TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
NGUYỄN THỊ ĐẢM
CẢM HỨNG THẾ SỰ
TRONG THƠ PHAN THÚC TRỰC
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI - 2014
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
NGUYỄN THỊ ĐẢM
CẢM HỨNG THẾ SỰ
TRONG THƠ PHAN THÚC TRỰC
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học
ThS. NGUYỄN THỊ TÍNH
HÀ NỘI - 2014
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian vừa qua, đƣợc sự giúp đỡ của các thầy cô và các bạn
sinh viên trong khoa Văn - Trƣờng đại học sƣ phạm Hà Nội 2, tôi đã hoàn
thành khoá luận tốt nghiệp đại học với đề tài “Cảm hứng thế sự trong thơ
Phan Thúc Trực”.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo - Thạc sĩ Nguyễn Thị
Tính - ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn tận tình để tôi hoàn thành khoá luận này.
Tôi xin cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, tổ Văn học Việt
Nam - Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã nhiệt tình giảng dạy và tạo điều
kiện cho tôi trong quá trình học tập nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè thân thiết đã động viên giúp đỡ tôi
hoàn thành khoá luận.
Trong khuôn khổ thời gian có hạn nghiên cứu đề tài khó tránh khỏi
những thiếu sót. Tôi rất mong nhận đƣợc những ý kiến đóng góp của các thầy
cô giáo và các bạn sinh viên.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Thị Đảm
LỜI CAM ĐOAN
Khoá luận tốt nghiệp đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn của Thạc sĩ
Nguyễn Thị Tính. Tôi cam đoan rằng:
- Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi
- Kết quả này không trùng với bất cứ tác giả nào đã đƣợc công bố
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Thị Đảm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Mục đích nghiên cứu 4
4. Phạm vi nghiên cứu 5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 5
6. Bố cục khoá luận 5
NỘI DUNG
Chương 1. KHÁI NIỆM CẢM HỨNG THẾ SỰ VÀ CƠ SỞ NẢY SINH
CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ PHAN THÚC TRỰC 6
1.1. Khái niệm cảm hứng thế sự 6
1.1.1. Khái niệm cảm hứng 6
1.1.2. Khái niệm cảm hứng thế sự 7
1.2. Cơ sở nảy sinh cảm hứng thế sự trong thơ Phan Thúc Trực 7
1.2.1. Bối cảnh thời đại 7
1.2.2. Tác giả Phan Thúc Trực 12
Chương 2. CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ PHAN THÚC TRỰC 17
2.1. Nỗi buồn về lý tƣởng nhà Nho 17
2.2. Niềm thƣơng dân khốn khổ lầm than 29
2.3. Từ bi kịch cá nhân đến sự xót xa trƣớc sự hữu hạn mỏng manh của
kiếp ngƣời 39
KẾT LUẬN 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO 50
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thám hoa Phan Thúc Trực đã đƣợc giới thiệu với bạn đọc qua các
bản dịch Quốc sử di biên của Viện Sử học, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin
năm 2009, do Đỗ Mộng Khƣơng dịch, Hoa Bằng hiệu đính và chú thích, và
bản dịch của Viện Hán Nôm, Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 2010, do
nhóm TS. Nguyễn Thị Oanh, Ths. Nguyễn Thị Hƣờng, Ths. Nguyễn Tố Lan
dịch chú thích, TS. Nguyễn Thị Oanh giới thiệu. Qua đó ngƣời đọc đƣợc biết
đến Thám hoa Phan Thúc Trực trong tƣ cách một nhà sử học đã ghi chép và
sƣu tầm đƣợc nhiều sử liệu quý báu bổ sung cho Quốc sử đầu nhà Nguyễn.
Thế nhƣng ít ngƣời biết đến ông trong tƣ cách một tác giả văn học, một nhà
thơ với những thi tập giá trị trong cuốn Cẩm Đình thi tuyển tập, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội năm 2011 của PGS.TS. Nguyễn Thị Oanh giới thiệu - phiên
âm - dịch chú.
Nhà thơ Phan Thúc Trực cần đƣợc ghi nhận một vị trí quan trọng không
thể thiếu trong diễn trình lịch sử văn học trung đại Việt Nam. Tuy cuộc đời
ngắn ngủi chỉ 44 năm nhƣng số lƣợng công trình, sáng tác ông để lại cho đời
là không nhỏ. Đọc thơ văn ông nhiều ngƣời sẽ rất tâm đắc với không ít bài
viết về quê hƣơng đất nƣớc, gia đình, ngƣời thân, thiên nhiên, con ngƣời.
Với sự suy tƣ, phân tích của một nhà khoa học và trái tim nhạy cảm đầy
tình yêu thƣơng, Phan Thúc đã để lại cho đƣơng thời và hậu thế những vần
thơ giàu chất hiện thực, gần gũi với cuộc sống đời thƣờng. Khi tìm hiểu trƣớc
tác thi ca của ông, Nguyễn Thị Oanh đã nhận thấy Phan Thúc Trực không
phải là trƣờng hợp ngoại lệ của thơ văn thế kỉ XVIII - XIX, một thời kì “xuất
hiện nhiều bức tranh sinh hoạt đời thường của người dân, nhiều cảnh trí thiên
nhiên ở mọi miền đất nước mang nhiều dấu hiệu gần gũi với bút pháp hiện
thực rất giàu tính nhân văn và tính trữ tình”[13; 22]. Chúng ta có thể thấy
trong thơ ông cái đời thƣờng và tính thời sự đƣợc hòa quện với nhau, trong đó
2
tính thời sự không hẳn là chuyện quân quốc đại sự mà có khi chỉ là những
chuyện thƣờng ngày trong cuộc sống nhà thơ và những ngƣời xung quanh.
Thơ Phan Thúc Trực trƣớc hết thể hiện một tấm lòng. Tấm lòng của một
nho sinh trung hậu, ân tình đối với đất nƣớc, với những ngƣời dân quê lam lũ,
đói nghèo, với các bậc thức giả tiền bối, với non song đất nƣớc, với bạn bè và
gia đình. Là một con ngƣời từng trải, gắn bó với cuộc sống đời thƣờng nên
nỗi buồn, bi kịch trong thơ Phan Thúc Trực không chỉ là nỗi buồn cá nhân mà
chủ yếu là nỗi buồn cuộc đời, nỗi buồn thời thế. Hay nói khác đi đó là lòng ƣu
thời mẫn thế, là cảm hứng thế sự trong thơ Phan Thúc Trực.
Quả thực thơ Phan Thúc Trực có tiếng nói riêng, giọng điệu riêng, có
những nét mới, là một cống hiến đáng lƣu ý trong nền thơ đầu thế kỉ XIX.
Song hiện nay, sáng tác của ông chƣa đƣợc nhiều ngƣời quan tâm biết đến.
