Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Thủ pháp lạ hóa trong tửu quốc của mạc ngôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (758.21 KB, 61 trang )




TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN



NGUYỄN THỊ THANH LOAN



THỦ PHÁP LẠ HÓA
TRONG TỬU QUỐC CỦA MẠC NGÔN


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài






HÀ NỘI – 2014






TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN



NGUYỄN THỊ THANH LOAN



THỦ PHÁP LẠ HÓA
TRONG TỬU QUỐC CỦA MẠC NGÔN


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài



Hƣớng dẫn khoa học
TS NGUYỄN THỊ BÍCH DUNG


HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN

Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn tới cô giáo - Tiến sĩ Nguyễn Thị Bích
Dung, người trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ và cho tôi cho lời khuyên bổ ích để
tôi có thể hoàn thành khóa luận này.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc
biệt là các thầy cô thuộc tổ Văn học nước ngoài trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2 đã tạo diều kiện cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu trong
suốt thời gian qua.
Với điều kiện còn hạn chế về thời gian nên khóa luận khó tránh khỏi
những thiếu sót và hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy
cô và các bạn để khóa luận của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Tác giả khóa luận


Nguyễn Thị Thanh Loan









LỜI CAM ĐOAN

Sau một thời gian nghiên cứu, bằng sự nỗ lực của chính bản thân và sự
hướng dẫn của Tiến sĩ Nguyễn Thị Bích Dung, khóa luận này của tôi đã được
hoàn thành. Khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, nó không
trùng với khóa luận hay bất cứ công trình nào đã được công bố. Nếu sai tôi
xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.


Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Tác giả khóa luận


Nguyễn Thị Thanh Loan














MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích nghiên cứu . 4
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi khảo sát 5
5. Phương pháp nghiên cứu 5
6. Cấu trúc khóa luận 5
7. Đóng góp của đề tài . 5

NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TỬU QUỐC TRONG HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO NGHỆ
THUẬT CỦA MẠC NGÔN 6
1.1: Tác giả Mạc Ngôn . 6
1.2: Tửu quốc trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của Mạc Ngôn . 10
CHƢƠNG 2: THỦ PHÁP LẠ HÓA TRONG TỬU QUỐC CỦA MẠC
NGÔN 14
2.1: Khái niệm lạ hóa . 14
2.2: Lạ hóa nhân vật 17
2.2.1: Khái niệm nhân vật 17
2.2.2: Lạ hóa nhân vật 19
2.2.2.1: Lạ hóa ngoại hình 19
2.2.2.2: Lạ hóa hành động 21
2.2.2.3: Lạ hóa tâm lí 28
2.3: Lạ hóa tình tiết và sự kiện 38
2.3.1: Khái niệm 38
2.3.2: Lạ hóa tình tiết và sự kiện 39

2.3.2.1: Lạ hóa rượu 39
2.3.2.2: Lạ hóa món ăn 44
KẾT LUẬN 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO 53
PHỤ LỤC 54


















1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
1.1. Lí do khoa học.
Vào những năm cuối thế kỉ XX, nền văn học Trung Quốc có một diện
mạo mới với những bước đột phá và cách tân về thi pháp. Mạc Ngôn được coi
là một trong những đại diện tiêu biểu của nền văn học Trung Quốc đương đại.
Sáng tác của Mạc Ngôn là sự kết hợp nhuần nhuyễn những yếu tố truyền
thống và hiện đại. Tác phẩm của ông thực sự thu hút được độc giả trong và
ngoài nước.
Mạc Ngôn là nhà văn có đóng góp không nhỏ cho sự đổi mới của nền
văn học và có một vị trí quan trọng trong nền văn học Trung Quốc đương đại.
Ông là một cây bút sáng tác miệt mài không biết mệt mỏi. Cho đến nay, Mạc
Ngôn đã có hơn 300 đầu sách trong sự nghiệp văn học của mình và tác phẩm
của ông đã được dịch ra khoảng 18 ngôn ngữ. Ông sở hữu trên 40 giải thưởng
và danh hiệu cho sáng tác văn chương. Đặc biệt, Mạc Ngôn đã vinh dự giành
được giải thưởng Nobel Văn học cao quý vào ngày 11/10/2012.
Tại Việt Nam, Mạc Ngôn là nhà văn đương đại Trung Quốc có nhiều tác
phẩm được dịch và rất được dư luận Việt Nam chú ý. Mạc Ngôn đã từng làm
nên cơn sốt sách và được độc giả Việt “săn lùng” từ cách đây khoảng chục năm.

Mạc Ngôn được sưu tầm bởi những cuốn sách gây ám ảnh như: Cao lương đỏ,
Đàn hương hình, Châu chấu đỏ, Báu vật của đời, Cây tỏi nổi giận,… Đặc biệt,
sau khi Mạc Ngôn đoạt giải thưởng Nobel văn học năm 2012, sách của Mạc
Ngôn càng được độc giả Việt săn lùng gắt gao và trở nên khan hiếm hơn. Đọc
văn Mạc Ngôn, người đọc thấy được dũng khí của một cây bút xuất thân nông
dân đầy mãnh liệt và can đảm. Qua những trang sách của Mạc ngôn, người đọc
thấy những hiện trạng bê bối, bi thảm của xã hội Trung Quốc và sau mỗi câu chữ
tả thực ấy là cả một tấm lòng nhân đạo sâu sắc.
2
Trong các tác phẩm của mình, Mạc Ngôn đã sử dụng thủ pháp lạ hóa để
tạo nên những trang viết hấp dẫn làm say mê bao thế hệ bạn đọc. Mạc Ngôn
đã “bày đặt những truyện kì lạ trên những khung nền không xa lạ”.
Trong sự nghiệp sáng tác của Mạc Ngôn, tiểu thuyết Tửu quốc là một
tác phẩm độc đáo và chiếm một vị trí quan trọng. Là tác phẩm mà Mạc Ngôn
tâm đắc và tự hào nhất. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho sự đổi mới của nhà văn
trên phương diện thi pháp và là cuốn tiểu thuyết mà Mạc Ngôn tâm đắc và tự
hào nhất. Mạc Ngôn đã sử dụng thủ pháp lạ hóa – một trong những thủ pháp
nghệ thuật được ông sử dụng để xây dựng nên nhân vật, sự kiện và tình tiết
trong tác phẩm.
Với những lí do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Thủ pháp lạ
hóa trong Tửu quốc của Mạc Ngôn” để có thể đi sâu nghiên cứu việc sử dụng
thủ pháp lạ hóa trong xây dựng nhân vật, tình tiết và sự kiện của tác phẩm. Hi
vọng đề tài giúp bạn đọc quan tâm hơn tới tiểu thuyết Trung Quốc đương đại.
1.2. Lí do sƣ phạm.
Đối với tác giả khóa luận cũng là một người giáo viên dạy văn tương
lai, thông qua việc tìm hiểu “Thủ pháp lạ hóa trong Tửu quốc của Mạc
Ngôn”, người viết sẽ có cơ hội tốt để rèn luyện nâng cao trình độ tư duy và có
được một hướng tiếp cận mới về tác phẩm văn học: từ việc tìm hiểu nghệ
thuật để hiểu nội dung của tác phẩm. Đây có thể được xem như một đổi mới
trong phương pháp dạy và học văn. Bởi chỉ khi người giáo viên đổi mới cách

