đại, mặc dù trong cửu chương của Khuất Nguyên có thể tìm
thấy hai chữ trữ tình song nó chưa trở thành thuật ngữ trong thời trung đại.
Phần lớn làm thơ trong các dịp tiễn tặng, họa thơ người khác, đề thơ kỉ niệm,
tức cảnh tức sự, thư sự tức là làm thơ theo sự đòi hỏi, khêu gợi của ngoại
cảnh. Khi muốn tự bộc lộ nỗi lòng thì họ gọi là “ngôn hoài, thuật hoài, ngôn
chí, tự thuật, mạn thuật, trần tình. Những tên gọi này rất đúng chủ ý. “Chí”,
“tình”, “hoài”, “sự”, “cảnh” là nội dung trữ tình còn “thuật”, “ngôn”, “tự”,
“trần” là cách trữ tình, thuật là kể, tự cũng là kể, ngôn là nói ra, là tuyên bố
cho mọi người biết, “trần” là bày tỏ. Có thể xem đó là những dấu hiệu đặc
trưng của ý thức trữ tình truyền thống: trữ tình bằng cách thuật kể nỗi lòng
mình, cảm xúc chí hướng của mình. Tác giả chỉ rõ trong tập giảng văn chinh
phụ ngâm ông Đặng Thai Mai có nhận xét sâu sắc về lối thơ tự tình của khúc
ngâm này đối lập tự tình với trữ tình, và trữ tình cũng đối lập với tự sự, bởi nó
là một cách thức trữ tình trung đại phương Đông. Thậm chí ông còn gọi đó là
văn chương tự tình. Khái niệm đó rất đúng và có thể áp dụng cho toàn bộ thơ
trữ tình trung đại việt Nam.
Từ quan niệm của giáo sư Trần Đình Sử và vận dụng khái niệm đã nêu
ở trên chúng ta có thể hiểu khái niệm thơ trữ tình trung đại như sau: Là loại
thơ do các nhà thơ trung đại Việt Nam sáng tác để biểu thị những cảm xúc
Khóa luận tốt nghiệp
Ngô Thị Phương Chúc 10 K36B – SP Ngữ văn
suy tư, tư tưởng tình cảm của họ hoặc của nhân vật trữ tình trước hiện tượng
đời sống được thể hiện một cách trực tiếp.
1.1.4. Đặc trung của thơ ca trung đại
1.1.4.1. Thơ ca trung đại mang tính quy phạm
Tính quy phạm được thể hiện cả ở nội dung và hình thức. Tài nghệ của
nhà thơ chủ yếu được đong đếm ở kỹ thuật đúc chữ, luyện câu, điểm nhãn sao
cho cân xứng hài hòa. Nếu chưa làm được diều đó nghĩa là chưa “cao tay”.
Việc làm thơ vì thế nhiều khi trở thành “trò chơi” kĩ thuật mặc dù ai cũng
thừa nhận gốc của thơ là tình.
Nhìn một cách tổng quát tính quy phạm trong thơ ca trung đại được thể
hiên ở các phương diện cơ bản sau:
Về quan niệm: Văn học trung đại đề cao mục đích giáo huấn, tôn thờ tư
tưởng trung quân ái quốc.
Về tư duy nghệ thuật: Ưa tìm đến những khuôn mẫu nghệ thuật được
coi là “vàng ngọc”.
Về thể loại: Chủ trương niêm luật chặt chẽ, đúng quy cách.
Về mặt ngôn ngữ: Ưa tìm đến cách nói trang nhã, ưa dùng điển cố,
điển tích…
Rõ ràng những đặc trưng trên đây cho thấy quan niệm nghệ thuật của
thời trung đại đã vươn đến độ hoàn chỉnh. “Trọng tâm của văn chương trung
đại đặt ở nghệ thuật ngôn từ. Đỗ Phủ từng nói: “Chữ dùng chưa kinh động
lòng người thì chết chưa yên”. Mỗi bài thơ xuất sắc theo họ phải có nhãn tự,
thần cú.
1.1.4.2 Kiểu nhà thơ trung đại
Nhìn một cách tổng quát kiểu nhà thơ trung đại là nhà thơ “ngôn chí”.
Nhà thơ trung đại Việt Nam thuộc mô hình kiểu nhà thơ trung đại Trung Hoa.