Cái tên Phan Thúc Trực còn xa lạ trong các công trình nghiên cứu về văn
học thế kỉ XIX. Đó thực sự là điều thiệt thòi lớn cho ông và thi đàn văn học
trung đại Việt Nam. Luận văn này hi vọng một phần nào đó đem lại cho
độc giả cái nhìn chân xác về một tác giả văn học, nhận diện nhà thơ Phan
Thúc Trực qua những sáng tác giá trị ông để lại. Cùng góp phần vào quá
trình khai sáng một hiện tƣợng của văn học Việt Nam trung đại cuối thế kỉ
XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX.
Thêm nữa, thơ văn Phan Thúc Trực còn lạ lẫm với bạn đọc, với văn học
nhà trƣờng. Do đó luận văn góp phần đánh thức lại mối quan tâm đến một tác
giả văn học, góp phần điều chỉnh nhận thức của bạn đọc, giới nghiên cứu về
vấn đề thơ ca Phan Thúc Trực, từ đó khẳng định đúng vị trí của ông trên văn
đàn. Giúp công tác giảng dạy văn học giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII - nửa
đầu thế kỉ XIX ở các trƣờng cao đẳng và đại học đƣợc đầy đủ, toàn diện, có
chất lƣợng hơn.
3
2. Lịch sử vấn đề
Nhƣ trên chúng tôi đã nói các công trình, tác phẩm của Phan Thúc
Trực do chƣa đƣợc dịch, công bố, giới thiệu rộng rãi nên cái tên của ông còn
xa lạ trong nền văn học Việt Nam trung đại đầu thế kỉ XIX. Cho nên việc
nghiên cứu phê bình tìm hiểu thơ văn Phan Thúc Trực ở nhiều khía cạnh khác
nhau còn hạn chế cả về số lƣợng và đề tài. Cảm hứng thế sự trong thơ Phan
Thúc Trực cũng là một vấn đề chƣa đƣợc bàn luận toàn diện. Tuy nhiên, cho
đến thời điểm này cũng đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu, các bài
viết có liên quan gián tiếp đến vấn đề khóa luận đề cập nhƣ:
1. Luận văn Thạc sĩ của Bùi Thị Hồng Giang (Đại học KHXH và NV,
Hà Nội, năm 2010) với nhan đề Nghiên cứu văn bản Quốc sử di biên có giới
thiệu đôi nét về một số tác phẩm thơ văn còn lại của Phan Thúc Trực.
2. Bài viết Quốc sử di biên - một số vấn đề về văn bản, tác giả và tác
phẩm của TS. Nguyễn Thị Oanh đăng ở phần đầu sách Quốc sử di biên, Nxb
KHXH ấn hành năm 2010 có đề cập đến một số bài thơ trong Cẩm Đình thi
tuyển tập.
3. Trần Thị Giáng Hoa với bài Về tác giả bài thơ Vịnh Lưỡng Kiên sơn
(Thông báo Hán Nôm học năm 2009) có giới thiệu và khẳng định tác giả bài
thơ Vịnh Lưỡng Kiên sơn là Phan Thúc Trực.
4. Cuối năm 2010, Luận văn Thạc sĩ của Lê Trọng Tuyên (ĐHSPHN) về
đề tài Nghiên cứu văn bản Cẩm Đình thi tuyển tập, đã làm sáng tỏ một số vấn
đề văn bản và giới thiệu khoảng 20 bài thơ trong Cẩm Đình thi tuyển tập.
5. Kỉ yếu hội thảo khoa học, Danh nhân văn hoá Đình nguyên Thám
hoa Phan Thúc Trực, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2012.
Nhƣ vậy, các công trình trên chỉ nghiên cứu tìm hiểu và giới thiệu về
mặt văn bản các sáng tác của Phan Thúc Trực chứ chƣa đi tìm hiểu sâu sắc về
nội dung tƣ tƣởng. Và Cảm hứng thế sự trong thơ ông vẫn còn rất mới lạ.
4
Nhƣng nếu nhìn nhận một cách khách quan, ta có thể nhận thấy các công trình
nghiên cứu, các bài viết đã đề cập đến một khía cạnh nào đó của vấn đề.
Bài viết “Hành trình thơ Phan Thúc Trực, chặng đƣờng Hiệu tần thi
tập”, trong Danh nhân văn hoá Đình nguyên Thám hoa Phan Thúc Trực,
PGS.TS. Trần Thị Băng Thanh có viết: “Mở đầu con đường thơ của Phan
Thúc Trực đã là những bài thơ buồn. Buồn vì người đời chỉ trọng quan chức,
buồn vì thi không đỗ, trong cuộc khen chê rối bời, mưa gió rét mướt và đặc biệt
đau khổ là cuộc sống tinh thần, vợ chồng bị xáo trộn bởi một biến cố quan
trọng trong cuộc đời tác giả: người vợ hiền thảo đột ngột qua đời…” [3; 296].
Viết về những tâm sự thời thế ở cuốn Cẩm Đình thi tuyển tập, PGS.TS.
Nguyễn Thị Oanh khẳng định:
“Cẩm Đình thi tuyển tập đã khắc hoạ sâu sắc tình cảm của tác giả đối
với người dân. Sự khốn khó, vất vả của người dân được ông mô tả khá chi tiết,
nhất là những lúc dân gặp cảnh thiên tai lũ lụt” [13; 27].
Nhìn chung các nhà nghiên cứu gần đây đã có những đóng góp nhất
định trong việc nghiên cứu giới thiệu thơ Phan Thúc Trực, song phạm vi cũng
nhƣ nội dung nghiên cứu còn hạn hẹp, chƣa cho thấy đƣợc những giá trị tiềm
ẩn và những đóng góp của ông cho lịch sử văn học nƣớc nhà. Tuy nhiên với
những công trình, bài viết trên đây lại là những tài liệu, gợi ý cần thiết cho
ngƣời viết trong quá trình triển khai và thực hiện đề tài khóa luận.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài, chúng tôi hƣớng đến các mục đích:
- Thấy đƣợc cảm hứng thế sự, nỗi niềm ƣu thời mẫn thế của Phan Thúc Trực
- Thấy đƣợc tài năng vẻ đẹp nhân cách, tâm hồn Phan Thúc Trực
- Nhận diện và có cái nhìn xác đáng đối với sáng tác thơ ca của Phan
Thúc Trực trong văn học Việt Nam trung đại.
