Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Danh nhân văn hoá trương hán siêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 67 trang )



TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
=======***=======








PHẠM THANH TƢƠI







DANH NHÂN VĂN HÓA
TRƢƠNG HÁN SIÊU




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Việt Nam học









HÀ NỘI - 2014


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
=======***=======







PHẠM THANH TƢƠI






DANH NHÂN VĂN HÓA
TRƢƠNG HÁN SIÊU






KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Việt Nam học



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Thị Nhàn





HÀ NỘI - 2014

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện khóa luận, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi
đã nhận đƣợc sự giúp đỡ của các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam, khoa
Ngữ văn. Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô, đặc biệt là cô
giáo TS. Nguyễn Thị Nhàn, ngƣời đã trực tiếp, tận tình giúp đỡ tôi trong quá
trình thực hiện và hoàn thiện khóa luận này.

Hà Nội tháng 05 năm 2014
Tác giả khóa luận


Phạm Thanh Tƣơi















LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những nội dung trình bày trong khóa luận là kết quả
nghiên cứu của bản thân tôi dƣới sự hƣớng dẫn của TS. Nguyễn Thị Nhàn.
Những nội dung này không trùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả
khác. Những câu trích trong khóa luận có nội dung chính xác và các tài liệu
có xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội tháng 05 năm 2014
Tác giả khóa luận


Phạm Thanh Tƣơi















MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 4
6. Đóng góp của khóa luận 5
7. Cấu trúc của khóa luận 5
NỘI DUNG 6
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ DANH NHÂN VĂN HÓA 6
1.1. Khái niệm Danh nhân văn hóa 6
1.2. Cơ sở hình thành danh nhân văn hóa ở thành phố Ninh Bình 7
1.2.1. Lịch sử hình thành thành phố Ninh Bình 7
1.2.2. Địa lý tự nhiên 8
1.2.3. Văn hóa - xã hội 12
Chƣơng 2. DANH NHÂN VĂN HÓA TRƢƠNG HÁN SIÊU TRONG ĐỜI
SỐNG VĂN HÓA DÂN TỘC 16
2.1. Vài nét về quê hƣơng của Danh nhân văn hoá Trƣơng Hán Siêu 16
2.2. Dòng họ Trƣơng 18

2.3. Tiểu sử Danh nhân văn hóa Trƣơng Hán Siêu 21
2.3.1. Cuộc đời 21
2.3.2. Thân thế 21
2.3.3. Sự nghiệp 23
2.4. Vị trí của Trƣơng Hán Siêu trong đời sống văn hóa ngƣời Việt 38
2.4.1. Trương Hán Siêu trong nền văn học dân tộc 38

2.4.2 Trương Hán Siêu trong đời sống hiện nay 43
2.5. Tôn thờ Danh nhân văn hóa Trƣơng Hán Siêu 46
2.5.1. Đền thờ Danh nhân văn hóa Trương Hán Siêu 46
2.5.2. Hậu duệ 47
KẾT LUẬN 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH















1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1. Trong quá trình hình thành và phát triển, thành phố Ninh Bình đã lƣu
giữ nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử có giá trị. Đây không chỉ là
những nhân chứng gắn liền với một biến thiên nào đó trong cuộc đời các danh
nhân văn hóa xƣa mà nó còn là nơi sản sinh những lớp trí thức có tài đã đƣợc
nhà nƣớc công nhận là Danh nhân văn hóa. Đó là những con ngƣời góp phần
làm nên lịch sử dân tộc.
2. Trƣơng Hán Siêu là gƣơng mặt tiêu biểu ở thế kỷ XIII. Ông là một tác
giả văn học, một nhà chính trị tài năng, một nhà văn hóa đƣơng thời. Cuộc đời
và sự nghiệp của Trƣơng Hán Siêu xứng đáng đƣợc dân tộc lƣu giữ. Nghiên
cứu về cuộc đời, sự nghiệp của ông là việc nên làm.
3.Tuy nhiên việc thừa nhận và đánh giá công lao to lớn của các danh
nhân này trên phạm vi thành phố Ninh Bình nói chung và Trƣơng Hán Siêu
nói riêng vẫn chƣa đƣợc quan tâm đúng mức, nghiên cứu còn chƣa toàn diện.
Song, với ý thức là một phần của cái nôi văn hóa Bắc Bộ, cũng là một vùng
đất lịch sử, thành phố Ninh Bình nói chung và nhân dân thành phố Ninh Bình
nói riêng đã và đang tích cực giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp
của quê hƣơng, đồng thời noi gƣơng và cố gắng học tập những thành tựu của
cha ông ngày trƣớc, đóng góp cho sự nghiệp làm giàu quê hƣơng, đất nƣớc.
Lớp con cháu hậu thế hôm nay hƣớng về cội nguồn, tìm hiểu về cuộc đời và
sự nghiệp của cha ông là một việc làm hữu ích đầy giá trị trong bối cảnh giao
lƣu văn hóa toàn cầu hiện nay.
Hơn nữa, do bản thân tác giả của luận văn là một ngƣời con của vùng
đất Ninh Bình nên việc tìm hiểu về danh nhân văn hóa của thành phố nói
chung và tìm hiểu danh nhân văn hóa Trƣơng Hán Siêu nói riêng là một việc
làm rất ý nghĩa.
4. Là một sinh viên năm thứ tƣ của ngành Việt Nam học - khoa Ngữ văn,
2
trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2, trong quá trình tìm hiểu để hoàn thiện