Đó là kiểu nhà thơ “tâm vật cảm ứng”. Trong kiểu tác giả này, việc “ngôn
Khóa luận tốt nghiệp
Ngô Thị Phương Chúc 11 K36B – SP Ngữ văn
chí”, tỏ lòng được đặt lên hàng đầu. Các nhà thơ trung đại, mặc dù nhấn mạnh
phải “chú trọng ở quy cách” nhưng họ cũng hiểu rằng gốc của thơ là ở “tính
tình” (ý của Cao Bá Quát). Nhưng kiểu ngôn chỉ tỏ lòng trong thơ trung đại
khác với sự thành thực trong thơ hiện đại.
Tìm hiểu kiểu nhà thơ trung đại Việt Nam thiết tưởng phải chú ý đến
hai loại hình thơ ca: thơ của các nho sĩ và thơ của các chân tu, tăng lữ. Thơ
thiền là thơ tìm đến thế giới siêu nhiệm trong thế giới kinh nghiệm. Thơ thiền
thể hiện sự “đốn ngộ”, giây phút lóe sáng nào đó khi đạt tới tự do tuyệt đối,
thoát khỏi vòng mê muội.
Về loại hình các thơ nho, có ba loại: nhà nho hành đạo, nhàn lạc đạo và
nhà nho tài tử.
1.1.4.3. Chủ thể trữ tình trong thơ trung đại
Các nhà thơ trung đại đã thực hiện những cuộc giao tiếp “gián cách” vì
thế chủ thể trữ tình thường ẩn kín. Sự kín đáo ấy gắn liền với nguyên tắc xây
dựng hình tượng con người trong thơ trung đại.
Con người trong thơ trung đại là con người siêu cá thể chứ không phải
con người phi ngã. Thời nào, văn thơ nào (trừ văn chương tôn giáo thuần túy)
cũng nói về ngã. Tuy nhiên so với thơ trung đại, yếu tố ngã trong thơ hiện đại
đậm nét hơn. Với các nhà thơ trung đại cái tôi càng ẩn kín, thơ càng hàm súc
gợi mở.
Con người trong thơ trung đại là con người vũ trụ. Điều này xuất phát
từ quan niệm triết học phương Đông: “thiên nhiên hợp nhất”, “thiên nhân
tương dữ”, “nhân thân tiểu vũ trụ”. Con người tồn tại như một phần của vụ
trụ, đứng giữa đất trời, xung quanh là càn, khôn, nhật, nguyệt; bốn bề là tùng,
cúc, trúc, mai Giữa con người và vũ trụ có mối quan hệ gắn bó, cảm ứng lẫn
nhau. Chính vì thế tiếng thơ trung đại như tiếng nói “giữa trời”.
Khóa luận tốt nghiệp
Ngô Thị Phương Chúc 12 K36B – SP Ngữ văn
Con người trong thơ trung đại thường thiên về bày tỏ quan điểm lập
trường, hoài bão chí hướng đặc biệt là câu kết.
1.1.4.4. Ngôn ngữ thơ trung đại
Là hình thức của tác phẩm văn học, lời thơ cũng như lời của tác phẩm
tự sự và kịch đều mang tính gợi cảm, hàm xúc. Nhưng ngôn ngữ trong thơ
trung đại có những đặc điểm thể hiện theo cách riêng.
Ngôn ngữ văn học trung đại là ngôn ngữ đậm chất ước lệ. Nó hướng tới
bộc lộ những vẻ đẹp cao nhã. Ngôn ngữ trang trọng, mực thước, được coi là
“chuẩn” của văn học thời đại này. Màu sắc Hán và điển tích, điển cố rất đậm nét.
Nói về ngôn ngữ thơ ca trung đại, Phan Ngọc đã đề xuất một ý kiến
đáng quan tâm: “chữ” trong thơ trung đại là chữ “đúc” (khác với chữ “nước”
trong các loại hình thơ; tự do hơn). Thơ trung đại đề cao tình hàm xúc (ý tại
ngôn ngoại). Thật ra thơ ca thời đại nào cũng cần đạt tới tính hàm súc cao độ
nhưng trong thơ ca trung đại để tạo được một “nhãn tự”, người ta phải đặt nó
trong một khuôn hình đã trở thành quy tắc, điển phạm. Như vậy trọng tâm của
thơ ca trung đại là “chữ” chứ chưa phải là lời nói với ý nghĩa đầy đủ nhất của
thơ theo cái nhìn của thi pháp học. Lời thơ trong thơ trung đại không nhấn
mạnh chủ ngữ, ít có dấu giọng, ngữ điệu lời nói rất hiếm khi xuất hiện.
Việc khảo sát ngôn ngữ thơ ca trung đại cho thấy ngôn ngữ văn học
thời đại này thiên về bộc lộ ý tưởng hơn là bộc lộ cảm xúc trực tiếp của chủ
thể trữ tình.