5
4. Phạm vi nghiên cứu
Nhƣ tên đề tài đã nêu phạm vi nghiên cứu của khóa luận tập trung vào
những sáng tác thơ ca của Phan Thúc Trực mà cụ thể đó là các thi tập của ông
đƣợc tổng hợp và dịch thuật trong Cẩm Đình thi tuyển tập do TS. Nguyễn Thị
Oanh biên soạn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài này ngƣời viết sử dụng một số phƣơng pháp chính
sau đây:
- Phƣơng pháp thống kê, phân loại
- Phƣơng pháp phân tích, bình giảng
- Phƣơng pháp so sánh
Trong quá trình triển khai khóa luận, ngƣời viết không tuyệt đối hóa
phƣơng pháp nào, lúc cần thiết có thể sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp trên.
6. Bố cục khóa luận
A. Mở đầu
B. Nội dung
Chƣơng 1. Khái niệm cảm hứng thế sự và cơ sở nảy sinh cảm hứng thế
sự trong thơ Phan Thúc Trực
Chƣơng 2. Cảm hứng thế sự trong thơ Phan Thúc Trực.
C. Kết luận
6
NỘI DUNG
Chương 1. KHÁI NIỆM CẢM HỨNG THẾ SỰ VÀ CƠ SỞ
NẢY SINH CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ PHAN THỨC TRỰC
1.1. Khái niệm cảm hứng thế sự
1.1.1. Khái niệm cảm hứng
Theo Từ điển Tiếng Việt:
“Cảm hứng là trạng thái tâm lý đặc biệt khi sức chú ý đƣợc tập trung
cao độ kết hợp với cảm xúc mãnh liệt tạo điều kiện để óc tƣởng tƣợng sáng
tạo, hoạt động có hiệu quả” [17; 123]. Nói cách khác, cảm hứng là tâm trạng,
là cảm xúc đặc biệt của ngƣời nghệ sĩ.
Theo Dẫn luận nghiên cứu văn học của Pospêlov:
Cảm hứng (nói chung) là sự lý giải, đánh giá sâu sắc và chân thực - lịch
sử đối với các vấn đề đƣợc miêu tả, đƣợc nảy sinh từ ý nghĩa khách quan của
các tính cách, vấn đề của cuộc sống.
Pospêlov cũng chỉ rõ: Từ cảm hứng đƣợc dùng để chỉ trạng thái cao độ
của nhà văn do việc chiếm lĩnh đƣợc bản chất của cuộc sống mà họ miêu tả.
Tác giả còn chia cảm hứng ra thành nhiều loại: Anh hùng, kịch tính, bi kịch,
châm biếm, hài hƣớc, thƣơng cảm, lãng mạn. Song ông còn nói thêm: Cảm
hứng trong tác phẩm văn học cũng bộc lộ một số biến thể. Điều đó có nghĩa là
trong tác phẩm văn học có sự giao thoa và đan xen của một vài hoặc nhiều
loại cảm hứng khác nhau tạo nên giọng điệu riêng, phong phú cho tác phẩm.
Nhƣ vậy cả hai quan niệm trên đều thống nhất ở chỗ: Cảm hứng là
trạng thái tâm lý đặc biệt của ngƣời nghệ sĩ khi sức chú ý đƣợc tập trung cao
độ để đánh giá sâu sắc và chân thực - lịch sử đối với các vấn đề của hiện thực
khách quan đƣợc miêu tả.
Cảm hứng là cái quan trọng quy định nhà văn trong việc tạo ra tác
phẩm. Hiện thực khách quan chỉ đi vào tác phẩm khi ngƣời nghệ sĩ nắm bắt
7
chính xác, sâu sắc hiện thực và cảm hứng sáng tạo. Cảm hứng ở mỗi nhà văn
luôn khác nhau. Ở cùng một tác giả, loại cảm hứng này cũng bộc lộ sự không
giống nhau. Đó là những biến thể của cảm hứng chung này.
Cảm hứng có thể chia thành nhiều loại: cảm hứng yêu nƣớc, cảm hứng
nhân đạo… Mỗi thời đại có một loại cảm hứng riêng.
1.1.2. Khái niệm cảm hứng thế sự
“Thế sự” có thể hiểu một cách đơn giản là sự đời (gồm thời thế và thế
thái nhân tình).
Cảm hứng thế sự chính là tâm trạng, cảm xúc mãnh liệt của nhà thơ
trƣớc thực tại và đối với thực tại, là tâm trạng, suy nghĩ của nhà thơ trƣớc
nhân tình thế thái. Đó chính là những đớn đau dằn vặt, băn khoan, trăn trở của
tác giả đƣợc nảy sinh trong hoàn cảnh đặc biệt.
Đứng trƣớc thời đại lịch sử đầu thế kỉ thứ XIX, Phan Thúc Trực đã có
cảm hứng thế sự trong sáng tác của mình.
Dùng khái niệm cảm hứng thế sự khi nghiên cứu thơ Phan Thúc Trực,
chúng tôi đề cập đến những biến thể gần gũi của cảm hứng bi kịch, thƣơng
cảm, trăn trở, suy ngẫm… thƣờng đƣợc dùng trong lý luận văn học.
Nhƣ vậy cảm hứng thế sự trong thơ Phan Thúc Trực đƣợc xem xét
nghiên cứu trên nền tảng lý luận văn học trong đó có xét đến những tác động của
lịch sử, thời đại và bản thân nghệ sĩ tới nguồn cảm hứng sáng tạo riêng ấy.
1.2. Cơ sở nảy sinh cảm hứng thế sự trong thơ Phan Thúc Trực
1.2.1. Bối cảnh thời đại
Trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, quốc gia phong kiến Việt
Nam phát triển mạnh mẽ và đạt đến đỉnh cao của sự cƣờng thịnh ở thế kỉ XV.
Nhƣng từ thế kỉ XVI trở đi, nó bắt đầu suy sụp và ngày càng khủng hoảng
trầm trọng bởi những mâu thuẫn nội bộ sâu sắc, những cuộc chiến tranh
huynh đệ tƣơng tàn - đẫm máu, tranh giành quyền lực chém giết lẫn nhau giữa
các tập đoàn phong kiến. Đến thế kỉ XIX, nhà Nguyễn có nhiều quyết tâm
8
củng cố Nho giáo, ổn định trật tự xã hội. Tuy nhiên, điều kiện lịch sử mới đã
khiến nhà Nguyễn gặp nhiều khó khăn.
Nửa đầu thế kỉ XIX là sự bắt đầu của vƣơng triều Nguyễn với cuộc lên
ngôi của Gia Long vào năm 1802. Từ đây, về cơ bản đất nƣớc đƣợc thống
nhất, nhà Nguyễn làm chủ một lãnh thổ trải dài từ cửa ải Nam Quan đến mũi
Cà Mau, bao gồm cả Đàng Trong và Đàng Ngoài. Do mặc cảm với vị trí của
mình, năm 1803, Gia Long cử sứ bộ do Lê Quang Định đứng đầu, sang nhà
Thanh xin quốc hiệu và đầu năm 1804 chính thức công bố tên nƣớc là Việt
Nam. Năm 1838, Minh Mạng bất bình đã khẳng định lại quốc hiệu là Đại
Nam, kinh đô đóng ở Phú Xuân. Nhà Nguyễn ra đời và tồn tại không những
trong một bối cảnh đặc biệt của đất nƣớc mà còn trong tình hình thế giới có
nhiều biến chuyển lớn. Thắng lợi của chủ nghĩa tƣ bản ở Tây Âu đã kéo theo
sự phát triển của chủ nghĩa thực dân và cử sự giao lƣu buôn bán quốc tế.