khóa luận, ngƣời viết đã rút ra kinh nghiệm quý báu và hữu ích với chặng
đƣờng nghiên cứu sau này.
Với những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài Danh nhân văn hóa Trương
Hán Siêu nhằm bổ sung vào vốn hiểu biết về văn hóa lịch sử của mỗi ngƣời
dân Việt những tri thức cần thiết gắn liền với cuộc đời của danh nhân văn hóa
Trƣơng Hán Siêu. Qua đó, thể hiện đƣợc niềm tự hào về bề dày văn hóa của
quê hƣơng cũng nhƣ thể hiện lòng biết ơn đến các bậc tiền nhân thuở trƣớc.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong sự tiếp cận hạn hẹp về Danh nhân văn hóa Trƣơng Hán Siêu và
những gì liên quan tới ông, xƣa nay chúng tôi thấy có những công trình tiêu
biểu sau:
- Trong Đại Việt sử ký toàn thƣ (1985), Ngô Sĩ Liên đã nhận xét về
Trƣơng Hán Siêu: “Là ông quan văn học vƣợt hẳn mọi ngƣời, tuy cứng cỏi
chính trực, nhƣng lại chơi với kẻ không nên chơi, gả con gái cho kẻ không
nên gả” [11, tr 264].
- Từ điển văn học Việt Nam (1984) của Trần Văn Giáp viết: “Trƣơng Hán
Siêu là một học giả uyên thâm, giàu lòng yêu nƣớc đƣợc các vua Trần tôn
kính nhƣ bậc thầy” [10, tr 495].
- Danh nho Nguyễn Tử Mẫn trong cuốn Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo
biên (2001), viết: “Phúc Thành (Trƣơng Hán Siêu) là Thái Sơn (núi Thái Sơn)
Bắc Đẩu (sao Bắc Đẩu) của rừng Nho (Nho giáo)” [12, tr 39].
- Vũ Phạm Khải trong bài minh văn bia mộ Trƣơng Hán Siêu ghi:
“Tính tình ƣơng ngạnh cƣơng trực bài xích dị đoan kiên cƣờng không
khuất phục, có tài văn chƣơng chính sự, có nhiều công giúp dân. Vua trần
xƣng với ông là thầy. Ông rực rỡ lỗi lạc giữa trời. Tiên sinh là ngƣời có tài
mƣu lƣợc có uy tín cao, dám đến những nơi có nhiều khó khăn. Khi có mặt là
3
mọi việc đều ổn, vỗ yên bờ cõi. Tiên sinh đến biên thùy yên ổn. Tiên sinh đi
bờ cõi kỷ cƣơng thành nếp. Tiên sinh giữ trọng trách cao vời vợi. Nhìn bên tả,
bên hữu: Bắc trấn Lạng Giang, Nam trấn Hồng Hóa (Hóa Châu) đi đến đâu

mọi chuyện đều ổn thỏa ”
- Đại Nam Nhất Thống Chí (2006) do Phạm Trọng Điềm dịch, viết:
“ Ông (Trƣơng Hán Siêu) là ngƣời cứng rắn giỏi văn chƣơng chính sự, vua
thƣờng gọi là thầy mà không gọi tên ” [8, tr 322].
- Trong bài “Bạch Đằng Giang phú và tấm lòng của Trương Hán Siêu
với Đại Việt” của Bùi Ngọc Minh viết nhƣ sau: “Bạch Đằng giang phú của
Trƣơng Hán Siêu là một trong những bài phú chữ Hán nổi tiếng bậc nhất từ
thời Trần còn lại đến nay. Có nhiều vấn đề cần giải mã tác phẩm xuất sắc này,
một trong những vấn đề cốt tử làm nên sức sống lâu dài của nó, có lẽ chính
là nỗi lòng của Trƣơng Thăng Phủ với những vấn đề liên quan đến vận mệnh
của vƣơng triều Trần, sâu xa hơn là vận mệnh của nhân dân, dân tộc, của non
sông đất nƣớc Đại Việt muôn quí ngàn yêu” [18].
Nhƣ vậy, qua việc tìm hiểu một số sách báo và các công trình nghiên cứu
có thể khẳng định rằng: giới nghiên cứu đi trƣớc đã dành sự quan tâm đặc biệt
đến cuộc đời và sự nghiệp của danh nhân văn hóa Trƣơng Hán Siêu. Tuy
nhiên, vẫn chƣa có công trình nghiên cứu nào tìm hiểu và sắp xếp một cách
đầy đủ về toàn bộ cuộc đời của Trƣơng Hán Siêu và công lao đóng góp của
ông cho quê hƣơng đất nƣớc, cũng nhƣ về sự tƣởng nhớ của ngƣời dân Ninh
Bình nói riêng và nhân dân cả nƣớc nói chung dành cho ông.
Kế thừa và tiếp thu kết quả của những tác giả đi trƣớc kết hợp với nguồn
tƣ liệu có đƣợc, đề tài mong muốn thực hiện việc tìm hiểu, nghiên cứu về
danh nhân văn hóa Trƣơng Hán Siêu góp phần giúp thế hệ ngày nay hiểu sâu
sắc hơn về một nhân vật lịch sử và quảng bá hình ảnh, giá trị khu di tích đền
thờ Trƣơng Hán Siêu đến với mọi ngƣời.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
- Khóa luận nghiên cứu về Danh nhân văn hóa Trƣơng Hán Siêu nhằm
cung cấp thêm cho ngƣời đọc một cái nhìn toàn diện và sâu sắc về cuộc
đời, con ngƣời và những đóng góp của Trƣơng Hán Siêu đối với quê hƣơng

đất nƣớc.
- Khoá luận góp phần gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, thể
hiện sự tri ân, tự hào của hậu thế đối với các bậc tiền nhân, những gƣơng mặt
văn hóa lớn của dân tộc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài tìm hiểu là: “Danh nhân văn hóa Trương Hán Siêu”, khoá
luận có nhiệm vụ: tìm hiểu các khái niệm có liên quan đến văn hóa và danh
nhân văn hóa; tìm hiểu danh nhân văn hóa Trƣơng Hán Siêu thông qua việc đi
thực tế ở quê hƣơng của danh nhân; nghiên cứu những tài liệu viết về nhân
vật Trƣơng Hán Siêu. Từ đó tìm hiểu đầy đủ, sâu sắc hơn về nhân vật lịch sử
lỗi lạc của quê hƣơng Ninh Bình, của dân tộc.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu về danh nhân văn hóa Trƣơng Hán Siêu: tiểu sử cuộc đời, đóng
góp của ông đối với quê hƣơng đất nƣớc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu Danh nhân văn hóa Trƣơng Hán Siêu trên các
phƣơng diện cơ bản: cuộc đời, sự nghiệp, những đóng góp và vị trí của
Trƣơng Hán Siêu trong đời sống văn hóa của dân tộc.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng những phƣơng pháp cơ bản sau để giải thực hiện
khóa luận:
- Phƣơng pháp lịch sử
5
- Phƣơng pháp thống kê
- Phƣơng pháp so sánh
- Phƣơng pháp điền dã
6. Đóng góp của khóa luận
Với đề tài Danh nhân văn hóa Trương Hán Siêu, chúng tôi mong muốn
sẽ cung cấp cho ngƣời đọc những kiến thức cần thiết và cơ bản nhất về danh

