TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
HÀ THỊ KIM ANH
NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT THƠ
CHẾ LAN VIÊN
QUA TẬP THƠ ĐIÊU TÀN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học
HÀ NỘI – 2014
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
LỜI CẢM ƠN
Khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Ngôn Ngữ nghệ thuật thơ Chế Lan
Viên qua tập Điêu tàn” được thực hiện tại trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội
2 dưới sự hướng dẫn của cô giáo ThS. Hoàng Thị Duyên.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới cô giáo
ThS. Hoàng Thị Duyên - Người thầy đã hướng dẫn, chỉ bảo, tận tình, trực
tiếp và thường xuyên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, các thầy cô trong khoa Ngữ
Văn, trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2 và các bạn trong tập thể lớp K36A,
cùng các bạn trong tổ khóa luận - những người luôn gần gũi, động viên tôi
trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả khóa luận
Hà Thị Kim Anh
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi: Hội đồng bảo vệ khóa luận tốt nghiệp Đại học - Khoa:
Ngữ văn - Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2; năm học 2013 - 2014.
Tên tôi là: Hà Thị Kim Anh
Sinh viên: K36A Ngữ Văn - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Xin cam kết khóa luận: “Ngôn ngữ nghệ thuật thơ Chế Lan Viên qua
tập Điêu tàn”.
Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của cô
giáo ThS. Hoàng Thị Duyên.
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả khóa luận
Hà Thị Kim Anh
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
5. Phương pháp nghiên cứu 5
6. Đóng góp của khóa luận 5
7. Cấu trúc của khóa luận 6
PHẦN II: NỘI DUNG 7
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT THƠ VÀ
VÀI NÉT VỀ NHÀ THƠ CHẾ LAN VIÊN 7
1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật 7
1.1.1. Khái niệm 7
1.1.2. Vai trò của ngôn ngữ nghệ thuật trong văn học 7
1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ 8
1.2.1. Khái niệm 8
1.2.2. Đặc điểm ngôn ngữ thơ 8
1.3. Vài nét về tác giả Chế Lan Viên 12
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT THƠ
CHẾ LAN VIÊN 14
2.1. Những yếu tố chi phối tới ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên 14
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội 14
2.1.2. Quan niệm nghệ thuật trong thơ Chế Lan Viên 16
2.2. Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật thơ Chế Lan Viên 19
2.2.1. Ngôn ngữ mang tính chất suy tưởng, trí tuệ 19
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
2.2.2. Ngôn ngữ kinh dị, rùng rợn 24
2.2.3. Ngôn ngữ mang tính chất bi thương 29
CHƢƠNG 3: NHỮNG BIỆN PHÁP, THỦ PHÁP XÂY DỰNG NGÔN
NGỮ NGHỆ THUẬT 36
3.1. Biện pháp nghệ thuật 36
3.1.1. Biện pháp triết lý 36
3.1.2. Biện pháp tâm tình 39
3.2. Thủ pháp nghệ thuật 47
3.2.1. Tưởng tượng 47
3.2.2. Đối lập - tương phản 50
3.2.3. Liên tưởng 54
3.2.4. Tự hỏi, tự vấn 56
PHẦN III: KẾT LUẬN 59
THƢ MỤC THAM KHẢO 61
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
SVTH: Hà Thị Kim Anh - Khoa: Ngữ Văn Trang: - 1-
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ XX đã trôi qua nhưng “chúng tôi quan niệm rằng thế kỷ XX
là thế kỷ dữ dội nhất, quyết liệt nhất, dã man nhất và cũng tiến bộ nhất”.
[25; 14] Chính trong thời gian này xuất hiện nhiều nhà thơ tiêu biểu cho dân
tộc như “Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền…trong
các bài thơ của mình, họ đã ghi lại được một vài mảnh vụn của đời sống
chính trị, xã hội và tâm hồn của người Việt Nam trong cái thế kỷ vĩ đại này
bằng những hình thức độc đáo của nghệ thuật ngôn từ”. [25; 13] Trong số
các bậc thi bá, chúng tôi chọn nhà thơ Chế Lan Viên để nghiên cứu. Viết về
Chế Lan Viên Hoài Thanh đã nhận xét: “Con người này của trời đất bốn
phương, không thể lấy kích tấc thường mà hòng đo được”. [24; 288] Còn
Nguyễn Hạnh dẫn ý: “…anh luôn đi song hành với cuộc sống, với thời đại,
anh mải mê tìm tòi, anh muốn thử sức, muốn bộc lộ mình ở tất cả giọng
điệu, ở mọi cung bậc, sắc thái, (…) Giọng cao là anh, giọng trầm cũng là
anh. Súc tích, cổ điển, truyền thống mà rất mực phóng túng, hiện đại cũng
đủ cỡ khó mà đoán được (…) Anh là nhà thơ đầy bản lĩnh, mở những đường
mới cho thi ca hiện đại”. [15; 14]
Lý do mà chúng tôi chọn Chế Lan Viên để nghiên cứu bởi vì thứ nhất
một lý do rất đơn giản là chúng tôi rất yêu thơ ông. Lý do thứ hai là thơ ông là
tứ thơ triết mỹ, giàu màu sắc nhận thức luận, một tứ thơ không chỉ ru mà còn
thức tỉnh, không chỉ ơ hời mà còn đập bàn quát tháo, lo toan. (Đó là một loại
thơ tranh luận, hùng biện thơ chính luận đánh giặc rất tiêu biểu mà Chế Lan
Viên đã sử dụng rất thành công). Lý do thứ ba thơ Chế Lan Viên không chỉ
phản ánh lịch sử, phản ánh thời đại, mà còn phản ánh bản thân tiến trình thơ
ca dân tộc thế kỷ XX. Chế Lan Viên là một nhà thơ tài năng, nhà hoạt động
văn hóa có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Thơ Chế
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
SVTH: Hà Thị Kim Anh - Khoa: Ngữ Văn Trang: - 2-
Lan Viên gần như bao trùm lên cả thế kỷ XX trong cả chiều dài và bề sâu của
nó. Ông gắn đời và thơ mình với dân tộc và sự nghiệp cách mạng, đồng thời
luôn thể hiện khát khao sáng tạo của một bản lĩnh, một tâm hồn thi sĩ. Chế
Lan Viên thuộc trong số không nhiều những nhà thơ mà sự sáng tạo không
chỉ làm giàu cho hiện tại mà còn tạo lực thúc đẩy cho qúa trình vận động văn
học, có ý nghĩa gieo giống cho mùa sau.