Hàng loạt nƣớc Châu Á lần lƣợt rơi vào ách đô hộ của thực dân, và Việt Nam
không tránh khỏi mối đe dọa đó.
Về tổ chức chính quyền, từ sớm Nguyễn Ánh đã đặt quan, phong tƣớng
cho những ngƣời phò tá. Sau khi lấy đƣợc toàn bộ Bắc Hà, Nguyễn Ánh xƣng
vƣơng, kiểm lại các đơn vị hành chính cũ, đặt quan chức cai quản. Đƣơng
thời Gia Long giữ nguyên cách tổ chức cũ, ở Đàng Ngoài vẫn là trấn, phủ,
huyện, xã, ở Đàng Trong thì là trấn, dinh, huyện, xã. Về chính quyền trung
ƣơng, Gia Long, Minh Mạng giữ nguyên hệ thống cơ quan cũ của các triều
đại trƣớc, vua nắm mọi quyền hành một cách độc đoán, bên dƣới là 6 bộ. Để
đề cao hơn nữa uy quyền của nhà vua, Gia Long đặt lệ “tứ bất” (nhƣng không
ghi thành văn), tức là không đặt tể tƣớng, không lập hoàng hậu, không lấy
trạng nguyên trong thi cử, khong phong tƣớc vƣơng cho ngƣời ngoài họ vua.
Bộ máy quan lại thời Nguyễn không cồng kềnh cũng không đông đảo, song
không vì thế mà bớt tệ tham nhũng, năm 1807 Senhô đã nhận xét: “Dân
chúng vô cùng đói khổ, vua quan bóc lột thậm tệ. Công lý là một món hàng
9
mua bán, kẻ giàu có thể công khai sát hại người nghèo và tin chắc rằng với
thế lực của đồng tiền, lẽ phải sẽ về tay chúng” [15; 7]. Do ý thức về sự mâu
thuẫn của nhà nƣớc và nhân dân, các vua Gia Long, Minh Mạng đã xử rất
nghiêm hàng loạt những viên quan lớn, trong đó ít nhất là 11 Trấn thủ và Hiệp
trấn tham nhũng bị cách chức hoặc xử tử. Mặc dù vậy tệ tham lại hàng loạt
vẫn không ngăn chặn đƣợc. Sự bất chính của quan trên tạo điều kiện cho bọn
cƣờng hào hoành hành… Các vua nhà Nguyễn cũng rất bảo thủ, hay nghi kị,
và ăn chơi sa hoa không kém gì các vua chúa các triều đại trƣớc. Nhà Nguyễn
không xây chùa nhƣng lại xây lăng tẩm. Công việc xây lăng Vạn Niên dƣới
thời Tự Đức đƣợc nghi lại trong câu ca dao:
Vạn Niên là Vạn Niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân.
là một dẫn chứng tiêu biểu. Ngoài ra các vua nhà Nguyễn còn hay đi tuần du.
Chỉ tính riêng một chuyến tuần du ra Bắc của Thiệu Trị năm 1842 cũng đã
thấy đáng sợ: nhân dân và quân lính tùy tùng 17500 ngƣời, 44 thớt voi, 172
con ngựa, đến mỗi tỉnh lại lấy thêm một số binh lính nữa. Hành cung trên cạn
dƣới nƣớc cả thảy 44 cái. Chi phí và tiền thƣởng tổng cộng một trăm vạn
quan… Những gánh nặng, nỗi thống khổ đều đè nặng lên đôi vai của ngƣời
nông dân. Đến năm 1855, Tự Đức vẫn còn thừa nhận: “bọn tổng lý hương hào
nhà nào cũng giàu có, có kẻ tôi tớ hoặc một trăm người, hoặc sáu bảy mươi
người, chiêu tập côn đồ, chứa ngầm binh khí, người trong một tổng, một làng
hễ chúng hơi nhếch mép hất hàm là phải theo…” [15; 8]. Trong những năm
đầu triều đại, hành động đáng phê phán nhất của nhà Nguyễn là sự trả thù và
tận diệt Tây Sơn “vì 9 đời mà trả thù”, bằng tất cả các thủ đoạn tàn bạo trung
cổ. Diệt cho không còn dễ, diệt tất cả đám quần thần, bề tôi, bất kể là phụ nữ
hoặc trẻ em. Năm 1802 trƣớc khi hành hình Nguyễn Quang Toản, Gia Long
phải bắt ông xem quan lính đào mộ Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ cùng vợ
chính, lấy hài cốt giã nhỏ, bỏ vào một cái bồ lớn, rồi đái vào… xƣơng đầu thì
10
bỏ vào ngục tối giam trong lâu đài. Đến lƣợt mình Quang Toản bị voi xé xác,
chặt làm 5 khúc bêu ở 5 chợ. Các em của Quang Toản đều bị voi dày. Trần
Quang Diệu bị chém làm trăm mảnh, vợ là Bùi Thị Xuân cũng bị voi dày
cùng con gái. Bọn lính đã chia nhau ăn tim gan họ. Đến lƣợt Minh Mạng, năm
1831 cho lùng bắt toàn bộ hơn 100 con cháu nhà Tây Sơn đƣa về xử tử hoặc
đày làm nô tì.
Về quân đội chế độ binh dịch nặng nề, hầu nhƣ 3 - 4 đinh lấy một. Để
giữ vững lòng trung thành của binh lính, nhà Nguyễn đặt chế độ ruộng lƣơng
rất hậu thêm vào đó là mức ruộng khẩu phần cao, tuy vậy tinh thần và chất
lƣợng của quân đội ngày càng sa sút.
Về ngoại giao, thái độ nhà Nguyễn trong quan hệ với nhà Thanh là tuần
phục một cách mù quáng. Trong lúc đó nhà Nguyễn lại dùng lực lƣợng quân
sự khống chế Cao Miên, đặt thành Trấn Tây bắt Lào thuần phục. Quan hệ với
Xiêm cũng thất thƣờng, lúc thì thân thiện hòa hoãn, lúc thì tranh chấp. Đối
với các nƣớc phƣơng tây, tinh thần đóng cửa, cự tuyệt vẫn đƣợc duy trì cho
đến khi bùng nổ cuộc xâm lƣợc của thực dân Pháp.
