TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
*********
NGUYỄN THỊ THU HƢỜNG
HOẠT ĐỘNG KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
CỦA TỈNH HÀ TÂY TRONG GIAI ĐOẠN
1991 - 2001
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. BÙI NGỌC THẠCH
HÀ NỘI, 2014
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin tỏ lòng cảm ơn sau sắc tới các thầy giáo, cô giáo khoa Lịch sử,
trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã ân cần dạy dỗ chỉ bảo truyền đạt kiến thức
cho tôi trong suốt quá trình học tập, rèn luyện tại ngôi trƣờng.
Tôi xin chân thành cảm ơn các cán bộ, nhan viên các phòng ban trong
Thƣ viên Hà Nội ( Hà Tây cũ), Quận ủy Hà Đông,Sở Nông Nghiệp & PNT TP
Hà Nội, Cục thống kê thành phố Hà Nội ( Văn phòng 2), Ủy ban nhân dân quận
Hà Đông, Thƣ viện Quốc gia….đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi trong suốt quá trình tìm hiểu, thu thập tài liệu phục vụ nghiên cứu đề tài
khóa luận.
Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sỹ Bùi Ngọc Thạch đã giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập ở trƣờng và tận tình hƣớng dẫn tôi nghiên cứu và thực
hiện Khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, ngƣời thân đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành đề tài khóa luận này.
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài khóa luận do thời gian có hạn
và bƣớc dau làm quen với phƣơng pháp nghiên cứu khoa học, nên tôi không thể
tránh khỏi những thiếu xót, vụng về rất mong đƣợc sự đóng góp ý kiến của các
thầy giáo và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội,ngày….tháng….năm 2014
Ngƣời thực hiện
Nguyễn Thị Thu Hƣờng
LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tôt nghiệp “Hoạt động kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hà Tây
trong giai đoạn 1991 – 2001”, của tôi đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn tận
tình của Tiến sỹ Bùi Ngọc Thạch.
Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của bản
thân tôi, không trùng lặp với kết quả nghiên cứu của tác giả nào khác. Những kết
quả tôi thu đƣợc và trình bày trong khóa luận tốt nghiệp của mình hoàn toàn
chân thực và không có một đề tài nghiên cứu khoa học nào.
Hà Nội, ngày….tháng….năm 2014
Ngƣời thực hiện
Nguyễn Thị Thu Hƣờng
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. CĐ: Cố định
2. GDP: Tổng sản phẩm quốc dân
3. Ha: Hécta
4. HĐND: Hội đồng dân nhân
5. QĐ: Quyết định
6. QH: Quốc hội
7. TW : Trung ƣơng
8. TU: Tỉnh ủy
9. UBND: Ủy ban nhân dân
10.CCKT: Cơ cấu kinh tế
11.USD: Đô la Mỹ
12.NXB: Nhà xuất bản
13. TP: Thành phố
14. CNXH: Chủ nghĩa xã hội
15. CBH – HĐH: Công nghiệp hoá hiện đại hoá
HỆ THỐNG BẢNG BIỂU
1.Bảng 1: Diện tích, năng suất, sản lƣợng lúa tỉnh Hà Tây trong giai
đoạn 1991-2001.
2. Bảng 2: Diện tích, năng suất, sản lƣợng ngô tỉnh Hà Tây giai đoạn
1991 – 2001.
3.Bảng 3: Diện tích, năng suất, sản lƣợng cây công nghiệp hàng năm
của tỉnh Hà Tây giai đoạn 1993 – 2001 .
4.Bảng 4: Diện tích, năng suất, sản lƣợng rau đậu các loại của tỉnh Hà
Tây trong giai đoạn 1993 -2001.
5.Bảng 5: Kết quả sản xuất ngành chăn nuôi của tỉnh Hà Tây
giai đoạn 1991 – 2001
6.Bảng 6: Giá trị sản xuất nông nghiệp theo thành phần kinh tế của tỉnh
Hà Tây trong giai đoạn 1991 – 2001 (giá cố định năm 1994)
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 4
5. Đóng góp của đề tài 5
6. Kết cấu của đề tài 5
CHƢƠNG 1: HOẠT ĐỘNG KINH TẾ NÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH HÀ TÂY
TRƢỚC NĂM 1991 7
1.1. KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG KINH TẾ NÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH HÀ
TÂY TRƢỚC NĂM 1991 7
1.1.1. Điều kiện tự nhiên 7
1.1.2. Điều kiện về kinh tế - xã hội 15
1.2. HOẠT ĐỘNG KINH TẾ NÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH HÀ TÂY TRƢỚC
NĂM 1991. 17
1.2.1. Trồng trọt 177
1.2.2. Chăn nuôi . 21
Tiểu kết chƣơng 1 23
CHƢƠNG 2: HOẠT ĐÔNG KINH TỀ NÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH HÀ TÂY
TRONG GIAI ĐOẠN 1991– 2001 24
2.1. CHỦ TRƢƠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH HÀ
TÂY TRONG GIAI ĐOẠN 1991 -2001 24
2.1.1. Chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh Hà Tây về nông nghiệp 24
2.1.2. Các chính sách hỗ trợ, ƣu đãi nhằm phát triển nông nghiệp. 26
2.2. HOẠT ĐỘNG KINH TẾ NÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH HÀ TÂY TRONG
GIAI ĐOẠN 1991- 2001 28
2.2.1. Hoạt động chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi. 28
2.2.2. Hoạt động sản xuất nông nghiệp theo vùng sinh thái 299
2.2.3. Hoạt động kinh tế trang trại. 31
2.2.4. Hoạt động ứng dụng khoa học kĩ thuật, công nghệ. 33
2.3. THÀNH TỰU 36
2.3.1. Trồng trọt 36
2.3.2. Về chăn nuôi 46
2.4. HẠN CHẾ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ NÔNG NGHIỆP 48
2.4.1. Quá trình đô thị hóa nhanh diện tích đất nông nghiệp giảm 48
2.4.2. Giá trị nông phẩm giảm, nhiều rủi do, ô nhiễm môi trƣờng nặng nề. 49
2.4.3. Thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm còn khó khăn 49
2.5. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỈNH HÀ
TÂY TRONG GIAI ĐOẠN 1991 - 2001 50
2.5.1. Đăc điểm của kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hà Tây trong giai đoạn 1991 -
2001 50
2.5.1.1 Biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội nông thôn sâu sắc 51
2.5.1.2. Kinh tế hộ gia đình là yếu tố phát triển nông nghiệp 53
2.5.2. Vai trò Error! Bookmark not defined.4
2.5.2.1. Đảm bảo yêu cầu lƣơng thực, thực phẩm, nâng cao đời sống nhân dân.