dạy thì mới giúp học sinh tiếp cận tác phẩm một cách dễ dàng, giúp học sinh
tìm hiểu được thế giới nghệ thuật để đến với cái hay, cái đẹp được thể hiện
qua mỗi tác phẩm văn chương.
2. Lịch sử vấn đề.
Tửu quốc của Mạc Ngôn là cuốn tiểu thuyết đang tạo được sức hút đối
với độc giả và giới nghiên cứu bởi tính hiện thực và những nét nghệ thuật đặc
3
sắc. Nhưng vì là tác phẩm đương đại nên số lượng những bài nghiên cứu về
Tửu quốc cũng như những tác phẩm khác của Mạc Ngôn còn tương đối ít.
Đương thời, những bài nghiên cứu ấy cũng chỉ tiếp cận một cách sơ lược tác
phẩm dưới góc độ xã hội hoặc xoay quanh các yếu tố chính trị, lịch sử,… mà
chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về thủ pháp lạ hóa được sử dụng
trong tiểu thuyết.
Bài nghiên cứu có phần toàn diện đầu tiên về tiểu thuyết Mạc Ngôn là
“Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Mạc Ngôn” của tác giả Lê Huy Tiêu,
Tạp chí Văn học nước ngoài, số 4, năm 2003. Ở đây, tác giả Lê Huy Tiêu cho
rằng thủ pháp lạ hóa là một trong những đặc trưng của tiểu thuyết Mạc Ngôn.
Theo ông, nhờ có trí tưởng tượng phong phú, khả năng nắm bắt những cảm
giác mới, Mạc Ngôn đã sáng tạo ra nhiều nhân vật, sự kiện, chi tiết kì lạ để
hấp dẫn bạn đọc. Tác phẩm cũng phân tích khá sâu về nghệ thuật miêu tả cảm
giác đặc biệt của Mạc Ngôn với cách tạo ra thế giới cảm giác mang đậm dấu
ấn chủ quan, cách miêu tả chậm lại những hành động, cảm nhận của nhân
vật,… Song trong khuôn khổ một bài nghiên cứu có tính chất khái quát về
những đặc điểm nghệ thuật của tiểu thuyết của Mạc Ngôn, những biểu hiện cụ
thể của lạ hóa vẫn chưa được bàn đến.
Nguyễn Thị Tịnh Thy trong bài viết “Điểm nhìn nghệ thuật trong tiểu
thuyết của Mạc Ngôn” (Tự sự học – một số vấn đề lí luận và lịch sử phần 2,
NXB Giáo dục, 2008) hay trong cuốn Tự sự kiểu Mạc Ngôn (NXB Văn học,
2013) cũng đã động chạm đến thủ pháp lạ hóa được sử dụng trong tiểu thuyết
Tửu quốc cũng như một số tiểu thuyết khác của Mạc Ngôn ở khía cạnh điểm

nhìn. Tự sự kiểu Mạc Ngôn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn
diện nghệ thuật tự sự trong toàn bộ tiểu thuyết của Mạc Ngôn. “Tác giả đã
phân tích tiểu thuyết Mạc Ngôn dưới ánh sáng của lí tuyết trần thuật học,
khám phá giá trị triết mĩ trong sáng tác của Mạc Ngôn…” (Theo PGS.TS.
4
Đào Tuấn Ảnh). Có thể thấy, trong bài viết này, tác giả đã nghiên cứu thủ
pháp lạ hóa được thể hiện trên phương diện điểm nhìn trần thuật.
Trên Tạp chí sông Hương, số 166 (12/2002) có đăng bài phê bình của
nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Phê “Thế giới nghệ thuật của Mạc Ngôn qua
hai tác phẩm Báu vật của đời và Đàn hương hình”. Tác giả đã chỉ ra những
nét đặc sắc về nghệ thuật của hai tác phẩm là ở thủ pháp lạ hóa: “Có lẽ phép
lạ chủ yếu của Mạc Ngôn chính là biết bày đặt ra những câu chuyện kì lạ ít
người biết trên một cái khung nền không xa lạ. Theo cách nói cũ thì đó là
phép lạ hóa, huyền thoại hóa hiện thực… Nói khác đi, đó là thế giới nghệ
thuật của tác giả”.
Hoàng Thị Bích Hồng với bài “Nghệ thuật trần thuật gắn với thủ pháp
lạ hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn” đăng trên Tạp chí sông Hương, số 244
(10/2007) cũng đã đi vào tìm hiểu sự lạ hóa trong miêu tả, kể chuyện trong
tác phẩm Mạc Ngôn.
Trong bài “Tình yêu và nhu cầu giải tỏa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn”
đăng trên Diễn đàn văn nghệ của Nguyễn Thị Vũ Hoài, tác giả đã tìm hiểu
vấn đề tình dục của bộ phận giới nữ qua các tác phẩm của Mạc Ngôn.
Nhìn chung, vấn đề thủ pháp lạ hóa trong Tửu quốc của Mạc Ngôn đã
được nhắc đến trong một số bài nghiên cứu về tiểu thuyết của Mạc Ngôn
nhưng vẫn chưa có sự nghiên cứu toàn diện, sâu sắc. Vì vậy, khi nghiên cứu
đề tài này, chúng tôi hi vọng sẽ tiếp nối và bổ sung vào lịch sử vấn đề này một
vấn đề hấp dẫn còn để ngỏ.
3. Mục đích nghiên cứu.
Khi tiến hành nghiên cứu đề tài này, người nghiên cứu hướng tới mục đích:
- Nghiên cứu thủ pháp lạ hóa được nhà văn sử dụng trong việc sáng tạo

