Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

đề cương ôn tập thi pháp văn học dân gian

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.8 KB, 16 trang )

Nguyễn Thanh Hải – Lớp ĐHSPNgữ văn - ĐHPY
Đại học sư phạm Huế - Đại Học Phú Yên


Đề cương ôn tập học phần

Nguyễn Thanh Hải
Lớp ĐHSP Ngữ văn
KHÁI NIỆM THI PHÁP VĂN HỌC DÂN GIAN
1/.Khái niệm văn học dân gian?
Thi pháp Văn học Dân Gian - 1 -
Nguyễn Thanh Hải – Lớp ĐHSPNgữ văn - ĐHPY
Trả lời:
Theo lí thuyết Thi pháp học, khi nghiên cứu văn học dân gian là nghiên cứu thi pháp ở một
cấp độ cụ thể. Để xác định được cấp độ khi nghiên cứu VHDG, chúng ta cần phải biết về khái
niệm VHDG và thi pháp VHDG.
Khái niệm văn học dân gian được dùng để phân biệt với khái niệm văn học bác học, văn
học viết. VHDG chỉ là một bộ phận văn học do nhân dân sáng tác và lưu truyền bằng phương
thức truyền miệng từ bao đời nay. Bộ phận văn học này có nhiều đặc trưng khu biệt mà văn
học viết không có như: tính sáng tạo tập thể, tính truyền miệng, tính dị bản, tính diễn xướng,
tính nguyên hợp,…VHDG phản ánh tinh tế mọi khía cạnh của đời sống nhân dân lao động về
phong tục tập quán, nỗi khổ, khát vọng, tình yêu đôi lứa,…
Ngoài chức năng thẩm mĩ, VHDG còn có chức năng thực hành sinh hoạt. Từ các hoạt động
của đời sống nhân dân, văn học DG nảy sinh và quay trở lại tác động đến đời sống nhân dân,
VD như hò giã gạo, hò xay lúa, hò chèo thuyền,… nảy sinh, hình thành từ các công việc xay
lúa, giã gạo, chèo thuyền,… hằng ngày. Nhưng khi có các hoạt động ấy thì họ lại đem ra để
diễn xướng phục vụ.
Tác phẩm văn học dân gian là một chỉnh thể tồn tại trong đời sống văn nghệ của nhân dân
bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ hữu cơ với nhau như: ngôn từ (lời kể, lời ca), âm nhạc (làn
điệu), vũ đạo (các động tác phụ họa), môi trường diễn xướng (lao động, vui chơi, nghi lễ, ).
Trong các yếu tố đó của VHDG thì yếu tố ngôn từ là yếu tố quan trọng có tính quyết định đến


sự tồn tại của tác phẩm VHDG. Nghĩa là thiếu ngôn từ sẽ không có tác phẩm VHDG.
Có người cho rằng VHDG chỉ thật sự sống động, phát huy vẻ đẹp, chức năng của nó khi
nó tồn tại trong môi trường diễn xướng, trong sự kết hợp chặt chẽ các yếu tố trên. Khi nó tồn
tại trong văn bản chữ viết, các yếu tố nghệ thuật khác bị mất đi thì nó chỉ là “cái xác không
hồn” mà thôi.
Thế nhưng trong thực tế, một mặt các sinh hoạt văn nghệ dân gian đang dần bị mai một, bị
biến dạng, không còn tồn tại như trước; mặt khác, phần ngôn từ-yếu tố cơ bản của các thể loại
VHDG lại càng được chú ý sưu tầm, ghi chép và cố định trong các văn bản chữ viết. Nó trở
thành một đối tượng không thể phủ nhận và được hiểu là VHDG. Vì thế, ngày nay, khi dùng
đến khái niệm VHDG người ta chú ý đặc biệt đến yếu tố ngôn từ mà bỏ qua các yếu tố nghệ
thuật khác. Yếu tố ngôn từ này của tác phẩm VHDG đã tồn tại độc lập không phải bằng ngôn
bản mà bằng văn bản chữ viết. Do vậy, khi nghiên cứu thi pháp VHDG người ta đã lấy yếu tố
ngôn từ làm đối tượng để khảo sát.
Vậy, khi nghiên cứu thi pháp VHDG, người ta lấy yếu tố ngôn từ để làm đối tượng khảo
sát.
2/. Thi pháp văn học dân gian?.
Trả lời:
2.1/ Thi pháp văn học dân gian?
Tác phẩm VHDGkhi tồn tại ở dạng văn bản chữ viết, nó có nhiều nét chung với văn học
viết. Điều đó có nghĩa là nghiên cứu thi pháp VHDG vẫn phải dựa vào lí luận, phương pháp,
khái niệm công cụ của thi pháp văn học nói chung. Tuy Văn học viết và VHDG có điểm giống
nhau nhưng nếu chúng ta xét kĩ thì VHDG vẫn có những nét đặc thù mà văn học viết không có
được VHDG là sản phẩm mà ngôn từ làm chất liệu cơ bản, nhưng nó không chỉ có yếu tố
ngôn từ mà còn kết hợp với nhiều yếu tố nghệ thuật khác như: nhạc, vũ đạo, biểu diễn,… Vì
thế, VHDG là sự đan xen giữa các yếu tố nghệ thuật. Nếu có các yếu tố nghệ thuật ấy thì
Thi pháp Văn học Dân Gian - 2 -
Nguyễn Thanh Hải – Lớp ĐHSPNgữ văn - ĐHPY
VHDG tồn tại ở dạng “diễn xướng” sinh động và ngược lại thì nó chỉ là “cái xác không hồn”
lúc này nó chỉ tồn tại dưới dạng chữ viết.
Khi nghiên cứu thi pháp VHDG chúng ta phải chú ý xem chúng ở dạng tồn tại nào?. Khi

nghiên cứu ở dạng văn bản thì việc này cũng đồng nghĩa với văn học viết; khi nghiên cứu nó ở
dạng diễn xướng thì hiện nay việc phục dựng lại các môi trường diễn xướng gặp rất nhiều khó
khăn. Dù có nghiên cứu VHDG ở dạng nào, góc độ nào thì cũng cần phải chú ý đến những đặc
thù của VHDG.
Trước hết, khi nói đến thi pháp văn học dân gian là phải nói đến những đặc điểm của hình
thức, những cách thức thể hiện và biểu hiện riêng của từng nghệ nhân, của đặc điểm dân tộc
……
2.2/Khái niệm thi pháp văn học dân gian?.
Hiện nay nhiều nhà nghiên cứu xem ý kiến của ông Chu Xuân Diên như một định nghĩa.
Theo ông Chu Xuân Diên, “Thi pháp văn học dân gian là toàn bộ những đặc điểm về hình
thức nghệ thuật, về phương thức và thủ thật miêu tả, biểu hiện, về cách cấu tạo đề tài, cốt
truyện và phương pháp xây dựng hình tượng con người”.
Từ ý kiến trên ông cò nêu những bình diện nghiên cứu cụ thể của việc nghiên cứu thi pháp
VHDG bao gồm từ việc khảo sát những yếu tố thi pháp riêng lẻ như phép so sánh thơ ca, các
biểu tượng và luật thơ, các mô típ và cấu tạo cốt truyện, cách mô tả diện mạo bên ngoài và tâm
lí bên trong của nhân vật,… đến việc khảo sát những đặc điểm thi pháp chung của từng thể
loại; và những đặc điểm dân tộc của thi pháp VHDG nói chung,…
Như vậy, đối tượng khảo sát của hướng nghiên cứu thi pháp VHDG là khá đa dạng, thuộc
nhiều bình diện khác nhau. Người nghiên cứu thi pháp VHDG không chỉ nghiên cứu trên văn
bản chữ viết của các tác phẩm VHDG đã được sưu tầm, ghi chép và cố định mà còn cả trong
quá trình diễn xướng, lưu truyền bằng ngôn bản lời nói. Đó mới là hướng nghiên cứu bám sát
đặc trưng riêng của văn học dân gian và là hướng nghiên cứu có hiệu quả cao.
Từ định nghĩa và hướng nghiên cứu thi pháp VHDG nêu ntreen, ông còn xác klaapj hệ
thống thi pháp của bộ phận văn học này. Nói chung chúng ta có thể nghiên cứu VHDG dưới
nhiều cấp độ khác nhau với những lưu ý đặc trưng của VHDG đó là: Cấp độ thành tố của từng
thể loại như ngôn ngữ, thể thơ, nhân vật, kết cấu, thời gian, không gian nghệ thuật,…; Cấp độ
tác phẩm; Cấp độ nhóm tác phẩm gồm những bài ca đám cưới, truyện cười kết chuỗi, những
truyện về một loại nhân vật nào đó, …; Cấp độ thể loại như thi pháp ca dao, thi pháp truyện cổ
tích,…; Cấp độ loại hình như thi pháp thơ ca dân gian, thi pháp truyện kể dân gian,…; …
Một số phương pháp cụ thể thường được sử dụng trong nghiên cứu theo hướng thi pháp:

phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh – đối chiếu,…
THI PHÁP CA DAO
3/.Khái niệm về ca dao:
Trả lời:
Ca dao, dân ca là những thuật ngữ Hán-Việt, Được giới nghiên cứu Văn học dân gian và
âm nhạc dân gian sử dụng để chỉ đối tượng là những bài ca và hình thức ca hát truyền thống do
nhân dân sáng tác, diễn xướng và lưu hành trong nhân dân từ bao đời nay.
Thuật ngữ ca dao, dân ca có khi được dùng song hành để chỉ sự gắn bó, mật thiết giữa hai
đối tượng ca dao và dân ca; Khi được tách riêng, ca dao dùng để chỉ bộ phận lời thơ dân gian
{bộ phận lời lại có 2 phần: lời ca mang nội dung chính và phần lời vô nghĩa (tiếng láy, tiếng
Thi pháp Văn học Dân Gian - 3 -
Nguyễn Thanh Hải – Lớp ĐHSPNgữ văn - ĐHPY
đưa hơi)} và dân ca dùng để chỉ chỉnh thể một loại hình ca hát diễn xướng có nhạc điệu và lời
ca trong các bài hát dân gian.
Do quá trình sưu tầm, ghi chép thành văn bản của các nhà sưu tầm, nghiên cứu mà lời hát
được tách ra khỏi làn điệu âm nhạc và loại bỏ luôn cả các yếu tố khác của dân ca. bộ phận lời
thơ này lúc đầu được gọi là phong dao, hoặc phong sử về sau được gọi là ca dao.
Vậy, ca dao là bộ phận chủ yếu và có vai trò quan trọng nhất của thơ dân gian, là loại
thơ truyền thống có phong cách riêng, được hình thành và phát triển trên cơ sở thành phần
nghệ thuật ngôn từ trong các loại dân ca ngắn và đối tượng ngắn. Hay nói một cách dễ hiểu
hơn : Ca dao là phần lớn phần lời được rút ra từ các bài hát dân gian và một số bài thơ của
một số tác giả sau khi đã loại bỏ đi phần âm nhạc và phần lời ca vô nghĩa.
4/.Kết cấu của Ca dao theo ông Nguyễn Xuân Kính:
Trả lời:
Hiện nay, có nhiều cách quan niệm về kết cấu ca dao. Quan niệm khá phổ biến hiện nay là
cách phân loại kết cấu của ông Nguyễn Xuân Kính và Đỗ Đình Trị.
* Theo ông Nguyễn Xuân Kính kết cấu ca dao được chia làm 5 loại dựa theo các phán
đoán trong bào ca dao:
+ 1. Kết cấu 1 vế đơn giản: Trong dạng kết cấu này, bài ca dù có bao nhiêu phán đoán thì
nội dung của lời ca là một ý lớn do các phán đoán trong đó tạo thành; “Dốc bồ thương kẻ ăn

đong, Vắng chồng thương kẻ nằm không một mình”. Ở đây nghĩa của 2 phán doán, tuy một
bên nói về vật chất, một bên nói về tinh thần, nhưng cả 2 ý này đều có nét tương đồng nhằm
diễn đạt một điều duy nhất: đó là sự đồng cảm với những người cùng cảnh ngộ, một cái nhìn
thông cảm, xẻ chia. Tương tự, ta có thể lấy thêm ví dụ khác “Sen xa hồ, sen khô hồ cạn, Liễu
xa đào, liễu ngã đào nghiêng, Anh xa em như bến xa thuyền, Như Thúy Kiều xa Kim Trọng,
biết mấy niên tái hồi”. Ở đây, các phán đoán đều mang một ý chung: đó là sự chia xa và kèm
theo nó là tàn lụi, hủy diệt. Tất cả các hiện tượng tự nhiên khách quan đều được dùng để so
sánh và làm rõ cho việc “anh xa em”. Sự chia xa của 2 người khó nói hết được hậu quả nhưng
lại được minh họa một cách cụ thể bằng hình ảnh của tự nhiên: sen-hồ, liễu-đào, thuyền-bến,
chuyện tình của Thúy Kiều-Kim Trọng là những yếu tố đáng tin cậy nên cũng minh họa sinh
động và thuyết phục được tác giả bài ca dao đưa vào để so sánh, bổ sung.
+ 2. Kết cấu một vế có phần vần: Bài ca dao ở dạng này thường có 2 phần tách biệt: phần
đầu tác giả miêu tả ngoại cảnh, phần sau là nội dung chính lời ca. Hai phần chỉ có liên hệ về
mặt vần điệu thuần túy, không liên hệ về nội dung. VD, “Quả cau nho nhỏ, Cái vỏ vân vân,
Nay anh học gần, Mai anh học xa, Lấy chồng từ thủa 13, Đến năm 18 thiếp đà 5 con, Ra
đường thiếp hãy còn son, Về nhà thiếp đã 5 con cùng chàng”. Giữa chuyện “quả cau”, “học
gần”, “học xa”, và chuyện “lấy chồng từ thủa 13” không liên quan gì đến nhau. Nó chỉ là yếu
tố gợi hứng. Phải có khung cảnh thiên nhiên để dẫn đến ước mơ, để tạo ra hành động Hiện
tượng 2 phần của bài ca dao chỉ có liên hệ phần vần, ý nghĩa không hợp nhau, không bổ sung
cho nhau, không cùng hướng về chủ đề, nội dung. Có lẽ do đặc điểm ứng diễn, ứng đối nhanh
nhạy trong quá trình sáng tác tạo nên hiện tượng này?.
+ 3. Kết cấu 2 vế tương hợp: Nội dung của những lời ca này gồm có hai vế tương hợp với
nhau. Nó cùng xoáy vào một vấn đề chung. Dạng kết cấu này thường xuất hiện trong hát đối
đáp: “- Bây giờ mận mới hỏi đào, Vương hồng đã có ai vào hay chưa. – Mận hỏi thì đào xin
thưa, Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.”. Dạng kết cấu này gồm có 1 vế hỏi và 1 vế trả
lờiCả hai vế đối đáp là một lời đối đáp trọn vẹn của 2 người trong cuộc hát. Mỗi lời có thể tồn
tại độc lập. Lúc đó, nó trở thành một lời riêng biệt. loại này thuộc dạng kết cấu mở.
Thi pháp Văn học Dân Gian - 4 -
Nguyễn Thanh Hải – Lớp ĐHSPNgữ văn - ĐHPY
+ 4. Kế cấu 2 vế đối lập: Mỗi lời ca của kiểu kết cấu này ta thấy luôn có 2 ý lớn trái ngược

nhau, đối lập nhau; - “Anh đến tìm hoa thì hoa đã nở, Anh đến tìm đò thì đò đã sang sông, Anh
đến tìm em thì em đã lấy chồng, Anh yêu em như rứa có mặn nồng chi mô?”. – “Hoa đến thì
thì hoa phải nở, Đò đã dầy thì đò phải sang sông, Đến duyên em thì em phải lấy chồng, Em
yêu anh như rứa đó, còn mặn nồng thì tùy anh.” Hay - “Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng,
Tre non nửa lá đan sàng được chăng?”, – “Chàng hỏi thì thiếp xin thưa, Tre vừa đủ lá đan
chưa đặng sàng, Ngoài chợ có thiếu chi giang, Mà chàng lại nỡ đan sàng tre non.”
+ 5. Kết cấu nhiều vế nối tiếp: Loại kết cấu này gồm những bài ca dao dài. Trong đó, nội
dung của nó chứa đựng nhiều ý nối tiếp nhau. Giữa các ý có sự nối kết làm cho bài ca dao trở
nên chặt chẽ về nội dung: “Anh đi lấy vợ cách sông, Em đi lấy chồng giữa ngõ người ta, Có
lấy thời lấy xa xa, Chớ lấy trước ngõ anh ra anh buồn, Buồn thời cất gánh đi buôn, Một vốn
bốn lãi anh buồn làm chi, Buồn vì con gái nữ nhi, Mẹ cha thách cưới làm chi lỡ làng.”. Nhưng
cũng có khi giữa các ý không có mối liên hệ mạch lạc, yếu tố liên kết duy nhất là phần vần.
Loại này thường khó xác định nội dung cụ thể, người ta gọi nó là những câu hát bâng quơ,
mua vui là chính. Trong đồng dao thường có kiểu kết cấu này: “Cái sáo mặc áo em tao, Làm
tổ cây cà, làm nhà cây chanh, Độc canh bờ giếng, Môi miếng tiếng kèn…”.
5/. Kết cấu ca dao theo Đỗ Đình Trị thì lại đưa ra 7 loại kết cấu ca dao như sau:
Trả lời:
+1. Kết cấu vòng tròn: Là những chi tiết, hình ảnh được lựa chọn trong văn bản ca dao.
Những hình ảnh, từ ngữ cuối cùng trong câu cuối cùng của bài ca dao bắt vần lại với từ, ngữ
cuối cùng trong câu đầu. do vậy bài ca dao sẽ được diễn xướng liên tục. lối kết cấu này thường
xuất hiện ở trong đồng dao. VD, “Con kiến mà leo cành đa, Leo phải cành cụt leo ra, leo vào,
Con khến mà leo cành đào, Leo phải cành cụt leo vào leo ra,…” Hay “Làm thơ mà dán cây
bàng, Thiên hạ không biết nói nàng với ta, Làm thơ mà dán cây đa, Thiên hạ không biết nói ta
với nàng, …”.
+ 2. Kết cấu tầng bậc: Là những chi tiết, hình ảnh được lựa chọn trong văn bản ca dao có
tầng, có bậc, các chi tiết sắp xếp thu hẹp, hoặc mở rộng dần ý nghĩa. Có nhiều kiểu tầng bậc xa
đến gần, chung đến riêng, bóng gió đến cụ thể, ngoài vào trong, … VD “Anh đi anh nhớ quê
nhà, Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương, Nhớ ai dãi gió, dầm sương, Nhớ ai tát nước
bên đường hôm nao”. Kiểu kết cấu này thường xuất hiện trong các bài ca dao tỏ tình. Đây là
lối nói xa xôi, bóng gió đến cụ thể.

