TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
NGUYỄN THỊ XUÂN
CẢM QUAN HIỆN THỰC ĐỜI THƯỜNG
TRONG TÁC PHẨM CHUYỆN CŨ HÀ NỘI
CỦA TÔ HOÀI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI - 2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
NGUYỄN THỊ XUÂN
CẢM QUAN HIỆN THỰC ĐỜI THƯỜNG
TRONG TÁC PHẨM CHUYỆN CŨ HÀ NỘI
CỦA TÔ HOÀI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học
TH.S DƯƠNG THỊ THÚY HẰNG
HÀ NỘI – 2014
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô hướng dẫn khoa học Thạc sĩ
Dương Thị Thúy Hằng, cô đã tận tình hướng dẫn chỉ bảo để em hoàn thành
khóa luận này.
Trong quá trình học tập trưởng thành và đặc biệt là giai đoạn thực hiện khóa
luận, em nhận được sự dạy dỗ ân cần, những lời động viên chỉ bảo của các thầy
cô. Qua đây cho phép em bày tỏ sự biết ơn chân thành tới các thầy cô trong tổ
Văn học Việt Nam, khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Xin chân thành cảm ơn các anh chị em, bạn bè và gia đình đã quan tâm
giúp đỡ cùng em san sẻ kiến thức, động viên tinh thần trong quá trình thực
hiện.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2014
Sinh Viên
Nguyễn Thị Xuân
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em dưới sự hướng
dẫn khoa học Thạc sĩ Dương Thị Thúy Hằng. Các kết quả thu được trong luận
văn này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình
nào.
Hà Nội, tháng 4 năm 2014
Sinh Viên
Nguyễn Thị Xuân
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
1. Lí do chọn đề tài
1
2. Lịch sử vấn đề
2
3. Mục đích nghiên cứu
5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
5
5. Đối tượng nghiên cứu
5
6. Phương pháp nghiên cứu
5
7. Cấu trúc khóa luận
6
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: GIỚI THUYẾT CHUNG
7
1.1. Cảm quan hiện thực – Cảm quan hiện thực đời thường
7
1.2. Tô Hoài - nhà văn của những cảm hứng đời thường
8
1.2.1. Quan niệm của nhà văn khi tiếp cận hiện thực
8
1.2.2. Sự thể hiện cảm quan hiện cảm quan hiện thực đời thường
trong hành trình sáng tác của Tô Hoài.
9
1.3. Kí sự Chuyện cũ Hà Nội
13
CHƯƠNG II: CẢM QUAN HIỆN THỰC ĐỜI THƯỜNG
TRONG NỘI DUNG BIỂU HIỆN CỦA CHUYỆN CŨ HÀ NỘI
16
2.1 Cảm quan hiện thực đời thường trong dòng chảy tự nhiên dung dị
16
2.1.1 Hà Nội với những nét sinh hoạt văn hóa đời thường
16
2.1.2. Hà Nội của những con người đời thường
26
2.2 Cảm quan hiện thực đời thường trong cuộc sống lam lũ, khổ đau
31
CHƯƠNG III: CẢM QUAN HIỆN THỰC ĐỜI THƯỜNG
TRONG HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA CHUYỆN CŨ HÀ NỘI
40
3.1. Ngôn ngữ
40
3.1.1. Ngôn ngữ đời thường dân dã
40
3.1.2. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàm súc
44
3.2. Giọng điệu
45
3.2.1. Giọng hóm hỉnh, tinh nghịch
45
3.2.2. Giọng xót xa, thương cảm
47
3.2.3. Giọng mỉa mai, giễu cợt
48
3.3 Không gian nghệ thuật - Thời gian nghệ thuật
50
3.3.1 Không gian nghệ thuật
50
3.3.2 Thời gian nghệ thuật
54
KẾT LUẬN
59
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tô Hoài là một nhà văn lớn trong văn học Việt Nam. Với khối lượng
sáng tác đồ sộ và phong cách nghệ thuật độc đáo, Tô Hoài có vị trí xứng đáng
trong văn đàn Việt Nam trải qua nhiều thời kì, trên nhiều phương diện. Trải
qua một hành trình sáng tạo hơn nửa thế kỷ, nhà văn đã đóng góp cho văn học
Việt Nam hiện đại tới trên 160 đầu sách, ở cả hai giai đoạn trước và sau 1945.
Một trong những nét cuốn hút của văn chương Tô Hoài chính là ở chỗ ông đã
tìm cho mình một giọng điệu, một phong cách rất riêng. Cái riêng đó, thâu
tóm ở một chữ “thường” ngòi bút của ông thường hướng vào “Những chuyện
trong làng và trong nhà, những cảnh và người của một vùng công nghệ đang
sa sút, nghèo khổ” và ngay cả những truyện viết về loài vật cũng nằm trong
khu vườn trước nhà. Con người trong tác phẩm của Tô Hoài là con người với
những phẩm chất cá tính, thói tật vừa có cái dở vừa có cái hay. Con người
trước hết là con người trong nghĩa tự nhiên vốn có, con người trong dòng
chảy của nhân sinh, con người trong niềm vui nỗi buồn thường nhật. Cuộc
sống sinh hoạt đời thường lâu nay đã trở thành chất liệu trong sáng tác của
ông là những sự việc, chi tiết “vụn vặt”, bình dị đời thường xuất hiện với tần
số dày đặc. Nhưng những sự việc “vụn vặt” ấy người đọc vẫn cảm nhận được
cái lớn lao của lịch sử, sự chuyển động trong từng bước đi của đời sống.
Trong mảng kí, Tô Hoài tạo ra cho mình một nét duyên riêng, với cách
kể chuyện nhiều sắc thái giọng điệu khi thì dí dỏm hài hước, suồng sã tự
nhiên, khi thì mỉa mai phê phán, khi thì xót xa thương cảm…Đến với kí của
Tô Hoài, người ta như lạc vào những câu chuyện được nhẩn nha, chậm rãi
như chính dòng chảy của cuộc sống đời thường. Chuyện cũ Hà Nội là một
trong những tập kí sự đặc sắc của Tô Hoài. Tập kí sự này in đậm phong cách
nghệ thuật của Tô Hoài, ghi dấu sự trở về “muôn chuyện đời thường”, thể
hiện những hiểu biết phong phú, kĩ càng, thấu đáo về cuộc sống xung quanh
2
tác giả, trong cảm quan hiện thực đời thường. Chuyện cũ Hà Nội đã thể hiện
rõ nét cái nhìn hiện thực rất đỗi dung dị của Tô Hoài về cuộc sống của con
người Hà Nội trong dòng chảy văn hóa lịch sử với những đa đoan bộn bề
ngổn ngang, với những số kiếp khổ đau và cả những nét tinh hoa văn hóa còn
lưu giữa lại của thu đô ngàn năm văn hiến.