Về nông nghiệp, kinh tế nông nghiệp thời Nguyễn khá đa dạng phong
phú nhƣng vẫn không vƣợt qua khỏi phƣơng thức sản xuất cổ truyền. Chính
quyền nhà Nguyễn cũng quan tâm đến việc đắp đê, nạo vét kênh mƣơng
nhƣng trong công cuộc trị thủy nói chung không có kết quả gì khả quan, nhà
Nguyễn tỏ ra bất lực. Trong khi đó thiên tai mất mùa, dịch bệnh xảy ra liên
miên đã ảnh hƣởng to lớn đến đời sống của nhân dân.
Về tình hình xã hội và đời sống của nhân dân, cũng nhƣ ở các triều đại
trƣớc, dƣới thời Nguyễn, xã hội Việt Nam chia thành hai giai cấp lớn thống trị
và bị trị. Giai cấp thống trị gồm vua, quan, thơ lại trong hệ thống chính quyền
và giai cấp địa chủ. Vua và hoàng tộc giờ đây đã trở thành một lớp ngƣời
đông đảo, có đặc quyền nhất là con cháu gần gũi của nhà vua. Họ có dinh thự,
ruộng vƣờn rộng rãi và đƣợc một hệ thống cơ quan, đứng đầu là phủ Tôn
11
nhân chăm lo bảo vệ. Các quan chức xuất thân từ nhiều tầng lớp khác nhau
nhƣng do vị thế của mình đã trở thành ngƣời đối lập với nhân dân, hạch sách
và bóc lột nhân dân, tất nhiên trong số họ cũng có ngƣời thanh liêm, trung
thực biết lo lắng cho cuộc sống của nhân dân, sự ổn định của xã hội. Giai cấp
địa chủ giờ đây đã trở thành một lực lƣợng đông đảo, vừa có thế ở quan
trƣờng vừa có nhiều quyền uy ở làng xã. Giai cấp bị trị bao gồm toàn bộ nông
dân, thợ thủ công, thƣơng nhân và một số dân nghèo thành thị. Lớp ngƣời bị
lƣu đày, nô tì cùng gia quyến sống ở các đồn điền cũng tăng lên đáng kể.
Tuyệt đại đa số đời sống của nhân dân là vô cùng nghèo khổ, họ là lớp ngƣời
gánh chịu mọi tai họa của tự nhiên, mọi thiệt thòi, bất công của xã hội. Những
ngƣời dân có ít ruộng thì thuế khóa nặng nề, sự bất công và lộng hành làm
cho ngƣời dân vô cùng cực khổ, bên cạnh đó thiên tai mất mùa xảy ra thƣờng
xuyên đe dọa cuộc sống của ngƣời dân nghèo. Sau mỗi lần vỡ đê lụt lội lớn,
mùa màng hƣ hại, nhân dân phải bỏ làng đi phiêu tán kiếm ăn. Nhà Nguyễn
tìm mọi cách cứu đói nhƣ mở các kho thóc phát chẩn, cho vay, vận động các
nhà giàu cho vay thóc không lấy lãi. Biết bao nhiêu ngƣời trong cảnh đó
không tìm ra lối thoát, chất chứa căm thù vua quan nhà Nguyễn và bọn địa
chủ tàn ác. Họ đã nổi dậy, đã có nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân nổ ra.
Triều đình Nguyễn nắm trong tay một lực lƣợng quân sự to lớn, đã lợi dụng
những sai lầm sơ hở của các cuộc khởi nghĩa để đàn áp. Chống nông dân khởi
nghĩa diễn ra hàng trăm cuộc. Thời Gia Long là 50 cuộc, Minh Mệnh là 200
cuộc, Thiệu Trị là 50 cuộc.
Với bối cảnh đó, văn học nửa cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX,
lịch sử và thiên nhiên không cò là hình thức ngụ ý của những bài học về đạo
đức. Nhà thơ giai đoạn này viết về lịch sử và thiên nhiên thƣờng là để nói lên
cảm xúc của mình trƣớc những đối tƣợng ấy; đồng thời qua đó bộc lộ nhận
thức của mình về những vấn đề đặt ra trong cuộc sống trƣớc mắt. Nhìn chung
đề tài cơ bản trong văn học giai đoạn này là vấn đề thiết cốt trong cuộc sống
12
trƣớc mắt. Các nhà thơ giai đoạn này viết về chiến tranh phong kiến và những
tai họa của nó, viết về sự thối nát của giai cấp phong kiến thống trị, về cuộc
sống khổ cực của ngƣời nông dân, về thân phận của gƣời phụ nữ, về tình yêu
và những rằng buộc khắc nghiệt của đạo đức lễ giáo phong kiến,…Và cái đẹp
ở đây không phải là cái đạo đức đƣợc gọi tên một cách khác mà là cuộc sống.
Là một nhà thơ trƣởng thành trong bối cảnh ấy, Phan Thúc Trực cũng luôn
quan tâm đến thời cuộc, đến thế sự.
1.2.2. Tác giả Phan Thúc Trực
Phan Thúc Trực chào đời ngày 12 tháng 2 năm Kỉ Tị (tháng 1 - 1808)
tại làng Phù Ninh, xã Vân Tụ, tổng Vân Tụ, huyện Đông Thành (nay là huyện
Yên Thành) tỉnh Nghệ An. Lúc đầu tên là Phan Dƣỡng Hạo, sau đổi tên là
Phan Thúc Trực. Họ Phan này vốn từ Hải Dƣơng vào Nghệ An. Ông tổ họ
Phan là Phan Phan Phụ đỗ Hiệu sinh (Tú tài) đời Lê cƣ trú ở làng Trung Phu
cùng tổng Vân Tụ, nay thuộc xã Công Thành, huyện Yên Thành. Cao tằng và
tổ phụ ông đều đỗ Hƣơng cống triều Lê, đến thân phụ là Phan Tông Vũ
(1776), học giỏi, có trí nhớ tuyệt vời, quyết chí theo nghiệp văn chƣơng, đỗ
liền 3 khoa Tú tài, ngƣời đời cho ông là “cái bồ đựng chữ”. Gặp lúc quốc gia
có nhiều nhiễu nhƣơng, ông chỉ ở nhà dạy học, dân trong vùng tôn ông là
“Ông Đồ Bồ”. Ông đào tạo đƣợc nhiều ngƣời thành danh trong đó có con trai
cụ là Thám hoa Phan Thúc Trực.