Trước cách mạng tháng Tám, cùng với những quan niệm khác lạ về thơ,
về thi sĩ, “Điêu tàn đã đột ngột ra đời giữa làng văn học Việt Nam như một
niềm kinh dị”(từ dùng của Hoài Thanh). Thời kỳ đổi mới Chế Lan Viên để lại
hàng trăm tác phẩm đặc sắc. Quá trình sáng tác thơ của ông là sự sáng tạo
không ngừng và tìm tòi không mệt mỏi. “Chế Lan Viên thu hút tinh hoa của
nhiều nền thơ vào thơ mình mà không làm mất bản sắc riêng, bản sắc dân
tộc.” [2; 637] Chế Lan Viên đã có mặt trong lịch sử văn học như một tính
cách, cá tính sáng tạo mạnh mẽ và độc đáo. “Chế Lan Viên là một nhà thơ
không yên ổn, anh không yên ổn trong trăn trở sáng tác của mình. Và cũng
mang đến sự không yên ổn trong tình hình thơ chung”. [2; 684] Lý do cuối
cùng, “Chế Lan Viên là nhà thơ sử dụng thơ để bàn luận về nghề nghiệp làm
thơ một cách say sưa nhất, đầy đủ nhất. Từ quan niệm về “thơ loạn”, “thơ
điên” đến thơ có ích, thơ hay thơ dở, từ trách nhiệm công dân đến thiên chức
nghệ sĩ của người làm thơ, từ tưởng tượng đến cảm xúc, hình ảnh ngôn ngữ
và trí tuệ sáng tạo, Chế Lan Viên đều đề cập tới đủ”. [25; 15]
Điều gì đã khiến người đọc thảng thốt, giật mình, điều gì đã làm cho
Điêu tàn trở thành lẻ loi và bí mật? Đó chính là ở nội dung tập thơ, mà nội
dung ấy được thể hiện qua ngôn ngữ nghệ thuật trong Điêu tàn. Ngôn ngữ
nghệ thuật độc đáo, khác lạ đó được xây dựng bởi quan niệm nghệ thuật
được coi là tuyên ngôn của trường thơ Loạn. Với quan niệm nghệ thuật ấy,
tác giả Điêu tàn đã vẽ lên bức tranh “kì lạ” như thế nào? Khóa luận này
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
SVTH: Hà Thị Kim Anh - Khoa: Ngữ Văn Trang: - 3-
chúng tôi xin được đi tìm hiểu ngôn ngữ nghệ thuật mà Chế Lan Viên khắc
họa trong Điêu tàn.
Dựa trên tính chất mới mẻ của vấn đề nghiên cứu và trên sự mong muốn
có đóng góp nhỏ trong việc nghiên cứu và ứng dụng với những lý do trên
chúng tôi quyết định lựa chọn và thực hiện đề tài: “Ngôn ngữ nghệ thuật thơ
Chế Lan Viên qua tập Điêu tàn”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tìm hiểu Điêu tàn của Chế Lan Viên không phải là vấn đề hoàn toàn
mới mẻ. Đi vào khai thác tìm hiểu ở một số phương diện khác nhau đã có rất
nhiều bài viết, công trình, ý kiến xoay quanh tập thơ này.
Nhà phê bình Hoài Thanh đã nhận xét về Điêu tàn như sau: “Cái mạnh
mẽ, cái to lớn ấy, những đau thương vô lý và da diết ấy, cái thế giới lạ lùng và
rùng rợn ấy, ai có ngờ ở trong tâm lý cậu bé 15-16 tuổi. Cậu ấy đã khiến bao
người ngạc nhiên. Giữa đồng bằng nó đứng sừng sững như một cái tháp
Chăm chắc chắn và lẻ loi, bí mật. Chúng ta người đồng bằng, thỉnh thoảng
trèo lên đó có người trèo đuổi sức mà trầm ngâm và xem gạch rung, nghe
tiếng rên rỉ của ma Hời cũng hay, nhưng triền miên trong đó không nên, riêng
tôi mỗi lần nấn ná trên ấy quá lâu, đầu tôi choáng váng”. [24; 219]
Phong Lan đã dẫn ý “Nếu Chế Lan Viên là con cháu của họ Chế Bồng
Nga, Chế Mân, thì thơ này là tiếng gọi của máu và nước mắt đầy bi hận của
dân tộc Chàm”. “Nếu anh là người Việt mượn tên Chàm thì đây là những lời
thanh cao tuyệt vời, đáng ghi vào lịch sử thơ ca”. [28; 28]
Trong Điêu tàn và tâm hồn Thơ Chế Lan Viên, Hà Minh Đức khẳng định
Điêu tàn khai thác một đề tài thi ca căn cứ lịch sử nhưng không rõ mối quan
hệ với thi nhân: “Sự sụp đổ cuả nhà nước Chàm. Một thế giới u linh của quỷ
dữ ma hời, những đầu lâu sọ dừa, máu xương và cả những tiếng khóc than
không dứt và cuối cùng là tấm lòng đau đớn, nối tiếc không nguôi của nhà thơ
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
SVTH: Hà Thị Kim Anh - Khoa: Ngữ Văn Trang: - 4-
với những gì đã mất đi của xứ Chàm”. [ 8; 281]
Nguyễn Minh Vỹ trong: Đọc lại Điêu tàn - tập thơ đầu của Chế Lan
Viên đăng trên tạp chí Văn học, số 1, 1988 lại cho rằng nguyên nhân cốt yếu
tác động đến Chế Lan Viên để sản sinh ra Điêu tàn không chỉ đơn giản là
những di tích Chàm mà là cuộc sống trước mắt bấy giờ, cuộc sống của dân tộc
Việt Nam, nhân dân Việt Nam. Cơ sở của nỗi niềm suy tư, yêu, ghét, nhớ
nhung, thương tiếc chính là yêu nước, yêu giống nòi Việt. Không phải Chế
Lan Viên viết Điêu tàn cho dân tộc Chàm mà viết cho chính dân tộc Việt
Nam trên bờ vực thẳm.
Trong bài viết Chế Lan Viên và 3 miền sửng sốt, Trần Mạnh Hảo đã
nhận xét Điêu tàn một cách khách quan như sau: “Điêu tàn là tập thơ mê sản
nhất của văn học Việt Nam, biểu hiện thiên tài kì lạ Chế Lan Viên là niềm
sửng sốt, là cú sốc của mỹ học cái chết độc nhất vô nhị”.
Tác giả Vũ Tuấn Anh trong Chế Lan Viên _một tâm hồn, một chân dung
văn hóa được in trong sách Chế Lan Viên về tác giả và tác phẩm lại cho rằng,
bao trùm lên tập thơ là nỗi chán cường tuyệt vọng của thi nhân. Trong bi kịch
tinh thần của nhà thơ có bi kịch của dân tộc, nỗi buồn của thời đại.