Vì đặt trung tâm là nghệ thuật ngôn từ, coi phép làm thơ chủ yếu là
cách “luyện chữ”, tạo chữ đắt, chữ khéo, chữ thần nên mục đích của các nhà
thơ trung đại là phải tạo đươc “lời văn óng ả, câu văn mượt mà” để diễn đạt
tình ý (ý của Ngô Thì Nhậm). Nghệ thuật từ chương đã khiến ngôn ngữ trung
đại đậm chất trang trí. Dĩ nhiên tính chất trang trí phải được hiểu như là một
Khóa luận tốt nghiệp
Ngô Thị Phương Chúc 13 K36B – SP Ngữ văn
nguyên tắc thi học của thơ ca trung đại chứ không phải sự màu mè, lòe loẹt về
hình thức thuần túy.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Văn học luôn là người thư kí trung thành của thời đại, thời đại xã hội
như thế nào sẽ được thể hiện trong tác phẩm như vậy.Vì thế dạy đọc – hiểu
văn bản văn học trong nhà trường THPT cần gắn liền với đời sống thực tiễn là
một vấn đề không thể thiếu trong xã hội ngày nay nhằm tạo ra những con
người có khả năng tích cực, thích nghi với cuộc sống, giải quyết được những
vấn đề thiết thực của cuộc sống bản thân và con người.
Tác phẩm văn học ra đời là để con người thỏa mạn nhu cầu cao đẹp và
giàu có vô hạn của chính mình, vậy nên văn chương không thể nếu không
muốn nói là không được phép ngoảnh mặt lại với con người và xã hội. Vấn đề
duy nhất đặt ra là cần phải đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội bằng chính
đặc trưng của văn chương. Cần phải gắn văn chương với đời sống thực tiễn
“Văn học là nghệ thuật, là công cụ để hểu biết, để khám phá, để sáng tạo thực
tại xã hội”.
Trong giáo dục cũng vậy, tất cả các môn học trong nhà trường đều phải
gắn việc dạy và học với đời sống xã hội. Thừa nhận ý nghĩa đào tạo to lớn của
nguyên tắc dạy học Văn gắn liền với đời sống là điều không phải bàn cãi
nhưng để thống nhất một cách hiểu thấu đáo về bản chất và đặc điểm mối
quan hệ giữa văn chương và đời sống thật không dễ dàng. Đã biết sức mạnh
của môn văn trước hết tồn tại bản chất người trong từng tác phẩm. Văn
chương là tập hợp hội tụ của người với sự độc đáo và phong phú của hình
tượng nghệ thuật. Nhờ quy luật tình cảm diễn ra trong khi đọc “con người
được soi mình và nhận ra bản thân mình (Socrates). Như vậy học văn - đọc
văn là phương tiện giao lưu xã hội để phát triển và tự hoàn thiện bản thân
mình. Sức mạnh riêng của môn Văn được nhân lên gấp nhiều lần trong nhà
Khóa luận tốt nghiệp
Ngô Thị Phương Chúc 14 K36B – SP Ngữ văn
trường với tư cách là một môn học cơ bản. Những tác phẩm được lựa chọn
đưa vào trong nhà trường có một giá trị tiêu biểu “quý hồ tinh bất quý hồ đa”.
Nội dung đã được sàng lọc, xác định qua thời gian nên mang tính thời sự và
có giá trị thực tiễn.
Từ trước tới nay, môn Ngữ văn được coi là đặc thù với nhiều chức
năng vừa rèn luyện về ngôn ngữ, vừa rèn luyện về tư duy hình tượng cũng
như khả năng sáng tạo của học sinh, vừa rèn luyện năng lực cảm thụ cái đẹp
của văn chương lại vừa có nhiệm vụ giáo dục nhân cách và đạo đức. Mục
đích cuối cùng của việc dạy văn trong nhà trường là đào tạo ra những con
người có khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, có kỹ năng đọc, khả năng viết,
khả năng đáp ứng nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên do những nguyên chủ quan
mà kết quả việc dạy và học Ngữ văn trong nhà trường (các cấp) hiện nay chưa
đáp ứng được yêu cầu trên.
Theo điều tra của nhiều chương trình nghiên cứu day và học văn hiện
nay, kết quả học tập môn Ngữ văn của học sinh rất đáng báo động. Nhiều học
sinh không biết cách tự viết, không thích đọc và cũng không biết tiếp cận một
văn bản ngoài nhà trường để có thể tự đọc hiểu. Thậm chí nhiều học sinh, sinh
viên ra trường không biết cách viết một lá đơn xin việc, không trình được ý
tưởng một cách mạch lạc. Tức là đã thiếu đi những kĩ năng sống lẽ ra phải
được trang bị qua môn Ngữ văn. Vì vậy việc dạy học Ngữ văn gắn liền với
đời sống thực tiễn là một điều cần thiết.