ra nhân vật, sự kiện, tình tiết trong Tửu quốc. Từ đó thấy được tài năng
độc đáo của Mạc Ngôn.
5
- Phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập văn học Trung Quốc, đặc biệt là
văn học Trung Quốc đương đại trong nhà trường.
4. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi khảo sát.
Đối tượng nghiên cứu là thủ pháp lạ hóa trong tiểu thuyết Tửu quốc của
Mạc Ngôn.
Phạm vi khảo sát: Tửu quốc của Mạc Ngôn, bản dịch của dịch giả Trần
Đình Hiến, NXB Văn học, 2003.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Khóa luận chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê, khảo sát.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích tác phẩm.
- Phương pháp hệ thống.
6. Cấu trúc khóa luận.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận được triển khai thành hai
chương:
Chương 1: Tửu quốc trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của Mạc Ngôn.
Chương 2: Thủ pháp lạ hóa trong Tửu quốc của Mạc Ngôn.
7. Đóng góp của đề tài.
Tìm hiểu đề tài này, chúng tôi muốn bước đầu nghiên cứu về thủ
pháp lạ hóa đã được nhà văn Mạc Ngôn sử dụng trong Tửu quốc. Từ đó,
thấy được phong cách nghệ thuật độc đáo của tác giả. Ở một phạm vi nhất
định, đề tài này hi vọng sẽ cung cấp một số tài liệu tham khảo cho những ai
yêu thích tiểu thuyết này, phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu văn học
Trung Quốc đương đại.




6
CHƢƠNG 1
TỬU QUỐC TRONG HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT
CỦA MẠC NGÔN

1.1. Tác giả Mạc Ngôn.
Mạc Ngôn tên thật là Quản Mạc Nghiệp, sinh ngày 17/02/1955 trong
một gia đình nông dân ở vùng Cao Mật, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Mạc
Ngôn là bút danh của ông, có ngụ ý tự khuyên mình nói ít, viết nhiều.
Hồi đi học, Mạc Ngôn có tố chất văn học tốt, làm văn hay, thường được
thầy giáo lấy làm mẫu đem đọc trước cả lớp. Năm 1967, khi đang học tiểu
học, do Cách mạng văn hóa bùng nổ, Mạc Ngôn phải bỏ học giữa chừng và
phải tham gia lao động nhiều năm ở nông thôn. Mạc Ngôn đã phải trải qua
những năm tháng tuổi thơ khổ cực, thiếu thốn, cơ hàn. Những ngày còn đi
học, Mạc Ngôn không được thầy cô, bạn bè yêu quý bởi sự nghịch ngợm “vô
lễ” và hay làm mất lòng thầy giáo. Thế nên, Mạc Ngôn bị đuổi khỏi trường và
bị xóa tên khỏi tịch học. Nhưng với niềm yêu mến mái trường, Mạc Ngôn vẫn
hay lẻn vào trong trường dù nhiều lần bị bắt và bị tống cổ ra khỏi trường.
Trong thời gian đó, ông đã làm rất nhiều việc: chăn dê ngoài đồng, từng làm
công nhân hợp đồng ở nhà máy chế biến bông, có cuộc sống gần gũi với
người nông dân. Mảnh đất quê hương Cao Mật của Mạc Ngôn là vùng đất
nghèo khó, khắc nghiệt và hẻo lánh của tỉnh Sơn Đông nên ông sống với cuộc
sống lao động cực nhọc ngay từ nhỏ. Vì thế, Mạc Ngôn rất hiểu thế nào là đói
nghèo, là đói rét. Ông luôn bị giày vò bởi cái đói, cái khát và cô đơn. Vậy nên
hồi nhỏ ông thích làm nhà văn vì muốn được ăn ngày ba bữa bánh bao trắng
no nê. Chính những trải nghiệm thời thơ ấu đã trở thành tài sản quý giá của
Mạc Ngôn để ông sáng tác văn chương và tạo nên phong cách văn học độc
đáo cho mình.
7
Tháng 2-1976, Mạc Ngôn rời quê vào lính, được làm tiểu đội trưởng,