Trên cơ sở đó, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Cảm quan hiện
thực đời thường trong tác phẩm Chuyện cũ Hà Nội – Tô Hoài”.
2. Lịch sử vấn đề
Trong sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài, tác phẩm Chuyện cũ Hà Nội có
vai trò quan trọng. Tác phẩm này đã được Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà
Nội tặng giải thưởng Thăng Long năm 1997-1998 và được coi là một tập kí
sự đặc biệt có giá trị về Hà Nội trong khoảng chục năm trở lại đây. Nhắc đến
những trang sách viết về Hà Nội, không thể thiếu Chuyện cũ Hà Nội của nhà
văn Tô Hoài. Đúng là chuyện cũ, chuyện của những ngày tháng thuộc địa với
cái đời sống mệt mỏi, song không nhạt hay lạc lõng đối với bạn đọc thế hệ
hôm nay. Bởi nó không chỉ là một tập kí sự mà còn được đánh giá như một
cuốn biên khảo về văn hóa, phong tục tập quán, hội hè đình đám và thậm chí
như một công trình nghiên cứu về xã hội học.
Cho đến nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu về tác giả Tô Hoài,
nhưng nghiên cứu về cảm quan hiện thực đời thường tập truyện Chuyện cũ
Hà Nội của ông lại rất ít, chỉ có một vài ý kiến của các nhà phê bình được
nằm rải rác trong các công trình nghiên cứu mang tính khái quát, giới thiệu,
mà chưa thực sự đi vào nghiên cứu chuyên biệt.
Trong lời giới thiệu Chuyện cũ Hà Nội, nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh
Phúc khẳng định: “Có thể coi đó là một thứ Vũ trung tuỳ bút thời hiện đại, vì
với những mẩu chuyện không dài, Tô Hoài với tư cách một chứng nhân đã ghi
lại “muôn mặt đời thường” của cái Hà Nội thời thuộc Tây. Tuy mới qua sáu,
3
bảy chục năm mà dường như không mấy ai nhớ nữa, thậm chí đã trở thành
chuyện đời xưa” Trong nhận định này, Nguyễn Vinh Phúc đã chỉ ra đặc trưng
cảm quan hiện thực đời thường của Tô Hoài khi viết về Hà Nội, đồng thời
khẳng định giá trị của nó không chỉ ở phương diện văn học, mà còn ở phương
diện văn hoá và lịch sử. Theo Vương Trí Nhàn thì “số tác giả của Thủ đô thật
là nhiều. Song có lẽ chỉ có Tô Hoài là mang được cái chất riêng của vùng đất
mà mình đã từ đó trưởng thành. Và giữ được cái chất đó, trong suốt cuộc đời
cầm bút”.
GS Nguyễn Đăng Mạnh trong bài viết Tô Hoài với quan niệm "con
người là con người" đã khẳng định: "Tô Hoài quan niệm con người là con
người, chỉ là con người, thế thôi". Vì thế, nhân vật của ông được khai thác
"toàn chuyện đời tư, đời thường". Ngay cả nhân vật cách mạng, nhân vật anh
hùng của ông thường ít được lý tưởng hoá. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng
Điệp nhấn mạnh: "Viết về cái của mình, quanh mình là định hướng nghệ thuật
và cũng là kênh thẩm mỹ của Tô Hoài. Đúng hơn, đây là yếu tố cốt lõi làm
nên quan niệm nghệ thuật của ông. Nó khiến cho văn Tô Hoài có được phong
cách, giọng điệu riêng. Đó là một giọng kể nhẩn nha, hóm hỉnh và tinh quái".
Khi giới thiệu cho Tuyển tập Tô Hoài, Giáo sư Hà Minh Đức cũng đưa
ra nhận xét sâu sắc, khẳng định giá trị truyện lịch sử của Tô Hoài: “Ông muốn
trở về với ngọn nguồn của những truyền thuyết, thần tích, những câu chuyện
cổ để tìm hiểu sự sống của dân tộc trong thời kỳ xa xưa với những cảm nghĩ
và hình thái tư duy, với những hành động sáng tạo của người lao động trong
quá trình dựng nước và giữ nước”.
Cùng với suy nghĩ đó, Vũ Quần Phương khẳng định: “Tô Hoài có lối đi
riêng khi viết truyện lịch sử. Đọc truyện của ông, người ta được tắm mình vào
không khí Việt Nam truyền thống. Ông là người lưu giữ được nhiều nét xưa,
nhiều hương vị xưa mà không sa vào hoài cổ”. Cùng chia sẻ cảm hứng khẳng
định giá trị đặc sắc truyện lịch sử của Tô Hoài, tác giả Lã Thị Bắc Lý trong
4
Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975 đã viết: “Tô Hoài đã mở ra hướng
khai thác mới, hướng khai thác lịch sử gắn với huyền thoại, phong tục và văn
hóa”.
Có một công trình công phu và toàn diện hơn cả đã khảo sát về phong
cách nghệ thuật của Tô Hoài là chuyên luận của T.S Mai Thị Nhung, trong
đó, cảm quan hiện thực của Tô Hoài đã được nghiên cứu công phu trên
những phương diện cơ bản. Theo đó, tác giả của công trình đã chỉ ra hạt nhân
của phong cách nghệ thuật Tô Hoài chính là cảm quan hiện thực đời thường,
bao gồm: Cảm quan nhân bản đời thường về con người, cảm quan về xã hội
trong dòng chảy tự nhiên của đời sống sinh hoạt và phong tục, cảm quan sinh
hoạt phong tục về loài vật, cảm quan thiên nhiên bình dị mang màu sắc tự
nhiên, khách quan. Đây là những kết quả nghiên cứu toàn diện và có ý nghĩa
khoa học sâu sắc.