1.2.1. Thực trạng tiếp nhận văn bản trữ tình ở trường THPT hiện nay
Việc đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông trong
đó có đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn theo tinh thần khoa học hiên đại
đã và đang diễn ra sôi động và thu được kết quả đáng mừng. Việc chúng tôi
lựa chọn đề tài này xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học đã
được quy định tại Luật giáo dục của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Khóa luận tốt nghiệp
Ngô Thị Phương Chúc 15 K36B – SP Ngữ văn
Nam ngày 14/6/2005 ở khoản 2 điều 5: “Phương pháp giáo dục phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho
người học năng lực tự học, lòng say mê học tập, ý chí vươn lên.
Đặc điểm cấu trúc chương trình THPT hiện nay quan tâm tới việc dạy
tác phẩm văn học theo thể loại. Nhiều văn bản mới như văn bản nhật dụng
được đưa vào chương trình. Vì vậy nghiên cứu cảm thụ không chỉ đóng
khung một cách phiến diện vào vấn đề hứng thú mà cần chú ý nhiều hơn về
giá trị thực tiễn (gắn với tâm lý, sinh lý, xã hội, mỹ học…) không thể dạy văn
theo cách tĩnh thiếu mối liên hệ biện chứng giữa văn học và cuộc sống.
Khuynh hướng khoa học ngày nay yêu cầu một cách nghiêm ngặt về khảo
nghiệm thực tiễn.
Trong chương trình Ngữ văn ở THPT hiện nay các văn bản thơ trữ tình
được đưa vào giảng dạy khá nhiều trong đó có thơ trữ tình trung đại. Tuy
nhiên tâm lý phổ biến của đời sống văn học trong nhà trường là tiếp nhận một
cách máy móc khi học các tác phẩm trữ tình. Bởi những đặc trưng riêng của
các tác phẩm trữ tình rất khác rất khác so với các văn bản khác đòi hỏi học
sinh phải có năng lực cảm thụ văn chương mới có thể phân tích, cách nghĩa,
bình giá những chi tiết, hình ảnh trong văn bản. Trong thực tế học sinh không
hứng thú với văn bản trung đại vì chúng khó hiểu, công thức.
Giáo viên với tư cách là người hướng dẫn, tổ chức các hoạt động của
học sinh nhằm giúp học sinh chủ động chiếm lĩnh tri thức. Trong quá trình
dạy đôi lúc còn gặp phải những lúng túng khi truyền đạt kiến thức, cảm xúc
thẩm mỹ. Nguyên nhân một phần là do giáo viên chưa gắn thực tiễn với bài
dạy của mình khiến học sinh cảm thấy khó hiểu và không có hứng thú tiếp
nhận. Tạo ra một khoảng trống không có sự liên hệ giữa học sinh và văn bản
dẫn đến thực trạng học cho xong. Mặc dù trên thực tế văn bản trữ tình viết ở
Khóa luận tốt nghiệp
Ngô Thị Phương Chúc 16 K36B – SP Ngữ văn
thời đại nào cũng tái hiện lại một đời sống, một hiện thực xã hội. Cho nên đây
là một thiếu xót nếu dạy đọc hiểu văn bản không gắn với thực tiễn.
Văn bản “Nhàn” là một văn bản trữ tình trung đại trong chương trình
SGK Ngữ văn lớp 10. Là một trong những thi phẩm nổi tiếng thể hiện rõ triết
lý sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm, là một trong những tác phẩm luôn sống
trong lòng của những người yêu thơ. Nhưng cùng chung số phận với các tác
phẩm thuộc thể loại thơ trữ tình trung đại khác, văn bản “Nhàn” của Nguyễn
Bỉnh Khiêm cũng được học sinh cho thấy hay, thích đôi ba câu thơ lạ nhưng
các em chưa nhận ra giá trị thực tiễn, quan điểm nhân sinh trong bài thơ - điều
làm nên sức sống trường tồn của tác phẩm.
1.2.2. Đọc hiểu văn bản thơ trung đại gắn với đời sống
Như đã nói ở lí do chọn đề tài: văn bản trữ tình trung đại do có khoảng
cách về mặt thời gian, về tư duy nghệ thuật, về cách tiếp cận nên việc dạy và
học tương đối khó, việc tiếp nhận theo hướng “học cho xong”.