+ 3. Kết cấu đối lập: Trong một bài ca dao tác giả nêu lên 2 yếu tố A và B nhưng 2 yếu tố
này lại đối lập nhau nhằm thể hiện nội dung muốn nói. Kiểu kết cấu này rất phổ biến trong ca
dao Việt Nam. VD, “Giàu sang nhiều kẻ tới nhà, Khó khăn nên nỗi ruột rà xa nhau”. Hay
“Chửa chồng nón thượng, quai thao, Chồng rồi nón rách, quai nào thì quai”, …
+ 4. Kết cấu đối đáp:
Trong những bài ca dao có hình thức hỏi-đáp. Đó là những lời nhân vật trữ tình đặt câu hỏi
rồi lại tự mình trả lời. Những hình thức hỏi-đáp ấy nằm trong một chỉnh thể ca dao. VD, “Cô
kia khăn trắng tang ai?, Nhất tang cha mẹ, thứ hai tang chồng, Tang chồng thì vứt khăn đi,
Tang cha, tang mẹ ta thì tang chung”.
+ 5. Kết cấu láy: Trong những bài ca dao có yếu tố được lặp đi, lặp lại nhiều lần để tập
trung vào một ý nào đó. VD, “Nước chảy, đá vẫn chưa mòn, Ước gì kết ngãi nước non với
chàng,Ước gì tạc đá ghi vàng, Ước gì em sánh với chàng từ đây, Ước gì nguyệt lão xe dây, Xe
cho mình đó với đây một nhà”. Hay,”Chiều chiều em đứng em trông, Trông non non ngất,
Thi pháp Văn học Dân Gian - 5 -
Nguyễn Thanh Hải – Lớp ĐHSPNgữ văn - ĐHPY
trông sông sông dài, Trông mây mây kéo ngang trời, Trông trăng trăng khuyết, trông người
người xa”.
+ 6. Kết cấu liệt kê:
Kiểu này thường xuất hiện trong những bài ca dao có tính chất miêu tả, tự sự một vấn đề
nào đó. Khi biểu cảm người ta ít sử dụng kiểu liệt kê. VD, “Anh đã nói với em, Như rựa chém
xuống đá, Như rạ chém xuống đất,Như mật rót vào tai, Bây chừ anh đã nghe ai, Bỏ em giữa
chốn thuyền chài khổ chưa!.
+ 7. Kết cấu lửng:
Bài ca dao không nói hết ý mà bỏ lửng giữa chừng. Thông thường một cặp lục – bát, có hai
dòng thơ nhưng ở đây tác giả dân gian chỉ dùng một câu lục mà không hát tiếp câu bát. VD,
“Đường vô xứ Nghệ quanh quanh, Non xanh, nước biếc như tranh họa đồ, Ai vô xứ Nghệ thì
vô…”. Hay, “Tính tháng rồi lại tính năm, Tính tháng tháng đoạn, tính năm năm rồi, Đôi ta
biết thủa nào nguôi…”
6/.Không gian nghệ thuật Ca dao:
Trả lời:

Ca dao vốn đơn giản, mộc mạc, dễ hiểu. cảm giác gần gũi, quen thuộc đó không chỉ do nó
là sản phẩm tinh thần của quần chúng, là tiếng nói đa thanh của nhân dân mà còn do những
gì ca dao đã phản ánh, dung chứa trong bản thân nó. Đó là một thế giới nhân vật, đó là một
không gian của những làng quê với bao cảnh quan tự nhiên hoặc nhân tạo; với bao hoạt động
rộn ràng trên đồng ruộng, sông nước, đường làng, ngõ xóm, bên bến nước, bờ đê; với bao vật
dụng, công cụ gắn bó với cuộc sống của con người do chính nhân dân tạo ra,…Nói chung, cái
thế giới nghệ thuật sinh động mà trong đó yếu tố không gian nghệ thuật được thể hiện rõ nét
đã tạo nên nhiều đặc trưng riêng cho thể loại ca dao.
Không gian nghệ thuật vừa là một nội dung được phản ánh trong ca dao vừa là một
phương tiện nghệ thuật tham gia vào tổ chức văn bản ca dao. Không gian nghệ thuật ca dao
có thể có nhiều lớp khác nhau, các lớp không gian này cũng không hoàn toàn tách bạch mà có
khi giao toa, đan xen một số đặc trưng nào đó. Tuy nhiên, không gian nghệ thuật trong ca dao
có những lớp không gian như sau:
- Không gian hiện thực khách quan: là những hình ảnh của cảnh vật quen thuộc, gần gũi
mang đặc trưng của mọi làng quê Việt Nam. Đó là cổng làng, ngôi đình, cây đa, bến nước, lũy
tre, ghe thuyền, sông, núi, thác ghềnh, … Từ đó cho ta thấy người bình dân gắn bó, yêu
thương quê hương của mình. Không gian hiện thực trong ca dao là những không gian vừa
phải, có phần nhỏ hẹp. không gian trong ca dao chỉ được gợi lên chứ không được miêu tả cụ
thể. Từ một nét chấm phá mang sức gợi lớn đó mà người nghe liên tưởng, hình dung ra cả một
bức tranh cảnh vật được chủ thể trữ tình nhắc đến và để hiểu tâm tình được gửi trao trong đó.
Ngoài ra, do dung lượng của bài ca dao ngán, ít nên chủ thể trữ tình của bài ca dao không thể
miêu tả chi tiết dược bức tranh của làng quê mà chỉ có thể chọn lọc một hình ảnh nào đó đặc
sắc nhất để đưa vào trong bài. Do vậy không gian nghệ thuật hiện thực trong ca dao không
phải là một không gian tĩnh lặng mà là một không gian sống động gắn với con người và nhân
vật trữ tình. Không gian ấy là nơi để chuyển tải nội dung tác giả gửi gắm. Chẳng hạn, trong bài
“Buồn trông co nhện chăng tơ,… Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai,… Sao ơi sao hỡi nhớ ai
sao mờ” hay bài “Trèo lên cây bưởi hái hoa, Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân, Nụ tầm
xuân nở ra xanh biếc, Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay,…”
Thi pháp Văn học Dân Gian - 6 -
Nguyễn Thanh Hải – Lớp ĐHSPNgữ văn - ĐHPY

Đa phần trong ca dao, không gian hiện thực góp phần vào việc chủ thể giải bày tâm trạng
nhưng không gian ấy vẫn chưa phải là không gian tâm trạng bởi nó vẫn được chủ thể miêu tả
như những gì nó vốn có chứ nó chưa hề nhuốm màu tâm trạng của chủ thể.
- Không gian tâm lí: là không gian được tác giả dân gian cảm nhận bằng tâm trạng của
mình. Hay nói cách khác là không gian được đo, đếm bằng tâm trạng của tác giả. VD, “Ước gì
sông rộng một gang, bắc cầu giải yếm cho nàng sang chơi”. Ở đây, “Sông rộng một gang” và
“Cầu giải yếm” là không gian nằm trong sự “Đo”, “Đếm” của tâm trạng chàng trai - Chủ thể
trữ tình chứ không phải là không gian của hiện thực khách quan. Do vậy, nó chính là không
gian tâm trạng hay không gian tâm lí. Hay trong bài “Núi cao chi lắm núi ơi, núi che mặt trời
không thấy người thương”. Xét ở góc độ tâm trạng của nhân vật trữ tình thì “núi” ở đây được
nhân hóa là nguyên nhân chia cách tình yêu đôi lứa. Lúc này “núi” không còn là “núi” của
hiện thực khách quan nữa mà lại là “núi” trong tâm trạng của hai người đang yêu bị xa cách và
là không gian tâm lí. Tương tự, để nói lên sự khao khát chung đôi trong tình yêu chủ thể trữ
tình mượn không gian hiện thực là “sông” và “đất” để nói lên khao khát chung đôi ấy bằng
hình ảnh “sông cạn, “đất liền”: “Muốn cho sông cạn đất liền, để anh đi lại đỡ tiền đò giang”
Trong ca dao, khi thề hẹn thủy chung người ta thường mượn hình ảnh tự nhiên khách quan
mà hình ảnh ấy không thể sảy ra thì không gian ấy chính là không gian tâm lí.
- Không gian địa lí – tự hào: là địa danh, tên sông, tên đất, … xuất hiện trong ca dao
nhưng không chỉ nói dến địa danh mà boa giờ cũng gắn kết địa danh với một đặc điểm nổi bật
nào đó của địa danh ấy nhằm giới thiệu cảnh quan, sản vật, con người, … của nơi ấy hay
những bất trắc nhằm cảnh báo.
VD, “Cao lao, Hạ Trạch quê mình, Bốn bề phong cảnh hữu tình nước non”.; “Dù ai đi
ngược về xuôi, Nhớ ngày dỗ Tổ mồng mười tháng ba”; “Đi bộ thì khiếp Hải Vân, Đi thuyền
thì khiếp sống thần Hang Dơi”
- Không gian thề nguyền: Khi thề nguyền trong ca dao thường dùng những yếu tố hiện
thực khách quan như: trời, núi, sông, biển, … bởi vì, đây là những hiện tượng khách quan
dường như vĩnh hằng, bất biến, có tính bền vững, nổi bật, khó thay đổi. Chính sự bất biến, nổi
bật ấy của hiện thực khách quan nó được khai thác để biểu đạt sự thủy chung, không thay đổi
tình cảm của con người trong ca dao; “Bao giờ cạn nước Đồng Nai, Nát chùa Thiên Mụ không
sai lời nguyền” hay “Bao giờ núi Ngự hết cây, Sông Hương hết nước đó với đây hết tình”: …