Nhà phê bình Đặng Tiến cho rằng: Vào tuổi “thiều quang chín chục”,
sau hơn 160 đầu sách, ngòi bút Tô Hoài vẫn dạt dào xuân sắc. Vẫn một dòng
suy cảm, một khối u hoài. Duy niềm u hoài bên Xóm Giếng ngày nay nhẹ
phần mơ mộng, thêm phần tư lự. Chuyện cũ Hà Nội là niềm hoài cựu miên
man về một thành phố, đồng thời là khối trầm tư day dứt một đời người về
thân phận làm người. Chuyện cũ Hà Nội nhưng thật ra là “Chuyện cũ Tô
Hoài”, những mảnh đời cụ thể, những mảnh tình cảm, suy tư non một trăm
năm dâu bể. Tư liệu và tư duy. Nhân chứng và tâm chứng. Nghiệm cho cùng,
tác phẩm Tô Hoài là chuyện về con người trong tình đời không bao giờ cũ.
Hầu hết ý kiến của các nhà nghiên cứu đều khẳng định: Cảm quan đời
thường chính là nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Tô Hoài. Trong
đó Chuyện cũ Hà Nội là một trong những tác phẩm thể hiện xuất sắc cảm
quan đó.
Như vậy, có thể thấy rằng, Chuyện cũ Hà Nội là một tác phẩm xứng
đáng để nghiên cứu và đã bước đầu được quan tâm, khảo sát, tìm tòi. Tuy
5
nhiên, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về Chuyện cũ Hà Nội
một cách công phu và toàn diện ở phương diện cảm quan hiện thực đời
thường. Vì lẽ đó, trên cơ sở kế thừa và phát huy những kết quả mà nhiều
người đi trước đã đạt được, chúng tôi quyết định nghiên cứu “Cảm quan
hiện thực trong Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài”.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cảm quan hiện thực trong Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài,
nhằm hướng tới những mục đích sau:
Chỉ ra cảm quan hiện thực của Tô Hoài thể hiện trên nhiều phương diện,
từ đó khẳng định cá tính sáng tạo của nhà văn.
Từ việc nghiên cứu cảm quan hiện thực của Tô Hoài, chúng tôi góp thêm
cơ sở để khẳng định phong cách nghệ thuật của tác giả.
Đóng góp một tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu về tác giả
Tô Hoài.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm nổi bật cảm quan hiện thực đời thường của Tô Hoài trong Chuyện
cũ Hà Nội, qua các phương diện cơ bản và những nét độc đáo của Tô Hoài.
Từ đây, chúng tôi khẳng định vị trí và những đóng góp của nhà văn Tô Hoài
đối với đề tài Hà Nội nói riêng và nền văn học dân tộc nói chung.
5. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là cảm quan hiện thực đời thường
của Tô Hoài, thông qua tác phẩm Chuyện cũ Hà Nội. Chúng tôi đi tìm hiểu
các phương diện thể hiện cảm quan hiện thực đời thường và những nét đặc
sắc nghệ thuật trong việc biểu hiện cảm quan hiện thực đời thường trong tác
phẩm này.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp khảo sát, phân loại
Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp đối chiếu so sánh
Phương pháp khái quát, tổng hợp
6
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khóa luận của chúng tôi
được chia thành ba phần như sau:
Chương I: Giới thuyết chung
Chương II: Cảm quan hiện thực đời thường trong nội dung biểu hiện của
Chuyện cũ Hà Nội.
Chương III: Cảm quan hiện thực đời thường qua hình thức biểu hiện của
Chuyện cũ Hà Nội.
7
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: GIỚI THUYẾT CHUNG
1.1. Cảm quan hiện thực – Cảm quan hiện thực đời thường
Theo từ điển Tiếng Việt: “cảm quan” là nhận thức, cảm nhận trực tiếp
bằng các giác quan, “hiện thực” là cái có thật, tồn tại trong thực tế. Như vậy
cảm quan hiện thực là sự cảm nhận của các giác quan về cuộc sống thực, tồn
tại khách quan trong cuộc sống.
Văn học phản ánh cuộc sống theo cách riêng của mình. Từ hiện thực –
yếu tố được coi là đầu tiên trong vòng đời của một tác phẩm, mỗi nhà văn sẽ
tiếp cận, sẽ cảm nhận và phản ánh theo những cách riêng biệt, tùy theo hoàn
cảnh riêng, tính cách, quan niệm văn học… của mỗi một tác giả. Cùng là một
nhịp đi của thời gian, nhưng trong Truyện Kiều, các tác giả trung đại trong đó
có Nguyễn Du nhìn đó như một lẽ thường hằng của tạo hóa “Xuân tàn cúc lại
nở hoa/ Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”, các thi sĩ thơ Mới thấy ở thời
gian là sự tàn héo của kiếp người, của tình yêu và ước vọng, là khát vọng
chạy đua cùng với tạo hóa Lý giải vấn đề này, nhà thơ thiên tài Đức - Gớt
đã chỉ rõ: “Để tỏ lòng biết ơn tự nhiên đã sản sinh ra cả bản thân mình, người
nghệ sĩ dâng trả lại cho tự nhiên một tự nhiên thứ hai nào đó. Song đây là
một tự nhiên được sinh ra từ tình cảm và tư tưởng, một tự nhiên được hoàn
thiện bởi con người” . Sau này, khi nghiên cứu về cảm quan nghệ thuật Xuân
Diệu, tác giả Chu Văn Sơn cũng cho rằng: “Có thể hiểu cảm quan như là lối
cảm nhận riêng trong đó chứa đựng quan niệm và cách cắt nghĩa riêng về thế
giới người nghệ sĩ ”.
Vậy, cảm quan hiện thực được hiểu là lối cảm nhận riêng, là cái nhìn
riêng, là quan niệm riêng của người nghệ sĩ về thế giới khách quan. Lối cảm
nhận riêng này được huy động tổng lực từ những phẩm chất trí tuệ, phẩm chất
tâm hồn, tài năng bẩm sinh của mỗi nhà văn. Lối cảm nhận riêng này vừa thể
8
hiện sự hiểu biết sâu sắc về thế giới khách quan, vừa ghi lại dấu ấn riêng sáng
tạo không thể phai mờ của người nghệ sĩ.
Từ đây, chúng ta có thể hiểu cảm quan hiện thực đời thường chính là cái
nhìn bình dị, thường nhật nhất về hiện thực, như những gì nó vốn có.
1.2. Tô Hoài - nhà văn của những cảm hứng đời thường
1.2.1. Quan niệm của nhà văn khi tiếp cận hiện thực
Mặc dù quan niệm văn chương của Tô Hoài chưa được thể hiện một
cách hệ thống như Nam Cao, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu…Nhưng
trong nhiều tác phẩm của mình, nhà văn đã bộc lộ một cách khá rạch ròi.