Trong khi thực tế văn bản trữ tình mang lại những giá trị nhân sinh
thiết thực mà học sinh chưa khám phá ra. Với vai trò là người tổ chức, hướng
dẫn hoạt động đọc của học sinh giáo viên là chiếc cầu nối giúp cho học sinh
nhận ra và tiếp thu những giá trị của văn bản văn học thông qua phương pháp
đọc hiểu. Đặc biệt với những tác phẩm thơ trung đại, giáo viên có thể hướng
dẫn học sinh tới những giá trị nhân sinh thực tiễn giúp học sinh áp dụng được
vào trong cuộc sống của chính mình. Nếu như giờ dạy đọc hiểu văn bản trữ
tình, giáo viên có thể dẫn dắt học sinh tới những giá trị nhân sinh thực tiễn,
học sinh có thể áp dụng vào đời sống của mình thì chắc chắn giờ học văn sẽ
thu hút được rất nhiều sự chú ý của học sinh và không còn hiện tượng “học
cho xong” những văn bản trữ tình.
Mặc dù biết rằng học văn là giúp các em biết rung cảm với nhịp đập
trái tim con người trước cuộc sống muôn màu, bồi đắp lòng tin yêu con người
Khóa luận tốt nghiệp
Ngô Thị Phương Chúc 17 K36B – SP Ngữ văn
và cuộc sống, biết căm ghét những gì hạ thấp nhân phẩm và ngăn cản sự phát
triển toàn diện của con người. Nhưng nếu không gắn liền với lợi ích thực tiễn
đặc biệt trong xã hội Công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay thì việc dạy đọc -
hiểu văn bản trữ tình trong trương THPT vẫn sẽ trở nên nặng nề, giáo điều,
không đạt được hiệu quả mong muốn.
Trong khuôn khổ một khóa luận tốt nghiệp, chúng tôi đi tìm hiểu văn
bản trữ tình trung đại cụ thể là đọc hiểu bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh
Khiêm (chương trình Ngữ văn lớp 10 tập 1 của NxbGD). Đề tài nghiên cứu:
Đọc - hiểu văn bản Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm) gắn liền với đời sống thực
tiễn với mục đích giúp học sinh thấy được quan niệm nhân sinh mới mẻ.
Đồng thời, với việc nghiên cứu này chúng tôi mong muốn góp một phần nhỏ
vào việc đổi mới dạy học với hy vọng tác phẩm văn học sẽ gần gũi hơn với học
sinh trong trường THPT.
Khóa luận tốt nghiệp
Ngô Thị Phương Chúc 18 K36B – SP Ngữ văn
CHƢƠNG 2
CÁC BIỆN PHÁP DẠY HỌC ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN NHÀN
CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM GẮN LIỀN VỚI
ĐỜI SỐNG THỰC TIỄN
2.1. Các biện pháp chung
2.1.1. Đọc tiếp cận văn bản “Nhàn” (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) húy Văn Đạt, tự Hạnh Phủ, người
làng Trung Am, Vĩnh Lại, Hải Dương, nay thuộc Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Ông
sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng. Cha là Nguyễn Văn
Định, một nhà nho có văn tài, mẹ là con của Thượng thư Nhữ Văn Lan, thông
tuệ và am hiểu lý số từ nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được học kinh truyện, thơ
văn từ cha mẹ, lớn lên lại được bảng nhãn Lương Đắc Bằng tận tình chỉ dạy,
đặc biệt là môn Dịch học và sách Thái ất thần kinh.
Sinh ra trong thời loạn, nên mặc dù học giỏi nhưng Nguyễn Bỉnh
Khiêm không chịu thi cử làm quan, mà nuôi chí ở ẩn. Mãi đến năm 1535,
Nguyễn Bỉnh Khiêm mới ra ứng thí và đỗ Trạng nguyên rồi làm quan với nhà
Mạc. Thấy triều đình lục đục, quan lại chia ra năm bè bảy mối, Nguyễn Bỉnh
Khiêm dâng sớ xin chém lộng thần, không được chấp nhận, bèn thác bệnh,
xin về quê trí sĩ. Sau đó vì muốn tác động đến thời cuộc và cũng phần nào vì
ràng buộc với nhà Mạc. Ông lại ra làm quan trải qua các chức vụ như Tả thị
lang Bộ lại, Thượng thư Bộ lại, Thái phó Trình Truyên hầu rồi Trình quốc
công vì thế nên đời mới gọi ông là Trạng Trình. Đến năm 70 tuổi Nguyễn
Bỉnh Khiêm mới về quê dựng nhà trên sông Tuyết Hàn lấy hiệu là Tuyết
Giang phu tử, lập am Bạch Vân nên có đạo hiệu là Bạch Vân cư sĩ, làm thơ và