v.v. Trong một số trường hợp, yếu tố thiên nhiên bất biến ấy xảy ra hiện tượng thay đổi thì
tình cảm của chủ thể trữ tình bài ca dao vẫn được khẳng định quyết liệt hơn, bất biến hơn:
“Bao giờ cạn nước Đồng Nai, Nát chù Thiên Mụ mới sai lời nguyền”, hay “Anh thề có ánh
trăng đây, Núi kia có lở tấm lòng này vẫn nguyên”.
Yếu tố thiên nhiên được mượn dùng làm chứng nhân cho lời hẹn thề tình duyên còn đặt
trên một cơ sở khác nữa là phải nổi bật hơn cùng loại. Sông phải là sông lớn nhất, núi phải là
núi cao nhất , nổi tiếng nhất trong vùng. Không ai lấy sông, núi vừa phải, nhỏ bé không nổi
tiếng để thề hẹn tình duyên.
- Không gian đối lập: Khi trong một bài ca dao có hai yếu tố không gian mang những đặc
điểm trái ngược nhau được đặt bên cạnh nhau nhằm thể hiện nội dung đối kháng hoặc trắc trở,
éo le trong quan hệ tình cảm đôi lứa. Ta gọi đó là không gian đối lập. Có thể quy không gian
đối lập về các dạng sau:
+ Đối Lập về khoảng cách: là sự đối lập giữa không gian gần – xa.
VD, “Gần nhà xa ngõ nên khó đi thăm, Hẹn sang 14 sao rằm chưa sang”
+ Đối lập về phương hướng:
VD, “Tìm en như thể tìm chim, Chim bay bể Bắc anh tìm bể Nam”
Thi pháp Văn học Dân Gian - 7 -
Nguyễn Thanh Hải – Lớp ĐHSPNgữ văn - ĐHPY
+ Đối lập về Phẩm chất:
VD, “Giếng Yên Thái vừa trong vừa mát, Đường Yên Thái gạch lát dễ đi, Em về bên ấy
làm chi, Nước giếng thì đục đường đi thì lầy”.
-Không gian xã hội: là không gian dung chứa những quan hệ của nhân vật trữ tình
trong xã hội. Dù tác phẩm chỉ có một nhân vật nhưng chủ thể vẫn hướng về một đối tượng
khác vắng mặt. Hay nói cách khác, trong ca dao còn chứa đựng một lớp không gian xã hội.
Đó là không gian phổ biến trong văn học. Nó chứa đựng các mối quan hệ xã hội, các mối
quan hệ giữa các tầng lớp người trong xã hội với nhau. Các mối quan hệ này tạo nên nội
dung tâm tình, nội dung đấu tranh của ca dao dân ca Việt Nam. Đọc một bài ca dao nào ta
cũng thấy rõ nét hoặc tiềm tàng một mối quan hệ giữa chủ thể trữ tình với khách thể. Đó là
quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể hay tập thể với tập thể,… Trong
những câu hát than thân hay trong tiếng hát yêu thương, tiếng hát nghĩa tình, nhất là những

câu hát giao duyên không gian xã hội ấy trở thành thứ không gian chuyển tải tâm trạng.
* Chiều không gian nghệ thuật được xác định bởi:
+ Điểm nhìn của chủ thể. Hướng nhìn của chủ thể thường thông qua những từ ngữ chỉ
phương hướng hoặc thông qua việc miêu tả vật thể được nhìn, ngắm,….
+ Khi tác giả dân gian mượn không gian mượn không gian rộng lớn dể miêu tả thì
bao giờ những bài ca dao ấy cũng đầy bất trắc, éo le.
+ Kho sử dụng không gian cao rộng mà tươi sáng thì đó là những bài ca vui tươi và
ngược lại.
7/.Thời gian nghệ thuật của Ca dao:
Trả lời:
Từ những vấn đề về thời gian nghệ thuật trong văn học, chúng ta có thể nhận ra một số
thời gian nghệ thuật trong ca dao như sau:
- Thời gian nghệ thuật trong ca dao phần lớn là thời gian hiện tại – thời gian diễn
xướng (bao giờ diễn xướng cũng nằm ở thời gian hiện tại), hay nói cách khác là thời gian của
chủ thể sáng tạo cũng đồng thời là thời gian diễn xướng và cũng đồng thời là thời gian của
người tiếp nhận. thời gian đó chính là thời gian hiện tại.
Trong ca dao, có hai bộ phận có và không có từ biểu thị thời gian:
+ Bộ phận ca dao có từ biểu thị thời gian: trong bộ phận này thường xuất hiện một số
trạng ngữ chỉ thời gian hiện tại như: Hôm qua, hôm nay, bây giờ, sáng, trưa, chiều, một mai,
khi xưa, hôm qua, đêm qua, … VD, “Bây giờ ta gặp nhau đây, Như con cá cạn gặp ngày trời
mưa”, “Hôm nay sum họp trúc mai, Tình chung một khắc, nghĩa dài trăm năm”. Hay “Nào khi
gánh nặng em chờ, Qua truông em đợi, bây giờ phụ em”, …
Thời gian hiện tại còn dược biểu thị qua một số từ láy chỉ thời gian như: ngày ngày, đêm
đêm,…
VD, “Chiều chiều ra đứng ngõ sau, Nhớ về quê mẹ chín chiều ruột đau”, hay “Đêm đêm
chớp bể mưa nguồn, Hỏi người quân tử có buồn hay không”,…
Trong ca dao chúng ta thấy không có thời gian của quá khứ hoặc tương lai chỉ có hiện tại
liên tục diễn ra để chủ thể trữ tình bộc bạch nỗi niềm hoặc một tâm trạng nào đó. Những từ láy
này có tác dụng diễn tả quá trình của sự việc, của một trạng thái tâm hồn, tình cảm kéo dài
trong một khoảng thời gian vô định.

Để đạt được mục đích diễn xướng trong thời điểm hiện tại người diễn xướng cần phải
mượn quá khứ làm cái cớ, cái lí do,… để phục vụ cho mục đích đang diễn ra ở hiện tại – diễn
xướng: “Hôm qua tát nước đầu đình, Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen,…” hay “Hôm qua
Thi pháp Văn học Dân Gian - 8 -
Nguyễn Thanh Hải – Lớp ĐHSPNgữ văn - ĐHPY
anh đến chơi nhà, Thấy mẹ nằm võng, thấy cha nằm giường, Thấy em nằm đất anh thương,
Anh về mua gỗ dongd giường tám thang”, … Tương tự, khi sử dụng thời gian ở tương lai, chủ
thể trữ tình cũng nhằm vào mục đích phục vụ cho những điều cần nói, cần bày tỏ ở hiện tại để
cho chắc chắn hơn, tăng thêm tính thuyết phục hơn đối với người nghe: “Bao giờ cho gạo bén
sàng, Cho trăng bén gió, cho nàng bén anh” hay “Một mai thiếp có xa chàng, Đôi bông thiếp
trả, con chàng thiếp xin”, …
+ Bộ phận ca dao không có từ biểu thị thời gian: Điều này không có nghĩa là bộ phận này
không có thời gian nghệ thuật. Ta có thể xét bài ca dao sau: “Đi mô cho thiếp theo cùng, Đói
no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam”. Tuy không có từ biểu thị thời gian nhưng bài ca dao vẫn
có thời gian nghệ thuật khi nó được diễn xướng. Vì sao như vậy?. Bất kì bài ca dao nào khi
diễn xướng thì thời gian lúc ấy chính là thời gian nghệ thuật. Khác với, việc diễn xướng của
truyện cổ dân gian là khi diễn kể chuyện thì câu chuyện là câu chuyện của quá khứ, nhân vật
trong truyện là nhân vật của quá khứ chứ không phải của người diễn xướng. Còn trong ca dao,
khi diễn xướng nhân vật trữ tình trong bài ca dao lại chính là người diễn xướng. Chính vì vậy,
thời gian diễn xướng bài ca dao chính là thời gian nghệ thuật, là thời gian hiện tại.
- Thời gian tâm lí trong ca dao: Do chức năng biểu cảm của ca dao cho nên dòng chảy
thời gian trong ca dao không phải là dòng chảy của thời gian sự kiện,tình tiết mà là dòng chảy
của cảm xúc, của tâm trạng. Trong ca dao có một loại thời gian như vậy. Đó chính là thời gian
tâm lí. Thời gian tâm lí là thời gian được đo đếm, cảm nhận bằng chính tâm trạng của tác giả.
Một bài ca dao bao giờ cũng có dấu ấn tâm trạng của cá nhân: “Xa mình, ông trời nắng tôi nói
mưa, Canh ba tôi nói sáng, trời trưa tôi nói chiều”. Hay “Tìm em đã tám hôm nay, Hôm qua
là tám, hôm nay là mười”. Mói nghe, chúng ta tưởng như hợp lí nhưng nghĩ kĩ lại thì hóa ra
lẫn lộn trước sau. Nhân vật trữ tình đếm thời gian một cách kì lạ. Thời gian của hiện thực bao
giờ cũng theo một chiều: Sáng-trưa-chiều-tối-khuya không đảo ngược. Nhưng khi thời gian
đo, đếm bằng tâm trạng chủ quan nào đó thì nó lại khác đi, có khi bị đảo ngược, phi lí; “trưa”