Ngay từ khi mới cầm bút, Tô Hoài đã nhận thấy: “Tôi chưa bao giờ bắt
chước viết theo truyện của Khái Hưng, Nhất Linh (…). Tôi cũng không bắt
chước được” Cách nói ý nhị, tưởng như một lời tự thú khiêm tốn về sự bất
lực của mình, nhưng thật ra ở đó hàm chứa một thứ tuyên ngôn nghệ thuật:
Ngòi bút này dựa trên sự quan sát thực tế xung quanh, sống đến đâu, viết đến
đó, viết ngay về những gì từng biết từng trải quanh mình. Có thể nhiều người
cho đó là một thứ tuyên ngôn quá thông thường, không đủ làm ai giật mình.
Nhưng nó thích hợp với cá tính Tô Hoài, thói quen ham nghe ham biết, hóm
hỉnh hiền lành của Tô Hoài, cũng như sự chăm chỉ dùi mài nghề nghiệp
những năm về sau. Quan niệm này cũng có sự tương thích lớn với chính
những gì diễn ra trong đời sống. Bởi xét cho cùng, cuộc sống này vốn không
chỉ có cái phần dồn dập sôi nổi bên trên mà còn có phần từ tốn chậm chạp,
đôi khi uể oải ngưng trệ, song thật ra là những chuyển động chắc chắn, ở tận
đáy sâu.
Từ việc ý thức sâu sắc về ngòi bút của mình, về cái “tạng” của riêng
mình, Tô Hoài đã sớm nhận ra con đường sáng tạo riêng. Ông tâm sự những
ngày đầu cầm bút, “đời sống xã hội quanh tôi, tư tưởng và hoàn cảnh của
chính tôi đã vào cả trong những sáng tác của tôi. Ý nghĩa tự nhiên của tôi bấy
giờ là viết những sự đã xảy ra trong nhà, trong làng quanh mình. Như vậy là
9
viết những chuyện viển vông giang hồ kỳ hiệp, những chuyện tình diễm lệ với
những người đàn bà rỗi rãi, thoang thoảng nước hoa và đẫm lệ trong thư tình
không phải là sở trường của Tô Hoài, mà là “cuộc sống bình dị của mình,
quanh mình mới là mảnh đất để nhà văn khai phá”.
1.2.2. Sự thể hiện cảm quan hiện cảm quan hiện thực đời thường trong
hành trình sáng tác của Tô Hoài.
Thực tế, trên các trang văn của mình, Tô Hoài rất nhạy cảm với những
cảnh sinh hoạt, những tập tục, những lời ăn tiếng nói của từng vùng quê, từng
gia đình, từng con người. Ngòi bút của ông luôn quan tâm tới những buồn -
vui, hay - dở của cuộc sống theo quy luật tự nhiên của nó. Tô Hoài từng
khẳng định “nhà văn phải viết về những gì xảy ra quanh mình và với mình”.
Có lẽ vì thế cuộc sống hiện ra dưới cái nhìn của Tô Hoài thật dung dị tự nhiên
như nó vốn thế: Có mọi thứ của sinh hoạt đời thường, có cái vặt vãnh, có cái
cái tốt đẹp và cả cái tầm thường, thói tật, có đời sống xã hội, vận động của
lịch sử và đời sống thế sự, sinh hoạt phong tục. Sự phản ánh những vấn đề xã
hội và lịch sử, theo một cách riêng, xã hội và lịch sử được nhìn nhận được tái
hiện trong những sự việc, chi tiết của đời sống thế sự, gắn kết tự nhiên với đời
sống thường nhật, với công việc làm ăn, những buồn vui, đổi thay của số phận
con người. Chính nó đã cho thấy nguồn chất liệu không bao giờ với cạn cho
ngòi bút của ông. Điều đáng ghi nhận trong sáng tác của ông đó là những sự
việc “vụn vặt” ấy người đọc vẫn cảm nhận được sự lớn lao của lịch sử, sự
chuyển động từng bước đi của cách mạng của đời sống xã hội. Chính vì vậy
mà trong văn Tô Hoài hiện lên bức tranh đời sống nhiều mặt đa dạng, tự
nhiên và chân thực.
Tô Hoài đến với nghề văn ở tuổi mười bảy, mười tám. Những sáng tác
đầu tay của ông được đăng trên Hà Nội tân văn và Tiểu thuyết thứ bảy. Tuy
xuất hiện ở giai đoạn cuối của thời kì 1930 - 1945 nhưng Tô Hoài đã sớm
khẳng định được vị trí của mình trong đội ngũ nhà văn thời kì này bằng một
10
loạt tác phẩm độc đáo, đặc sắc trên nhiều phương diện từ truyện ngắn, tiểu
thuyết, hồi kí, kí sự đến chân dung văn học, lí luận, kinh nghiệm viết văn…
đặc sắc như : Dế mèn phiêu lưu kí (1941), Quê người (1941), Tự truyện
(1978), Chuyện cũ Hà Nội (1986)…
Trên hành trình hơn sáu mươi lăm năm sáng tạo nghệ thuật viết về đề tài
nào, thể loại văn học nào, đề tài gì, đối tượng thẩm mĩ nào thì cảm quan hiện
thực đời thường vẫn là chủ yếu.
Ở truyện ngắn đối tượng thẩm mĩ trong sáng tác của Tô Hoài là thế giới
loài vật và cuộc sống con người ở vùng quê nghèo. Thế giới loài vật của Tô
Hoài khá đông đúc chúng không phải là loài chúa sơn lâm mà chỉ là những
con vật nhỏ bé “xoàng xĩnh” rất gần với sinh hoạt con người. Mỗi chuyện viết
về loài vật Tô hoài phản chiếu cái nhìn về đời sống của con người có cả phẩm
chất có cả thói tật. Tác phẩm Dế mèn phưu lưu kí là đồng thoại xuất sắc nhất
của Tô Hoài, bằng cách quan sát, cái nhìn tinh tế về loài vật, kết hợp với
những nhận xét thông minh, hóm hỉnh, nhà văn đã lôi cuốn các em vào thế
giới loài vật bé nhỏ gần gũi, hấp dẫn và kì thú qua hình ảnh của: Dế Mèn, Dế
Trũi như anh em kết nghĩa vườn đào, sẵn sàng quên mình vì bạn, vì nghĩa lớn.