rồi nhân viên bảo mật, thủ thư, giáo viên, cán sự ở trung đoàn thông tin.
Khoảng thời gian này, do được tiếp xúc trực tiếp với đời sống chiến trận nên
ông thấm thía những tai nạn và hệ lụy do chiến tranh mang lại.
Thời gian này, giấc mơ làm nhà văn thời thơ ấu của ông sống dậy, Mạc
Ngôn bắt đầu cầm bút viết lách. Ông viết rất nhiều truyện, gửi cho các báo,
các tạp chí cấp địa phương trong cả nước. Sau mỗi lần đem bản thảo ra bưu
điện gửi là những ngày mỏi cổ mong ngóng của Mạc Ngôn, nhưng cuối cùng
lại nhận về bản thảo đã quăn queo kèm theo thư từ chối và lời cám ơn của ban
biên tập. Mãi đến năm 1981, tạp chí “Liên trì” của thành phố Bảo Định (Hồ
Bắc) thông báo đăng truyện ngắn “Mưa đêm Xuân” của ông.
Mùa Thu năm 1984, Mạc Ngôn trúng tuyển vào khoa Văn học, Học
viện Nghệ thuật Quân giải phóng, và tốt nghiệp năm 1986. Năm 1988, ông lại
trúng tuyển lớp nghiên cứu sinh sáng tác thuộc Học viện Văn học Lỗ Tấn,
trường Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1991, ông tốt nghiệp với học vị
Thạc sĩ. Hiện nay, ông là sáng tác viên bậc 1 của Cục Chính trị - Bộ Tổng
tham mưu Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc.
Tháng 11-2011, Mạc Ngôn được bầu làm Phó chủ tịch Hội Nhà văn
Trung Quốc. Tháng 5-2012, ông được mời làm Giáo sư của Khoa Trung văn
Đại học sư phạm Hoa Đông.
Ngày 11/10/2012, Mạc Ngôn vinh dự được nhận giải thưởng Nobel
Văn học.
Cũng như một số nhà văn khác, trước khi trở nên nổi tiếng thì con
đường văn học của Mạc Ngôn cũng chẳng hề xuôi buồm thuận gió như nhiều
người tưởng mà đầy trắc trở, quanh co.
Nhắc đến Mạc Ngôn, người ta nghĩ ngay đến những cánh đồng cao
lương ngút ngàn trên đất đỏ trong phim “Cao lương đỏ” – đó chính là huyện
8
Cao Mật, quê hương của ông. Cao Mật không chỉ là quê hương của Mạc
Ngôn về mặt địa lý, đó còn là quê hương văn học, là cánh đồng văn chương
để ông canh tác suốt mấy chục năm qua. Tất cả các tác phẩm của Mạc Ngôn

hầu như không tách khỏi Cao Mật, có nhà bình luận viết: “Mạc Ngôn đã cày
xới và khai quật Cao Mật rồi vươn ra nông thôn Trung Quốc”.
Năm 1981, tác phẩm đầu tiên của Mạc Ngôn được đăng. Đó là truyện
ngắn “Mưa đêm xuân”, đăng trên tạp chí “Liên trì” (Ao Sen) của thành phố
Bảo Định (Hồ Bắc). Với việc được đăng tác phẩm này đã đánh dấu bước đầu
cho sự xuất hiện của Mạc Ngôn trên văn đàn. Tuy nhiên, Mạc Ngôn lại chưa
được nhiều người biết đến.
Trong hai năm học ở Học viện nghệ thuật Quân giải phóng, Mạc Ngôn
ngày học, đêm viết. Đến năm 1986, ông đã cho xuất bản tiểu thuyết Cao
lương đỏ gây chấn động văn đàn. Về sau, tác phẩm này được chuyển thể
thành bộ phim cùng tên với sự dàn dựng của đạo diễn Trương Nghệ Mưu. Bộ
phim được lập tức đoạt giải Gấu Vàng ở LHP Berlin 1988, khiến thế giới bắt
đầu biết đến điện ảnh Trung Quốc. Từ đây, sự nghiệp sáng tác văn học mới
mở ra trước mắt Mạc Ngôn và tên ông bắt đầu được biết đến nhiều hơn trong
và ngoài nước.
Sau một loạt tiểu thuyết vừa rất thành công, Mạc Ngôn quay sang sáng
tác tiểu thuyết dài (trường thiên).
Năm 1993, ông cho in bộ Tửu quốc mà ông lao tâm khổ tứ nghiền
ngẫm ngồi viết trong ngôi nhà riêng ở Cao Mật. Nhưng thời đó, người ta đổ
xô vào làm kinh tế, văn học bị ghẻ lạnh, tác phẩm này bị rơi vào quên lãng.
Mùa Xuân năm 1995, Mạc Ngôn bỏ ra 83 ngày liền hoàn thành cuốn
Báu vật của đời (tên tiếng Trung là Phong nhũ phì đồn). Cuốn sách dài
500.000 từ này lập tức gây sóng gió, giúp Mạc Ngôn giành giải Văn học Đại
gia. Nhưng sau đó, bão tố dư luận ập xuống đầu ông với đủ những lời phê
9
phán, chê bai, giễu cợt, rủa xả. Tuy nhiên, cũng có người coi đây là kiệt tác.
Trước những lời chê bai, phê phán, Mạc Ngôn nói: “Tôi cho rằng các bạn có
thể không đọc tất cả tác phẩm của tôi, nhưng nếu muốn tìm hiểu thế giới văn
học của tôi thì nên đọc Phong nhũ phì đồn”. Với tác phẩm này, Mạc Ngôn kết
thúc dòng tác phẩm viết về Cao Mật và Đông Bắc khởi đầu từ Cao lương đỏ.

Cũng sau tác phẩm này, Mạc Ngôn đã phải rời quân ngũ, chuyển về công tác
tại Nhật báo kiểm sát (năm 1997).
Sau Báu vật của đời, Mạc Ngôn nghỉ viết tiểu thuyết mấy năm, quay
sang viết kịch bản phim và tản văn. Đến năm 1999, ông quay lại với loạt 4 tác
phẩm tiểu thuyết đăng trên tạp chí Thu hoạch.
Mấy năm sau đó, ông cho in liên tục 11 tiểu thuyết dài như: 41 phát
pháo, Đàn hương hình, Sống đọa thác đầy, Ếch Trong đó, Ếch đã mang lại
cho giải thưởng văn học Mao Thuẫn (2011) và đưa ông trở thành “đại gia làng
văn”.
Mạc Ngôn dù là người nông thôn nhưng lại viết về thành phố và quân
đội rất thực.
Các tác phẩm tiểu thuyết của Mạc Ngôn được chia thành các mảng đề
tài chính sau:
- Quân đội: Ma chiến hữu, Cậu bé tóc vàng.
- Nông thôn: Cao lương đỏ, Báu vật của đời, Cây tỏi nổi giận, Sống đọa
thác đầy, 41 phát đại bác,…
- Thành phố: Tửu quốc, Rừng xanh lá đỏ,…
- Lịch sử: Đàn hương hình,…
Ngoài tiểu thuyết, ông còn viết trên 24 truyện vừa, hơn 60 truyện ngắn
và nhiều vở kịch cho sân khấu. Mạc Ngôn đã đóng góp cho nền văn học
Trung Quốc nhiều tác phẩm có giá trị và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế
giới. Cho đến nay, Mạc Ngôn đã có hơn 300 đầu sách, chưa kể những cuốn
10
tiểu thuyết đang trong thời kì sáng tạo. Với những đóng góp lớn lao đó, Mạc
Ngôn đã vinh dự được nhận giải thưởng Nobel Văn học vào 11/10/2012. Và
Mạc Ngôn trở thành nhà văn đầu tiên của Trung Quốc được nhận giải thưởng
văn chương cao quý.
Trong cuốn Mạc Ngôn và những lới tự bạch, Mạc Ngôn từng nói:
“…Tôi là một người xuất thân từ tầng lớp hèn kém, tác phẩm của tôi chứa đầy
quan điểm của thế tục. Nếu ai đó định tìm thấy những điều tao nhã sang trọng