nói thành “chiều”, “khuya” nói thành “sáng”; Hay hôm qua là “tám” thì hôm nay phải là
“chín” cớ sao lại là “mười” được. Ở đây, phải chăng vì tâm trạng sầu muộn, tương tư, trông
ngóng đến khắc khoải vì cách trở, chia xa của nhân vật trữ tình làm cho nhân vật trữ tình cảm
nhận và đo, đếm thời gian không được chính xác. Vì vậy, thời gian được “Đo”, ‘Đếm” bởi tâm
trạng như trong bào ca dao trên là thời gian của tâm trạng nên nó chính là thời gian tâm lí .
- Thời gian đối lập: Trong ca dao còn có một lớp thời gian khá nổi bật đó là thời gian đối
lập. Đối lập cũng được xem là một công thức miêu tả thời gian.
Để tạo sự đối lập về thời gian, tác giả thường dùng các cặp từ: Khi xưa-bây giờ, khi đi-khi
về, nào khi-bây giờ, xưa kia-bây giờ, … Công thức chung là Quá khứ-hiện tại. cặp thời gian
đối lập trong quan hệ này vừa cho thấy trong bài ca dao có sự vận động đổi thay của thời gian
tự nhiên khách quan. Dòng chảy này phù hợp với dòng chảy của tự nhiên. Thuận chiều: qua
khứ-hiện tại. và vừa chuyển tải nội dung quan trọng đó là nói về sự thay đổi theo thời gian của
mọi vật, ngay cả với con người. Bài ca dao dù có nói đến ẩn dụ gì thì người nghe cũng thấy
cuối cùng là nói đến sự thay đổi tình cảm ở đối tượng trữ tình. Chủ thể trữ tình bao giờ cũng là
người phát hiện ra sự đổi thay tình cảm ở đối tượng: “Khi xưa một hẹn thì nên, Bây giờ chín
hẹn anh quên cả mười”; Hay “Nào khi anh bủng anh beo, Tay tôi cầm chén thuốc tây tôi đèo
múi chanh, Bây chừ anh khỏe anh lành, Anh mê nhan sắc anh đành phụ tôi”; …
Sự đối lập ở hai thời điểm đã làm nổi rõ những đổi thay không chỉ ở cảnh mà còn cả ở
người: thay đổi số phận, hoàn cảnh, tính tình, và quan trọng nhất là thay đổi tình cảm. Đa số
bài ca dao đều nói đến sự đổi thay tình cảm. Điều này khiến cho chủ thể trữ tình bâng khuâng,
hụt hẫng, xốn xang. Sự đối lập đã giúp cho việc thể hiện tâm trạng đạt hiệu qur cao.
Thi pháp Văn học Dân Gian - 9 -
Nguyễn Thanh Hải – Lớp ĐHSPNgữ văn - ĐHPY
-Thời gian thề nguyền: Cũng dùng công thức miêu tả thời gian để thể hiện tâm trạng. ta
có các công thức như sau:
+ Công thức miêu tả thời gian “Trăm năm”: Những con số trên trong ca dao không phải
là những con số chính xác mà là những đại lượng thời gian có tính ước lệ là thời gian của một
đời người với ý nghĩa vĩnh hằng, trường cửu. Nhàm biểu đạt sự thủy chung, son sắc cả một đời
người. Ta có thể bắt gặp trong ca dao vô số những bài có kiểu công thức này: “Trăm năm
tượng rách còn thờ, Nào ai phụ ngãi quên tình mặc ai”, “Trăm năm dẫu lỗi hẹn hò, Cây đa

bến cũ con đò vẫn đưa”, … Ca dao thường lấy thời gian dài lâu, thời gian một đời người để
nói lên tình cảm gắn bó, keo sơn, bền vữn, thủy chung của chủ thể trữ tình. Đây là công thức
thời gian có tính truyền thống trong ca dao. Nó thường kế hợp với các từ chỉ sự thề nguyền:
Thề, ước, nguyện, ghi tạc chữ đồng, hẹn hò, sông cạn đá mòn,… tất cả đều thề hẹn thủy
chung, biểu hiện tình yêu son sắc. Thời gian này được gọi là lớp thời gian thề nguyền. Tác giả
dân gian lấy thời gian đời người - cả cuộc đời để hẹn thề tình yêu với đối tượng. “Trăm năm”
do vậy trở thành minh chứng cho mối tình thủy chung của nam nữ trong ca dao.
+ Công thức miêu tả thời gian “đêm khuya”:
Những bài ca dao bắt đầu bằng “đêm khuya”, “đêm năm canh”, “đêm nằm, “đêm qua”,…
thì bức tranh cảnh vật trong bài thường là gió bấc, mưa phùn, chớp bể mưa nguồn, nguyệt lặn ,
trăng tà, gió lọt song thưa, buồng không chiếu lạnh,… còn nhân vật trữ tình thì ngồi tựa bóng
trăng, thắp dĩa dầu hao, ngỏ cửa chờ ai, ôm gối trở mình, thơ thẩn vào ra,… Nói chung là họ ở
trong tâm trạng sầu muộn, hoàn cảnh cô đơn, trong ngóng, chờ đợi, buồn bã,…Không có niềm
vui, không có hạnh phúc chung đôi,… là đặc điểm chung của lớp thời gian này trong ca dao:
“Đó có đôi ăn rồi lại ngủ, Đây có một mình thức đủ năm canh”. Đêm ở đây trở thành thời gian
độc chiếm của những tâm trạng cô đơn, bất hạnh trong ca dao.
+ Công thức miêu tả thời gian “đêm trăng thanh”:
Trăng thanh, trăng tỏ, trăng tròn, trăng rằm,… là những hình ảnh chỉ thời khắc đêm mới
đến, trăng mới lên. Kết hợp với nó là không ian thơ mộng, rạng rỡ, thanh mát, tất cả gợi cho
con người bao điều mơ ước cần bộc bạch, giải bày,, ngỏ ý trao lời với nhau. Trong công thức
này ta thường thấy chủ thể trữ tình không đơn chiếc, chủ thể trữ tình và đối tượng luôn có
nhau, trò chuyện, tâm tình, hạnh phúc: “-Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng, Tre non nửa lá
đan sàng nên chăng, -Đan sàng thiếp cũng xin vâng, Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng”, hay
“Trăng rằm đã tỏ lại tròn, Củ lang đất cát đã ngon lại bùi, Em gặp anh đây đã khỏe lại vui,
Tam tứ sầu giải hết mặt tươi như thường”.
* Ở 2 lớp thời gian “đêm khuya” và “đêm trăng thanh”, tác giả dân gian đã có ý thức lựa
chọn 2 yếu tố thời gian khác nhau: “đêm khuya” và “đêm trăng thanh” để diễn tả 2 hoàn cảnh,
2 cung bậc tình cảm khác nhau một cách rõ ràng trong ca dao. Nó trở thành một nguyên tắc thi
pháp mang tính ước lệ giúp cho việc sáng tác, ứng đối trong các cuộc hò hát giao duyên trở
nên dễ dàng, nhanh chóng. Đương nhiên có khi trong ca dao vẫn có những ngoại lệ nhất định