Xiến Tóc trầm lặng, vừa yêu đời vừa chán đời. Chị Cào Cào ồn ào và duyên
dáng Từ đời sống và tích cách của từng con vật, nhà văn nhằm bày tỏ quan
niệm của mình về nhân sinh, về khát vọng chính đáng của người lao động, về
một cuộc sống hòa bình, yên vui, về tình thương, lòng chân thành và sự đoàn
kết.
Bên cạnh truyện viết về loài vật, mảng truyện viết về cảnh sống đói
nghèo cũng được nhà văn đã miêu tả chân thật và sinh động. Cuộc sống cùng
quẫn bế tắc của những kiếp người nghèo khổ, lang thang, phiêu bạt nơi đất
khách quê người, những người thợ thủ công bị phá sản xuất hiện dần qua từng
trang sách với tất cả niềm cảm thông chân thành của nhà văn. Đó là số phận
của chị Hối trong truyện Ông cúm bà co bị ốm nhưng không có thuốc men
11
chữa chạy, rồi bệnh nặng dần vì kém hiểu biết, mê tín, kết cục phải “ra đồng”
bỏ lại mấy đứa con thơ dại. Cay đắng hơn là số phận của bé Gái trong cảnh
Nhà nghèo. Nó sinh ra trong gia đình nghèo khổ, túng thiếu và nhiều lần
chứng kiến cảnh cha mẹ cãi nhau. Nó bị rắn cắn chết trong khi cùng với cha
mẹ cố tìm miếng ăn cho gia đình, “người nó có bao nhiêu xương sườn, giơ hết
ra cả”. Cảnh đó thật xót xa, thê thảm. Tất cả cảnh đời của họ đều gợi cho
người đọc bao điều suy ngẫm và nỗi trăn trở về hiện thực cuộc sống nhiều bất
hạnh đó.
Trước cách mạng tháng Tám, Tô Hoài đã có khi bế tắc trước cuộc đời
nhưng cuối cùng nhà văn vẫn đứng vững ở vị trí của một nhà văn hiện thực. Ở
đề tài nào và đối tượng khám phá nào thì thế giới nghệ thuật của Tô Hoài
trước cách mạng đều thấm đượm tính nhân văn và mang dấu ấn khá sâu đậm
về một quãng đời của ông. Ông quan niệm: “Những sáng tác của tôi đều miêu
tả tâm trạng tôi, gia đình tôi, làng tôi, mọi cái của mình quanh mình”.
Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài có sự chuyển biến mạnh mẽ về tư
tưởng và sáng tác. Ông đã nhanh chóng chiếm lĩnh hiện thực cuộc sống và
sáng tạo thành công nhiều tác phẩm có giá trị ở các thể loại loại khác nhau.
Trong đó, tiểu thuyết Miền Tây của ông đạt giải thưởng Bông sen vàng của
Hội Nhà văn Á Phi vào năm 1970.
Bước chuyển trong sáng tác của Tô Hoài được thể hiện rõ ở cả chủ đề và
đề tài. Tô Hoài không bó hẹp nội dung và đối tượng phản ảnh trong phạm vi
của một vùng dân nghèo ngoại thành Hà Nội nơi ông từng gắn bó, mà ông
còn hướng đến một không gian rộng lớn, đến với cuộc sống của nhiều lớp
người, nhiều vùng đất khác nhau, nổi bật nhất là miền núi Tây Bắc. Tây Bắc
không còn là miền đất xa lạ, nó đã trở thành quê hương thứ hai của Tô Hoài.
Ông viết về Tây Bắc không chỉ bằng tài năng nghệ thuật, vốn sống phong
phú, mà còn bằng cả tình yêu đằm thắm thiết tha như chính quê hương mình.
Bởi lẽ, với Tô Hoài: “Đất nước và người miền Tây đã để thương, để nhớ cho
12
tôi nhiều quá”, hình ảnh Tây Bắc“lúc nào cũng thành nét, thành người, thành
việc trong tâm trí tôi”, nó có sức ám ảnh mạnh mẽ khơi dậy nguồn cảm hứng
sáng tạo và thúc đẩy nhà văn viết thành công nhiều tác phẩm về miền đất này.
Trên cơ sở đó, có thể xem ông là nhà văn của miền núi Tây Bắc, là một trong
những người đặt nền móng cho nền văn học viết về đề tài Tây Bắc.Tác phẩm
đầu tiên của Tô Hoài viết về miền núi là tập truyện Núi cứu quốc (1948).
Nhưng phải đến Truyện Tây Bắc, Tô Hoài mới có được sự thành công đặc sắc
ở mảng đề tài về miền núi Tây Bắc. Bằng tài năng nghệ thuật và vốn sống
phong phú về Tây Bắc, ông đã thể hiện được một cách chân thật, sinh động
những nỗi đau thương, khổ nhục của họ dưới ách áp bức nặng nề của kẻ thù
thực dân phong kiến. Tài năng nghệ thuật của Tô Hoài khi viết về miền núi
càng về sau càng được phát huy và khẳng định qua nhiều tác phẩm khác từ
sau 1955 như: Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Họ Giàng ở Phìn Sa, Nhớ Mai
Châu Nhà văn tiếp tục ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của các dân tộc ở miền núi
Tây Bắc trong đời sống kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sống trong cuộc đời mới, nhà văn Tô Hoài cũng không quên “ôn chuyện
cũ”, ngòi bút của ông hướng về xã hội trước cách mạng tháng Tám từ cách
nhìn, sự suy ngẫm sâu sắc hơn theo thời gian và những trải nghiệm trong cuộc
sống. Ở tiểu thuyết Mười năm với tầm nhận thức mới và từ chỗ đứng của
cuộc sống hiện tại nhiều đổi thay mang ý nghĩa lớn trong đời sống dân tộc, Tô
Hoài đã phản ảnh chân thật và sinh động hơn cảnh sống bi thảm, đói nghèo,
cùng quẫn ở một vùng quê ven đô, nơi mà nhà văn đã chứng kiến và trải qua
cùng với bao số phận khác. Tô Hoài còn viết nhiều tác phẩm khác về ngoại
thành Hà Nội như: Quê người, Quê nhà, Những ngõ phố, Người đường phố,
và gần đây là Chuyện cũ Hà Nội. Điều đó cho thấy vốn sống, nguồn tư liệu,
cũng như nguồn cảm hứng sáng tác của Tô Hoài về Hà Nội vô cùng phong
phú đa dạng. Từ các tác phẩm viết về Hà Nội của ông, người đọc có điều kiện
13
hiểu hơn về phong tục, nếp sinh hoạt, tên gọi phố phường, con người Hà Nội
trải dài suốt cả thế kỉ XX trong cuộc sống đời thường và cả trong chiến tranh.