55
2.5.2.2. Góp phần phát triển kinh tế - xã hội trong tỉnh 55
2.5.2.3. Thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế 56
KẾT LUẬN 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO 61
PHỤ LỤC 64
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hà Tây là tỉnh cũ ở Việt Nam nằm trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, là
một vùng đất giàu truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời. Cùng bao thăng trầm
của lịch sự, nhân dân trong tỉnh luôn phát huy nhƣng truyền thống tốt đẹp
củaông cha ta đã để lại đó là đoàn kết một lòng, kiên cƣờng, bất khuất trong xây
dựng và bảo vệ quê hƣơng. Tỉnh Hà Tây là một tỉnh giàu tiềm năng phát triển
kinh tế nhất là đối với ngành nông nghệp. Ngành nông nghiệp là một trong
những ngành kinh tế có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế
quốc dân, đồng thời là cơ sở để phát triển công nghiệp, cung cấp nguyên liệu và
lƣơng thực cho công nghiệp, tiêu thụ hàng hóa cho công nghiệp, bên cạnh đó
góp phần bảo đảm an ninh – xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân.
Ngay sau khi tỉnh đƣợc tái lập trở lại (16/9/1991), Đảng bộ tỉnh Hà Tây
đã đề ra nhiều nghị quyết chỉ đạo việc phát triển kinh tế nông nghiệp.
Dựa trên những cơ sở đó, nông nghiệp tỉnh Hà Tây từng bƣớc đạt đƣợc
những thành tựu to lớn, và đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của Tỉnh. Tuy
nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt đƣợc, nông nghiệp tỉnh Hà Tây vẫn còn
bộc lộ nhiều hạn chế đặt ra yêu cầu cần đƣợc giải quyết.
Việc nghiên cứu hoạt động kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hà Tây trong
giai đoạn 1991- 2001 có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn hết sức sâu sắc. Nó
góp phần sáng tỏ các vấn đề đƣờng lối mới phát triển kinh tế nông nghiệp, vấn
đề hiện đại hóa nông nghiệp, vấn đề đổi mới cơ chế quản lý cơ cấu nông nghiệp,
vấn đề nông dân nông thôn, vấn đề kinh tế hộ gia đình, vấn đề xây dựng nông
thôn mới, vấn đề xây dựng gia đình văn hóa mới….
Tuy nhiên đến nay chƣa có một công trình nghiên cứu đầy đủ, có hệ
thống về kinh tế nông nghiệp tỉnh Hà Tây trong giai đoạn 1991 – 2001. Vì vậy,
2
việc nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp tỉnh Hà Tây trong giai đoạn 1991 -2001
là rất cần thiết.
Dựa trên những cơ sở đó, tôi quyết định chọn lựa vấn đề: “Hoạt dộng
kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hà Tây trong giai đoạn 1991 -2001”làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hoạt động kinh tế nông nghiệp là một trong những đối tƣợng nghiên
cứu Hà Tây không nằm ngoài đối tƣợng nghiên cứu. Ngay từ khi tái lập tỉnh
vào năm 1991, các cấp tỉnh Hà Tây đã chủ trƣơng đẩy mạnh phát triển kinh tế -
xã hội đặc biệt trong đó chú trọng vào việc phát triển nông nghiệp theo hƣớng
công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Năm 2011, cuốn sách “Địa chí Hà Tây”, tác giả Đặng Văn Tu, Nguyễn
Tá Nhí (đồng chủ biên), của sở văn hóa thông tin Hà Tây đã có những khái quát
chung nhất vầ tình hình nông nghiệp của tỉnh Hà Tây trƣớc năm tái lập tỉnh.
Năm 2008, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tây cho xuất bản cuốn
“Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tây, tập IV (1975 – 2008)”, tác phẩm đề cập đến
nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nói chung ở tỉnh Hà Tây từ năm 1975 – 2008, trong
đó đã khái quát tình hình kinh tế nông nghiệp của Tỉnh từ khi chƣa tái lập tỉnh
Năm 2001, sau 10 năm tái lập Tỉnh kinh tế - xã hội tỉnh có nhiều
chuyển biến. Vào ngày 10/3/2001 Thƣờng trực hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tây
đã biên soạn cuốn “Kỷ yếu hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tây khóa XIII, nhiệm kỳ
1999 – 2004 (từ kì họp thứ I đến kì họp thứ VI),”. Tác phẩm đã nêu lên khá
nhiều khía cạnh, đặc biệt trong đó có nêu lên kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội
và ngân sách; về quốc phòng an ninh địa phƣơng và biện pháp ổn định và nâng
cao đời sống của nhân dân.
Với tác phẩm “Cây lúa Hà Tây” (1998) của tác giả Nguyễn Duy Tiên,
do Sở Nông Nghiệp & Phát triển nông thôn xuất bản, tác phẩm viết lên phƣơng
3
pháp sản xuất nông nghiệp của tỉnh Hà Tây, đặc biệt trong đó là phƣơng pháp
gieo trồng lúa của bà con nông nhân trên địa bàn tỉnh.
Hàng năm Cục thống kê TP Hà Nội (Hà Tây cũ) có cho ra ấn phẩm
cuốn “Niên giám thống kê”. Những cuốn sách đã nêu lên những con số chính xác
về tình hình kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hà Tây nhƣ về giá trị sản xuất nông
nghiệp, diện tích, năng suất, sản lƣợng cây lƣơng thực, số lƣợng chăn nuôi…
Cùng với đó là hàng năm, Sở Nông Nghiệp & Phát triển nông thôn Hà
Nội ( Hà Tây cũ), Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây cũ nay Ủy ban nhân dân quận
Hà Đông, có những bản báo cáo tổng kết tình hình, nhiệm vụ năm và kế hoạch
những năm tiếp theo, báo cáo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, quy
hoạch phát triển kinh tế nông nghiệp của Tỉnh. Đó là những báo cáo mang tính
thời sự về tình hình kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hà Tây hàng năm.