nhân văn hóa Trƣơng Hán Siêu. Góp phần giữ gìn, phát huy những giá trị lịch
sử và văn hóa của dân tộc.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài những phần cơ bản cần có của một khóa luận gồm phần Mở đầu,
Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục thì phần Nội dung chính của khóa luận
sẽ triển khai theo hƣớng giải quyết những vấn đề đƣợc đặt ra ở đề tài Danh
nhân văn hóa Trương Hán Siêu gồm hai chƣơng sau:
Chƣơng 1. Tổng quan về danh nhân văn hóa
Chƣơng 2. Danh nhân văn hóa Trƣơng Hán Siêu





6
NỘI DUNG
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ DANH NHÂN VĂN HÓA

1.1. Khái niệm Danh nhân văn hóa
Trang wed điện tử Bách khoa toàn thư mở wikipedia nêu định nghĩa về
Danh nhân văn hóa nhƣ sau: Danh nhân văn hóa là những con ngƣời, những
nhân vật nổi tiếng, kiệt xuất, có cống hiến lớn lao cho nền văn hóa dân tộc,
đƣợc lịch sử, dân tộc biết đến, ghi nhận và đánh giá cao; đại diện và biểu
trƣng cho nền văn hóa dân tộc.
Từ điển Tiếng Việt lại đƣa ra định nghĩa nhƣ sau: Danh nhân văn hóa là
những ngƣời nổi tiếng đƣợc mọi ngƣời thừa nhận.
Hai định nghĩa trên vì đƣợc trích dẫn từ những nguồn tài liệu khác nhau
nên câu từ không giống nhau, song tựu chung lại chúng đều có cùng chung
một quan điểm khẳng định: Danh nhân văn hóa là những ngƣời nổi tiếng và
có những đóng góp to lớn cho đất nƣớc mà mọi ngƣời không thể phủ nhận.

Trong khi chiết tự từ “Danh nhân” thì “danh” là danh tiếng, là tiếng tăm;
“nhân” là ngƣời, do đó từ “danh nhân” đã cho ta hiểu thêm về một khía cạnh
mà bản thân nó mang chứa ý nghĩa: là ngƣời có tiếng. Tuy nhiên, khi nghiên
cứu về các danh nhân ta phải hiểu đƣợc rằng không phải bất cứ ai nổi tiếng,
có tiếng tăm đều đƣợc gọi là danh nhân văn hóa, mà danh hiệu này chỉ đƣợc
Nhà nƣớc và nhân dân tôn xƣng khi bản thân con ngƣời đó phải hội tụ đƣợc
cả đức và tài. Với cái tài, họ phải có những tác động làm thay đổi tiến trình
lịch sử - văn hóa của đất nƣớc theo chiều hƣớng tích cực. Với cái đức, họ phải
trở thành những chuẩn mực đƣợc ngƣời muôn đời kính phục.
Nếu ngƣời đó chỉ có đức cao hay tài trọng thì chƣa chắc đã đƣợc suy tôn
Danh nhân văn hóa. Mặc dù biết rằng con ngƣời là bất toàn, là “nhân vô thập
toàn”, cũng nhƣ hòn ngọc còn có vết xƣớc, nhƣng ở mỗi Danh nhân văn hóa
7
thì cái sự không hoàn hảo ấy dƣờng nhƣ bị triệt tiêu đến mức thấp nhất bởi tài
năng và nhân cách của mỗi ngƣời, cũng nhƣ những vết xƣớc trên ngọc sẽ bị
vẻ đẹp và ánh hào quang rực rỡ của nó bị che lấp. Vì vậy, Danh nhân văn hóa
là một danh hiệu cao quý, và đối tƣợng đƣợc suy tôn danh hiệu ấy phải phấn
đấu cả cuộc đời cũng nhƣ phải chấp nhận đem cả cuộc đời của mình ra để xã
hội thẩm định và thừa nhận.
1.2. Cơ sở hình thành danh nhân văn hóa ở thành phố Ninh Bình
1.2.1. Lịch sử hình thành thành phố Ninh Bình
Theo sách Lịch sử Đảng bộ thị xã Ninh Bình (do Ban thƣờng vụ Thị ủy
Ninh Bình biên soạn, xuất bản năm 2000, trang 11) lịch sử Thành phố Ninh
Bình (trƣớc là thị xã Ninh Bình) đƣợc ghi lại nhƣ sau: Từ thế kỉ X trở về
trƣớc thị xã Ninh Bình còn là cửa biển mang tên “Phúc Thành hải khẩu”. Nhờ
phù sa của hệ thống sông ở đồng bằng Bắc Bộ bồi đắp, mảnh đất thị xã Ninh
Bình dần dần đƣợc hình thành. Sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất
nƣớc, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, đặt tên nƣớc là Đại Cồ Việt, xây dựng
kinh đô Hoa Lƣ, miền đất của Ninh Bình gọi là Trƣờng An. Thời Ninh Bình
tiền Lê cũng gọi là Trƣờng An, thời nhà Lý gọi là phủ Trƣờng An. Thời