Lê Thiều Quang với Cảm tưởng của tôi khi đọc Chế Lan Viên in trên Tao
đàn, số 5, tháng 5/1939 đánh giá tập Điêu tàn là công trình sáng tác của một trí
tưởng tượng mênh mang, không bờ bến. Điêu tàn mới lạ đến làm ngạc nhiên và
làm ngờ vực nhiều người nhớ trí tưởng tượng không thường của tác giả.
Trong Điêu tàn_niềm bi hận của Chế Lan Viên, đăng trên tạp chí Văn
học,số 11, 1998, Hồ Thế Hà cho rằng Điêu tàn từ quan niệm khách thể thẩm
mĩ mang tính tưởng tượng, hư cấu, siêu hình và chủ thể sáng tạo mang tính
cực đoan, thần bí, quái đản được chỉ đạo bởi tư duy tôn giáo, siêu thực. Chế
Lan Viên đã hình thành tư duy triết lí, suy tưởng.
Theo giáo sư Trần Đình Sử, Chế Lan Viên đi tìm cái đẹp không phải
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
SVTH: Hà Thị Kim Anh - Khoa: Ngữ Văn Trang: - 5-
trong cái “chân”, cái “thiện” mà tìm trong hư ảo với Điêu tàn. Điều này được
khẳng định trong Đôi điều về mĩ học của nhà thơ Chế Lan Viên đăng trên báo
Văn nghệ số 26, năm 1999.
Mặc dù vậy, các nhà nghiên cứu tùy theo quan niệm và sở thích cá nhân
mới chỉ đề cập đến một khía cạnh, một vấn đề trong Điêu tàn. Đặc biệt, do
khuôn khổ các bài đăng báo hay tham gia hội thảo, các tác giả chỉ nêu vấn đề,
cảm nhận của mình mà chưa đi sâu vào làm rõ nhận xét qua toàn bộ Điêu tàn.
Kế thừa người đi trước, chúng tôi đi sâu vào Ngôn ngữ nghệ thuật thơ
Chế Lan Viên qua tập Điêu tàn, mong sẽ có cái nhìn sâu sắc hơn về tập
thơ đầu tay của Chế Lan Viên, đồng thời góp phần tìm hiểu sự nghiệp thơ ca
của ông.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu ngôn ngữ nghệ thuật thơ Chế Lan Viên trong tập thơ Điêu tàn
trên các phương diện: Đặc điểm ngôn ngữ, sự độc đáo trong các biện pháp,
thủ pháp sáng tạo ngôn từ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Chế Lan Viên qua tập thơ
Điêu tàn.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là chủ yếu đi sâu khảo sát tập thơ Điêu
tàn. Ngoài ra còn so sánh thơ Chế Lan Viên ở các tập thơ khác.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong đề tài, chúng tôi sử dụng 3 phương pháp cơ bản:
Phương pháp thống kê, phân loại
Phương pháp so sánh
Phương pháp phân tích tổng hợp
6. Đóng góp của khóa luận
Về mặt khoa học: Khóa luận đưa ra những cách tìm hiểu và đánh giá
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
SVTH: Hà Thị Kim Anh - Khoa: Ngữ Văn Trang: - 6-
mang tính cá nhân về ngôn từ nghệ thuật trong thơ Chế Lan Viên và tập
Điêu tàn.
Về mặt thực tiễn: Khóa luận góp phần cung cấp những tài liệu cho bạn
đọc yêu thơ Chế Lan Viên, cho người trực tiếp giảng dạy, học tập, tìm hiểu về
Chế Lan Viên và các sáng tác của ông, đặc biệt là tập Điêu tàn.
7. Cấu trúc của khóa luận
Khóa luận chia thành 3 phần: Mở đầu, nội dung, kết luận
Phần nội dung bao gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Khái quát về ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ và vài nét về nhà
thơ Chế Lan Viên
Chƣơng 2: Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật thơ Chế Lan Viên
Chƣơng 3: Những biện pháp, thủ pháp xây dựng ngôn ngữ nghệ thuật
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
SVTH: Hà Thị Kim Anh - Khoa: Ngữ Văn Trang: - 7-
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT THƠ VÀ
VÀI NÉT VỀ NHÀ THƠ CHẾ LAN VIÊN
1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật
1.1.1. Khái niệm
Macxim Gorki từng khẳng định: “Ngôn Ngữ là yếu tố thứ nhất của văn
học” [10; 215]. Ngôn ngữ là công cụ là chất liệu cơ bản của văn học vì vậy
văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ. Quả đúng như vậy, khi tiếp
cận tác phẩm văn học người đọc phải hiểu từng câu, từng chữ mới cảm thụ
được cái hay, cái đẹp của tác phẩm.
Vậy ngôn ngữ nghệ thuật là gì?
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì: “Ngôn ngữ mang tính nghệ thuật
được dùng trong văn học. Trong ngôn ngữ học, thuật ngữ này có ý nghĩa rộng
hơn, nhằm chỉ một cách bao quát các hiện tượng ngôn ngữ được dùng một
cách chuẩn mực trong cách văn bản nhà nước, trên báo chí, đài phát thanh,
trong văn bản và khoa học”. [10; 215]
Theo tác giả Trần Đình Sử trong cuốn Lí luận văn học: “Mọi tác phẩm
văn học đều được viết hoặc kể bằng lời: Lời thơ, lời văn, lời tác giả, gộp
chung gọi là lời văn. Nếu ngôn từ tức là lời nói, viết trong tất cả các tính chất
thẩm mĩ của nó là chất liệu của sáng tác văn học, thì lời văn là hình thức ngôn
từ nghệ thuật của tác phẩm văn học”. [23; 313].
Như vậy, ngôn ngữ nghệ thuật là một trong những yếu tố quan trọng thể
hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. Và ngôn ngữ nghệ
thuật chính là ngôn ngữ nhân dân, ngôn ngữ dân tộc được tác giả vận dụng tổ
chức trong tác phẩm để tạo ra hiệu quả và giá trị thẩm mĩ.
1.1.2. Vai trò của ngôn ngữ nghệ thuật trong văn học
Khác với loại hình nghệ thuật khác, văn học sử dụng ngôn ngữ là chất
liệu để “mã hóa” tư tưởng, cảm xúc…về đời sống. Một tác phẩm văn học khi
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
SVTH: Hà Thị Kim Anh - Khoa: Ngữ Văn Trang: - 8-
đến tay bạn đọc nó chỉ đơn giản là “một mớ” những kí tự. Muốn hiểu được
nó, bạn đọc phải “giải mã” văn bản đó để biến văn bản thành tác phẩm trong
tâm trí của mình.