Bên cạnh đó còn có những bài viết trên báo, tạp chí cũng đề cập đến
tình hình nông nghiệp của tỉnh Hà Tây nhƣ tạp Nông nghiệp & Nông thôn Hà
Tây, báo Kinh tế nông nghiệp Hà Tây…, đã phần nào mô tả bức tranh sinh động
về tình hình kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Hà Tây.
Tuy nhiên chƣa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống,
đầy đủ toàn diện về tình hình nông nghiệp của tỉnh Hà Tây trong giai đoạn 1991
– 2001. Vì vậy, việc nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp tỉnh Hà Tây trong giai
đoạn 1991 đến năm 2001 là một vấn đề rất cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Đề tài Khóa luận đã dựng lại bức tranh lịch sử tƣơng đối đầy đủ, khái
quát về “Hoạt động kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hà Tây trong giai đoạn 1991 -
2001”. Qua đó nêu bật thành tựu và hạn chế trong hoạt động kinh tế nông
nghiệp của tỉnh Hà Tây trong giai đoạn 1991 – 2001. Đồng thời, rút ra đặc điểm
và vai trò của kinh tế nông nghiệp tỉnh Hà Tây trong giai đoạn 1991 – 2001.
4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nêu rõ cơ sở về điều kiện tự nhiện, kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Tây
trong hoạt động kinh tế nông nghiệp.
Trình bày những thành tựu và hạn chế của hoạt động kinh tế nông
nghiệp của tỉnh Hà Tây trong giai đoạn 1991 – 2001.
Rút ra đặc điểm và vai trò của kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hà Tây
trong giai đoạn 1991 – 2001.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động kinh tế nông
nghiệp của tỉnh Hà Tây trong giai đoạn 1991 – 2001. hiểu theo nghĩa hẹp của
nông nghiệp bao gồm các ngành trồng trọt và chăn nuôi, đề tài khóa luận “Hoạt
động kinh tế nôngnghiệp của tỉnh Hà Tây trong giai đoạn 1991 -2001” chỉ
đề cập đến nông nghiệp tỉnh Hà Tây theo nghĩa hẹp là bao gồm trồng trọt và
chăn nuôi trên địa bàn tỉnh.
Về không gian: Đề tài nghiên cứu toàn bộ hoạt động kinh tế nông
nghiệp của tỉnh Hà Tây, hiểu theo nghĩa rộng nông nghiệp bao gồm các ngành
nông-lâm-ngƣ nghiệp
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn tƣ liệu
Để nghiên cứu đề tài khóa luận này, khoá luận sử dụng các nguồn tài liệu sau :
Các tác phẩm viết về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Hà
Tây qua các thời kì nhƣ tác phẩm : “ Địa chí Hà Tây”, tác phẩm “Cây lúa Hà
Tây”. Với hai tác phẩm “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tây, tập III (1954-1975), và
tập IV ( 1975 -2008”, Cuốn “ Kỷ yếu Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tây khóa XIII
nhiệmkì 1999 – 2004”.
Cùng với các văn bản, nghị quyết, các báo cáo tổng kết của Ủy ban
nhân dân tỉnh Hà Tây, Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tây, Sở Nông Nghiệp & Phát
5
triển nông thôn TP Hà Nội (Hà Tây cũ), Sở kế hoạch và đầu tƣ tỉnh Hà Tây về
các chính sách phát triển kinh tế, xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây trong giai đoạn 1991 – 2001.
Ngoài ra còn có các bài viết trên báo, tạp chí kinh tế, xã hội, tạp chí
kinh tế Nông nghiệp Hà Tây, tạp chí Nông nghiệp và Nông thôn Hà Tây…Các
niên giám thống kê của tỉnh Hà Tây (chú trọng nhất đó là các phần liên quan tới
kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hà Tây) trong giai đoạn 1991 – 2001.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khoá văn kết hợp giữa phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp lôgic, đặc
biệt trong đó sử dụng phƣơng pháp lịch sử là chủ yếu.
Bên cạnh đó còn sử dụng phƣơng pháp điền dã, phƣơng pháp toán học,
tổng hợp, phân tích đối chiếu, so sánh để xác minh nội dung, sự kiện lịch sử.
5. Đóng góp của đề tài
Nghiên cứu về hoạt động kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hà Tây trong giai
đoạn 1991 -2001 có những đóng góp về cả mặt lý luận và thực tiễn, cụ thể là :
Khóa luận dựng lại bức tranh lịch sử tƣơng đối đầy đủ, có hệ thống về
“Hoạt động kinh tế nông nghiệp cua tỉnh Hà Tây trong giai đoạn 1991 – 2001”.
Khóa luận đánh giá những nét cơ bản về thành tựu, kết quả về vấn đề“
Hoạt động kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hà Tây trong giai đoạn 1991 -2001”.
Qua đó khẳng định đƣờng lối phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng ta nói
chung của tỉnh Hà Tây nói riêng là phù hợp và đúng đắn.
Khóa luận cũng đã nêu bật đƣợc đặc điểm, vai trò “ Hoạt động kinh tế
nôngnghiệp của tỉnh Hà Tây trong giai đoạn 1991-2001”. Khóa luận đã khai
thác đƣợc một nguồn tài liệu địa phƣơng có giá trị, tập hợp các tài liệu đó thành
một hệ thống, phục vụ cho công tác nghiên cứu lịch sử địa phƣơng.
6. Kết cấu của đề tài
6
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm 3 chƣơng :
Chƣơng 1: Hoạt động kinh tế nông nghiêp của tỉnh Hà Tây trƣớc năm 1991.
Chƣơng 2: Hoạt động kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hà Tây trong những
năm 1991 – 2001.
Chƣơng 3: Đặc điểm và vai trò của kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hà
Tây trong những năm 1991 – 2001.
7
CHƢƠNG 1
HOẠT ĐỘNG KINH TẾ NÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH HÀ TÂY
TRƢỚC NĂM 1991
1.1. KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG KINH TẾ NÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH
HÀ TÂY TRƢỚC NĂM 1991
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
*Vị trí địa lí
Tỉnh Hà Tây là một vùng đất nằm ở khu vực đồng Bắc Bộ, nhƣng lại có sắc
thái riêng do vị thế của tỉnh nằm ở đỉnh chóp và rìa phía Tây của tam giác châu
thổ sông Hồng.