Nguyễn, năm Gia Long thứ 5 (1806) gọi là Đạo Thanh Bình. Năm Minh
Mạng thứ 10 đổi tên là trấn Ninh Bình. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) đổi là
tỉnh Ninh Bình.
Ngƣợc dòng lịch sử, thị xã Ninh Bình, một địa danh đã có dấu tích
cách đây hàng ngàn năm, nhƣng tên gọi tỉnh Ninh Bình thì ở cách đây gần
200 năm (1831).
Ngày 07 tháng 02 năm 2007 Thủ tƣớng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã
ký Nghị định số 19 - NĐ/CP thành lập thành phố Ninh Bình, trực thuộc tỉnh
Ninh Bình. Đây là một sự kiện đặc biệt quan trọng, là niềm vui và vinh dự to
lớn của Đảng bộ và nhân dân thành phố, đồng thời là niềm vui chung của
Đảng bộ và nhân dân toàn tỉnh.
8
Thành phố Ninh Bình là trung tâm chính trị, kinh tế, xã hội, là trung tâm
quần thể di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh của tỉnh; là địa bàn chiến lƣợc
quan trọng; là địa phƣơng có bề dày lịch sử, giàu truyền thống yêu nƣớc và
cách mạng, với nhiều sự kiện lịch sử rất đáng tự hào.
Từ một thị xã bé nhỏ với diện tích tự nhiên chƣa đầy 3 km², dân số chỉ
trên 3 vạn ngƣời, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân còn rất
thấp kém; qua quá trình xây dựng và phát triển đến nay thành phố Ninh Bình
có quy mô khá lớn trên 48 km², dân số trên 13 vạn ngƣời, với 14 đơn vị hành
chính, gồm 12 phƣờng và 2 xã. Kinh tế - xã hội không ngừng phát triển, bộ
mặt đô thị ngày càng khởi sắc từng bƣớc văn minh hiện đại; an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội đƣợc đảm bảo; hệ thống chính trị không ngừng đổi mới,
nâng cao chất lƣợng hoạt động.
1.2.2. Địa lý tự nhiên
Thành phố Ninh Bình có diện tích 4.836,49 ha nằm ở khu vực châu thổ
sông Hồng, thuộc đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội 93 km về phía Tây
Bắc; phía Tây và Tây Bắc giáp huyện Hoa Lƣ, phía Nam và Đông Nam giáp
huyện Ý Yên (tỉnh Nam Định). Thành phố ở vào vị trí hết sức thuận lợi, có
đƣờng sắt Bắc - Nam, quốc lộ 1A, quốc lộ 10 chạy qua, có cảng sông, ga tàu,

bến xe.
Thành phố Ninh Bình đƣợc hình thành ở cửa nƣớc ngã ba sông, nơi gặp
nhau giữa Sông Đáy và Sông Vân. Từ xa xƣa, ngã ba Sông Vân hợp vào Sông
Đáy đã hình thành những chợ Cá và bến Nứa. Cùng với ƣu thế giao thông
thuận lợi do vị trí án ngữ giao điểm của những trục đƣờng chính, các chợ Cá
này đã phát triển thành một trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa lớn ở phía
nam vùng châu thổ Sông Hồng. Dù vậy thành phố Ninh Bình vẫn là một
thành phố trẻ trên đất cố đô lịch sử. Nền tảng văn hóa thành phố chịu ảnh
hƣởng từ nền văn minh châu thổ Sông Hồng. Vị trí địa lí của vùng đất giáp
9
với 3 vùng miền cũng ảnh hƣởng đến đặc trƣng văn hóa của thành phố, đó là
nền văn hóa hợp lƣu, hội tụ từ các vùng.
Thành phố Ninh Bình có núi Non Nƣớc (tên cổ là Dục Thúy Sơn), là một
ngọn núi nằm ngay trên ngã ba Sông Vân với Sông Đáy, là một tiền đồn nằm
ở cửa ngõ phía đông thành phố. Bên núi có chùa Non Nƣớc và đền thờ danh
sĩ Trƣơng Hán Siêu đời Trần. Hàng ngàn năm trƣớc chân núi bị sóng biển bào
mòn tạo thành vòm đá rộng che kín một góc Sông Vân. Trên núi có hàng trăm
bài thơ của các tao nhân mặc khách nhƣ: Trƣơng Hán Siêu, Lê Thánh Tông,
Lê Hiến Tông, Thiệu Trị, Tự Đức…
Nước non Non Nước như thơ
Ai về Dục Thúy chẳng ngơ ngẩn lòng
Trên thì núi, dưới thì sông
Cúc vàng còn đó, hương nồng còn đây.
Núi Non Nƣớc là ngọn núi đẹp ở thành phố Ninh Bình, từng đƣợc ví là
“cửa biển có non tiên” trong thơ Nguyền Trãi. Đứng trên núi, du khách có thể
phóng tầm mắt bao quát toàn cảnh hai cây cầu bắc qua sông Đáy và một phần
trung tâm thành phố Ninh Bình.
Trƣơng Hán Siêu là ngƣời có công đầu phát hiện và khai thác vẻ đẹp
của núi Non Nƣớc. Ông đặt tên núi là Dục Thúy Sơn và là ngƣời đầu tiên
lƣu bút tích một bài thơ cho các thi sĩ đến thƣởng ngoạn, ngắm cảnh làm

những bài thơ khắc vào đá. Đền thờ Trƣơng Hán Siêu và chùa Non Nƣớc
đƣợc xây dựng bên chân núi. Khu vực này ngày nay là công viên Thúy Sơn
của thành phố Ninh Bình. Sách “Đại Nam nhất thống chí” có ghi: “Phía Bắc
núi có động, trong động đặt đền thờ Tam phủ. Sƣờn núi có một tảng đá gần
một dòng nƣớc, có khắc ba chữ “Hám Giao Đình”(Đỉnh xem giao long).
Phía tây nam núi có đền thờ Sơn Tinh và Thủy Tinh, trên đỉnh núi trƣớc có
chùa Non Nƣớc, bản Triều, đời Gia Long, ngƣời địa phƣơng dời chùa đến
10
núi Cánh Diều” [8, tr 286]. Ngọn núi này đã chứng kiến dấu tích của nhiều
thời kỳ lịch sử.
Xƣa núi là một vọng gác tiền tiêu bảo vệ thành Hoa Lƣ. Đặc biệt đây là
nơi chứng kiến cuộc chuyển giao chế độ quan trọng trong lịch sử đất nƣớc:
Dƣới chân núi, hoàng hậu nhà Đinh, Dƣơng Vân Nga đã trao áo long bào và
chờ đợi ngày về cho tƣớng quân Lê Hoàn cầm quân đánh đuổi quân xâm lƣợc
nhà Tống lần thứ nhất, mở ra chiến thắng vang dội trong lịch sử dân tộc.
Trên núi có tƣợng Lƣơng Văn Tụy, ngƣời thanh niên cộng sản trẻ tuổi đã
hi sinh thân mình vƣợt qua bom đạn, cắm cờ đỏ búa liềm trên đỉnh núi mang
dòng chữ “Ủng hộ Nga Xô - Nga Xô vạn tuế” để ủng hộ cách mạng tháng 10
Nga vĩ đại và thôi thúc nhân dân theo Đảng làm cách mạng. Cũng trên núi
này, thƣợng tá quân đội Giáp Văn Khƣơng đã liều mình nhảy xuống Sông
Đáy để trốn thoát khỏi sự truy bắt của quân Pháp. Núi Thúy, Sông Vân gắn
với lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Ninh Bình và đã trở thành
hình ảnh biểu tƣợng độc đáo đặc trƣng của thành phố hôm nay.
Tiếp đến là núi Ngọc Mỹ Nhân, còn có tên là núi Cánh Diều, là di tích
lịch sử văn hóa nằm ở phía Đông Nam thành phố Ninh Bình, thuộc địa phận
phƣờng Bích Đào. Theo truyền thuyết, Cao Biền xƣa là một tƣớng giỏi, pháp
sƣ đời nhà Đƣờng sang cai trị Việt Nam, khi bay đến đất Hoa Lƣ đã bị một
đạo sĩ cùng nhân dân ở đây dùng tên bắn, Cao Biền bị trọng thƣơng, diều gãy
cánh rơi xuống hòn núi này, từ đó hòn núi mang tên là núi Cánh Diều.
Núi cũng có tên là Ngọc Mỹ Nhân vì đứng từ quốc lộ 1A ở phía Nam