trong tác phẩm của tôi, chắc chắn họ sẽ thất vọng. Đó là điều không thể.
Người thế nào thì nói lời thế ấy, cây nào thì quả ấy, chim nào thì tiếng hót ấy.
Tôi lớn lên từ đói rét cơ hàn, đã từng chứng kiến rất nhiều cảnh khổ đau và
bất công, trong lòng tôi tràn đầy sự cảm thông đối với nỗi đau của nhân loại
và sự phẫn nộ đối với bất công. Do đó tôi chỉ có thể viết ra những tác phẩm
như vậy…” [4,105]. Đây chính là quan điểm sáng tác cũng như phong cách
của Mạc Ngôn.
Trong tác phẩm Ếch, Mạc Ngôn từng viết: “Khi viết về số phận cá nhân
thì phải động đến nỗi đau lớn nhất của tâm hồn người ấy; viết về nhân sinh thì
phải lục lọi những điều không dám ngoái đầu nhìn lại trong kí ức của mình”
[6, 294]. Đó chính là tôn chỉ sáng tác, là tuyên ngôn nghệ thuật mang đậm bản
lĩnh “thẳng thừng và dấn thân” đã chi phối toàn bộ sáng tác của Mạc Ngôn và
làm nên đặc trưng tiểu thuyết của ông.
1.2. Tửu quốc trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của Mạc Ngôn.
Mạc Ngôn xuất hiện lần đầu tiên trên văn đàn văn học với tác phẩm
“Mưa đêm xuân”. Sau đó, một loạt các tác phẩm của ông được đăng trên
tạp chí Liên trì như: Người lính xấu, Vì con, Con đường bán bông, Âm
nhạc dân gian. Tạp chí này mở đầu cho sự nghiệp văn học của Mạc Ngôn
được ra mắt bạn đọc. Tuy nhiên, tên tuổi của Mạc Ngôn không được nhiều
người biết đến. Mạc Ngôn chỉ thực sự được độc giả biết đến rộng rãi khi
11
ông cho ra mắt tiểu thuyết “Cao lương đỏ” gây chấn động văn đàn văn học
và tạo được tiếng vang lớn.
Trong hành trình sáng tạo của Mạc Ngôn, Tửu quốc là tiểu thuyết dài
thứ ba của Mạc Ngôn sau Cao lương đỏ và Mười ba bước. Tiểu thuyết này
được Mạc Ngôn bắt tay sáng tác vào mùa đông năm 1989 và hoàn thành năm
1992, đến năm 1993 ông cho ra mắt bạn đọc. Với Mạc Ngôn, ông đã dành rất
nhiều tâm huyết của mình để sáng tạo nên Tửu quốc, được coi là tác phẩm
hoàn mĩ nhất từ trước đến nay của Mạc Ngôn và ông cảm thấy tự hào về nó.
Tửu quốc trở thành niềm tự hào của Mạc Ngôn vì “Các nhà văn đương đại

Trung Quốc có thể viết ra đủ các cuốn sách khác nhưng không ai có thể viết
được một cuốn giống như Tửu quốc, cuốn sách ấy chỉ có nhà văn như tôi mới
có thể viết ra”. Tửu quốc không chỉ được nhà văn đổi mới về đề tài mà còn
đổi mới về thi pháp, về kết cấu cốt truyện, tạo nên một diện mạo mới cho văn
học Mạc ngôn nói riêng và Văn học Trung Quốc đương đại nói chung.
Tuy nhiên, sau khi được xuất bản, phản ứng của bạn đọc và các nhà phê
bình lại không như mong đợi của Mạc Ngôn: “cuốn sách này không hề để lại
tiếng tăm gì, các nhà phê bình xưa nay luôn thích nghe ngóng mọi động tĩnh
cũng đều im hơi lặng tiếng. Tôi đoán có lẽ họ đã bị tôi làm cho phát sợ. Họ
luôn mồm kêu gào sáng tạo, nhưng khi có sự sáng tạo thực sự thì họ lại đều
nhắm mắt lại cả”. Đối với độc giả trong nước, Tửu quốc không hề tạo ra bất kì
phản ứng nào và không được các nhà phê bình chú ý đến bởi lẽ đề tài mà Mạc
Ngôn nói đến là một vấn đề nhạy cảm. Đó là đề tài “ăn thịt trẻ em” của một số
cán bộ ở thành phố Rượu, qua đó, Mạc Ngôn muốn lên tiếng về sự suy thoái
đạo đức của các cán bộ này. Vì thế, Tửu quốc dường như bị quên lãng, bị bỏ
quên trên các kệ sách, không những độc giả nói chung không hề biết Mạc
Ngôn đã viết tiểu thuyết này mà ngay cả nhiều nhà phê bình cũng không biết.
12
Nếu Tửu quốc không được độc giả trong nước quan tâm thì khi được
dịch sang tiếng Pháp, tiểu thuyết này lại giúp Mạc Ngôn giành được giải
thưởng văn học Laurebataillou của Pháp. Trong ba tác phẩm Trung Quốc
được lọt vào vòng trong thì Tửu quốc đã được ban giám khảo lựa chọn để trao
giải thưởng. “Ban giám khảo đánh giá Tửu quốc là một cuốn có nhiều tinh
thần sáng tạo, mặc dù, chắc chắn nó không phải là một cuốn bán chạy, nhưng
nó chứa đựng những ý tứ sâu xa và nhiều ý nghĩa tượng trưng”. Những nhận
xét xác đáng của Ban giám khảo cũng như những ưu điểm của Tửu quốc đều
được cô đọng trong hình tượng rượu và thịt trẻ em. Qua hai hình tượng này,
tác giả đã phơi bày bản chất thú tính của cán bộ nhà nước thành phố Rượu nói
riêng và hơn hết là cán bộ lãnh đạo Trung Quốc nói chung: “dữ hơn sói, đáng
sợ hơn hổ”. Vì vậy, tác phẩm đã mang tầm khái quát cao, có ý nghĩa sâu xa.