Tỉnh Hà Tây có điểm cực Bắc thuộc xã Tân Đức huyện Ba Vì, ở tọa độ
vĩ độ Bắc và kinh độ Đông.
Điểm cực Nam thuộc xã Hƣơng Sơn, huyện Mỹ Đức ở tọa độ vĩ độ
Bắc và kinh độ Đông.
Điểm cực Tây thuộc xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì ở tọa độ vĩ độ
Bắc và kinh độ Đông.
Điểm cực Đông thuộc xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên ở tọa độ Bắc
và Đông.
Đƣờng ranh giới phía Bắc giáp sông Hồng, huyện Ba Vì đến xã Liên Hà,
huyện Đan Phƣợng, bên kia sông là tỉnh Vĩnh Phúc, dài khoảng 52km.
Đƣờng ranh giới phía Nam giáp huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam, dài khoảng
42km.
Đƣờng ranh giới phía Tây giáp đoạn của sông Thao và sông Đà từ Trung
Hà đến Tu Vũ, bên kia sông là tỉnh Phúc Thọ. Tiếp đến vùng núi đồi trải dài từ
8
Ba Vì, núi Viên Nam, qua thị trấn Xuân Mai dãy núi đá từ Miếu Môn xuống đến
Hƣơng Sơn, dài khoảng 156km, bên kia vùng núi là tỉnh Hòa Bình.
Đƣờng ranh giới phía Đông giáp với hai huyện Từ Liêm và Thanh Trì của
Hà Nội. Ở phía trên phía dƣới giáp sông Hồng từ xã Ninh Sở, huyện Thƣờng
Tín xuống đến xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên. Bên kia sông là đất của tỉnh
Hƣng Yên, dài khoảng 70km.
Tỉnh Hà Tây tính đến thời điểm năm 2000, có 2 thị xã, 12 huyện, 27 thị
trấn, 296 xã. Thị xã Hà Đông, thị xã Sơn Tây, các huyện nhƣ: Ba Vì, Phúc Thọ,
Đan Phƣợng, Hoài Đức, Quốc Oai, Thạch Thất, Chƣơng Mỹ, Thanh Oai,
Thƣờng Tín, Phú Xuyên, Ứng Hòa, Mỹ Đức
Tỉnh Hà Tây là địa phận có nhiều tuyến quốc lộ chạy qua trong đó có
tuyến đƣờng Quốc lộ 1A là tuyến đƣờng Bắc- Nam thống nhất. Tỉnh Hà Tây có
một vị trí vô cùng quan trọng đối với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đặc biệt
là đối với thủ đô, với ranh giới nằm liền kề với Hà Nội, kinh tế tỉnh Hà Tây phát
triển góp phần cùng Thủ đô Hà Nội thúc đẩy tiến trình đô thị hóa, phát triển
công nghiệp, giải quyết công ăn việc làm cho ngƣời lao động, giảm sức ép về
đất đai, dân số, nhu cầu về xã hội, du lịch, dịch vụ của Thủ đô Hà Nội.
Với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nƣớc trong những năm vừa
qua đã tạo cho tỉnh Hà Tây trở thành một bộ phận cấu thành của vành đai phát
triển, tiến tới trở thành địa giới hành chính chung của Thủ đô, và cấu thành của
vành đai phát triển phía Nam.Đồng thời, sự phát triển các tuyến hành lang giao
thông để tạo điều kiện cho tỉnh Hà Tây giao lƣu buôn bán với các tỉnh lân cận,
các quốc gia khác.
Với đặc điểm vị trí của tỉnh Hà Tây nói trên đã mang lại cho tỉnh những
thuận lợi nhất định trong phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay tỉnh Hà Tây nằm
trong vùng quy hoạch: Vùng đồng bằng Bắc Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng và
vùng Thủ đô Hà Nội. Dựa theo Nghị quyết số 15/2008/QH12 Về việc điều chỉnh
9
địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh liên quanvà trong đó có
tỉnh Hà Tây. Trong tƣơng lai Tỉnh sẽ trở thành trung tâm kinh tế lớn của Thủ đô
Hà Nội. Hệ thống hạ tầng giao thông đối ngoại đã và đang đƣợc thực hiện là
những tuyến chính gắn kết quan hệ toàn diện của Hà Tây với các tỉnh khác trong
cả nƣớc và quốc tế.
*Địa hình
Tỉnh Hà Tây năm ở bên rìa phía Tây của đồng bằng Bắc Bộ, ở đầu bên
phải của “võng sông Hồng”. Bản thân vịnh cổ cũng là một vùng đồi núi đã bị sụt
võng xuống dƣới nƣớc biển, vì vùng trong lòng đồng bằng của tỉnh vẫn tồn tại
những đồi núi sót xƣa nhƣ dãy Câu Lâu ở Thạch Thất, cụm núi đá vôi “thập lục
kì sơn” ở Quốc Oai. Những đặc điểm nảy sinh do đứt gãy ngang theo hƣớng Tây
Nam Đông Bắc từ Đan Phƣợng đến Lạng Giang, đứt gãy dọc theo hƣớng Tây
Bắc Đông Nam từ Việt Trì đến Cửa Đáy.
Toàn bộ khu vực lãnh thổ Hà Tây ngày nay bị cuốn vào vận động Tân
kiến tạo nâng lên yếu, mà hình thành. Đặc trƣng của vùng đồng bằng là thấp
bằng phẳng, độ nghiêng chỉ dƣới 10cm/km theo hƣớng Đông Nam và Nam, do
phù sa của các con sông bồi đắp nhƣ sông Hồng, sông Đáy, sông Đà, sông Tích,
sông Nhuệ …Nhƣ vậy các con sông bồi lên trong các mùa lũ và sau đã bị cắt xẻ
thành những đồi gò rải rác mà trong nhân dân gọi là “ tam thai ngũ nhạc”, xếp
những dãy dài bên bờ sông, nhƣ những con sông uốn khúc và đó là những nơi
cao ráo để cho con ngƣời quần cƣ thành những làng xã.