cách thành phố Ninh Bình khoảng 3 đến 5 km nhìn hƣớng về trung tâm thành
phố ta sẽ thấy dãy núi xanh thẫm hình một cô gái tóc xõa, mình trần nằm trên
cánh đồng rộng mênh mông giữa thanh thiên bạch nhật. Núi Ngọc Mỹ Nhân
chỉ là danh thắng đẹp khi chiêm ngƣỡng từ vị trí thuận lợi ở xa nhƣng dƣới
chân núi cũng có 2 điểm di tích lịch sử văn hóa quan trọng là đền Thánh Cả
và chùa Cánh Diều. Núi lại nằm ven sông Đáy, ở gần vị trí giao điểm quốc lộ
11
1A và quốc lộ 10, là nút giao thông lớn. Chính vì lẽ đó mà hình ảnh của núi
đã đƣợc các tao nhân mặc khách sử dụng rất nhiều trong thơ.
Ngoài núi Non Nƣớc, núi Ngọc Mỹ Nhân khi nói đến Ninh Bình ta còn
phải kể tới núi và hồ Kỳ Lân. Hồ Kỳ Lân nằm ở vị trí trung tâm thành phố
cạnh quốc lộ 1A và đƣờng tới khu du lịch Tràng An. Hồ tên là Kỳ Lân. Một
núi tƣợng hình đầu con lân nhìn về phía Bắc. Núi cao trên 50m và là một
vọng gác có thể quan sát cảnh quan đô thị thành phố Ninh Bình. Phía Bắc
sƣờn núi hõm vào tạo thành một cái hàm con lân. Xung quanh là những vách
núi nhấp nhô, cây cối mọc xanh um nhƣ bờm và râu của con lân.
Núi Kỳ Lân là một hòn non bộ do thiên nhiên tạo dựng bên hồ nƣớc nhƣ
một vƣờn cảnh thiên nhiên độc đáo với hàng trăm cây cảnh, cây hoa, phong
lan, đá cảnh, non bộ, góp phần làm cho hồ Kỳ Lân thêm một nét đẹp mới.
Trên núi có những ngọn tháp cổ ẩn hiện trong màu xanh um tùm của cây lá.
Dƣới chân núi là ngôi đền thờ bà Quận chúa, tƣơng truyền bà là ngƣời đã hy
sinh thân mình làm vợ quái vật kỳ lân để giúp dân lành.
Nổi bật giữa lòng thành phố là dòng Sông Vân còn gọi là sông Vân Sàng,
gắn với truyền thuyết về Quan thập đạo tƣớng quân Lê Hoàn khi thắng quân
Tống trở về, thái hậu Dƣơng Vân Nga đã đem một đoàn cung nữ ra đón và mở
tiệc giao hoan trên dòng sông. Cái tên Vân Sàng (giƣờng mây) ra đời từ đó.
Nhƣ vậy, với cảnh đẹp của núi non, sông nƣớc, lại mang đậm dấu ấn
lịch sử của dân tộc, thành phố Ninh Bình trở thành nơi danh lam thắng cảnh
về di tích lịch sử và văn hóa nổi tiếng đƣợc nhiều ngƣời trong và ngoài nƣớc
tới thăm quan, thƣởng thức cảnh đẹp, đề thơ. Với điều kiện tự nhiên sơn thủy