Phan Dƣỡng Hạo thông minh lại khoáng đạt, đồng thời rất cần cù chịu
khó. Xuất thân dòng dõi Nho gia, lại đƣợc sự dạy bảo của cha, với bản tính
siêng năng, Phan Dƣỡng Hạo từ nhỏ đã nổi tiếng “thần đồng”. Năm 16 tuổi
ông đỗ đầu xứ trong kì khảo hạch “tiến ích” của tỉnh, 17 tuổi đỗ Tú tài khoa
Ất Dậu(1825) Minh Mệnh năm thứ 6. Sau đó, ông ra Thanh Hóa dạy học ở
làng Nguyệt Viên, tổng Từ Minh, huyện Hoằng Hóa. Dạy học ở Nguyệt Viên
để kiếm tiền nuôi con nhƣng kì thực là để ông học tập, rèn luyện thêm văn tài,
khoa sau ông cũng đậu Tú tài. Tính ra, ông đã ứng thi 5 chính khoa đời Minh
13
Mệnh, 3 chính khoa và 2 ân khoa đời Thiệu Trị. Đó là hiện tƣợng rất đặc biệt,
rất hiếm có trong lịch sử khoa cử xứ Nghệ và cả Việt Nam. Nhân dân địa
phƣơng gọi ông là “Thầy Tú Mƣời”. Văn thân huyện Yên Thành tặng ông đôi
câu đố:
Nhất cử thành danh thiên hạ hữu
Thập khoa liên trúng thế gian vô
Nghĩa là:
Một lần đi thi mà thành danh, trong thiên hạ đã từng có kẻ
Mƣời khoa thi đều trúng tuyển, trên thế gian chửa có một ngƣời.
Đến năm Đinh Mùi (1847) Thiệu Trị 7, ông đỗ Đình Nguyên Thám hoa.
Năm đó ông 40 tuổi. Trong biểu mừng Phan Thúc Trực đỗ Thám hoa có đoạn
ca ngợi gia đình ông nhƣ sau:
“Lịch đại dĩ khoa mục thủ nhân, nhi tiến sĩ quý vu thế, tam khôi tiến sĩ
khoa chi tối quý giả. Kì vinh hạnh thành phi nhất gia, nhất nhân tư giã. Ngô
xã tân khoa cập đệ Phan quý thai, gia thế nho, tự lục đại tổ đăng hương
tường, tuấn thi lễ chi nguyên, kì hậu tương kế, dự hiền thư giả tam tứ thế…”.
(Cẩm hồi tập, tờ 12a)
(Trải các đời đều lấy khoa cử để tuyển chọn ngƣời tài, đỗ tiến sĩ đƣợc
ngƣời đời quý trọng, mà đỗ Tam khôi tiến sĩ thì không có gì quý hơn. Vinh
hạnh này quả thực không phải là của một gia đình hay riêng của một ngƣời.
Đỗ Tân khoa cập đệ xã ta là tôn quý họ Phan. Gia thế từ xa xƣa đã thuộc hàng
danh nho, từ sáu đời trƣớc đến bây giờ đều theo con đƣờng học hành, khơi
nguồn thi thƣ lễ nhạc, con cháu đời sau có đến ba, bốn đời đều đứng vào bậc
hiền nho…).
Sau khi đỗ Thám hoa, ngƣời ta gọi ông là Quan Thám mƣời. Quan
Thám mƣời về quê “vinh danh báo tổ”, đƣợc vua ban cho tấm biển có 3 chữ
“khôi đa sĩ”, chữ lấy trong sách Tam tự kinh “Đối đại đình, khôi đa sĩ”, nghĩa
là vào thi ứng đối ở đại đình, đỗ đầu áp đảo nhiều sĩ tử trong nƣớc. Thám hoa
14
không chỉ là vinh hạnh của ông và gia đình mà còn là niềm tự hào của ngƣời
dân địa phƣơng nơi ông sinh ra. Trong biểu do tổng Vân Tụ mừng ông cũng
có đoạn viết:
“Khoa giáp tông tiền, ngô tổng vị hữu dã. Phá thiên hoang tự kim nhật
thủy, quốc triều khai khoa dĩ lai, nhất giáp ngô Hoan vị hữu dã. Chấn thiên
thanh diệc tự kim nhất, ngô tổng chi nhân thủy. Lô xướng chi nhật, quận nhân
vinh chi, chí ư phủ huyện, dĩ cập xã thôn diệc giai vinh chi”
(Cẩm hồi tập, tờ 10a)
(Khoa cử ở tổng ta từ trƣớc đến nay chƣa từng có ngƣời đỗ đạc cao.
Mở chân trời mới cũng bắt đầu từ đây, từ ngày triều ta mở khoa thi tới nay,
chƣa từng có giáp nào ở châu Hoan đỗ cao nhƣ thế. Chấn động khắp vùng từ
nay cũng bắt đầu từ ngƣời của tổng ta. Ngày xƣớng danh, ngƣời khắp trong
quận đều thấy vinh dự, từ phủ huyện cho tới xã thôn, ai ai cũng cảm thấy tự
hào).
Sang năm sau là Tự Đức nguyên niên (1848), ông đƣợc sung Hàn lâm
viện Trƣớc tác (Chánh Lục Phẩm), rồi bổ vào Tòa Nội các (Tòa văn thƣ của
vua) rồi thăng Tập hiền viện Thị giảng (Tòng Ngũ phẩm) và sung chức Kinh
diên khởi cƣ chú, một chức quan than cận của nhà vua. Thời gian này, Phan
Thám hoa ứng chế nhiều thơ văn từng đƣợc vua Tự Đức khen ngợi và tặng
thƣởng. Năm Tự Đức 4 (1851), ông vâng chiếu chỉ ra Bắc thành sƣu tầm thƣ
tịch cũ. Năm sau (1852) sau khi hoàn thành nhiệm vụ, ông trên đƣờng về
Kinh đô đến Thanh Hóa thì lâm trọng bệnh và tạ thế hƣởng thọ 44 tuổi. Một
vị túc nho lão thành trong huyện Yên Khánh đã khóc Phan tiên sinh bằng một
câu đối Nôm rất ai oán nhƣ sau:
Bảng vàng, bia đá nghìn thu, thương tiếc thay người ấy,
Đầu bạc, răng long trăm nỗi, đau xót lắm trời ơi.
Phan Thúc Trực không chỉ là nhà khoa bảng lớn ông còn là nhà sử học
với các trƣớc tác: Quốc sử di biên, Trần Lê ngoại truyện, Diễn Châu phủ chi,
15
Cẩm Đình văn tập… và nhà thơ lớn với Cẩm Đình thi tuyển tập. Bài học lớn
nhất mà ông để lại cho đƣơng thời và hậu thế là tấm gƣơng của một con ngƣời
thành công rực rỡ trong cuộc đấu tranh để vƣợt lên số phận khắc nghiệt: lên 9
tuổi mồ côi mẹ, 11 tuổi mồ côi bố, lớn lên đi ở rể rồi vợ cũng chết trẻ, một
mình nuôi hai con, vậy mà làm nên sự nghiệp lớn.