Địa hình phía Nam của tỉnh vốn đã thấp lại bị bịt kín thành những ô trũng
“túi nƣơc”, “rốn nƣớc”. Ngoài ra đồng bằng còn nhiều khúc sông cụt. Điều kiện
địa hình này đã tạo nên, cho tỉnh 3 dạng địa hình khác nhau. Địa hình miền núi
phía Tây, vùng bậc thềm phù sa cổ, bạc màu và đá ong, vùng đồng bằng phía
Đông.
10
Địa hình vùng núi phía Tây: vùng núi Ba Vì với diện tích khoảng 7000ha
bao gồm một vùng sinh thái hoàn chỉnh, tính từ độ cao 100m trở lên thuộc các
xã Ba Vì, Minh Quang, Tân Dân và Khu vƣờn quốc gia Ba Vì, cụm núi sót “
thập lục kì sơn” đây là vùng núi đá vôi ở Quốc Oai, Chƣơng Mỹ, Nƣơng Ngài –
Mỹ Đức. Theo nguồn gốc hình thành và độ cao, địa hình miền núi chia ra làm 3
dạng địa hình, núi cao, địa hình núi thấp, và địa hình núi sót. Một số xã ở vùng
cao do địa hình phức tạp nên giao thông nông thôn và cơ sở hạ tầng phục vụ cho
sản xuất còn gặp nhiều khó khăn. Trong tƣơng lai vùng này đƣợc ƣu tiên đầu tƣ
nhất là cơ sở hạ tầng, nhằm cải tạo điều kiện sản xuất phát triển.
Địa hình vùng bậc thềm phù sa cổ bạc màu và đá ong hóa: đây là khu
đệm giữa các núi phía Bắc và đồng bằng do sông ngòi bồi đắp. Toàn bộ diện
tích khoảng 38000ha. Vùng này cũng chiếm một vị trí quan trọng, địa hình của
tỉnh Hà Tây là địa bàn của sản xuất cây lâu năm, cây ăn quả, vƣờn trang trại, cây
nông lâm nghiệp, đồng cỏ chăn nuôi đại gia súc.
Vùng đồng bằng phía Đông: gồm 2 dạng là bãi bồi phù sa thuộc ngoài đê
gồm các bãi bồi và cù lao giữa sông chiếm một diện tích 20.000ha ở xã Tân Đức
Ba Vì, Phúc Thọ, Đan Phƣợng thích hợp cho trồng cây công nghiệp ngắn ngày
nhƣ mía, dâu tằm. Vùng đồng bằng trong đê là vựa lúa chính của tỉnh Hà Tây
với diện tích gieo trồng trên 124.000ha bằng 58% diện tích tự nhiên của toàn
tỉnh và 3800ha mặt nƣớc dùng cho cho chăn nuôi thủy sản nhƣ Phúc Thọ, Đan
Phƣợng, Hoài Đức, Thanh Oai, Thƣờng Tín, Phú Xuyên, Ứng Hòa. Bề mặt vùng
này tƣơng đối bằng phẳng thuận lợi cho phát triển cây lúa nƣớc, trồng rau màu,
cây vụ đông và chăn nuôi.
*Khí hậu
Khí hậu Hà Tâymang những nét đặc trƣng của khí hậu đồng bằng Bắc Bộ
là khí hậu có tính chất nhiệt đới nóng làm mƣa nhiều, có mùa đông gió rét ít
mƣa. Mùa nóng mƣa nhiều từ tháng 4. Lƣợng mƣa ở tỉnh Hà Tây hàng năm khá
11
lớn tăng dần từ đồng bằng lên miền núi, từ Đông sang Tây, trung bình từng vùng
từ 1500mm dến 2000mm, tập trung nhiều nhất vào tháng 5 đến tháng 10 ở đồng
bằng phía Đông và từ tháng 4 đến tháng 10 ở vùng núi phía Tây. Mùa mƣa ít ở
Hà Tây từ tháng 11 đến tháng 4. Nhiệt độ thuộc trung bình hàng năm là C.
Độ ẩm trung bình 82 – 89 %. Số giờ nắng hằng năm vào khoảng 1700 giờ. Với
địa hình núi đá Nƣơng Ngài – Hƣơng Sơn – Mỹ Đức và vùng núi Ba Vì rộng
trên 7000ha có đỉnh núi Tản Viên cao 1282m, có ý nghĩa đặc biệt về khí hậu có
những nét khác với vùng khác và có tiềm năng về du lịch của tỉnh .
Nhƣ vậy điều kiện khí hậu của tỉnh Hà Tây khá thuận lợi về mọi mặt cho
phát trển nông nghiệp đây là cơ sở cho sự đa dạng cơ cấu sản phẩm nông nghiệp
phát huy lợi thế cho so sánh của các yếu tố sinh thái của tỉnh.
Khí hậu Hà Tây có thể thấy rõ 2 vùng khí hậu khác nhau. Vùng 1 khí hậu
đồng bằng phía Đông các xã ven sông Hồng thuộc Ba Vì, Phúc Thọ cho đến hết
tỉnh, vùng II vùng khí hậu đồi núi phía tây. Tuy vậy vào mùa mƣa với lƣợng
nƣớc tập trung lớn, mức nƣớc các sông trong vùng dâng vào ảnh hƣởng tới sản
xuất nông nghiệp các huyện dọc sông Hồng, sông Đà, sông Đáy,sông Tích, sông
Nhuệ.
* Tài nguyên đất:
Vùng đồng bằng có các loại đất phù sa đƣợc bồi : 17.030 ha (8%), đất
phù sa không đƣợc bồi đắp: 51.392 ha (24%), đất phù sa Gley: 51.551 ha (24%).
Vùng đồi núi gồm các loại đất nâu vàng trên phù sa cổ 20.603 ha (10%), đất đỏ
vàng trên đá phiến sét 10.783 ha, đất nâu đỏ và mùn đỏ vàng trên đá macma
bazơ và đất đâu đỏ trên đá vôi. Nhìn chung đất có đội phì nhiêu cao, với nhiều
loại địa hình nên có thể bố trí đƣợc nhiều loại cây trồng ngắn ngày, dài ngày,
cây lƣơng thực, cây công nghiệp, đồng cỏ chăn nuôi, cây đa tác dụng với các hệ
thống canh tác có tƣới hoặc không tƣới.
12
Nhƣ vậy có thể nói đất đai tỉnh Hà Tây khá đa dạng về chủng loại mặc dù
hàm lƣợng chất dinh dƣỡng trong đất ở mức không cao nhƣng đất có thành phần
cơ giới nhẹ là chủ yếu nên thuận lợi cho canh tác nhiều loại cây trồng khác nhau
nhƣ: cây lƣơng thực, cây công nghiệp, cây ăn quả….