hữu tình, vùng đất Ninh Bình đang ngày càng phát triển. Song, những biến cố
thuộc về tự nhiên nhƣ đất lở, khí hậu nóng dần lên… cũng đặt ngƣời dân Ninh
Bình trƣớc nhiều khó khăn và thách thức mới, từ đó hình thành và củng cố
12
thêm tính cách kiên cƣờng và tinh thần đoàn kết cộng đồng trong mỗi cá nhân
trên con đƣờng sản xuất cũng nhƣ khoa cử.
1.2.3. Văn hóa - xã hội
Vào thế kỷ XIII, triều Trần từ kinh đô Thăng Long lui quân về khu vực
Hoa Lƣ, xây dựng căn cứ địa để tiếp tục cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên - Mông. Thời ấy thành phố Ninh Bình là tiền đồn quan trọng bảo vệ
căn cứ địa Trƣờng Yên (vùng Hoa Lƣ, thành phố Ninh Bình ngày nay). Mùa
xuân năm 1789 vua Quang Trung thần tốc tiến quân qua thành phố Ninh Bình
đánh tan quân Thanh, giải phóng Thăng Long.
Vào những năm cuối thế kỉ XIX thực dân Pháp tăng cƣờng xâm lƣợc đất
nƣớc ta. Do có vị trí chiến lƣợc quan trọng về quân sự, chính trị nên ngay từ
khi đặt chân lên phía Nam đồng bằng Bắc Bộ, ngày 5-12-1813, thực dân Pháp
đánh chiếm thành phố Ninh Bình. Để đạt đƣợc mục đích xâm lƣợc, ngày 25-
10-1883, thực dân Pháp cho quân đến đánh chiếm thành phố Ninh Bình lần
thứ 2 nhanh chóng chiếm thành phố và đặt ách cai trị. Nhân dân thành phố
Ninh Bình từ đây chịu cảnh áp bức của đế quốc Pháp và phong kiến tay sai.
Khi chiếm đóng thành phố và nhiều nơi trong tỉnh, cùng thiết lập 1 bộ máy
thống trị gồm tòa sứ, mật thám, cảnh binh, binh lính, tòa án và 1 bộ máy quan
lại Nam triều tay sai. Ngoài ra chúng còn sử dụng những tên giáo sĩ là ngƣời
Pháp (truyền đạo) tham gia vào bộ máy cai trị, lợi dụng tôn giáo để mê hoặc
nhân dân. Thực dân Pháp vừa đàn áp vừa lừa phỉnh, chia rẽ về chính trị, nô
dịch bằng văn hóa đồi trụy để đạt mục đích là thống trị lâu dài, vơ vét tài
nguyên và bóc lột sức lao động của nhân dân ta.
Phát huy truyền thống anh hùng của dân tộc Việt Nam đã có từ ngàn đời
xƣa, mặc dù vua quan triều Nguyễn đầu hàng giặc nhục nhã, nhƣng nhân dân
thành phố Ninh Bình vẫn đứng lên đấu tranh dƣới ngọn cờ cứu nƣớc của

Tổng đốc Phạm Văn Nghị, Bùi Cẩm. Các cuộc đấu tranh anh dũng, bất khuất
13
nhƣng đều thất bại bởi chƣa có đƣờng lối chính trị cứu nƣớc, cứu dân đúng
đắn, khoa học. Nhân dân thành phố Ninh Bình vẫn chìm đắm trong cảnh nô
lệ, lầm than và bị áp bức bóc lột nặng nề. Trong thời thuộc Pháp, đời sống của
nhân dân thành phố chủ yếu trông vào buôn bán và làm dịch vụ. Dƣới ách cai
trị của thực dân Pháp cuộc sống của nhân dân ngày một khó khăn. Số ngƣời
đi lao động làm thuê để kiếm sống, tha phƣơng cầu thực nơi đất khách quê
ngƣời ngày càng nhiều.
Để củng cố chế độ thống trị, thực dân Pháp đẩy nhanh chính sách khai
thác thuộc địa, biến cả nƣớc ta thành thị trƣờng tiêu thụ và là nơi khai thác tài
nguyên. Nền kinh tế thành phố trong những năm 1939 - 1945 rất nghèo nàn,
tiểu thủ công nghiệp hầu nhƣ không có. Kinh tế của nhân dân đều đặt dƣới sự
kiểm soát của bộ máy cai trị của thực dân Pháp.
Với mục đích nô dịch để khai thác nên thực dân Pháp không xây dựng và
mở mang thêm về kinh tế, xã hội. Nền văn hóa thấp kém, lạc hậu. Thực dân
Pháp duy trì những cơ sở thƣợng tầng của chế độ phong kiến, khuyến khích
phát triển tôn giáo và mê tín dị đoan để đầu độc, ru ngủ tinh thần dân tộc của
nhân dân ta. Ở thành phố có nhà thờ đạo Gia Tô thƣờng gọi là công giáo và
một giảng đƣờng đạo tin lành là nơi trung tâm giảng đạo cho các vùng lân cận
có mục sƣ giảng đạo. Khu phố nào cũng có đình, miếu. Vào những năm 1938
- 1942, phong trào “chấn hƣng Phật Giáo” phát triển mạnh mẽ.
Trƣớc cách mạng tháng 8 năm 1945, nhân dân thành phố Ninh Bình
cũng nhƣ nhân dân trong tỉnh sống dƣới cảnh ngƣời dân nô lệ, nƣớc mất nhà
tan, cuộc sống của ngƣời dân đói rách, lầm than, luôn bị đàn áp, bị vơ vét bóc
lột….
Trải qua hơn nửa thế kỷ đấu tranh anh dũng, kiên cƣờng, dƣới sự lãnh
đạo của Đảng, quân và dân Ninh Bình đã đoàn kết vƣợt qua mọi khó khăn,
thực hiện thắng lợi đƣờng lối, chủ trƣơng chính sách của Đảng và pháp luật
Nhà nƣớc; cùng cả nƣớc xây dựng, đấu tranh giành chính quyền, bảo vệ miền

14
Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nƣớc, đƣa cả nƣớc đi lên chủ nghĩa
xã hội.
Tháng 7 - 1998, Trung ƣơng Đảng ra Nghị quyết số 5-NQ-TW về “xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.
Thị ủy chủ trƣơng tuyên truyền sâu rộng làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn
bộ đời sống và hoạt động xã hội. Ngành văn hóa phối hợp chặt chẽ với các
ban, ngành, các cơ quan thông tin tuyên truyền, các đoàn thể, phát động toàn
dân thực hiện chủ trƣơng của Đảng, xây dựng nếp sống văn hóa, phát huy bản
sắc dân tộc. Cuộc vận động diễn ra sôi nổi. Nhân dân hƣởng ứng nhiệt liệt, nỗ
lực tham gia. Năm 1998, toàn thành phố đã có 70% gia đình đạt tiêu chuẩn
gia đình văn hóa. Hầu hết các cơ quan xí nghiệp, doanh nghiệp đều có kế
hoạch chƣơng trình thực hiện nếp sống văn hóa.
Thực hiện Chỉ thị số 27-CT-TW của Bộ chính trị, Chỉ thị số 14-CT-TW
của Tỉnh ủy về việc thực hiện nếp sống văn minh trong “việc cƣới, việc tang
và lễ hội”… thị xã vận động toàn dân tham gia thực hiện, bƣớc đầu đã đạt
đƣợc kết quả nhất định.
Tiểu kết chương 1
Nhƣ vậy, chƣơng 1 đã cho ta cái nhìn tổng quát về khái niệm Danh
nhân văn hóa và những cơ sở hình thành danhn nhân văn hóa ở thành phố
Ninh Bình.
Về khái niệm Danh nhân văn hóa, chƣơng 1 đƣa ra hai khái niệm của
Wikipedia và Từ điển tiếng Việt, từ đó ta có thể khái quát về Danh nhân văn
hóa nhƣ sau: Danh nhân văn hóa là những ngƣời nổi tiếng và có những đóng
góp to lớn cho đất nƣớc mà mọi ngƣời không thể phủ nhận.
Về cơ sở hình thành Danh nhân văn hóa ở thành phố Ninh Bình đƣợc tìm
hiểu trên ba phƣơng diện: Lịch sử hình thành thành phố Ninh Bình, địa lý tự
nhiên và văn hóa xã hội. Qua việc tìm hiểu thấy đƣợc: thành phố Ninh Bình là
15
trung tâm chính trị, kinh tế, xã hội, là trung tâm quần thể di tích lịch sử và