Qua cuộc đời và sự nghiệp, qua những gì là bằng chứng còn lại đã đƣợc
tìm thấy, ta thấy Phan Thúc Trực là một con ngƣời tâm đức trong sáng, cao
thƣợng, giàu nghị lực đa tài năng. Ông là một con ngƣời thông minh bác lãm,
là nhà sử học, nhà địa phƣơng học, nhà văn nhà thơ. Trong Phan Thúc Trực,
lòng yêu dân yêu quê hƣơng đất nƣớc và trí năng, tri thức kết hợp một cách
nhuần nhuyễn, đúng với khái niệm “hiền tài”, không phải tự dƣng mà Tự Đức
đã điếu ông, đã ban tặng ông 4 chữ cô đúc vàng ngọc Học cao hạnh thuần. Có
điều công trình, tác phẩm của ông đến nay chƣa đƣợc sƣu tầm và tổ chức biên
dịch đầy đủ, nên chƣa có cơ sở thuyết phục để đánh giá chính xác và thỏa
đáng về ông.
Nhìn lại cả đời ngƣời chỉ vẻn vẹn có 44 năm của Phan Thúc Trực
chúng ta thật khó lòng hiểu nổi ông lấy thì giờ đâu mà vừa học tập, dạy học
thi cử, tham gia triều chính, sáng tác thơ văn, nghiên cứu biên soạn sách,… để
lƣu lại cho đời một tài sản trí tuệ đồ sộ nhƣ vậy? Không chỉ mẫn cán, hết lòng
phụng sự vƣơng triều Nguyễn, mà ông cò thƣờng xuyên quan tâm đến cuộc
sống của ngƣời dân nghèo túng nơi thôn quê. Năm 1847, đậu Đình Nguyên
Thám hoa xong, trong thời gian chờ triều đình bổ nhiệm, ông đã trực tiếp thiết
kế và chỉ đạo thi công công trình trị thủy sông Cẩm Giang ở quê nhà trong
vòng nửa năm. Việc làm ấy đã khắc phục đƣợc tình trạng lụt úng liên miên,
dân làng vì thế đƣợc cậy nhờ. Phan Thúc Trực với đạo đức cao thƣợng, trí tuệ
trác việt, kiến thức uyên thâm, nghị lực kiên cƣờng, tài năng kiệt xuất, tình
cảm thâm hậu, nhân cách băng thuần, công lao khả thị… hẳn xứng đáng đƣợc
16
tôn vinh là bậc hiền tài khả kính, danh nhân văn hóa xuất chúng trong cộng
đồng họ Phan toàn quốc, danh nhân văn hóa cấp quốc gia.
Thơ văn chữ nghĩa của Phan Thúc Trực thật giản dị nhƣng hàm súc.
Các tác phẩm của ông chỉ có 6 bài thơ Nôm, còn lại chủ yếu là chữ Hán hiện
đƣợc sƣu tầm, dịch và biên soạn tập trung trong Cẩm Đình thi tuyển tập.
Những con chữ, dòng chữ, câu văn,… của ông đều có khí có hồn, lí trí và tình
cảm quyện hòa nhuần nhuyễn, khiến ngƣời đọc tìm đƣợc cảm giác gần gũi,
yêu thƣơng hơn đối với quê hƣơng đất nƣớc và con ngƣời. Ông viết về những
gì gần gũi xung quanh cuộc sống của mình, viết về thời đại mình, cuộc đời
mình, những ngƣời thân, ngƣời bạn, về cuộc sống của ngƣời nông dân lam lũ.
Ngƣời ta muốn biết trong suốt những tháng năm lẽo đẽo mang lều chiếu đi thi
mà khoa nào cũng chỉ đỗ Tú Tài, Phan Thúc Trực có gì buồn khổ, thất vọng,
phản ứng với thực tại ra sao? Ngƣời ta cũng muốn biết, trong vòng mấy chục
năm ròng rã ông đang bận rộn thi cử, ở toàn cõi Bắc Kì liên tiếp lụt hạn, mất
mùa, giặc dã nổi lên nhƣ ong nhƣ trong Quốc sử di biên của ông ghi lại, thì
xứ Nghệ lâm vào tình cảnh đói khổ đến đâu, và một trí thức nhƣ Phan Thúc
Trực nghĩ gì về tình cảnh đó?
Bối cảnh nào con ngƣời ấy, con ngƣời ấy lại phản ánh thực tại vào văn
thơ. Qua văn thơ, Phan Thúc Trực cũng đã bộc lộ nỗi buồn cá nhân, cuộc đời,
bi kịch tâm trạng. Và đây cũng là mạch nguồn của dòng cảm hứng thế sự
trong thơ ông.
17
Chương 2. CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ PHAN THÚC TRỰC
2.1. Nỗi buồn về lý tưởng nhà Nho
Trong suốt mƣời thế kỉ văn học Việt Nam trung đại, nhà nho là lực
lƣợng sáng tác chủ yếu, nhất là thế kỉ XV. Là một nhà nho và là một “ông đồ
xứ Nghệ”, Phan Thúc Trực không nằm ngoài quỹ đạo vận hành mà mỗi nhà
nho thƣờng phải trải qua.
Thơ Phan Thúc Trực là sản phẩm sáng tạo nghệ thuật ngôn từ của một
nhà nho đã từng “đeo bám” khoa cử đến mức đƣợc dân gian gọi là “thầy Tú
mƣời” dù nằm trong dòng mạch nào chăng nữa thì vẫn có dáng dấp quen
thuộc, mang cảm hứng chung của văn chƣơng nhà nho đó là hƣớng tới
“truyền đạo lý”.
Ở giai đoạn mà nhà thơ đang sống đã bắt đầu xuất hiện những rạn nứt
trong lý tƣởng nhà nho. Trong tƣ tƣởng của Phan Thúc Trực cũng nhƣ các
nhà nho đƣơng thời đã có sự mâu thuẫn, họ mâu thuẫn với lý tƣởng của nho
giáo, mẫu thuẫn với chính bản thân mình. Bởi vậy, trong thơ ông đã xuất hiện
nỗi buồn về lý tƣởng nhà nho. Đọc thơ Cẩm Đình dễ thấy lý tƣởng nhà nho
trong ông đã không còn nguyên vẹn. Thơ Cẩm Đình tồn tại nhiều đối cực: vừa
hăm hở vào đời, hăm hở lập danh vừa chán chƣờng, hổ thẹn cho đƣờng đi của
mình; vừa muốn góp sức cho sự nghiệp sáng chúa, an dân vừa muốn thoát tục,
sống tự do với thiên nhiên, với cảnh quê.