nào đó.
+ Công thức miêu tả thời gian “chiều chiều”: Một công thức cũng khá phổ biến và có sắc
thái riêng đó là công thức miêu tả thời gian “chiều chiều”. Thời gian này thường gắn với bức
tranh cảnh vật quen thuộc như: “ngõ sau”, “bờ mương”, “chim vịt kêu chiều”,…Còn nhân vật
trữ tình thường mang tâm trạng buồn, trông ngóng, hoài vọng khắc khoải: “Chiều chiều ra
đứng ngõ sau, Trông về que mẹ ruột đau chín chiều”, Hay “Chiều chiều mây phủ Sơn Trà,
Lòng ta thương bạn nước mắt và lộn cơm”, “Chiều ciều mây kéo về kinh, Ếch kêu giếng cạn
thảm tình đôi ta”, … Buổi chiều thường gợi lên sự đoàn tụ, gặp gỡ trở về. Thiên nhiên, tạo hóa
như đã sắp đặt điều đó: chim về tổ, người tìm về với mái ấm gia đình,…Nhưng thời khắc này
Thi pháp Văn học Dân Gian - 10 -
Nguyễn Thanh Hải – Lớp ĐHSPNgữ văn - ĐHPY
trong ca dao lại hiện lên những con người cô đơn, xa cách gia đình, quê hương: người phụ nữ
bơ vơ nơi đất khách, quê người; người lính thú nơi biên ải,… tất cả đều hoài vọng người ta
thường đến một địa điểm nào đó để ngóng, để trông về chốn cũ. Thường những bài ca dao
thuộc loại này đều có âm điệu buồn man mác, hiu hắt, xót xa, quạnh vắng. tiếng hát như tiếng
khóc rưng rưng, càng dồn nén nó lại càng vỡ òa trong lòng.
8/.Ngôn ngữ Ca dao:
Trả lời:
Ngôn ngữ ca dao là ngôn ngữ thuần Việt, đời thường nên nó có tính chất bình dân, mộc
mạc, giản dị, dễ hiểu. đôi khi cũng có những điển tích, điển cố nhưng những điển tích, điển cố
đó cũng rất gần gũi, quen thuộc và dễ hiểu. ngôn ngữ ca dao còn là ngôn ngữ giãi bày, trò
chuyện thường mang bản chất của khẩu ngữ, thường dùng các thán từ như: “chàng ơi!”, “than
ôi”,…
Ngôn ngữ ca dao thường là những lời độc thoại, đối thoại của nhân vật trữ tình. Như vậy,
ngôn ngữ ca dao là ngôn ngữ giao tiếp sinh hoạt hằng ngày được chuyển hóa vào thơ ca. VD,
“Thò tay mà ngắt ngọn ngò, Thương em đứt ruột giả đò làm ngơ”. Hay “Khoai lang Suối Mít,
đậu phộng Hòn Dung, Chàng đào thiếp mót bỏ chung một gùi” (ca dao Phú Yên). Chính vì
thế, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng thơ ca dân gian là thơ điệu nói.
Ngoài ra, trong kho tàng ca dao còn có sự đóng góp một phần nhỏ của những nhà Nho là
những người có học hành nhưng lại không đỗ đạt. điều này được minh chứng qua một số câu

ca dao có sử dụng điển tích, điển cố, ngôn ngữ được trau chuốt.
Tuy mộc mạc, dễ hiểu nhưng ngôn ngữ ca dao không hề thô thiển, vụng về như ngôn ngữ
Vè. Chính vì thế mà ca dao có sức biểu cảm, chính xác trong việc biểu hiện tình và ý của nhân
vật trữ tình. Mặt khác, ngôn ngữ ca dao là một thứ ngôn ngữ bóng bẩy, mượt mà, nhuần nhụy
trong việc diễn đạt tình và ý. Điều này thể hiện năng lực lựa chọn việc cấu tạo từ ngữ rất độc
đáo để tạo nên hiệu quả diễn đạt của tác giả dân gian. VD, “Gánh cực mà đổ lên non, Còng
lưng mà chạy cực còn chạy theo”, hay “Lấy chồng từ thủa hồi thu, Mắc chi mà ra bến ngồi
ru nỗi buồn”,…
Ngoài những tính chất trên, ngôn ngữ ca dao còn là một thứ ngôn ngữ phong phú, chính
xác và cụ thể. Ca dao có thể diễn đạt mọi khía cạnh, ngóc ngách của cuộc sống, của thế giới tự
nhiên, của đời sống tình cảm con người. Điều này ta có thể bắt gặp rất nhiều trong các bài ca
dao. VD, chỉ với từ “Nước” ta có thể bắt gặp các cách diễn đạt khác nhau như: nước chảy,
nước nằm, nước đứng, nước ròng, nước lớn, nước lững lờ,… hay “Gió” thì có gió mạnh, gió
nồm, gió hiu hiu, gió nồm non,… VD, “Nước sông lững đững lờ đờ, Thương thời nói vậy biết
có chờ hay không” hay “Gió thổi re re, cây tre …, Anh có thương em từ biệt chốn này”, “Gió
Nam non thổi lòn hang chuột, Em có chồng rồi…”; ….
THI PHÁP TRUYỆN CỔ TÍCH
9.Cốt truyện Cổ tích:
Trả lời:
Cốt truyện là hệ thống những biến cố, hành động, những sự kiện,…tạo thành những bộ
phận quan trọng của câu chuyện nhằm chuyển tải nội dung của câu chuyện. Những biến cố đó
là những sự kiện bất thường được chia làm 6 phần:
Giới thiệu: là phần mở đầu ở đây chưa có biến cố, xung đột xảy ra
Phần thắt nút: Thường là một biến cố quan trọng. Đây là nút mở đầu cho chuỗi biến cố sẽ
xảy ra ở phần sau
Thi pháp Văn học Dân Gian - 11 -
Nguyễn Thanh Hải – Lớp ĐHSPNgữ văn - ĐHPY
Phần phát triển: là phần trung tâm của câu chuyện. Phần này là chuỗi biến cố xảy ra theo
trục thời gian, các biến cố có mức độ tăng dần đến một biến cố căng thẳng, quyết liệt nhất.
Phần đỉnh điểm: (còn gọi là cao trào) Đây là phần giải quyết mâu thuẫn, xung đột.

Phần kết thúc: (còn gọi là phần mở nút) Đây là phần giải quyết số phận của nhân vật.
Phần vĩ thanh: là phần bài học được rút ra từ câu chuyện.
Từ những đặc điểm của cốt truyện trên ta có thể nêu ra những đặc điểm của cốt truyện cổ
tích như sau:
Truyện cổ tích cũng có đầy đủ 6 phần cơ bản của cốt truyện như đã nêu trên.
Truyện cổ tích thường ngắn gọn, đơn giản, ít tình tiết, biến cố. Vì vậy, cốt truyện cổ tích
thường đơn giản, sơ lược, khuôn mẫu.
Cốt truyện cổ tích thường xây dựng trên cơ sở cuộc đời của nhân vật Chính diện.
Những xung đột tạo nên biến cố trong cốt truyện cổ tích có thể xảy ra trong phạm vi gia
đình, xã hội nhưng cũng có khi chuyển từ phạm vi gia đình ra ngoài xã hội. Những biến cố ấy
có mức độ đơn giản đến phức tạp, có khi chuyến sang gây cấn, quyết liệt.
Ví dụ: Trong truyện : “Cây khế”;
Truyện : “Tấm Cám”
10/.Thời gian nghệ thuật truyện Cổ tích:
Trả lời:
Thời gian nghệ thuật truyện Cổ tích là lớp thời gian quá khứ có tính chất Cố sự thể hiện
rõ nhất là cụm từ mở đầu truyện: “Ngày xưa, …” hay “Ngày xửa, ngày xưa,… ”. Quá khứ
trong truyện cổ tích là quá khứ “phiếm chỉ”. Điều này cũng làm cho truyện cổ tích có tính chất
“Phiếm chỉ” khác với truyền thuyết là thời gian được xác định cụ thể. Đó là thời gian của lịch
sử.
Không chỉ có quá khứ “Phiếm chỉ” mà thời gian trong truyện cổ tích còn là thời gian “mặc
định”. Khi cắt bỏ thời gian ở phần giới thiệu thì các biến cố của nội dung câu chuyện xảy ra là
thời gian hiện tại hay còn gọi là thời gian khách quan. Vì vậy, nhân vật trong truyện cổ tích
bao giờ cũng hành động trong hiện tại mặc dù mọi hành động của nhân vật, mọi diễn biến của
sự kiện, tình tiết lại vận động, gói gọn trong thời gian quá khứ “ngày xửa, ngày xưa” ấy. Thời
gian của cổ tích là quá khứ nhưng hành động của nhân vật được kể luôn là hiện tại. một thứ
hiện tại trong quá khứ. Đó là thứ thời gian kéo dài và liên tục. khi nào sự kiện kết thúc thì thời
gian mới dừng lại, chấm dứt. Do vậy, thời gian của truyện cổ tích là thời gian “mặc định”.
Thời gian trong truyện Cổ tích có thể nhanh hoặc chậm tùy theo nhịp điệu trần thuật về
những biến cố đã được lựa chọ, xắp xếp của người kể chuyện. do vậy không có sự quy đảo về