danh lam thắng cảnh của tỉnh, là địa bàn chiến lƣợc quan trọng; là địa phƣơng
có bề dày lịch sử, giàu truyền thống yêu nƣớc và cách mạng với nhiều sự kiện
lịch sử rất đáng tự hào. Đây chính là những cơ sở cốt lõi để hình thành nên
danh nhân đất Việt nói chung và danh nhân văn hóa Trƣơng Hán Siêu ở thành
phố Ninh Bình nói riêng.



16
Chƣơng 2. DANH NHÂN VĂN HÓA TRƢƠNG HÁN SIÊU TRONG
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA DÂN TỘC
2.1. Vài nét về quê hƣơng của Danh nhân văn hoá Trƣơng Hán Siêu
Trƣơng Hán Siêu quê ở thôn Phúc Am, xã Phúc Thành, huyện Yên Ninh,
Lộ Trƣờng Yên. Sau đổi là xã Ninh Thành huyện Gia khánh, Hoa Lƣ, Ninh
Bình, nay thuộc thành phố Ninh Bình.
Sử sách Việt Nam nói chung và sách Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo
biên của danh nho Nguyễn Tử Mẫn làng Thƣ Điền xã Ninh Nhất nói về quê
quán Trƣơng Hán Siêu nhƣ trên.
Năm 1994 Trƣờng Trung học phổ thông Lƣơng Văn Tuỵ thành phố Ninh
Bình có Hội nghị Hội thảo gồm: Viện văn học do giáo sƣ Nguyễn Hệ Chi dẫn
đầu; Sở Văn hoá Thông tin Ninh Bình ông Nguyễn Đăng Thanh cùng cán bộ
địa phƣơng tới dự. Trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Văn Tuỵ gồm Ban
giám hiệu và trƣởng bộ môn Văn, trình đề tham luận.
Hội nghị một lần nữa thống nhất cao về quê hƣơng sự nghiệp của
Trƣơng Hán Siêu đã đƣợc sử sách công nhận. Hội nghị cũng đề cập sƣu tầm
tiếp về mấy vấn đề: năm sinh, ngày mất và thân nhân… của Trƣơng Hán Siêu.
Sau ngày khánh thành đền Trƣơng Hán Siêu tháng 11 - 2000 thì chi họ
Trƣơng xã Viên Nội huyện Ứng Hoà - Hà Tây đƣa gia phả (chữ Hán) về đền
nhận hậu duệ. Gia phả ghi rõ năm sinh là 1275 và Trƣơng Hán Siêu sinh ra ở
Phúc Thành đời thứ 7… Tiếp theo chi họ Trƣơng xã Khánh Thuỷ - Yên

Khánh - Ninh Bình gửi chúc từ nhận hậu duệ rõ thêm nhiều chi tiết .
Một số vấn đề đặt ra ở hội nghị hội thảo thêm sáng tỏ.
Quang cảnh quê Trƣơng Hán Siêu xƣa nhiều cảnh đẹp, trong nhân dân
truyền tụng bằng những câu thơ:
Phượng vũ lân hồi, tiên giới cảnh
Mã chiều hổ phục tể tướng công
Đại ý: Cảnh đẹp tiên đến ngự
17
Đất thiêng sinh hiền tài
Mấy nét chính nổi trong cảnh đẹp là: ruộng đồng mầu mỡ phì nhiêu, có
rừng có núi có biển có sông. Con ngƣời đức tính cần cù trong lao động, nông
nghiệp và phát triển nghề ngƣ, nghề thƣơng; nho sĩ chăm lo đèn sách và tôn
sƣ trọng đạo.
Địa lý của xã:
- Phía Tây ẩn bóng dãy núi Hoa Lƣ nhƣ bức trƣờng thành. Đƣờng Đô
Thiên là trục giao thông quốc gia xuyên qua xã thuận lợi cho việc giao lƣu
kinh tế - văn hoá vùng, miền xƣa.
- Phía Đông bắc biển cả mênh mông lại có cảnh Phúc Thành (Phúc
Thành hải khẩu) bởi sa bồi lâu dần đẩy biển lùi xa, còn lại dòng Sông Đáy
đem phù sa làm tƣơi tốt ruộng đồng và là đƣờng giao thông thuỷ vận chuyển
binh lƣơng chống giặc ngoại xâm và hàng hoá phục vụ đời sống dân sinh.
- Phía Đông Nam Sông Vân thuỷ giao sàng (Vân Sàng) chảy qua gặp
dòng Sông Chanh từ Trƣờng Yên (sông Hang Luồn) đổ về rồi qua cầu Yên
xuống Sông Bạc (Sông Vạc) qua Kim Sơn ra Biển Đông.
Sông Vân Sàng, núi Dục Thuý hữu tình thơ mộng ẩn chứa nhiều sự tích
và truyền thuyết cổ kim nhƣ:
Truyện công chúa con vua thuỷ Tề hoá thành nàng tiên cá du ngoạn núi
sông, non nƣớc đam mê ngƣời trần tục đem lòng yêu anh chàng nghèo làm
nghề chài lƣới neo thuyền bên chân núi Thuý. Khi vua cha đi tìm bắt nàng về
thuỷ cung, đôi lứa đau buồn…