Tính hình tượng, tính cảm xúc, tính cá thể…là thuộc tính cơ bản của
ngôn ngữ nghệ thuật. Nhờ đó mà văn học phản ánh đời sống theo đúng đặc
trưng mà không giống bất kì một loại hình nghệ thuật nào khác. Ngôn ngữ
nghệ thuật là hình thái hoạt động ngôn ngữ mang ý nghĩa thẩm mĩ. Nó sử
dụng để phục vụ nhiệm vụ trung tâm là xây dựng hình tượng văn học và giao
tiếp nghệ thuật. Vì vậy tính hình tượng, tính thẩm mĩ là thuộc tính bản chất
xuyên thấm vào mọi thuộc tính khác, qui định những thuộc tính ấy.
Ngôn ngữ dân tộc là vốn chung, ai cũng có thể dùng. Nhưng các nhà
văn, nhà thơ sử dụng ngôn ngữ lại không ai giống ai. Qua đó, ta thấy được tài
năng và phong cách của họ. Nhờ đặc điểm riêng về ngôn ngữ mà ta phân biệt
được thơ Nguyễn Khuyến với Tú Xương, Xuân Diệu với Nguyễn Bính…Qua
ngôn ngữ, ta thấy những hiểu biết sâu sắc của tác giả về vốn sống, ngôn ngữ,
qúa trình tích lũy ngôn ngữ, vốn hiểu biết về văn hóa…của tác giả.
Như vậy, ta không thể phủ định vai trò to lớn của ngôn ngữ nghệ thuật
đối với sáng tạo văn học.
1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ
1.2.1. Khái niệm
Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ được dùng trong sáng tác nghệ thuật, cụ thể là
thơ. Vì thơ là hình thức văn học thể hiện cảm xúc, tâm trạng nên ngôn ngữ
thơ là thứ ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàm súc, gợi cảm, có nhịp điệu…
1.2.2. Đặc điểm ngôn ngữ thơ
So với ngôn ngữ văn xuôi, ngôn ngữ thơ trữ tình có điểm khác biệt như:
a. Ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính
Thơ trữ tình phản ánh cuộc sống qua những rung động tình cảm. Thế
giới nội tâm của nhà thơ không chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ mà còn
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
SVTH: Hà Thị Kim Anh - Khoa: Ngữ Văn Trang: - 9-
bằng cả âm thanh, nhịp điệu của từ ngữ ấy. Nếu trong văn xuôi, các đặc tính
thanh lọc của ngôn ngữ (như cao độ, cường độ, trường độ…) không được tổ
chức thì trong thơ trái lại những đặc tính ấy lại được tổ chức một cách chặt
chẽ, có dụng ý, nhằm tăng hàm nghĩa cho từ ngữ, gợi ra những điều không
nói hết. Bởi vậy tính nhạc được coi là đặc trưng chủ yếu mang tính loại biệt rõ
nét của ngôn ngữ thơ ca.
Theo các nhà nghiên cứu, nhạc tính trong thơ được thể hiện ở 3 mặt cơ
bản: Sự cân đối, sự trầm bổng, sự trùng điệp:
Sự cân đối là sự tương xứng hài hòa giữa các dòng thơ. Sự hài hòa có thể
là hình ảnh, âm thanh:
“Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi”.
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Sự trầm bổng của ngôn ngữ thơ thể hiện ở cách hòa âm, ở sự thay đổi độ
cao giữa hai nhóm thanh điệu. Xuân Diệu đã biểu hiện được cảm xúc lâng
lâng, bay bổng theo tiếng đàn du dương, êm nhẹ:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”.
Chính Tố Hữu viết:
“Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa”
(Mẹ Tơm)
Đó đâu chỉ là âm vang của tự nhiên mà là âm vang của tâm hồn. Sự tầm
bổng còn thể hiện ở nhịp điệu:
“Sen tàn/cúc lại nở hoa
Sầu dài/ngày ngắn/đông đà sang xuân”.
Cách ngắt nhịp 2/4 và 2/2/4 đều đặn nhịp nhàng. Nhịp thơ ở đây là nhịp
của cảm xúc.
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
SVTH: Hà Thị Kim Anh - Khoa: Ngữ Văn Trang: - 10-
Như vậy âm thanh và nhịp điệu trong thơ không đơn thuần là hình thức
mà là yếu tố góp phần biểu hiện những khía cạnh tinh vi của đời sống tình cảm.
Sự trùng điệp thể hiện ở sự dùng vần, điệp từ, ngữ, điệp cú, vừa dễ nhớ,
vừa tạo nên vẻ trùng điệp cho ngôn ngữ thơ:
“Lầu mưa xuống, thềm lan mưa xuống
Mưa xuống lầu, mưa xuống thềm lan”
(Tiếng đàn mưa_Bích Khê)
Như vậy, nhạc điệu trong thơ là một đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ thơ.
Ngày nay có xu hướng bỏ vần để tạo cho câu thơ tự do. Nhưng nếu không có
một nhạc điệu nội tại nào đó thì sự đối xứng giữa các dòng, các đoạn thơ, tiết
tấu, nhịp điệu của câu thơ thì không còn là ngôn ngữ thơ nữa.
b. Ngôn ngữ thơ có tính hàm súc
Nếu ngôn ngữ văn xuôi là ngôn ngữ của cuộc sống đời thường, nó chấp
nhận mọi lớp từ, mọi sự kể lể,…thì ngôn ngữ thơ mang nặng tính “đặc
tuyển”. Một dung lượng ngôn ngữ hạn chế nhất trong các loại tác phẩm văn
học nhưng lại có tham vọng chiếm lĩnh cả thế giới. Nói như Ôgiêrop: “Bài thơ
là một lượng thông tin lớn nhất trong một diện tích ngôn ngữ nhỏ nhất”.
Chính sự hạn định trong số tiếng trong câu thơ, bài thơ buộc người nghệ sĩ
phát huy tư duy ngôn ngữ để lựa chọn từ ngữ phù hợp. Maiacopxki gọi lao
động nghệ thuật ngôn từ của nhà thơ là “trả chữ với giá cắt cổ”: “Nhà thơ trả
chữ với giá cắt cổ”.