Mạc Ngôn từng tâm sự, ông có nhiều điểm chưa vừa ý với Cao lương
đỏ, Cây tỏi nổi giận, nếu có thể viết lại, ông có thể viết lại hay hơn nhưng với
Tửu quốc thì ông không thể viết lại hay hơn thế nữa. Có thể thấy, với Mạc
Ngôn thì Tửu quốc là tác phẩm hoàn hảo nhất, hoàn mĩ nhất lúc bấy giờ.
Chính vì thế mà Tửu quốc mới trở thành niềm tự hào của Mạc Ngôn và được
ông tâm nhất. Sau này, ông cũng hoàn thành cuốn tiểu thuyết Báu vật của đời
với một đề tài lớn mà ông luôn đau đáu, tác phẩm đã đem lại nhiều phiền
phức cũng như những tiếng vang mới cho Mạc Ngôn. Khi được so sánh hai
tác phẩm Tửu quốc và Báu vật của đời, Mạc Ngôn cho rằng “Tửu quốc là
người tình xinh đẹp và ngang ngược” còn “Báu vật của đời là người đàn bà
đôn hậu và trầm tĩnh”. Điều này cho thấy Mạc Ngôn rất thích và yêu quý Tửu
quốc – đứa con tinh thần mà ít được độc giả quan tâm.
Dù Tửu quốc ra đời không tạo được tiếng vang như các tiểu thuyết khác
của Mạc Ngôn nhưng nó vẫn đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp văn học
của ông. Tác phẩm giúp ta hiểu rõ hơn về hiện thực xã hội Trung Quốc đương
13
thời. Trong xã hội bấy giờ, những hệ lụy, những bất công ngang trái trong xã
hội được Mạc Ngôn phơi bày tất thảy ra ánh sáng khiến độc giả có cái nhìn
khác cái xã hội hoa lệ mà suy thoái, xuống cấp. Tác phẩm còn tạo cho những
người nghiên cứu một cách tiếp cận mới, một cách khai thác mới. Và Tửu
quốc mãi là cuốn tiểu thuyết tâm đắc nhất của Mạc Ngôn.























14
CHƢƠNG 2
THỦ PHÁP LẠ HÓA TRONG TỬU QUỐC CỦA MẠC NGÔN

2.1. Khái niệm lạ hóa.
Khái niệm “lạ hóa” (estrangemet) xuất hiện vào những năm 20 của thế
kỉ XX gắn với trường phái hiện thực Nga, với những đại diện tiểu biểu như:
Sơ-clốp-xki, I-a-cu-bin-xki, Vi-nô-cua, I-a-cốp-xơn, Tư-nha-nốp,… Họ coi lạ
hóa như là một nguyên tắc nghệ thuật phổ quát thể hiện trong mọi cấp độ của
cấu trúc nghệ thuật, có tác dụng phá vỡ tính tự động máy móc của sự cảm thụ
bằng cách tạo ra một “cái nhìn mới” – “khác lạ” – đối với sự vật và hiện
tượng quen thuộc chứ không phải là “nhận ra” cái đã biết, tức là phá vỡ
những “khuôn hình” đã quen để người ta có thể nhận ra các ý nghĩa mới của
sự vật và nhân sinh. [2, 172]
Về sau, khái niệm “lạ hóa” được Brecht đưa vào mĩ học, căn cứ vào lí
thuyết và thực tiễn sân khấu của ông. Theo Brecht, lạ hóa là gây nên ở chủ thể
tiếp nhận sự “ngạc nhiên và hiếu kì” trước một góc nhìn mới làm nảy sinh