Sự tích Dƣơng Vân Nga trao áo long bào cho thập đạo tƣớng quân Lê
Hoàn thay Đinh Tiên Đế trị vì thiên hạ…
Phía trong xã Phúc Thành xƣa quang cảnh đẹp, có rừng, có núi và chim
muông cây trái quý.
- Rừng Bờ Lăng xanh tốt nhiều gỗ quý nhƣng ngày khánh chiến chống
thực dân Pháp nhân dân đốn củi gỗ bán lấy tiền nuôi du kích đánh tây và phục
18
vụ kháng chiến.
- Núi non gồm ba quả, mỗi quả có tên là: Hòn Ngọc, Hòn Dục và Hòn
Lân nay còn gọi là hòn núi Kỳ Lân, thuộc phƣờng Tân Thành.
- Đền chùa Văn từ, Văn chỉ: ở xã có nhiều ngôi chùa to nhỏ khác nhau
nằm trong các thôn xóm, phe giáp làm nơi văn hoá tâm linh và là di tích lịch
sử của địa phƣơng song cũng vì chiến tranh mà mất mát nhiều.
+ Chùa là nơi thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật bà Quan Thế Âm, Bồ tát
giáo hoá chúng sinh (quần chúng) tránh điều ác tu điều thiện thƣơng yêu đồng
loại. Gồm chùa Phúc Chỉnh, chùa Nội, chùa Bát, chùa Đẩu Long và chùa Chẻ
(chùa Bát không còn).
+ Đền thờ các vị khai quốc công thần, có công với dân tộc cùng quê
hƣơng xứ sở gồm:
Đền vua Lê Đại hành, đền Nguyễn Bặc, đền Đồng Bến…
2.2. Dòng họ Trƣơng
Ngay từ những ngày đầu dựng nƣớc của thời đại Hùng Vƣơng, họ
Trƣơng đã có cụ Trƣơng Tƣ Trực có mặt trên mảnh đất này. Trải qua bao gian
khó nhọc nhằn trong cuộc mƣu sinh, trải qua bao thăng trầm của lịch sử,
những ngƣời con họ Trƣơng vẫn dựa vào nhau, đùm bọc nhau, vƣợt qua mọi
khó khăn, để trụ vững và trƣờng tồn trên quê hƣơng mình.
Dân tộc ta còn nghe nhƣ đâu đây tiếng hò reo vang dậy của đoàn quân
Trƣơng Hống, Trƣơng Hát, đang truy sát bọn giặc nhà Lƣơng phƣơng bắc.
Hai cụ là hai vị Đại tƣớng lẫy lừng, đã hết lòng phò tá vua Triệu Việt Vƣơng
vào thế kỷ thứ 6 (năm 504). Khi Lý Phật Tử làm phản vua Triệu, đã hai lần

Lý Phật Tử mời hai cụ cùng hợp tác, song cả hai đều từ chối mà nói rằng: “Ta
đây chỉ biết thờ có một chủ”, rồi cả hai cụ cùng tuẫn tiết. Cái chết bi tráng của
hai vị Đại tƣớng quân chính là bức thông điệp gửi lại cho con cháu mai sau
rằng, ngƣời họ Trƣơng đã đi với ai, đã trung thành với ai thì thủy chung son
19
sắt đến cùng. Ngày nay trên hai dải Sông Thƣơng và Sông Cầu là quê hƣơng
của hai cụ ở vùng Kinh Bắc đã có 372 làng thờ hai cụ, tôn hai cụ làm Thành
Hoàng làng và gọi các cụ là Đức Thánh Tam Giang.
Ta cũng nhƣ đang nghe thấy tiếng sóng gầm của dòng sông Bạch Đằng,
đang dìm xác quân Nguyên Mông xâm lƣợc, trong tác phẩm Bạch Đằng
Giang Phú - Một áng thiên cổ hùng văn để lại cho đời của Trƣơng Hán Siêu.
Ông là nhà thơ, nhà chính trị, nhà quân sự, nhà giáo dục thời Trần, là môn
khách của Hƣng Đạo Đại Vƣơng Trần Quốc Tuấn, là thầy dạy học của bốn
đời vua nhà Trần và cùng với Chu Văn An. Ông là một trong hai Thầy giáo
Việt Nam đƣợc thờ trong Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
Trƣơng Lôi, Trƣơng Chiến (là con cụ Trƣơng Lôi) là hai vị tƣớng tài
trong sự nghiệp đánh đuổi giặc Minh trên ải Chi Lăng. Hai cụ đƣợc vua Lê
Lợi phong là “Bình Ngô Khai Quốc Công Thần” và đã đƣợc vua ban quốc
tính (lấy họ nhà vua), nhƣng để nhớ dòng họ cũ của mình, các cụ vẫn lấy họ
ghép là Lê Trƣơng và dòng họ này vẫn phát triển cho đến bây giờ. Trong thời
thuộc Pháp có thể nói không quá rằng, họ Trƣơng là những ngƣời đi tiên
phong trong phong trào chống Pháp. Tiêu biểu có Bình Tây Đại Nguyên Soái
Trƣơng Công Định, ông đã bất chấp chiếu của vua Tự Đức ra lệnh bãi binh và
từ chối thƣ dụ hàng của Pháp đồng thời ra lệnh nổ súng vào ba tỉnh miền đông
Nam Bộ - mở đầu cho phong trào chống Pháp ở Việt Nam. Cùng vơi Trƣơng
Công Định là Trƣơng Văn Thám (tức Hoàng Hoa Thám), thủ lĩnh của cuộc
khởi nghĩa nơi núi rừng Yên Thế, ông đƣợc gọi là con hùm xám Yên Thế, đã
chống chọi và làm khiếp đảm bọn Pháp suốt 30 năm trời, thực dân Pháp đã hai
lần xin giảng hòa với ông. Về văn hóa, khoa học, nghệ thuật, thời kỳ này dòng
họ Trƣơng còn có nhà Bác học Trƣơng Vĩnh Ký, là một trong 18 nhà Bác học

hàng đầu thế kỷ thứ 19. Ông còn biết tới 27 ngoại ngữ, đứng vào hàng Bác học
biết nhiều ngoại ngữ nhất thế giới. Ông cũng đƣợc coi là ông tổ của nghề báo,

×