Như vậy, tính hàm súc được hiểu là khả năng ngôn ngữ có thể miêu tả
mọi hiện tượng của cuộc sống một cách cô đọng, ít lời mà nói được nhiều ý, ý
tại ngôn ngoại. Đây là cách dùng từ sao cho đắt nhất, có giá trị nhất. Chẳng hạn
sinh thời Đại thi hào Nguyễn Du đã “giết chết” Mã Giám Sinh, kẻ vô học bằng
từ “tót”: “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”; vạch mặt cái gian manh của Sở Khanh
bằng từ “lẻn”: “Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào”; cho thấy cái tầm thường ti
tiện của Hồ Tôn Hiến bằng từ “ngây”: “Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”…
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
SVTH: Hà Thị Kim Anh - Khoa: Ngữ Văn Trang: - 11-
Do giới hạn của tác phẩm nên thơ ca sử dụng từ ngữ rất kiệm lời.Tính
hàm súc của ngôn ngữ thơ là phải chính xác, giàu hình tượng, có tính truyền
cảm, thể hiện cá tính của người nghệ sĩ. Chẳng hạn từ “Cậy” trong đoạn “Trao
duyên” (trích: Truyện Kiều - Nguyễn Du) nó không chỉ diễn tả chiều sâu của
tình cảm, mà nó đảm bảo được chính xác, tính hình tượng, tính truyền cảm.
Định lượng số tiếng trong thơ cũng là tiền đề tạo ra sự xuất hiện các
phương tiện nghệ thuật. Trong một bài thơ, có thể xuất hiện cùng một lúc
nhiều biện pháp tu từ: Nhân hóa, hoán dụ, ẩn dụ, Bài ca dao “Khăn thương
nhớ ai” mở đầu bằng từ: “Khăn thương nhớ ai” có số lượng từ không nhiều
nhưng bằng các biện pháp tu từ đã thể hiện được tâm trạng khắc khoải nhớ
mong của người con gái còn vang mãi, dư âm đến tận bây giờ và cả mai sau,
không chỉ của một người mà của nhiều người.
c. Ngôn ngữ thơ có tính truyền cảm
Do tác phẩm văn học là sản phẩm của cảm xúc của người nghệ sĩ trước
cảnh đời, cảnh người nên ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương phải biểu hiện
được cảm xúc, phải truyền cảm xúc thẩm mĩ tới bạn đọc. Thơ là tiếng nói trực
tiếp của tình cảm, trái tim nên ngôn ngữ thơ ca có sức gợi cảm đặc biệt.
Ngôn ngữ thơ không chú trọng tả, kể như ngôn ngữ trong tác phẩm tự
sự. Nếu dùng thì thường nhằm mục đích để truyền cảm. Khi Quang Dũng viết
Tây Tiến:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
Thì Quang Dũng không hỏi ai lên Châu Mộc có nhìn thấy phong cảnh
hữu tình không mà tác giả gợi nỗi nhớ thương mất mát, nuối tiếc những ngày
tháng, kỷ niệm, những ảo ảnh đã tan biến trong đời. Quang Dũng đã gợi cho
ta những gì đã mất, đồng thời phản ánh tâm trạng của chính mình.
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
SVTH: Hà Thị Kim Anh - Khoa: Ngữ Văn Trang: - 12-
Tính truyền cảm của ngôn ngữ thơ không chỉ biểu hiện qua cách lựa
chọn từ ngữ, các phương diện tu từ mà còn biểu hiện qua nhạc điệu thơ:
“Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan
Đường Bạch Dương sương trắng nắng tràn”
(Tố Hữu)
Sự tập trung dày đặc các nguyên âm có độ mở rộng và phụ âm mũi vang
khiến câu thơ giàu nhạc tính. Nhạc tính không đơn thuần là sự ngân nga của
ngôn ngữ mà còn là khúc nhạc hát lên trong lòng người.
Tóm lại, thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi của sáng tạo
nghệ thuật. Vì vậy, ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ mang tính: Chính xác, hàm súc,
đa nghĩa, tạo hình, biểu cảm… Ở mỗi thể loại khác nhau thì đặc điểm ấy biểu
hiện dưới sắc thái và mức độ khác nhau, mang đặc trưng riêng.
Trên đây là đặc trưng của ngôn ngữ thơ. Tuy nhiên không phải bài thơ
nào, tác giả nào, trào lưu nào thời đại nào cũng tuân theo đặc trưng đó. Mỗi
thời đại có quan niệm thẩm mỹ, quan niệm nghệ thuật riêng, sở trường riêng
của nghệ sĩ nên việc sử dụng ngôn ngữ phải linh hoạt, phù hợp và sáng tạo.
1.3. Vài nét về tác giả Chế Lan Viên
Mảnh đất Cam Lộ chính là nơi đã sinh ra nhà thơ ưu tú - Chế Lan Viên.
Song, từ lúc lớn lên, học hành, ông lại gắn bó đặc biệt với Bình Định. Chế
Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920.
Ông là người tài năng, nhiệt huyết. Ngay từ lúc 12, 13 tuổi ông đã làm
thơ. Con đường thơ của Chế Lan Viên “trải qua nhiều biến động, nhiều bước
ngoặt với những trăn trở, tìm tòi không ngừng của nhà thơ” thậm chí có một
thời gian dài im lặng (1945 - 1958).
Trước cách mạng tháng Tám, thơ Chế Lan Viên là một thế giới đúng
nghĩa “trường thơ loạn”. “Điêu tàn là tập thơ đầu tay, được viết khi nhà thơ
mới bước vào tuổi thanh niên” [18; 103].
Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông tham gia phong trào Việt Minh tại Quy
Nhơn, rồi vào Huế tham gia Đoàn xây dựng cùng Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư,
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
SVTH: Hà Thị Kim Anh - Khoa: Ngữ Văn Trang: - 13-
Đào Duy Anh. Thời kỳ này ông làm cho các báo Quyết thắng, Cứu quốc,
Kháng chiến.
Sau cách mạng tháng Tám, thơ ông đã “đến với cuộc sống nhân dân và
đất nước, thấm nhuần ánh sáng của cách mạng”. Có thể nói rằng Chế Lan
Viên đã đi từ phù du đến “Ánh sáng và phù sa”, từ “thung lũng đau thương ra
cánh đồng vui”.
Thời kỳ tham gia kháng chiến chống Pháp, dấu chân ông in đậm suốt cả
vùng từ Thanh - Nghệ - Tĩnh đến Bình - Trị - Thiên, nhất là vùng Quảng Trị
quê mẹ nghèo khổ, lam lũ, bời bời gió lào và cát trắng, luôn trở về trong tâm
trí nhà thơ. Trong bài Kết nạp Đảng trên quê mẹ [16; 357] ông viết:
“Gió Lào ơi! Người đừng thổi nữa
Những ruộng đói mùa, những đồng đối cỏ”
Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập báo Văn học. Từ
năm 1956 đến năm 1958, ông làm công tác ở phòng văn nghệ, Ban tuyên huấn
Trung ương và đến cuối năm 1958 trở lại làm biên tập tuần báo Văn học (sau là
báo Văn nghệ). Từ năm 1963 ông là ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam,
ủy viên ban thư ký Hội nhà văn Việt Nam. Ông cũng là đại biểu Quốc hội các
khoá IV, V, và VI, Uỷ viên Ban văn hóa - giáo dục của Quốc hội.