thời gian. Nhân vật được giới thiệu là được tác giả dân gian đạt vào trục đối kháng, mâu thuẫn
và cứ thế trôi theo dòng sự kiện ấy, không cảm nhận thời gian theo cảm xúc chủ quan. Vì thế,
nhân vật của truyện cổ tích khi đứng trước những biến cố có những hành động cụ thể, không
quay lại để hồi tưởng, băn khoăn, không ưu tư, suy nghĩ,… không có biểu hiện của tâm trạng.
Ví dụ trong truyện “Tấm Cám” cô Tấm có rất nhiều lần đã khóc. Nhưng việc “khóc” của cô
Tấm không phải nằm trong một tâm trạng gì cả mà đó chỉ là một hành động “khóc” như mọi
hành động khác trong truyện mà thôi. Cũng chính vì thế mà trong truyện cổ tích không bao giờ
có thời gian “Tâm lí” (tâm trạng). Và khi câu chuyện kết thúc là khi hành động đối kháng
được giải quyết./.
11/.Không gian nghệ thuật truyện Cổ tích:
Trả lời:
Thi pháp Văn học Dân Gian - 12 -
Nguyễn Thanh Hải – Lớp ĐHSPNgữ văn - ĐHPY
Nếu thời gian nghệ thuật truyện cổ tích là thời gian “Phiếm chỉ” thì không gian nghệ thuật
truyện Cổ tích là không gian định lượng, không xác định, mơ hồ và phiếm chỉ. Điều này dề
nhận thấy trong những yếu tố biểu thị không gian ở phần mở đầu truyện đó là: …”tại một làng
nọ”,….”vùng đất kia”, …”nhà kia”, …Những yếu tố chỉ không gian này được nhắc đến như
một khái niệm, một ý niệm về không gian chứ không được miêu tả một cách cụ thể. Ngoài ra,
công việc, hành động của nhân vật gợi cho chúng ta thấy được không gian của truyện cổ tích
là không gian của làng quê nhưng cũng không được mô tả cụ thể. Qua nhiều chi tiết được nhắc
đến đã gợi ra khung cảnh làng quê như: mò cua, bắt cá, chăn trâu, đốn củi, cày ruộng, giữ
ruộng, trèo cau, dệt vải, làm rẫy, chèo đò, đi hội làng,… Không gian này làm cho truyện cổ
tích gần gũi, thân thuộc với người nghe, làm cho người nghe dễ đồng cảm với nhân vật bất
hạnh trong câu chuyện.
Nếu ở trên là lớp Không gian trần thế - không gian “phiếm chỉ” thì không gian nghệ
thuật truyện cổ tích còn có một lớp không gian nữa đó là lớp không gian thần kì , kì ảo –
không gian không cản trở. Không gian này dung chứa các yếu tố thần kì của truyện cổ tích.
Không gian thần kì mang yếu tố hư ảo, xa lạ đối với con người. So với không gian phiếm chỉ -
không gian trần thế thì không gian thần kì còn được gọi là không gian không cản trở.
Nhân vật trong truyện cổ tích nhất là cổ tích thần kì, con người gần như không già đi,

không ốm đau, không thất bại trước một thế lực phản diện nào,… thậm chí họ còn có thể biến
hóa vào thế giới của muôn loài. Vì thế, nhân vật cổ tích sống trong không gian ấy nên làm
được nhiều chuyện phi thường mà con người thật không bao giờ làm được như Thạch Sanh
đánh đàn tuy không học đàn, xuống thủy cung,…trong truyện “Thạch Sanh” hay cô Tấm biến
hóa thành chim, thành cây, thành quả,… trong truyện “Tấm Cám”
Trong truyện cổ tích hai lớp không gian hiện thực và không gian thần kì đan xen lẫn nhau.
Nhân vật cổ tích đi về giữa hai lớp không gian ấy, giữa hai cõi mơ và thực. nó không hoàn
toàn là hiện thực và cũng không hoàn toàn là mơ. Chuyện của cổ tích luôn chuyển hóa linh
hoạt giữa mơ và thực, thực và mơ. Từ những yếu tố không gian nghệ thuật cổ tích đã nêu, ta
có thể khẳng định: không gian nghệ thuật cổ tích không có không gian tâm lí (tâm trạng)./.
12/. Nhân vật truyện Cổ tích:
Trả lời:
Nhân vật trong truyện cổ tích rất đa dạng, phong phú và sinh động. Nó phản ánh hầu như
toàn bộ mọi hạng người, mọi loại nghề nghiệp trong xã hội. Nhân vật cổ tích còn là nhân vật
của các quan hệ gia đình, thân tộc, xã hội. Nhân vật xuất hiện trong cổ tích bao giờ cũng nêu
lên những mâu thuẫn trong quan hệ xã hội, quan hệ gia đình,…
Dù có đa dạng và phong phú, nhưng nhân vật trong truyện cổ tích được phân tuyến và chia
làm hai tuyến nhân vật chính đó là: tuyến nhân vật chính diện và tuyến nhân vật phản diện.
hai tuyến nhân vật này tiêu biểu cho hai lực lượng chính trị đối lập nhau trong xã hội đó là:
thống trị - bị trị; Thiện- Ác; Cao cả - Thấp hèn; Tốt – Xấu,… Điều này cho thấy
sự đối lập là một nguyên tắc thi pháp nhân vật truyện cổ tích thống nhất trong việc biểu hiện
nội dung, tư tưởng, quan niệm đạo đức, thẩm mĩ của tác giả dân gian
Nhân vật được phân thành hai tuyến rạch ròi ngay từ đầu truyện Nhân vật trong cổ tích
không có hiện tượng đổi tuyến. Nhân vật của hai tuyến luôn được đặt trong thế đối lập, xung
đột, mâu thuẫn với nhau. Đây là nguyên tắc xây dựng nhân vật đối tuyến của truyện cổ tích.
Trong truyện, khi các nhân vật đã được phân tuyến thì dù các nhân vật ấy đấu tranh, xung đột,
hay mâu thuẫn thì chỉ phát triển trong tuyến nhân vật của mình mà không bao giờ đổi tuyến.
Hay nói cách khác, nhân vật tốt thì luôn luôn tốt, nhân vật xấu thì luôn xấu, nhân vật ác thì
Thi pháp Văn học Dân Gian - 13 -
Nguyễn Thanh Hải – Lớp ĐHSPNgữ văn - ĐHPY

luôn ác,…Điều này làm nhân vật cổ tích không giống với con người trong cuộc sống thực. đó
chỉ là những khuôn mẫu đã định sẵn để thể hiện một mục đích, lí tưởng hay một bài học luân lí
nào đó, … v.v.
Nhân vật trong truyện cổ tích còn là nhân vật cực tuyến. Nhân vật cổ tích thường được
đẩy đến cực điểm của một tính chất nào đó. Thường thì rất tốt, rất thiện hoặc rất ác, rất xấu,…
Việc xây dựng nhân vật cực tuyến còn được xem là một thủ pháp nghệ thuật. đó là nhân vật
được phóng đại, hư cấu theo tình cảm yêu hay ghét mãnh liệt và chủ quan của tác giả dân gian.
Nhân vật trong truyện cổ tích còn là loại nhân vật chức năng. Loại nhân vật này là kiểu
nhân vật phổ biến của cổ tích thần kì. Đó là những nhân vật có đặc điểm phẩm chất cố định
không thay đổi từ đầu cho đến cuối truyện, không có đời sống nội tâm, sự tồn tại và hành động
của nhân vật chỉ nhằm thực hiện một số chức năng nhất định nào đó.
Nhân vật trong truyện cổ tích là nhân vật phiếm chỉ. Không chỉ nhân vật chức năng không
có đời sống nội tâm mà các nhân vật khác trong truyện cổ tích đều như thế. Trong truyện cổ
tích cũng không miêu tả nội tâm nhân vật. ta không biết nhân vật nghĩ gì, vì không hề có biểu
hiện của nội tâm. Nhân vật cổ tích chỉ hành động. Thực hiện hết hành động này đến hành động
khác bao giờ đạt được mục đích thì mới dừng lại và truyện kết thúc. Như vậy, nhân vật không
có cá thính cụ thể, mỗi nhân vật thực hiện một chức năng đã định sẵn, mang một nét tính cách
định sẵn, không có sự phát triển tính cách nên ta có thể gọi đó là nhân vật tính cách.
THI PHÁP TỤC NGỮ
13/. Khái niệm về tục ngữ:
Trả lời:
Theo ông Dương Quảng Hàm, trong “Việt Nam văn học sử yếu”: “Tục nữ (tục: thói quen
đã có lâu đời, ngữ: lời nói.) là những câu nói gọn ghẽ và có ý nghĩa lưu hành tự đời xưa, rồi do
cửa miệng của người đời truyền đi”. Đây là một trong những định nghĩa về Tục ngữ xuất hiện
sớm. Tuy chưa thật sự đầy đử các đặc trưng nhưng cũng đã nêu được một số đặc điểm cơ bản
của Tục ngữ.
Một định nghĩa khác trong giáo trình “Lịch sử văn học Việt Nam”(tập1): Tục ngữ là câu
nói thường ngắn gọn có vần hoặc không có vần, có nhịp điệu hoặc không có nhịp điệu đúc kết
kinh nghiệm sản xuất hay đấu tranh xã hội, rút ra một chân lí phổ biến, ghi lại một nhận xét về
tâm lí, phong tục tập quán của nhân dân, tục ngữ do nhân dân sáng tác và được toàn thể xã hội