Không chỉ thành công ở thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, Tô Hoài còn
đạt được thành tựu đặc sắc ở thể kí. Nhiều tác phẩm kí của ông xuất hiện sau
những chuyến đi lên Tây Bắc như: Nhật kí vùng cao, Lên Sùng Đô, hay đi
thăm nước bạn như Tôi thăm Cămpuchia, Thành phố Lênin, Hoa hồng vàng
song cửa Đặc biệt, Tô Hoài có các tập hồi kí gắn liền với bao nỗi vui buồn
và mơ ước của tuổi thơ, bao kỉ niệm về những bạn văn, đời văn của ông như
Tự truyện, Cát bụi chân ai, Chiều chiều. Từ các tập hồi kí này, người đọc có
điều kiện để hiểu thêm về phong cách nghệ thuật, thân phận, nhân cách nhà
văn trong hành trình văn chương của ông và một số nhà văn khác. Cách viết
hồi kí của Tô Hoài rất linh hoạt biến hóa, các sự kiện được khai thác theo
mạch liên tưởng và đan xen lẫn nhau nên luôn tạo được sức hấp dẫn đối với
người đọc không thua kém gì so với thể loại khác.
Mỗi kí sự của Tô Hoài đều có sắc thái riêng. Ví dụ mảng hồi kí về thủ đô
Hà Nội, từ Chuyện cũ Hà Nội (1986) đến Hà Nội và Hà Nội (1996) đã đem
lại những chứng từ sống động về địa dư, lịch sử, phong tục, tiếng nói của thủ
đô. Hà Nội hiện lên trong từng trang văn của Tô Hoài với những đa đoan lắm
chuyện và có cả một Hà Nội của những số kiếp lầm than, Hà Nội với những
phong tục độc đáo mà nay chỉ còn trên trang sách. Có lẽ vì thế mà nhà văn
Nga Ni-cu-Lin đã tinh tế phát hiện ở nhà văn Tô Hoài một nhà dân tộc học.
1.3. Kí sự Chuyện cũ Hà Nội
Thực tế văn chương cho thấy, một tác phẩm văn học có giá trị bao giờ
cũng là câu trả lời những yêu cầu của con người về Tổ quốc, gia đình, diện
mạo của mỗi thời của mỗi dân tộc. Đó cũng là phương diện văn hoá của văn
học. Lịch sử văn học Việt Nam đã cho thấy có rất nhiều tác phẩm đạt được
như vậy, trong đó có Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài. Đây là một tập kí sự
độc đáo, hấp dẫn người đọc bởi một lối kể chân thực, một cách nhìn thấu đáo
14
hồn hậu, thấm đẫm tình yêu sâu lắng, xót xa mà vẫn tràn trề hy vọng về mảnh
đất Thăng Long xưa của Tô Hoài. Chuyện cũ Hà Nội được xuất bản từ năm
1986 gồm bốn mươi truyện. Đến lần tái bản (2004) là 114 truyện với truyện
mở đầu là Phố mới và kết thúc là Cửa Thiền. Cấu trúc tác phẩm đã tạo cảm
hứng bao trùm về một đời sống văn hoá Hà Nội xưa: vận động phát triển
nhưng vẫn trầm lặng, cổ kính. Chuyện cũ Hà Nội được viết theo một cách viết
mới, đây không phải là văn hư cấu như trong truyện ngắn và tiểu thuyết mà
bạn đọc đã quá quen thuộc, mà là văn kể chuyện, một lối kể hoàn toàn thoát
ra khỏi cái tôi, theo cách kể của dân gian. Một lối kể với văn phong giản dị,
cô đúc, ngắn gọn như các loại truyện có trong kho tàng văn học dân gian -
Một kiểu “Vũ trung tùy bút” của thời hiện đại, nhằm ghi lại “muôn mặt đời
thường” của Hà Nội một thời thuộc Pháp chưa xa lắm, khi đất nước chuyển
sang xã hội thuộc địa, vào đầu thế kỉ XX. Từ người và cảnh, nếp sống và
phong tục, ẩm thực và thú chơi nơi vùng ngoại ô ven đô hay nội thị đều được
Tô Hoài ghi lại rất tỉ mỉ trong tập truyện này. Bức tranh Hà Nội ấy đã làm nên
một nét riêng rất giá trị cho Chuyện cũ Hà Nội để phân biệt với những tác
phẩm viết về Hà Nội của Tô Hoài cũng như của nhiều người viết về Hà Nội
khác nói chung. Như vậy, sau cách mạng, viết về Hà Nội, Tô Hoài đã có cái
nhìn trong chiều dài lịch sử của đất nước.
Không gian tác phẩm được tái hiện từ các vùng quê ven đô đến 36 phố
phường, từ những câu ca dao bình dị kể về sự tích làng Yên Thái, chợ Bưởi,
chùa Bà Sách, gái Kẻ Cót buôn dăm, trai làng nghề dệt cửu đến làng Vòng,
chuyên làm Cốm tới làng Láng mở hội kéo cờ, đến 36 phố phường với âm
vang rộn ràng của tiếng leng keng tàu điện với tà áo dài tha thướt của thiếu nữ
Hà Nội, tới tiếng đàn, nhịp phách, tiếng hát nỉ non ở phố Hàng Giấy “phố ả
đào cổ nhất Hà Nội”. Tác giả đã dựng lên một bức tranh rất thực của Hà Nội
xưa – nơi quần cư của nhiều con người đến từ mọi miền, hoà hợp với những
giá trị tự thân của Hà Nội, tạo nên nét tinh tế, tao nhã của văn hoá Thăng
15
Long. Điều khác biệt của Tô Hoài so với các nhà văn khác cùng thời viết về
Hà Nội, là tác giả đi vào tầng sâu của cuộc sống Hà Nội, cảnh lầm than đau
khổ của dân nghèo phố thị bị bóc lột, đè nén, áp bức, cảnh bọn thực dân
nghênh ngang đầu phố cuối chợ, nhưng trong mạch sâu của cuộc sống vẫn tồn
tại một đời sống văn hoá với bao phong tục, tập quán, lễ hội làm nên sắc diện
đặc biệt của cuộc sống Hà Nội xưa. Viết về mảnh đất Thăng Long xưa, như
lời tác giả “là tự thuật đời sống tinh thần, vật chất và hoạt động của một địa
phương, là khơi gợi và xem xét thấy được lịch sử mỗi vùng làm nên hình ảnh
cả nước, cả dân tộc, có nối tiếp và lâu dài. Nó cũng là kỷ yếu đời người, bài
học hôm nay và mai sau”.