một thái độ tiếp nhận tích cực đối với cái thực tại được “lạ hóa” kia.
Lạ hóa xuất hiện trong sáng tác văn chương như là một thủ pháp nghệ
thuật độc đáo, có tác dụng lớn trong việc kiến tạo thế giới hình tượng của tác
phẩm. Nó giúp nhà văn khai thác những khía cạnh khác nhau của hiện thực
cuộc sống hay có thể phóng ngòi bút của mình vào những địa hạt có những
thời kì xem là “nhạy cảm” như tôn giáo, tính dục,… nhằm tạo ra sức hấp dẫn,
mê hoặc đối với độc giả. Lạ hóa hấp dẫn người đọc bằng sự mông lung, ma
mị, huyễn tưởng, sự phi thường, khác lạ và ngay những sự vật bình thường
cũng có thể trở thành lạ lẫm thông qua ngôn ngữ miêu tả của nhà văn.
15
Như vậy, nhìn chung thủ pháp lạ hóa là để chỉ toàn bộ thủ pháp trong
nghệ thuật có khả năng tạo ra hiệu quả thẩm mĩ mới mẻ về sự vật, hiện tượng
được miêu tả. Đó là cái chưa quen, khác lạ gây một sự “ngạc nhiên”.
Khác với các nhà văn trên văn đàn Trung Quốc hiện đại, Mạc Ngôn
không bao giờ lặp lại chính mình. Mỗi tiểu thuyết của ông là một con đường
tìm tòi, sáng tạo độc đáo, tạo ra phong cách tiểu thuyết riêng: phong cách hiện
thực huyền ảo Tửu quốc, phong cách tân lịch sử như Đàn hương hình, Báu vật
của đời. Thế nhưng có một chất keo dính kết các tiểu thuyết góp phần làm
nên phong cách tác giả chính là cách lạ hóa văn chương trong miêu tả, kể
chuyện. Nhà văn rất coi trọng ngôn ngữ văn chương nên luôn lựa chọn những
cách diễn đạt mới mẻ gây hứng thú người đọc.
Trên hành trình sáng tạo nghệ thuật của mình, Mạc Ngôn sớm đã khẳng
định một phong cách riêng không cùng chung với bất cứ nhà văn nào. Ông
từng mong muốn viết được những thứ chỉ thuộc về ông. Với niềm khao khát
đó, Mạc Ngôn đã không ngừng tìm tòi để đổi mới, không ngừng sáng tạo để
tạo ra phong cách độc đáo của riêng mình. Sự sáng tạo nghệ thuật, theo ông
“thực sự không phải là sự chen nhau theo mốt mà là cách viết về những gì
mình quen thuộc, dùng ngòi bút tả thực, đồng thời dựa vào sức tưởng tượng để
tạo ra những mùi vị của tồn tại và những sự thực không có thực, làm cho tiểu
thuyết có cảm giác của sự sống”. Một trong những yếu tố tạo nên sự khác biệt

ấy chính là việc nhà văn sử dụng thủ pháp lạ hóa trong tác phẩm mình. Vậy cội
nguồn của cái lạ hóa trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn xuất pháp từ đâu?
Trước hết, cái lạ trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn xuất pháp từ tuổi thơ
gắn bó tha thiết với quê hương. Với Mạc Ngôn thì quê hương Cao Mật là một
báu vật của nhà văn, là huyết địa của tiểu thuyết Mạc Ngôn. Từ quê hương
thân yêu, quen thuộc, Mạc Ngôn đã sáng tạo ra cả một gia tài văn học cho
riêng mình với đủ các thể loại như: tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn,… Và
16
trên không gian quen thuộc này, Mạc Ngôn đã bày đặt nên bao câu chuyện kì
lạ hấp dẫn, lôi cuốn độc giả. Quê hương Cao Mật còn là nơi gắn bó thân thiết
với Mạc Ngôn, với những kí ức buồn vui tuổi thơ của nhà văn. Chính những
trải nghiệm thời thơ ấu của Mạc Ngôn đã được ông đưa vào trong tác phẩm
của mình như một thứ chất liệu. Là vùng đất quê hương của Liêu trai, ngay từ
nhỏ, Mạc Ngôn đã được nghe rất nhiều câu chuyện li kì về liêu trai với những
yếu tố kì ảo. Vì vậy, Mạc Ngôn đã tiếp thu những điều đó để làm tài sản và
đưa vào các sáng tác của mình để tạo ra những tác phẩm với nhiều nét lạ hóa,
kì lạ.
Cái lạ trong tác phẩm Mạc Ngôn có được còn nhờ vào khả năng nắm
bắt cảm giác của tác giả. Tiểu thuyết của Mạc Ngôn không còn là cốt truyện
hoàn chỉnh như tiểu thuyết truyền thống mà đó chỉ là cái khung truyện mà
thôi. Nhưng trong cái khung ấy chứa đầy những cảm giác đó chính là linh hồn
của tiểu thuyết Mạc Ngôn. Đối với Mạc Ngôn, “cảm giác mới” là sự lăn lội
vào trong cảm giác, cảm xúc của nhân vật, dùng bút pháp kì ảo để diễn tả nó
một cách tinh tế, li kì và quái đản. “Bằng bút pháp tả thực kết hợp với bút
pháp tượng trưng, biến hình, huyền ảo, khoa trương,… tác giả đã khiến cho
một ánh mắt, một nụ cười, một tiếng thở dài, một cảm xúc nhỏ… cũng trở
thành hình ảnh có hương có sắc có mùi có vị”. [10, 389]
Việc Mạc Ngôn sử dụng thủ pháp lạ hóa trong các tác phẩm của mình
còn do ông kế thừa truyền thống hiếu kì trong tiểu thuyết Trung Quốc nói
riêng và văn học Trung Quốc nói chung. Ngay từ đời Hán, một số truyện đã