công nhận. Hay, gần đây trong giáo trình “Văn học dân gian” (tập 2) của cố giáo sư Hoàng
Tiến Tựu diễn đạt lại định nghĩa về Tục ngữ đã nêu ở trên, gọn hơn: “ Tục nữ là thể loại
VHDG nhằm đúc kết kinh nghiệm, tri thức, nêu lên những nhận xét, phán đoán, lời khuyên răn
của nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, giản dị súc tích, có nhịp điệu, dễ nhớ, dễ
truyền”.
Những định ngĩa về tục ngữ càng về sau càng đầy đủ, nêu lên được những tính chất vốn có
của thể loại. Điều đó cho thấy các nhà nghiên cứu VHDG đã khám phá ra nhiều đặc trưng
mang tính khu biệt, từ đó cho chúng ta cái nhìn đúng đắn hơn về tục ngữ.
Tuy nhiên, các định nghĩa nêu trên còn chưa chú ý đến chức năng cũng như mục đích của
tục ngữ. Tục ngữ còn có chức năng thông báo. Thông báo một nội dung tri thức và nhằm để
đạt được một mục đích nào đó trong quá trình giao tiếp của con người như: truyền đạt kinh
nghiệm; giáo huấn một điều tốt, răn đe, hạn chế cái xấu; bày tỏ thái độ, quan niệm, chính kiến
trước một hiện tượng nào đó; tăng tính lập luận khi trình bày một vấn đề,. một sự việc, một sự
biện giải mà không cần giải thích, biện luận nhiều lời,…
Thi pháp Văn học Dân Gian - 14 -
Nguyễn Thanh Hải – Lớp ĐHSPNgữ văn - ĐHPY
Từ những vấn đề đã nêu trên, ta có thể đi đến một khái niệm về tục ngữ như sau: Tục ngữ
là những câu nói ngắn gọn, xúc tích, có vần, có điệu nằm trong lời ăn, tiếng nói hằng ngày
nhằm truyền đạt những phán đoán của con người về thế giới tự nhiên và xã hội.
Tục ngữ là một trong những thể loại ra đời sớm. tuy nhiên cho đến ngày nay tục ngữ vẫn
phát triển. VD, “Hàng giả, vạ thật”, “Hàng bày không bán, hàng bán không bày”, là những
câu nói mới xuất hiện trong thời đại ngày nay.
Mặt khác, tục ngữ thường có tính chuyển nghĩa. Ban đầu tục ngữ chỉ có một nét nghĩa
nhưng trong quá trình giao tiếp, lưu truyền nó nảy sinh ra những nét nghĩa mới. VD, “Lạt mềm
buộc chặt”: nghĩa ban đầu là “lạt mỏng thì dễ buộc và buộc mới chặt” nhưng trong quá trình
lưu truyền nó lại mang thêm nét nghĩa mới là “Trong quan hệ, ứng xử với nhau phải “mềm
mỏng” thì dễ thành công”.
14/. Đặc điểm thi pháp của Tục ngữ:
Trả lời:
- Câu tục ngữ mang tính ngắn gọn, xúc tích và bền vững bao giờ cũng có tính khái quát

cao. Tục ngữ là loại câu rút gọn, gạt bỏ những từ đệm, những quan hệ từ, có khi còn tỉnh lược
cả bộ phận ngữ pháp chính của câu: “Vụng chèo khéo chống”, “Còn nước còn tát”, …
Tính ngắn gọn, cô đúc là một đặc điểm nổi bật. Tục ngữ càng dài càng xa với đặc trưng của
thể loại và khi dài đến một mức độ nào đó thì nó hết tính tục ngữ mà hóa thành ca dao. Do cô
đúc về mặt từ ngữ nên ý nghĩa càng xúc tích và kết cấu trở nên chặt chẽ, bền vững. tục ngữ có
thể được vận dụng vào nhiều ý. Khi lời càng ít, tính khái quát càng cao, tính hàm ý càng sâu
làm cho tục ngữ có thể được vận dụng vào nhiều hoàn cảnh khác nhau. Hình thức ngắn gọn
của tục ngữ còn do yêu cầu truyền miệng, đồng thời nó cũng thể hiện một cách nói, một cách
nghĩ của nhân dân, của dân tộc Việt Nam.
- Tính vần của tục ngữ: khá phong phú và đa dạng. Tục ngữ có thể sử dụng tất cả các vần
mà thơ ca dân gian hiện có. Nhưng đặc biệt là vần Bằng và vần Trắc: “Quan tha ma bắt”, “Ăn
chắc mặc bền”, “Miệng ông cai vai đầy tớ”, “Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống”,…
Vần còn có thể là vần liền hoặc vần cách . VD, “Khôn cho người ta dái (sợ, kiêng nể), dai cho
người ta thương, dở dở ương ương tổ người ta ghét”, … Tuy nhiên cũng có một số câu không
có vần. nhất là những câu chỉ có một vế. Vần là yếu tố giúp các từ trong tục ngữ liên kết chặt
chẽ lại với nhau làm cho câu tục ngữ trở nên dễ nhớ, dễ thuộc.
- Tính nhịp điệu của tục ngữ: Ngoài vần, nhịp điệu cũng là yếu tố quan trọng làm tăng
tính bền vững và giá trị nhạc điệu cho Tục ngữ. Nhịp có tác dụng làm cho dễ nói, nhất là
những câu không có vần hoặc câu dài. VD, “Tre già măng mọc”, “Người khôn của khó”,
“Sống lâu lên lão làng”,… Nhịp trong tục ngữ thường là nhịp 2/2 hoặc 4/4, hay cân đối 3/3,…
nhịp điệu còn được tổ chức nhờ vào tính đối lập của các yếu tố thanh điệu (đối thanh), kết hợp
đối ý nghĩa (đối ý) để thể hiện tính hòa đối của các mệnh đề được so sánh với nhau.
Ngững câu tục ngữ chỉ có một vế, sự ngắt nhịp cũng rất linh hoạt. VD, “Cái khó/bó cái
khôn”, “Không tiền / nói chẳng ra khôn”, “Cà cuống / chết đến đít còn cay” hay “Cà cuống
chết đến đít / còn cay”,…
Việc ngắt nhịp ở tục ngữ cúng góp phần chuyển tải nội dung, ý nghĩa. Vì thế, ngắt nhịp
đúng sẽ giúp ta hiểu đúng ý ngĩa của câu tục ngữ và ngược lại.
- Các biện pháp tu từ của tục ngữ: Ngoài một bộ phận Tục ngữ là những nhận xét, phán
đoán, kinh nghiệm được xây dựng bằng cách miêu tả trực tiếp sự kiện, hiện tượng tự nhiên, xã
hội. Phần lớn Tục nữ có sử dụng những biện pháp tu từ quen thuộc như: So sánh, ẩn dụ, hoán

dụ, ngoa dụ, nhân hóa,…VD, “Gái có chồng như rồng có vây” (SS), “Có khế ế chanh” (ẩn dụ),
Thi pháp Văn học Dân Gian - 15 -
Nguyễn Thanh Hải – Lớp ĐHSPNgữ văn - ĐHPY
“Miệng ăn núi lở” (ngoa dụ), “Tay làm hàm nhai” (hoán dụ), “Cái nết đánh chết cái đẹp”
(nhân hóa),…
Chính vì nhờ các biện pháp tu từ mà lối nói của Tục ngữ tuy ngắn nhưng vẫn sinh động;
tuy truyền đạt kinh nghiệm lí trí vẫn có nhiều lời ví von đẹp đẽ. Tục ngữ phần nào vẫn có hình
tượng. Tuy chỉ là hình tượng ngôn ngữ nhưng nhờ đó mà tục ngữ nói được nhiều ý niệm trừu
tượng, nói được cái phổ biến bằng cái cụ thể cô đọng, ngắn gọn.
15/. Kết cấu của tục ngữ:
Trả lời:
Có 2 loại kết cấu đó là: kết cấu đơn giản và kết cấu phức hợp.
Kết cấu đơn giản là những câu tục ngữ chỉ có một vế, một phán đoán đơn giản nêu một ý
tưởng, một nhận xét,…. VD, “Gà què ăn quẩn cối xay”, “Già néo đứt dây”,…Đây là những
nhận xét thực tiễn, chưa nêu thành kinh nghiệm, phán đoán, bản thân nó chưa mang tính suy
luận.
Kết cấu phức hợp: là những câu tục ngữ có từ hai vế trở lên có quan hệ với nhau về ý
nghĩa. Vế này là cơ sở của vế kia. Qua kiểu kết cấu này ta thấy được phép suy luận, loại suy
trong bản thân tục ngữ. Mối quan hệ giữa các vế có thể quy vào 3 dạng:
- Quan hệ tương đồng (dạng suy luận tương đồng): ở dạng này, dù 2 vế đề cập đến 2 sự
việc khác nhau nhưng được đặt so sánh bên nhau, gầm hiểu giống nhau về một nội dung, ý
nghĩa nào đó. VD, “Đường đi hay tối, nói dối hay cùng”, “Miệng bà đồng, lồng chim khướu”,
“thuyền mạnh nhờ lái, gái mạnh nhờ chồng”,…
- Quan hệ đối lập (dạng suy luận tương phản): ở dạng này, 2 vế nêu lên 2 phán đoán, nhận
xét trái ngược nhau, ngầm hiểu là loại so sánh khác nhau.VD, “Của một đồng, công một nén”,
“Yêu nhau lắm, cắn nhau đau”, “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”, …
- Quan hệ nhân quả (Dạng suy luận nhân quả): Điều được nêu lên ở 2 vế có quan hệ biện
chứng. lối suy luận này có tính khoa học, chặt chẽ. Vế sau là hệ quả của vế trước. VD, “Nguồn
đục, dòng cũng đục”, “Cây ngã lá dập”, “Rút dây động rừng”,…
Tục ngữ không nhằm mục đích biện luận mà là biểu đạt những kết quả đã được biện luận,

đối chiếu kĩ càng trong thực tế cuộc sống.Tục ngữ còn là kết quả cô đọng của một quá trình
suy luận, biện giải. Do vậy, sử dụng tuch ngữ với mục đích khẳng định hoặc phủ định thì bant
thân tục ngữ là một luận cứ chắc chắn không phải bàn cãi.
Thi pháp Văn học Dân Gian - 16 -

×