Nói về nhà văn Tô Hoài, nhà nghiên cứu văn hóa Vương Trí Nhàn đã
từng nhận xét như sau: “Óc quan sát tinh tế và tỉ mỉ đã giúp cho Tô Hoài nhớ
và ghi được nhiều chi tiết về cuộc sống ở Hà Nội. Xét về thời gian lịch sử, ta
thấy Hà Nội đã được Tô Hoài theo dõi liên tục, từ khi Pháp mới sang cho tới
những năm 30, 40 và kết thúc bằng Cách mạng tháng Tám…”.Tất cả những
điều này, sẽ được thể hiện trọn vẹn và sinh động trong kí sự Chuyện cũ Hà
Nội
16
CHƯƠNG II: CẢM QUAN HIỆN THỰC ĐỜI THƯỜNG TRONG
NỘI DUNG BIỂU HIỆN CỦA CHUYỆN CŨ HÀ NỘI
2.1 Cảm quan hiện thực đời thường trong dòng chảy tự nhiên dung dị
2.1.1 Hà Nội với những nét sinh hoạt văn hóa đời thường
Trong Chuyện cũ Hà Nội, tác giả đã giành rất nhiều trang viết để ghi lại
những nếp sống đẹp của người Hà Nội xưa. Có cả những nếp sống cũ và
những nếp sống mới - lạ thời đó, mà giờ đây, trong xã hội hiện đại này, có
phần nào đã bị coi nhẹ hoặc không còn.
Đầu tiên phải kể đến nếp sống đã ăn sâu vào tâm hồn của người Việt
Nam, đó là luôn hướng về nguồn cội, tác phẩm ánh lên những nét đẹp của lễ
tết, phong tục tập quán, lễ hội, là tâm hồn trong sáng, bình dị tiềm ẩn trong
các mối quan hệ hàng ngày mà vẫn đầy sức mạnh và khát vọng đổi thay của
người Hà Nội trong những năm tháng đó. Dù có đi bất cứ đâu, làm bất cứ
nghề gì, trong sâu thẳm tâm hồn mỗi con người đều hướng về nguồn gốc của
mình. Cả năm có một ngày như thế: Đó là tết, ngày của sum họp gia đình,
nhưng cũng là ngày rất cơ cực của người dân nghèo Hà Nội thời đó “nhà
nghèo chạy cái tết bở hơi tai” nhưng vẫn chuẩn bị cho ngày đó với tất cả tâm
hồn cho người sống và cho cả tổ tiên ông bà. Nhà nào có của nả một chút thì
có miếng thịt lợn, cái chân giò, con gà để cúng tổ tiên. Nhà nào thanh bạch thì
có đĩa xôi, nải chuối. Nhà túng bấn, kiệt cùng cũng phải có thẻ hương, bát
nước cúng đặt lên bàn thờ. Cốt là có tấm lòng ghi nhớ công ơn của ông bà tổ
tiên mình. Nét vui của tết lại hiện lên trong niềm vui hồn nhiên của trẻ thơ
“bánh pháo tép”, “miếng khế khô lẫn mật gừng”, “đôi guốc mộc mới”
Trong cái nhìn giản dị mà cảm động của Tô Hoài, nét đẹp của ngày tết là ngày
tiếp khách thăm hỏi nhau, ân cần, tha thứ cho nhau vì đấy là ngày “thân phận
mỗi người được quý trọng”, là ngày mừng nhau mọi sự tốt lành ngay cả trong
cuộc sống khổ cực. Một nét văn hoá của Hà Nội xưa của cha ông để lại đã
làm đẹp, làm vui thêm cuộc sống vốn quanh năm nghèo túng, đó là việc kéo
17
dài những cái Tết. Sau ngày tết nguyên đán “còn có những ngày râu ria mà
nhà nghèo rớt mồng tơi cũng phải có được gói hoa, nén hương”. Đó là “ngày
giỗ tổ” tổ nghề giấy, nghề lụa, hai mươi ba tết, ông công ông táo, chiều ba
mươi cúng trừ tịch, mồng 3 – 4 lễ hoá vàng, mồng bảy hạ cây nêu, nhà nào
dệt vải đưa mấy nhát thoi lấy may đến cúng rằm tháng giêng sang tháng ba lại
tết bánh trôi, bánh chay, tháng năm tết Đoan Ngọ mừng hoa quả mới. Ở các
cửa đền miếu đều có cúng quan ôn, cúng cháo vẩy ra bờ bụi cho các âm hồn
bơ vơ lang thang được hớp nước ngũ cốc, ngọc thực đến tết trung thu tháng
tám và khi gió heo may về, vào mồng mười tháng mười tết cơm mới. Sau lễ
tết đến hội hè. Làng Mọc tháng giêng vào hội đánh cờ người, tháng tám hội
đền Ghềnh, hội rước kiệu bò ở Đền Trại, Thủ Lệ, hội làng Đông, làng Hồ
rước về đền Voi Phục, trong sân đình có hội thi cây cảnh cả một không gian
rực rỡ sắc mầu “90 giàn lễ hội áo the, quần lĩnh tía, khăn vuông láng thâm,
khăn nhiễu thanh, áo cánh lụa thâm, quần túm ống vào trong xà cạp hoa đào”
tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng cọt kẹt của đu quay cùng tiếng hát hoà điệu
trong vùng Thăng Long xưa gợi lên bao nét đẹp riêng của đời sống văn hoá
kinh thành. Bởi lễ hội là một sản phẩm và là một biểu hiện của nền văn hoá,
tham gia lễ hội là thể hiện một cách ứng xử văn hoá của người Hà Nội, họ tìm
trong đó sức mạnh của tình đoàn kết, tinh thần tương thân tương ái.