Sau năm 1975, “thơ Chế Lan Viên dần trở về đời sống thế sự và những
trăn trở của cái “tôi” trong sự phức tạp, đa diện và vĩnh hằng của đời sống”.
Phong cách thơ Chế Lan Viên rất rõ nét và độc đáo, nổi bật nhất là “chất suy
tưởng triết lí mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ
được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa.” Ông được nhà nước trao
tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt I (1996).
Có thể nói, trên từng chặng đường sáng tác, ngay cả khi nằm trên giường
bệnh Chế Lan Viên vẫn luôn sống hết mình cho đời và cho thơ. Ông tìm tòi,
sáng tạo với khát vọng để lại cho người đọc những vần thơ mới mẻ, đặc sắc,
và thực tế ông đã làm được điều đó.
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
SVTH: Hà Thị Kim Anh - Khoa: Ngữ Văn Trang: - 14-
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT THƠ
CHẾ LAN VIÊN
2.1. Những yếu tố chi phối tới ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội
2.1.1.1.Ảnh hưởng từ những phong trào cách tân đương thời
Trong những năm này văn học có sự chuyển dịch trung tâm văn học từ
Nam ra Bắc và một trong những quãng đường mà nó phải đi qua không thể
không kể tới vùng đất Bình Định, nơi nuôi dưỡng biết bao tên tuổi trong làng
thơ Việt Nam. Và đó cũng là cái nôi của một trường phái thơ với những quan
niệm tư duy thơ khác lạ.
Chế Lan Viên là một trong “tứ trụ” của nhóm thơ Bình Định hay còn gọi
là Trƣờng Thơ Loạn bao gồm Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Bích Khê và Chế Lan
Viên (Quách Tấn chỉ ủng hộ chứ không sáng tác). Từ đó mà trường thơ Loạn
thực hiện cuộc hành trình đi từ âm vang Đường thi đến thung lũng đau
thương, tràn bờ sang cả những bóng ma Hời trên tháp Chàm u uẩn, rồi chọn
cho mình điểm dừng ở cuộc duy tân của Bích Khê. Chế Lan Viên chịu ảnh
hưởng cách tân từ nhóm thơ này, và ông cùng với những người bạn thơ của
ông đã thực sự tạo nên một sự đột phá mới, phát triển Thơ Mới lúc bấy giờ đi
theo một hướng mới bắt nhịp với xu thế chung của thơ ca thế giới đặc biệt là
những ảnh hưởng thơ Pháp. Nhóm đã đẩy thơ ca đi vào địa hạt của tượng
trưng siêu thực, huyền ảo.
Cùng theo con đường đó với trường thơ Loạn không thể không kể đến
nhóm Dạ đài gồm có Đinh Hùng, Trần Dần, Vũ Hoàng Địch, Trần Mai Châu,
Nguyễn Văn Tậu. Dạ đài ra được số 1 (16. 11. 1946). Tất cả họ đã cố gắng
đưa thơ trở về với nguyên thể của nó, và người nghệ sĩ là của thực của mộng
của hồn và xác: “Chúng tôi muốn những cảm giác thâm u mà chúng ta mới
chỉ có những thi sĩ của lòng. Đã đến lúc chúng ta đợi những thi sĩ của linh
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
SVTH: Hà Thị Kim Anh - Khoa: Ngữ Văn Trang: - 15-
hồn, những thi sĩ của cái tâm thầm kín”. Họ đã đưa thơ ca tới bến bờ của U
Huyền: “chúng tôi sẽ nói thay cho tiếng nói những loài ma. Chúng tôi sẽ khóc
lên cho những nỗi oán hờn chưa giải. Chúng tôi sẽ bắt hiện lên những đường
lối U Minh. Chúng tôi sẽ kể lại những cuộc viễn du trong những thế giới âm
thầm sự vật”.
Xuân Thu nhã tập chỉ tồn tại trong vòng mấy năm (1942-1945), nhưng
lại hội tụ đầy đủ cả “đại gia đình” nghệ thuật: Thơ ca, âm nhạc, hội họa. Số
lượng sáng tác cũng rất “khiêm tốn” nhưng lại rất đa dạng về thể loại: thơ,
văn xuôi, tiểu luận. Mục đích sáng tác cũng khá độc đáo “Dưới bóng Xuân
Thu sẽ thực hiện trí thức - đạo đức - sáng tạo. Xuân Thu ra đời khi Thơ Mới
rơi vào bế tắc, khủng hoảng họ trăn trở, tìm một hướng đi mới cho thơ ca dân
tộc: “Tìm con đường thực, nối liền nguồn gốc xưa với ước vọng nay. Gọi về
những tính cách riêng của ta, để có thể xuôi chảy trong cái dòng sống thực
của ta, không quanh co, lúng túng vì những ảnh hưởng ngoài”. [6; 137]
Những cuộc cách tân thơ ca ấy đã có những ảnh hưởng nhất định tới Chế
Lan Viên đặc biệt là nghệ thuật sáng tạo ngôn ngữ trong thơ ông.
2.1.1.2. Ảnh hưởng từ chủ nghĩa tượng trưng
Chủ nghĩa tượng trưng là một trào lưu nghệ thuật và một quan điểm mỹ
học xuất hiện cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX. “Chủ nghĩa tượng trưng chỉ
một trường phái thần học, triết học hay mỹ học, chủ trương các văn bản tôn
giáo và các tác phẩm nghệ thuật không thể mang nghĩa đen hay khái quát, mà
chỉ là những biểu đạt tượng trưng và chủ quan của tình cảm và của tư duy”.
[1; 23] Về nguyên tắc mỹ học chủ nghĩa tượng trưng xem thế giới hữu hình chỉ
là hình ảnh, là cái bóng, là tượng trưng cho một thế giới mà ta không nhìn thấy
được. Thơ tượng trưng dùng biểu tượng như là một cấu tạo hình tượng đặc biệt
để chống lại lối miêu tả và biểu lộ tình cảm trực tiếp của chủ nghĩa lãng mạn.