*Tài nguyên nước:
Tài nguyên nƣớc mặt: trên địa bàn tỉnh Hà Tây có nhiều con sông chảy
qua, song chế độ thủy văn phụ thuộc vào con sông chính sông Hồng và sông Đà,
sông Đáy, sông Tích.
“Đƣợc sông Hồng bao bọc, ở phía đông sông Đà ở phía bắc và các sông
nội địa khác phân bố đều trong lãnh thổ với mật độ dân số khá cao. Với lƣợng
nƣớc sơ bộ hàng năm khoảng 180-200 tỷ . Đi theo đó là tài nguyên phù sa
sông Hồng và sông Đà khoảng 170 triệu tấn/năm”. [26,tr.8]. Nhìn chung tài
nguyên nƣớc dồi dào cho nông nghiệp công nghiệp, sinh hoạt, nếu xây dựng
đƣợc hệ thống cấp thoát nƣớc hoàn chỉnh để lấy nƣớc sông và giữ đƣợc nƣớc
mùa mƣa, cấp nƣớc mùa khô, phù sa sông là nguồn dinh dƣỡng quan trọng để
cải tạo đất và năng xuất cây trồng, các con sông khác nhƣ sông Nhuệ còn có giá
trị giao thông rất lớn. Do vậy các cƣ dân có điều kiện phát triển nông nghiệp, và
làng nghề sử dụng nguyên liệu lâm sản để sản xuất .
Ngoài ra còn có các sông khác và hố Suối Hai còn có tác dụng điều hòa
khí hậu cho vùng chân núi Ba Vì, hồ Đồng Mô – Ngải Sơn, hồ Quan Sơn.
Tài nguyên nƣớc ngầm : nƣớc ngầm cũng rất cần thiết và liên quan trực
tiếp đến đới sống con ngƣời, cần thiết cho sản xuất nông nghiệp và công nghiệp.
Mực nƣớc ngầm của Hà Tây có độ sâu 3-4 m thì dùng để tƣới cây và ở độ sâu 7-
8m dùng để ăn uống phía tây tỉnh lƣu lƣợng nhỏ chỉ 0-1 2l/s, vùng giữa tỉnh có
lƣu lƣợng 2-10 l/s vùng đồng bằng phía đông ven sông Hồng lƣu lƣợng cao hơn
cả hơn 10 l/s.
*Tài nguyên khoáng sản :
13
Hà Tây có một số khoáng sản chính sau: đá vôi ( Mỹ Đức, Chƣơng Mỹ)
đá grarit (Chƣơng Mỹ ), sét (Chƣơng Mỹ, Thạch Thất, Quốc Oai ), cao lanh ( Ba
Vì, Quốc Oai ), vàng gồ và sa khoáng (Quốc Oai, Chƣơng Mỹ ), đồng (Ba Vì),
abet( Ba Vì ), đôlômít (Quốc Oai), nƣớc khoáng (Ba Vì) với chất lƣợng và trữ
lƣợng cho phép khai thác và chế biến ở quy mô công nghiệp vừa và lớn.
*Tài nguyên du lịch :
“Theo thống kê của Bộ Văn hóa thì Hà Tây (cũ) là tỉnh đứng thứ 3 trong
cả nƣớc (sau Hà Nội và TP Hồ Chí Minh) về số lƣợng di tích lịch sử (300 di
tích)với mật độ 14 di tích /100 (cả nƣớc 2,2 di tích/ )” [26,tr.11]. Vùng
núi Ba Vì và dải núi đá vôi phía Tây tạo ra cảnh quan và khí hậu đa dạng và khu
rừng nguyên sinh, các bản làng dân tộc với văn hóa truyền thống.
Với tiềm năng cảnh quan và di tích lịch sử, vị trí địa lí nằm cạnh Hà Nội
và tam giác kinh tế Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh, Hà Tây đƣợc đánh giá là
điểm du lịch có tầm cỡ quốc gia và quốc tế. Tuy vậy, để đƣa du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế phải đƣợc đầu tƣ lớn để xây dựng
cơ sở hạ tầng du lịch nâng cấp các di tích và cảnh quan, khôi phục và xây dựng
văn hóa- dân gian…
*Tài nguyên sinh vật :
Đa dạng với nhiều loại giống cây trồng trên địa bàn tỉnh Hà Tây có nhiều
cây trồng phong phú có nguồn gốc từ nhiệt đới và ôn đới. Các cây trồng nhiệt
đới gồm lúa, ngô, đỗ tƣơng, chuối, na, … Các cây trồng bán nhiệt đới nhƣ: chè,
cam, quýt, bƣởi, các cây trồng ôn đới gồm: khoai tây, khoai lang, rau cải, bắp, su
su, các cây dƣợc liệu khác …
* Đánh giá những thuận lợi và khó khăn của điều kiện tự nhiên đối với phát
triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hà Tây:
Thuận lợi
14
Tỉnh Hà Tây là tỉnh nằm trên địa bàn có nhiều đƣờng quốc lộ chạy qua
trong đó có Quốc lộ 1A, 6A, 21A, 32, 22 đây là các quốc lộ có tác dụng là cầu
nối giữa các tỉnh phía Bắc, Nam, Tây, Đông với tỉnh Hà Tây và Tỉnh còn nằm
liền kề với Thủ đô Hà Nội, nên thuận lợi cho việc phát triển kinh tế xã hội nói
chung và nông nghiệp nông thôn nói riêng.
Tỉnh Hà Tây nằm trong vùng quy hoạch: Vùng kinh tế trọng điểm Bắc
Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng và vùng Thủ đô. Hà Tây nằm trong vùng chuẩn
bị sát nhập vào địa giới hành chính với Thủ đô, đây cũng là điều kiện thuận lợi
để tỉnh Hà Tây có cơ hội phát triển hơn.
Điều kiện địa hình, đất đai bao gồm cả vùng đồng bằng và vùng đồi núi
thuận lợi cho phát triểnj nhiều loại cây trồng, vật nuôi đã tạo nên sự phong phú,
đa dạng trong sản xuất nông nghiệp tạo cho Hà Tây phát triển thế mạnh cả về
trồng trọt lẫn chăn nuôi.