Bên cạnh việc làm sống lại những phong tục cổ xưa Tô Hoài còn kể về:
Cái ăn, cái mặc, cái đi đứng, những quan hệ và giao tiếp của người ta đó là cái
nề nếp văn hóa con người rất thân thiết. Với quan niệm như vậy ông luôn
chăm chú quan sát, lắng nghe, nhìn nhận và khám phá những nét đời thường ở
các cung bậc, các giá trị văn hóa dân tộc mỗi thời. Nói đến nếp sống của
người Hà Nội xưa là còn nói đến nếp sống thanh lịch. Sự thanh lịch tinh tế,
lịch sự của người Hà Nội được thể hiện qua từng lời nói, lời chào thân thiện.
Trong Lời chào cao hơn mâm cỗ, tác giả đã ghi lại những lời chào của người
Hà Nội xưa và nay. Người Hà Nội xưa quan niệm “Lời chào cao hơn mâm
18
cỗ”. Ở trong nhà, người nhỏ tuổi phải đi gửi về thưa với người lớn, về đến
nhà hay ra khỏi nhà đều phải chào hỏi. Từ khi trẻ vừa bập bẹ tập nói đã được
dạy những điều này. Khi trẻ lớn hơn một chút, nếu sơ xuất không chào thì
được người lớn nhắc nhở. Khi ra đường ở phố hay trong làng, họ hàng láng
giềng hay những người quen biết khi gặp đều chào hỏi nhau, tác giả viết:
“Ngoài đường, trong làng hay trong phố cũng thế, nhất là ở trong làng, họ
hàng, láng giềng và quen biết rộng, khi gặp đều chào hỏi nhau. Với các cụ
ông, cụ bà, các vị cao tuổi thì không kể họ hàng láng giềng, miễn là biết mặt,
biết tiếng, đều lễ phép chào hỏi. Đương đi nhanh, bước chậm lại, dừng lại,
chắp tay (trẻ con, học sinh thì khoanh tay) cất tiếng chào. Như vậy, là đứng
đắn, là ngoan mà mau mồm mau miệng” [5, 419].
Đến cách thức ăn uống trong Chuyện cũ Hà Nội cũng trở thành nét văn
hóa “Một mâm cơm dẫu xềnh xoàng ở gia đình, dùng mâm chõng, mâm gỗ,
nhà có thì mâm đồng, mâm nhôm nhưng mỗi thứ bày ra đều có trật tự nhất
định. Bát nước chấm đặt ở giữa. Không để bát cà, bát dưa, những thức ăn
kém giá trị trước mặt người cao tuổi, người trên. Hai bát canh không đặt liền
nhau. Trẻ con ngồi mâm với người lớn thì lễ phép lấy đũa so cho mọi người,
để ý đặt đầu đũa to ra ngoài để tiện tay người cầm” [5, 413]. Khi ăn mồm
không nhai tóp tép, không vừa lúng búng nhai vừa nói chuyện. Cách ngồi
cũng bộc lộ ý tứ riêng, điều mà có lẽ thời nay trở nên mai một “Vợ chồng ý tứ
không ngồi bên nhau, cũng như nàng dâu và con gái thì giữ chân đầu nồi xới
cơm cho cả nhà” [5, 414].
Trong Chuyện cũ Hà Nội, chúng ta còn bắt gặp con mắt đời thường dung
dị của nhà văn khi khám phá văn hóa ẩm thực. Từ lâu, nghệ thuật ăn uống
Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng đã được các nhà văn quan tâm và đề
cập đến trong các tác phẩm văn học. Những tên tuổi như Vũ Bằng, Thạch
Lam, Nguyễn Tuân và Tô Hoài với những trang viết bất hủ của mình đã làm
bừng sáng một khía cạnh quan trọng trong di sản văn hóa của cha ông ta về
19
nghệ thuật ăn uống. Còn đối với Tô Hoài, ông lại có cách nhìn rất riêng và
độc đáo về những món ngon của Hà Nội xưa. Ẩm thực trong Chuyện cũ Hà
Nội của Tô Hoài không lãng mạn như Thạch Lam, cũng không cầu kì như
Nguyễn Tuân nhưng vẫn đầy đủ phong thái tinh tế của người Kẻ Chợ. Ông
viết về nguồn gốc của các món ăn, từ những món ăn bình dân đến những món
tinh hoa nhất của Hà Nội. Theo dòng chảy của thời gian món ăn Hà Nội cũng
dần thay đổi. Từ gánh phở chợ ngoại ô những năm 1930 đến phở không người
lái thời chống Mĩ đến tô phở vịt ngày nay. Món ăn đã phản ánh những biến
thiên của đất nước “Vẫn phở nhưng phở đã thay đổi nhiều, theo thời gian và
theo thời thế” [5, 477]. Phở có thật nhiều loại: nào là phở Bắc, phở chua, phở
chín, phở bò, phở gà và mãi về sau lại xuất hiện thêm phở tái bò. Thời gian
trôi qua nhiều thứ thay đổi và phở cũng không ngoại lệ “Giờ đây trong phở
lại có thêm hai quả trứng gà, nửa khoanh giò lụa, một cục thịt mọc trắng
hếu” [5, 479]. Đĩa bánh cuốn cũng bể dâu “Con sâu, cái kiến và chiếc bánh
cuốn cũng có bước đường đời của nó” [5, 462]. Bên cạnh những nổi chìm của
“Chả cá” những gian truân của “Thịt chó”, sự cầu kì của rau thơm thì “ Cháo”
vẫn là đặc sắc.
Ở thiên kí sự này, Tô Hoài đã giới thiệu về các món ăn với một hứng thú
không vơi cạn, khiến người đọc có được một góc nhìn khác về con người, lối
sống, nếp ăn của người dân Thủ đô. Trong Chuyện cũ Hà Nội Tô Hoài còn
viết về món “Chả cá” rất chi tiết và tỉ mỉ. Món này có nguồn gốc từ một gia
đình nhà họ Đoàn sống ở phố Hàng Sơn. Họ đã lấy cá nướng làm chả và ăn
với bún. Được nhiều người ưa thích nên họ đã mở quán bán món này và lấy
tên là “Hiệu chả cá Lã Vọng”. Sở dĩ gọi là chả cá Lã Vọng là bởi vì trước cửa
quán có bày bức tượng ông Lã Vọng xách cần câu và một xâu cá. Để chế biến
được món chả cá ngon cũng rất cầu kì. Đầu tiên người ta chọn cá lăng để làm
chả. Đây là loại cá sống ở vùng ngã ba Hạc, cá không tanh, nạc và không có
xương răm. Đến mùa lạnh không có cá lăng thì người ta thay bằng cá chuối