Nó đã khai thác triệt để khả năng ám gợi, tính đa nghĩa của ngôn ngữ để đem
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
SVTH: Hà Thị Kim Anh - Khoa: Ngữ Văn Trang: - 16-
đến một thế giới bí ẩn, với những mê lộ huyền diệu. Những nhà thơ tượng
trưng đã đưa thơ ca tới một bến bờ mới tưởng chừng như xa lạ nhưng đó mới
chính là bản thể uyên nguyên, là cái tôi đa diện của con người
Nhà phê bình Hoài Thanh coi Xuân Diệu là “Nhà thơ mới nhất trong các
nhà thơ mới” [24; 120]. Trong thơ Xuân Diệu cũng đã thấp thoáng những yếu
tố tượng trưng nhưng chỉ Điêu tàn của Chế Lan Viên yếu tố đó mới thể hiện rõ
nét. Chế Lan Viên đã đẩy cái đẹp qua một địa hạt khác, mở rộng nội hàm cái
đẹp để tiệm cận với cái kinh dị, cái ghê rợn, cái xấu và đem những cái ấy làm
thi liệu cho thơ, đẩy thơ đến bờ chủ nghĩa siêu thực. Những biểu tượng: Hồn,
máu, sọ người, xương khô, tủy, đám ma… tràn đầy trong thơ Chế Lan Viên.
Như vậy, có thể thấy rõ cơ sở để tạo nên đặc điểm ngôn ngử nghệ thuật
trong thơ thi sĩ họ Chế chính là những ảnh hưởng từ quan niệm thơ của chủ
nghĩa tượng trưng - siêu thực Pháp lúc bấy giờ.
Ngoài những ảnh hưởng từ các phong trào cách tân đương thời, từ chủ
nghĩa tượng trưng, còn có yếu tố khác như: Bản thân là người tài năng, Vùng
quê nghèo khổ, lam lũ, bời bời gió Lào và cát trắng…là những yếu tố chi phối
phong cách ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên.
2.1.2. Quan niệm nghệ thuật trong thơ Chế Lan Viên
Cũng như một số nhà thơ khác, Chế Lan Viên cũng bộc lộ quan niệm
của mình về thơ qua các bài giới thiệu, các bài “tựa” và “bạt” cho một số tác
giả mà ông am hiểu và quý trọng như Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Yến Lan, Tế
Hanh. Bằng vốn sống và vốn văn hoá uyên bác, bằng trí tuệ sắc sảo và trực
cảm nghệ thuật tinh tế, những trang tiểu luận - phê bình thơ của Chế Lan
Viên đã đem đến nhiều thú vị bất ngờ cho độc giả.
Nếu xét theo chiều lịch sử, quan niệm về thơ của Chế Lan Viên vận động
qua ba thời kỳ: Trước năm 1945, sau năm 1945 đến hết thập niên 70 và những
năm 80 được thể hiện tập trung qua ba tập Di cảo thơ.
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
SVTH: Hà Thị Kim Anh - Khoa: Ngữ Văn Trang: - 17-
Thứ nhất, trước cách mạng, Chế Lan Viên đã có một tuyên ngôn về thơ
nổi tiếng trong lời tựa tập Điêu tàn: “Hàn Mặc Tử nói: làm thơ tức là điên.
Tôi nói thêm: làm thơ là sự phi thường. Thi sĩ không phải là người. Nó là
người Mơ, người Say, người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu.
Nó thoát hiện tại, nó xối trộn dĩ vãng. Nó ôm trùm tương lai”. [29; 17].
Đối với ông, thi sĩ phải là người thoát ly triệt để thực tại để tìm giải thoát
ở cõi siêu hình bất tận. Đối với ông, cảm xúc thẩm mỹ lẫn đối tượng thẩm mỹ
của thơ chính là nỗi đau khổ khôn cùng của thi nhân trên cõi trần gian.
Cũng chính quan niệm “làm thơ là làm sự phi thường”, quyết không đi
lại những con đường của các nhà Thơ Mới thời ấy, đã khiến cho Điêu tàn trở
thành hiện tượng độc nhất vô nhị trong lịch sử thơ ca dân tộc. Ngay từ lúc ấy,
chính Chế Lan Viên đã ý thức được sự cô đơn trên nẻo đường riêng của thơ
mình. Điêu tàn chính là sự thực hiện quan niệm thơ ấy trong hoạt động sáng
tạo nghệ thuật.
Thứ hai, Chế Lan Viên đặc biệt quan tâm đến những vấn đề cơ bản nhất
của thơ. Đó là mục đích của thơ, đối tượng và mạch nguồn sức sống của thơ,
là nhiệm vụ của nhà thơ trong sự nghiệp cách mạng. Chế Lan Viên đã trả lời
dứt khoát được câu hỏi về bản thể từ lâu đã làm ông suy tư, trăn trở: Từ “Ta
là ai?” đến “Ta vì ai?” là cả hai chân trời khác nhau trong sáng tạo thơ ca, là
cả hai hướng đối lập nhau trong quan niệm nghệ thuật. Mục đích của thơ ông
giờ đây đã khác xưa: thơ phải vì cách mạng, vì nhân dân mà phục vụ, mà
hướng tới. Mục đích đã thay đổi thì đối tượng thơ cũng thay đổi. “Tôi viết cho
ai? Cho tất cả mọi người Cho ai cũ thơ tôi làm ướt áo. Nay họ về sưởi ấm
giữa thơ tôi” (Nghĩ về thơ). Sống gắn bó với nhân dân, với thực tiễn cuộc
sống Chế Lan Viên hoàn thiện thế giới quan cộng sản: “chúng ta làm văn
nghệ là để tả sự thật. Vả chăng sau này muốn truyền cảm cho người đọc, cố
nhiên không phải chỉ nói cảm xúc của ta mà phải nói cả sự việc”. [19; 197]
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
SVTH: Hà Thị Kim Anh - Khoa: Ngữ Văn Trang: - 18-
Những năm 60, 70 Chế Lan Viên quan niệm nhà thơ phải “chịu suy
nghĩ”, với ông thơ không chỉ quan trọng về nội dung mà còn chú ý đến hình
thức thơ:
“Hình thức cũng là vũ khí
Sắc đẹp câu thơ cũng phải đấu tranh cho chân lý”
(Nghĩ về thơ)
Xét cho cùng, cái cốt tử làm cho tên tuổi nhà thơ, cái cốt tử khiến cho
thơ sống mãi không chỉ là ở tư tưởng, ở nội dung hay câu chữ. Tất cả là sẽ vô
nghĩa nếu nó nằm trong bài thơ dở. Thơ hay, đó là mục đích tối hậu, là cái
duyên chinh phục của thơ. Chế Lan Viên đã nhận thức rất rõ điều ấy trong Sổ
tay thơ ông viết:
“Câu thơ hay như người con gái đẹp
Ở đâu, đi đâu cũng lấy được chồng.”