Là một nhà nho, Phan Thúc Trực và những ngƣời trót mang trong mình
nỗi niềm “thức tự đa ƣu hoạn”, “nho quan đa ngộ thân” hẳn luôn coi nhập thế
là con đƣờng tất yếu phải đi qua. Chính vì thế mà trong thơ Phan Thúc Trực
chúng ta luôn thấy tha thiết một niềm tin tƣởng chừng khó có thể lay chuyển,
đó là niềm tin vào tầng lớp mình, vào học thuyết mà mình theo đuổi, vào
thánh triều cũng nhƣ giá trị và chỗ đứng của văn chƣơng. Lý tƣởng nhà nho là
quốc thái dân an, phú quốc cƣờng binh. Nhà nho phải góp sức mình vào sự
nghiệp đó. Văn chƣơng đối với các nhà nho nói chung, với Phan Thúc Trực
18
nói riêng cũng là một phƣơng tiện hành đạo, để giáo hóa con ngƣời theo
đƣờng chính đạo:
Tự tín văn chương hoàn hữu dụng,
Tây viên thanh giá bản ngô tào”
(Đồng Giám chư hữu sơ bổ hàn lâm nhất nhật kiến phỏng lưu ẩm thư tặng)
(Tự tin văn chƣơng còn chỗ dùng,
Vƣờn Tây danh giá thuộc nhà Nho chúng ta).
Văn thơ nhà nho vì thế thƣờng hƣớng về ca ngợi những triều đại thịnh
trị, vua sáng tôi hiền, ca ngợi các hiền nhân quân tử “kì tài phù xã tắc, chính
khí mãn càn khôn”. Phan Thúc Trực cũng có những bài thơ nằm trong cảm
hứng ấy, chẳng hạn trong Thần đầu song miếu ông ca ngợi:
Hồng Đức khoa danh cổ,
Thần Đầu miếu mạo tôn.
Kì tài phù xã tắc,
Chính khí mãn càn khôn.
Hưởng báo ưng song miếu,
Lưu phương nãi nhất môn.
Vinh danh kiêm hiển hiệu,
Tự hữu bất vong tồn.
(Khoa thi thời Hồng Đức là khoa danh mẫu mực,
Miếu Thần Đầu là ngôi miếu tôn nghiêm.
Các bậc kì tài phù hộ cho xã tắc,
Chính khí đầy khắp trong trời đất.
Hƣởng ơn báo đáp nên có hai miếu thờ,
Lan toả hƣơng thơm chỉ một cửa.
Tên họ vẻ vang cùng tên hiệu hiển hách,
Từ khi có tới nay chẳng bao giờ bị lãng quên).
19
Nhƣng xã hội thời nhà thơ sống ngày càng xuống dốc. Bƣớc qua
những năm ổn định thời Minh Mạng, từ cuối thời Thiệu Trị sang thời Tự Đức,
hàng loạt các sự kiện xã hội không thể không tác động đến nhà nho họ Phan:
đói kém, mất mùa, lụt lội, các cuộc khởi nghĩa của nông dân… nhà nho không
thể dửng dƣng đứng ngoài chính sự. Một số bài thơ của Phan Thúc Trực thể
hiện sự quan tâm day dứt đến số phận ngƣời dân: Nước lụt ngày hè, Ghi chép
về mưa bão, Mưa gió… Bài thơ Tuế yến hành (Bài ca năm thanh bình) của
Phan Thúc Trực, sau khi phác thảo bức tranh cơ cực của nhân dân trong cảnh
“mƣa gió giăng giăng” phải “đắp đƣờng sá”, “chịu đói chịu rét” phải “bán
ruộng, hoa màu”, nạp tiền bạc của cải để “đấng hiến vƣơng quân”, ở hai câu
kết ông viết:
Ngã hoàng bản thị nhân vạn dân,
Thùy tương thế sự nhất trần tố.
(Triều ta vốn lấy nhân để yên dân,
Ai dám đem việc này để dâng sớ tố).
Bài thơ làm ta nhớ đến Sở kiến hành của Nguyễn Du. Trên đƣờng đi sứ,
nhìn thấy cảnh đối lập giữa bốn mẹ con đi ăn xin lê la ngoài đƣờng và cảnh
bữa tiệc linh đình của các quan Trung Quốc khoản đãi sứ bộ mình, đại thi hào
xứ Nghệ cũng đã từng thốt lên:
Ai vẽ bức tranh này
Dâng lên nhà vua rõ.
Xa hơn, bài thơ còn gợi đến câu thơ của Đỗ Phủ:
Chu môn tửu nhục xú,
Lộ hữu đống tử cốt.
(Cửa son rƣợu thịt ôi,
Ngoài đƣờng xƣơng chết buốt).
Mặc dù mang nỗi buồn trƣớc bi kịch nhƣng câu thơ đã thể hiện chân
thực tâm trạng của nhà nho Phan Thúc Trực vẫn còn đặt ít nhiều niềm tin vào
20
chế độ quân chủ, mong muốn một vƣơng triều nhân chính đem lại hạnh phúc
cho ngƣời dân.
Bản thân Phan Thúc Trực từ khi đỗ Đình Nguyên Thám hoa (1847) cho
đến khi mất (1857) ông luôn cố gắng hoàn thành mọi nhiệm vụ mà nhà vua và
triều đình giao phó. Lý tƣởng hành đạo ấy thể hiện khá rõ trong nhiều bài thơ
của ông. Trong Hồi thư cáo ngoại đệ (Gửi thƣ về cho các em bên ngoại), ông
viết:
Nhân sinh tự tán cổ tầm thường,
Hồ thi tứ phương nam tử sự.
(Đời ngƣời ly hợp là chuyện bình thƣờng,
Tứ phƣơng tung hoành là việc của đấng nam nhi).
Chí hƣớng “tứ phƣơng tung hoành” ấy cũng thể hiện ở nhiều bài thơ
khác của ông.
Khinh phàm bang ngạn ngẫu tương ư,
Tư Thừa phong pha lãng hoài Tôn Ý.
(Thướng Độc Sơn đỉnh quan hải)
(Ngẫu nhiên thấy mấy cánh buồn mỏng cùng neo đậu ở bên bờ,
Muốn cƣỡi gió phá sóng nhƣ chí của Tôn Ý.)
Ngay từ lúc từ biệt ngƣời thân, xóm làng Phan Thúc Trực đã mang chí
hƣớng ấy mà quyết ra đi. Trong bài Đăng trình biệt áp nhân ông viết:
Ly ca xướng bãi khách đăng trình,
Khuyến tửu ân cần cảm phụ huynh.
Trịch khước ly bôi đề trụ khứ,
Bồ sơn thụ bích, Cẩm giang thanh.
Dịch nghĩa:
Hát xong điệu ly ca là khách lên đƣờng,
Chén rƣợu ân cần khích lệ của cha anh khiến lòng cảm động.
Ném chén rƣợu chia ly để lên cột,
Trong veo dòng sông Cẩm, xanh ngắt núi Bồ.