mang yếu tố kì dị, kì quái rất đậm. Đến thời Đường, tiểu thuyết truyền kì giữ
một vị trí quan trọng, nó khẳng định hiếu kì đã trở thành hệ thống. Thời Tống
– Nguyên cũng tiếp thu truyền thống hiếu kì này và được phản ánh trong tiểu
thuyết thoại bản. Tiểu thuyết thoại bản Tống – Nguyên tràn ngập chữ kì với
cốt truyện li kì, hấp dẫn là điều không thể thiếu của tiểu thuyết này. Vì vậy,
17
truyền thống hiếu kì đến thời kì này trở nên phổ biến hơn. Đặc biệt, đến tiểu
thuyết Minh – Thanh đã kế thừa trọn vẹn và đưa truyền thống hiếu kì đạt đến
đỉnh cao. Chữ kì tràn ngập trong các thiên tiểu thuyết: kì nhân, kì án, kì oan,
kì tình,… Vào thế kỉ XX, truyền thống này trở nên mờ nhạt hơn nhưng vẫn có
thể nhận thấy trong các sáng tác của Lỗ Tấn. Bằng ngòi bút hiện thực tỉnh táo
và phép lạ hóa tài tình, Lỗ Tấn đã đem đến cho độc giả những nhận thức mới
lạ từ những con người rất quen. Và đến cuối thế kỉ XX, Mạc Ngôn đã học tập
và kế thừa truyền thống hiếu kì của tiểu thuyết Trung Quốc. Sự dung hợp giữa
truyền thống hiếu kì của dân tộc với những yếu tố kinh dị, huyền ảo của văn
học châu Âu, châu Mĩ đã tạo nên sự độc đáo cho tiểu thuyết của Mạc Ngôn.
Cuối cùng, thủ pháp lạ hóa được sử dụng nhiều trong các sáng tác của
Mạc Ngôn còn do ông tiếp thu, chịu ảnh hưởng từ chủ nghĩa hiện thực huyền
ảo. Đây là trào lưu văn học của văn học châu Mĩ La-tinh, mượn những truyền
thống dân gian cổ xưa để tạo ra những hiện thực mới về xã hội. Nguyên tắc
sáng tác theo chủ nghĩa hiện thực huyền ảo là: biến hiện thực thành hoang
đường mà không đánh mất tính chân thực. Nhờ tiếp thu những ảnh hưởng của
chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, ta thấy chữ “kì” ngập tràn trong các sáng tác
của Mạc Ngôn.
Đó là một số cơ sở để hình thành nên thủ pháp lạ hóa trong tiểu thuyết
của Mạc Ngôn, góp phần làm nên phong cách nghệ thuật độc đáo của Mạc
Ngôn, khiến ông không giống với bất kì một nhà văn nào. Nhờ thủ pháp lạ
hóa mà các tác phẩm của Mạc Ngôn thực sự thu hút bạn đọc, tạo sự hấp dẫn,
lôi cuốn nơi độc giả.
2.2. Lạ hóa nhân vật.

2.2.1. Khái niệm nhân vật.
Đặc trưng của văn học là phản ánh thế giới khách quan bằng hình
tượng văn học. Chính vì thế, trong bất cứ tác phẩm văn học nào, nhân vật
18
luôn đóng vai trò quan trọng. Những quan niệm nghệ thuật và lí tưởng thẩm
mĩ của nhà văn đều được thể hiện qua nhân vật. Theo Từ điển thuật ngữ văn
học thì nhân vật văn học là “một con người cụ thể được miêu tả trong các tác
phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng (Tấm, Cám, chị Dậu, anh
Pha), cũng có thể không có tên riêng như thằng bán tơ, một mụ nào trong
Truyện Kiều,… Khái niệm văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ,
không chỉ một con người cụ thể nào cả, mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó
trong tác phẩm. Chẳng hạn có thể nói: nhân dân là nhân vật chính trong Đất
nước đứng lên của Nguyên Ngọc, đồng tiền là nhân vật chính trong Ơ-giê-ni
Gơ-răng-đê của Ban-dắc”. [2, 235]
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học định nghĩa: “Nhân vật văn học là
một trong những khái niệm trung tâm để xem xét sáng tác của một nhà văn,
một khuynh hướng, trường phái hoặc dòng phong cách. Nhân vật văn học là
hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại
toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân
vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường
được gán cho cho những đặc điểm giống với con người”. [2]
Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể
đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống, cho dù nhân vật ấy có gần
với nguyên mẫu ngoài đời. “Đó không phải là sự sao chụp đầy đủ mọi chi tiết
biểu hiện cụ thể của con người mà chỉ là sự thể hiện con người qua những đặc
điểm điển hình về tiểu sử nghề nghiệp, tính cách. Nhân vật văn học có thể là
người hoặc là các con vật, loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho
những đặc điểm giống con người. Nhân vật văn học có thể được miêu tả trực
tiếp hoặc gián tiếp qua sự cảm nhận của những người xây dựng đối với nhân
vật hay qua đồ vật, môi trường sống”.


19
2.2.2. Lạ hóa nhân vật.
Là nhà văn nông thôn nhưng Mạc Ngôn viết về thành phố rất chân
thực, phản ánh được những mặt trái của xã hội văn minh nơi thị thành. Mỗi
một nhân vật trong tiểu thuyết của ông đều có một tính cách, một hoàn cảnh
được Mạc Ngôn dụng công xây dựng để thể hiện những ý đồ nghệ thuật của
mình. Qua các trang văn của Mạc Ngôn, ta thấy các nhân vật trong tiểu thuyết
của ông đều là nhân vật kì lạ, thể hiện một phương diện của thủ pháp lạ hóa.
2.2.2.1. Lạ hóa ngoại hình.
Nhân vật với ngoại hình lạ hóa đầu tiên phải kể đến là Dư Một Thước.
Ngay từ cái tên của nhân vật đã gợi lên được ngoại hình của nhân vật, cùng
với đó là nguồn gốc xuất thân. Dư Một Thước hiện lên với chân dung của một
người lùn: cao “một thước năm tấc” và nặng chưa đến ba mươi cân, được xếp
vào hạng người lùn của thành phố.
Ở thành phố Rượu, không ai có thể biết Dư Một Thước tuổi tác như thế
nào bởi những thông tin này về hắn còn mơ hồ, chưa rõ ràng. Mãi sau này,
trong một cuộc nói chuyện với Lí Một Gáo, Dư Một Thước tiết lộ hắn đã tám
mươi lăm tuổi. Với một người có dung mạo không thay đổi suốt mấy chục
năm qua như Dư Một Thước thì điều này gây ngạc nhiên không nhỏ cho tất cả
mọi người và cũng không ai có thể đoán ra số tuổi đó của hắn nếu hắn không
nói ra. Ngay cả nguồn gốc xuất thân của Dư Một Thước cũng là một diều bí
ẩn, không một ai ở thành phố Rượu biết quê hương hắn ở đâu. Thông tin duy
nhất mà mọi người biết đến cũng là Dư Một Thước tiết lộ: quê hắn là “nơi có
ánh nắng rực rỡ”, ngoài ra không biết có thêm bất kì một thông tin gì khác.
Điều này cũng thật mơ hồ khi mà trên đất nước Trung Quốc rộng lớn có bao
nhiêu là vùng đất có ánh nắng rực rỡ. Mọi điều về Dư Một Thước vẫn còn là
một ẩn số.

×