Chế Lan Viên sớm nhận ra từ kinh nghiệm từng trải của mình cái lý của
hình thức. Đó không chỉ giản đơn là các biện pháp nghệ thuật, mà sâu xa hơn,
đó là bản chất của sự thống nhất giữa nội dung và hình thức để tạo nên một
bài thơ hay. Đó cũng chính là một đóng góp của Chế LanViên vào lý thuyết
thi pháp học hiện đại.
Thứ ba, với ba tập Di cảo thơ mà phần lớn những bài thơ này được viết ở
cuối đời, ông vẫn tiếp tục làm ngạc nhiên độc giả bất ngờ. Ba tập di cảo thơ
của Chế Lan Viên ngổn ngang bao ý tưởng, quan niệm về thơ còn đang ở
dạng phác thảo: từ những vấn đề cốt thiết của bản chất thơ đến bao chuyện
thuộc về kỹ thuật của công việc làm thơ. Ông đã ra đi nhưng còn bao dự định
chưa thành, bao câu hỏi còn vương vấn chưa đủ lời giải đáp. Và những câu trả
lời của Chế Lan Viên không phải không còn những điều bất cập. Song có một
điều mà không ai có thể phủ nhận được - Đó là ý thức trách nhiệm rất cao của
ông về thơ trong suốt cả cuộc đời.
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
SVTH: Hà Thị Kim Anh - Khoa: Ngữ Văn Trang: - 19-
Qua phần trình bày ngắn gọn trên có thể nhận thấy quan niệm nghệ thuật
của Chế Lan Viên luôn có sự vận động trong suốt quá trình sáng tác. Ở chặng
nào quan niệm nghệ thuật cũng chi phối khá chặt chẽ nội dung và hình thức
thơ ca. Chính quan niệm nghệ thuật cũng chi phối tới quá trình sáng tạo ngôn
ngữ trong thơ ông. Riêng tập Điêu tàn, tập thơ đầu tay của Chế Lan Viên thì
ta có thể thấy rõ ngôn ngữ tập thơ chịu ảnh hưởng nhiều từ những cuộc cách
tân đương thời, ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, đặc biệt là quan niệm
về thơ của ông giai đoạn này.
2.2. Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật thơ Chế Lan Viên
2.2.1. Ngôn ngữ mang tính chất suy tưởng, trí tuệ
Chất trí tuệ trong văn chương không phải là những gì khô khan. Chất trí
tuệ ở đây được thăng hoa từ cảm xúc và suy nghĩ trên cái nền hiện thực cụ thể
mà chủ thể sống qua. Còn “suy tưởng là một phương thức nhận thức của thơ
ca, nhằm biểu lộ bản chất sự vật bằng hình tượng nghệ thuật ngôn từ.” [25; 19]
Theo dõi toàn bộ sáng tác của Chế Lan Viên cùng với tìm hiểu nhận định
của nhà lý luận phê bình văn học, chúng ta dễ dàng đi đến nhận xét: “Thơ Chế
Lan Viên lấp lánh vẻ đẹp trí tuệ, thể hiện khuynh hướng tư duy sắc sảo mang
tính triết luận sâu sắc”. Chất trí tuệ được biểu hiện ở chỗ thơ Chế Lan Viên ít
những chi tiết đời sống. Hiện thực trong thơ ông thường là hiện thực cảm
thấy, nghĩ thấy. Nó là bóng dáng của cái nhìn thấy. Đúng hơn nó là cái nhìn
thấy được khái quát, nhào nặn qua tư duy, qua suy tưởng, qua tưởng tượng, có
thể bị xáo trộn, bị gián đoạn, nó là cái vô nghĩa hợp lý nghĩa là cái
nhìn thấy đã qua giai đoạn nhận thức lý tính, nhận thức trừu tượng. Chế Lan
Viên đã chọn cho mình một lối thơ giàu tính suy tưởng trong Điêu tàn. Sự suy
tưởng biểu hiện rõ nhất qua mối quan hệ giữa: bãi tha ma - cái tôi - vũ trụ.
Thoát ly vào thơ và làm cho thơ thoát ly hiện thực. Đó là đặc điểm cốt lõi
nhất của phong trào Thơ mới nói chung và Chế Lan Viên nói riêng. Chúng ta
Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
SVTH: Hà Thị Kim Anh - Khoa: Ngữ Văn Trang: - 20-
sẽ nghiên cứu xem quan niệm ấy đã chi phối quá trình suy tưởng trong Điêu
tàn như thế nào.
“Bãi tha ma” không phải là hiện thực cuộc sống, nó là tổng hợp của cái
chết chóc, cái đau khổ, cái đổ vỡ và tang thương… mà trong cuộc đời thực
con người phải chịu đựng. “Bãi tha ma” chính là một cái nền hoang vắng mà
trên đó đã từng là nơi ngự trị của những cái gì đẹp đẽ huy hoàng. Nó là chỗ
đứng để tác giả suy tưởng về quá khứ, về một thời oanh liệt đã qua, chẳng bao
giờ trở lại:
“Biển cả một thời xưa tan tác đổ
Dấu oai linh hùng vĩ thấy gì đâu?
Thời gian chảy đá mòn sông núi lở
Lòng ta luôn còn mãi vết thương đau?”
(Thời oanh liệt)
Quanh quẩn mãi trong bãi tha ma rồi lại trở về bãi tha ma.Tác giả muốn
làm một đấng Tạo lập, sáng tạo của một thế giới cho riêng mình, nhưng sự bất
lực của suy tưởng không thể tạo ra một cái gì mới hơn ngoài những bóng ma.
“Cho từng sóng quỷ ma dần hiển hiện
Cho lời kêu, tiếng rú bật vang tai
Cho lăn lóc, hôn mê trong Ảo Huyễn
Lãng quên đi giây phút cảnh trần ai!”
(Tạo lập)
Thoát ly hiện thực có nghĩa là tìm đến một nơi phi hiện thực để tâm hồn
trú ngụ. Thoát ra khỏi cái thời gian và không gian bình thường mà con người
đang tồn tại. Với ông, thoát ly là tìm về qúa khứ nhưng không phải để lặp lại
tinh thần quật khởi của cha ông, “mà chỉ để nghe tiếng than khóc của xương
máu, của cô hồn”. Máu trở thành một màu sắc bao trùm, dòng suy tưởng
trong Điêu tàn là dòng trôi quằn quại của những hình ảnh thấm đầy máu đỏ