Tài nguyên nƣớc mặt dồi dào, bao gồm các con sông lớn nhƣ sông Hồng,
sông Đáy, sông Đà và các sông nội địa nhƣ sông Đáy, sông Nhuệ, suối Hai…
tạo dự trữ đáng kể phục vụ cho sản xuất và nông nghiệp.
Hạn chế:
Bên cạnh những thuận lợi mà điều kiện tự nhiên đem lại cho tỉnh Hà Tây
thì bên cạnh đó còn tồn tại một số hạn chế nhƣ:
Sản xuất nông nghiệp do mạng nặng tính thời vụ, phụ thuộc chủ yếu vào
thiên nhiên, tính rủi ro cao, hiệu quả kinh tế thấp nên khó thu hút các nhà đầu tƣ
vào nông nghiệp hơn các ngành sản xuất khác .
Diện tích đất canh tác manh mún, bình quân đất nông nghiệp thấp, 576
là trở ngại lớn cho việc áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất, đặc biệt là khu vực
đồi núi.
15
1.1.2. Điều kiện về kinh tế - xã hội
Sau khi cả nƣớc bắt tay vào đổi mới đất nƣớc đã và đang đạt đƣợc
nhiều thành tựu quan trọng đặc biệt là về kinh tế, nhƣ nông nghiệp, công
nghiệp…trong đó nông nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ với thủ công nhiệp.
Năm 1986 công nghiệp và thủ công nghiệp đã khắc phục đƣợc nhiều khó khăn,
năng đông vƣơn lên, tạo thêm một số mặt hàng mới. Kinh tế đồi rừng phát triển
theo hƣớng nông lâm kết hợp. Các mặt hàng xuất khẩu hoàn thành theo kế
hoạch và tăng hơn năm trƣớc, đã nhập về một số vật tƣ, hàng hoá góp phần
phục vụ sản xuất, đời sống và đóng góp cho ngân sách.
Năm 1987, giá trị sản lƣợng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đạt
1.179,8 triệu đồng vƣợt kế hoạch 10% và tăng 9,8% so với năm 1986. Trong đó
hàng xuất khẩu tăng hơn cả về số lƣợng và chủng loại. Hàng xuất khẩu đạt
296,3 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 26% và tăng 18%. Hàng công nghiệp tiêu dừng
đạt 899,8 triệu đồng tăng 8,9%. Trên 50 sản phẩm đã đƣa vào sản xuất phần lớn
là hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu: sứ công nghiệp, đồ mộc cao cấp, chấn lƣu,
dây điện, hàng sơn mài, mây tre đan, vải màn, khăn bông, len tái sinh, quạt
bàn… Do phát triển sản xuất, nhiều lao động ở các địa phƣơng khác có việc làm.
Năm 1988, giá trị sản lƣợng công nghiệp, thủ công nghiệp tăng từ 8 đến
21%. Hàng xuất khẩu tăng 28% so với năm 1986. Năm 1989, sản lƣợng công
nghiệp đạt 1.364 triệu đồng giảm 3,7% so với năm 1988. Tiểu thủ công nghiệp
tăng 2,8%. Các mặt hàng: Kim khí, đồ gỗ, vật liệu xây dựng, gố sứ, may mặ sẵn,
bánh kẹo bia, nƣớc ngọt, nƣớc giả khát, đá, máy sát gạo, phân bón, và các mặt
hàng thủ công mỹ nghệ….tăng khá hơn trƣớc.
Kinh doanh xuất khẩu của các tỉnh đƣợc mở rộng, bƣớc đầu tìm hiểu
thêm thị trƣờng. Năm 1989, ngành xuất khẩu tỉnh đạt 18 triệu rúp, đô la hàng
hoá, tăng 63% so với năm 1988, trong đó chiếm trên 80% là hàng mây tre đan
và hàng mỹ nghệ. Riêng liên hiệp Công ty Xuất khẩu tỉnh đƣợc 12 triệu rúp, đô
16
la. Tỉnh đã nhập về 3,6 triệu rúp, đô la hàng hoá, nộp ngân sách 3,1 tỷ đồng Việt
Nam. Bƣớc sang năm 1990 về hàng tiêu dùng và hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu, đây là năm có nhiều giảm rút. Nguyên nhân chủ yếu là sự khủng khoảng
kinh tế - chính trị xã hội của các nƣớc xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Sản xuất
công nghiệp và thủ công nghiệp chỉ bằng 77,2% so với năm 1989, trong đó khu
vực quốc doanh giảm 22,7%. Giá trị hàng xuất khẩu tính theo ngoại tệ chỉ bằng
65% năm 1989. Một số hợp đồng buôn bán với các nƣớc Đông Âu bị huỷ bỏ .
Thị trƣờng mới chƣa có.
Kinh tế quốc doanh giảm sút, hiệu quả thấp. Nhiều đơn vị không có việc
làm vì sản phẩm làm ra giá thành cao, chất lƣợng kém, thị trƣờng không chấp
nhận. Giá trị sản lƣợng quốc doanh chỉ chiếm 9,4% so với giá trị sản lƣợng công
nghiệp và thủ công nghiệp. Tỷ trọng bán lẻ của thƣơng nghiệp quốc doanh
chiếm 30%. Phần lớn các công ty thƣơng nghiệp cấp 3 và hợp tác xã mua bán
huyện bị thua lỗ.Các hợp tác xã tín dụng do bị tệ nạn hụi họ chieems dụng vốn.
Hầu hết các đơn vị tín dụng bị đổ vỡ.
*Xã hội
Dân số Hà Tây năm 1991 là “2.237.104 ngƣời, trong đó có 985.000 nam
(chiếm 44,03%) và nữ 1104.000 (chiếm 55,97%); phaan theo địa bàn cƣ trú có
109.800 ngƣời ở thành thị ( chiếm 12%) và ở nông thôn có 1.979.700 ngƣời (chiếm
88% dân số toàn tỉnh) bình quân mỗi năm tăng với tỷ lệ 1,8 đến 2%”[17,tr.174]
Hà Tây là một tỉnh đông dân cƣ (đứng thứ 5 toàn quốc). “Theo kết qủa điều tra
4/ 2001 số dân là 2.886.770 ngƣời với mật độ dân số là 1.111 ngƣời/ ”[41], thành
phần dân số nông thôn chiếm 91%, thành thị 9%. “Sự tăng nhanh về dân số của Hà
Tây đã làm tăng áp lực về nhân khẩu, đất đai; bình quân đất canh tác chỉ 580 /ngƣời,
chỉ bằng 57,6% so với mức trung bình của cả nƣớc; cho đến nay nông nghiệp của Hà
Tây vẫn là hệ thống nông nghiệp truyền thống, sản xuất tự cung tự cấp lƣơng thực là
chính, nông phẩm hàng hóa còn ở mức thấp. Cơ cấu dân số tham gia lao động nông
17
nghiệp chiếm 93,4 % dân số toàn tỉnh; lao động quản lí các ngành kinh tế, chính trị, xã
hội… dƣới 7%.”[17,tr.178-179].
Thành phần dân tộc:“ngƣời Kinh chiếm khoảng 99% và dân tộc Mƣờng chiếm
khoảng 0,8 %. Dân tộc Dao 0,2% dân số”[40]. Ngoài ra còn có một số dân tộc khác
nhƣ Tày, Thái, Nùng, …Mỗi dân tộc chỉ vài trăm ngƣời sống chung với cộng đồng
ngƣời Kinh; chỉ ngƣời Dao ở một số bản thuộc xã Ba Vì, dân số trên 1500 ngƣời, là
còn sống riêng với nhau.
Ngày nay, tỉnh Hà Tây có hơn 20 trƣờng đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp, trƣờng dạy nghề của trung ƣơng và địa phƣơng, quy mô đào tạo khoảng gần
30.000 học sinh, hằng năm có khoảng hơn 1000 học sinh tốt nghiệp. Đây là nguồn
nhân lực trẻ có kiến thức về văn hóa, kỹ thuật, đáp ứng nhu cầu về lao động của tỉnh
trong mọi thành phần kinh tế.
1.2. HOẠT ĐỘNG KINH TẾ NÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH HÀ TÂY
TRƢỚC NĂM 1991.
1.2.1. Trồng trọt
Sau ngày 10/4/1965 Bộ chính trị TW Đảng ra nghị quyết số 113 quyết
định hợp nhất hai tỉnh Hà Đông – Sơn Tây thành tỉnh Hà Tây. Tỉnh lị là Hà
Đông. Lúc này nhân dân miền Bắc đang phải đƣơng đầu với các cuộc chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ phát triển kinh tế trong điều kiện chiến tranh là
yêu cầu rất quan trọng lúc bấy giới. Năm 1965 – 1966, Ban Thƣờng vụ Tỉnh ủy
đã quán triệt. Mục tiêu phấn đấu đạt 5 tấn thóc/1ha trở lên trong năm phải thực
hiên một cách thiết thực ngay từ vụ đông năm nay và là vụ thứ 2 chuyển hƣớng
kinh tế. Với phƣơng châm lấy nông nghiệp là chủ yếu và công tác “Khoán hộ”
đã tạo ra một động lực làm cho ngƣời lao động gắn bó chặt chẽ hơn với sản
phẩm làm ra.
Với chính sách nông nghiệp, một hƣớng đi mới đƣợc triển khai mở lối
cho nông nghiệp Hà Tây phát triển. Nhờ đó trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt
nhƣng sản xuất vẫn đƣợc duy trì và giành nhiều kết quả khả quan. Với tổng diện
18
tích gieo trồng trong năm 1966 toàn tỉnh đạt 215.612ha, vƣợt kế hoạch 1,1%
tăng hơn 1965. Tổng sản lƣợng lƣơng thực đã đạt 375.705 tấn. Toàn tỉnh đã có
hai huyện là Đan Phƣợng và Phúc Thọ, 44 xã, 144 hợp tác xã đạt 5 tấn thóc /ha.
Đến năm 1967 thì năng suất bình quân đã tăng hơn đạt 44,38tạ/ha. Có 4 huyện
thị xã đạt 5 tấn và hơn 5 tấn, 4 huyện khác đạt xấp xỉ 5 tấn /1 ha. Có 73 xã, 195
hợp tác xã đạt từ 5 tấn trở lên.
Trong những năm 1968 -1975, Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 98 về “Vụ mùa
tổng tiến công 1968” với 3 yêu cầu phấn đấu giành vụ mùa toàn diện, mở rộng
vùng 5 tấn, cánh đồng 5 tấn, hợp tác xã 5 tấn, huyện 5 tấn, thanh toán diện tích
dƣới 5 tấn. Tuy nhiên sản xuất nông nghiệp trong năm 1968 gặp một số khó
khăn do sự bỏ hóa bên cạnh úng lụt sức lao động trẻ khỏe trong sản xuất của hợp
tác xã thực hiện chính sách phân phối định suất do đó không kích thích đƣợc sản
suất cho nên năng suất lúa năm 1968 giảm sút tới gần 7tạ/ha. “Tổng sản lƣợng
quy thóc đạt 303,045 tấn hụt 94,030 tấn, bằng 76,31% (1967)”[2,tr.310].
Giai đoạn 1973 – 1975, khi đế quốc Mỹ buộc phải chấm dứt chiến tranh
phá hoại miền Bắc, nhân dân tỉnh Hà Tây bắt tay vào hàn gắn vết thƣơng chiến
tranh, khôi phục sản xuất trong điều kiện hết sức khó khăn. Tỉnh đã tập trung chỉ
đạo củng cố hợp tác xã nông nghiệp ở hai khu vực đồng bằng và miền núi mở
rộng và tăng diện tích gieo trồng nâng cao năng suất và sản lƣợng đẩy mạnh,
thâm canh, phát triển chăn nuôi, hình thành các vùng chuyên canh theo quy
hoạch nhƣ lúa, chè, thuốc lá, rau màu,….
Bƣớc vào giai đoạn mới nhân dân tỉnh Hà Tây bắt tay vào xây dựng quê
hƣơng mình trong điều kiện mới. Tuy nhiên, những hậu quả chiến tranh, cộng
với thiên tai địch họa và sự thiếu thốn về vật tƣ, nguyên liệu đã gây không ít khó
khăn, cản trở cho việc phục hồi kinh tế, phát triển sản xuất. Cùng đó cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp là những lực cản lớn khi bắt tay vào xây dựng cơ sở vật
chất cho sản xuất lớn XHCN.