Tải bản đầy đủ (.docx) (97 trang)

Các giải pháp phát triển hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh Ba Đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.72 KB, 97 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế của đơn
vị thực tập.
Tác giả luận văn
1
MỤC LỤC
2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BIDV Ngân hàng TMCP Đầu tư phát triển Việt Nam
CN Chi nhánh
DN Doanh nghiệp
KTXH Kinh tế - Xã hội
NHTM Ngân hàng thương mại
NK Nhập khẩu
TMCP Thương mại cổ phần
XK Xuất khẩu
XNK Xuất nhập khẩu
3
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Tên bảng Trang
Bảng 2.1:Tổng tài sản của BIDV Ba Đình 40
Bảng 2.2. Tình hình huy động vốn của BIDV Ba Đình 41
Bảng 2.3: Tình hình dư nợ của BIDV Ba Đình 45
Bảng 2.4. Cơ cấu cán bộ tín dụng XNK theo trình độ 53
Bảng 2.5. Doanh số cho vay xuất nhập khẩu của BIDV Ba Đình 56
Bảng 2.6. Cơ cấu doanh số cho vay tài trợ XNK của BIDV Ba Đình
theo nhóm khách hàng
57
Bảng 2.7: Thực trạng về đảm bảo tiền vay trong hoạt động tài trợ XNK
của BIDV Ba Đình


58
Bảng 2.8: Thực trạng về thu nợ và nợ quá hạn trong hoạt động tài trợ
XNK của BIDV Ba Đình
59
Bảng 2.9. Doanh số tài trợ xuất khẩu của BIDV Ba Đình giai đoạn
2009 -2013
60
Bảng 2.10. Doanh số tài trợ XK theo thời hạn cho vay
61
Bảng 2.11. Doanh số tài trợ XK theo hình thức tài trợ
62
Bản 2.12. Doanh số tài trợ NK
63
Bảng 2.13. Doanh số cho vay tài trợ NK theo thời hạn tín dụng
64
Bảng 2.14. Doanh số tài trợ NK theo hình thức tài trợ
64
4
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Tên sơ đồ, biểu đồ Trang
Hình 2.1. Sơ đồ tổ chức tại BIDV – Ba Đình 36
Biểu đồ 2.1. Doanh số cho vay tài trợ XNK giai đoạn 2009 – 2013 56
Biểu đồ 2.2. Doanh số tài trợ XK so với tổng doanh số tài trợ XNK 60
5
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kỳ kinh tế hiện đại, kinh tế đối ngoại là phương tiện giúp cho mỗi
quốc gia khai thác, phát huy những lợi thế của mình trên con đường phát triển, hoà
nhập và mở cửa. Hoạt động xuất nhập khẩu là một trong những hình thức cơ bản
nhất của kinh tế đối ngoại. Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ đã

chứng minh được vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế quốc dân. Dưới tác
động của các thành tựu khoa học - công nghệ cùng với chính sách của nhiều quốc
gia, hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng được mở rộng, ngày càng đa dạng, phong
phú. Kèm theo đó, tính phức tạp và sự cạnh tranh trong lĩnh vực này ngày càng trở
nên gay gắt.
Để một doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoạt động thuận lợi trong môi trường
cạnh tranh đó thì vấn đề vốn, tài chính là một vấn đề quan trọng. Hoạt động ngoại
thương ngày càng được mở rộng thì nhu cầu về tài chính trong thương mại xuyên
lục địa ngày càng trở nên cấp thiết.
Điều đó đòi hỏi một mặt phải có nhiều chính sách tài trợ cho các doanh
nghiệp Việt Nam trong hoạt động xuất nhập khẩu để có thể cạnh tranh được với
các doanh nghiệp nước ngoài, mặt khác không vi phạm các qui ước quốc tế khi
Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Hoạt động xuất nhập khẩu càng phát triển thì các hình thức thanh toán cũng
đa dạng và tất yếu dẫn tới sự đa dạng của các hình thức tài chính tài trợ xuất nhập
khẩu. Hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu cùng với các dịch vụ Ngân hàng quốc tế
khác ra đời đã đáp ứng yêu cầu đa dạng của các doanh nghiệp về phát triển kinh
doanh, chống đỡ rủi ro, nâng cao hiệu quả và tăng cường khả năng cạnh tranh
trong hoạt động thương mại quốc tế.
6
Trải qua nhiều năm đổi mới, hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của các ngân
hàng thương mại (NHTM) Việt Nam nói chung, của ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam (BIDV) nói riêng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ cả về
quy mô, cũng như chất lượng dịch vụ. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, hoạt
động tài trợ xuất nhập khẩu của (BIDV) vẫn còn những hạn chế nhất định. Quy
trình thẩm định cho vay của BIDV còn phức tạp, quy chế và các hình thức cho vay
của BIDV chưa đa dạng, chưa đáp ứng được đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt
động kinh doanh Xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. Mặt khác trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại Việt Nam đang đứng trước sự
cạnh tranh khốc liệt từ các ngân hàng nước ngoài. Sức ép nâng cao năng lực cạnh

tranh, đa dạng các loại hình dịch vụ ngân hàng đang ngày càng cấp thiết.
Nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt
Nam trong lĩnh vực tài trợ xuất nhập khẩu, tác giả xin chọn đề tài “Các giải pháp
phát triển hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát
triển Việt Nam – Chi nhánh Ba Đình” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Mục tiêu chung: Tìm hiểu hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng
TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Ba Đình. Qua đó đề xuất một số
giải pháp để hoàn thiện hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu, góp phần nâng cao hiệu
quả kinh doanh cho chi nhánh nói riêng và cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát
triển Việt Nam nói chung.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Hệ thống hóa lý luận và thực tiễn hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại
Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Ba Đình.
7
+ Nghiên cứu tình hình, thực trạng hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu hiện tại
trong Chi nhánh. Chỉ ra những ưu điểm và tồn tại trong tài trợ xuất nhập khẩu tại
Chi nhánh, từ đó đưa ra đánh giá chung.
+ Đề xuất giải pháp phát triển và hoàn thiện tài trợ xuất nhập khẩu nhằm
nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của chi nhánh.
3. Phương pháp nghiên cứu:
3.1. Phương pháp thu thập số liệu:
Số liệu của Luận văn được thu thập từ các nguồn:
+ Tài liệu tham khảo: tạp chí, sách báo, internet,…
+ Các số liệu mà Chi nhánh cho phép sử dụng để phân tích như: báo cáo kết
quả kinh doanh, các số liệu liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu.
+ Từ việc ghi chép của tác giả trong thời gian thực tập tại chi nhánh.
3.2. Phương pháp phân tích:
Để nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng các phương pháp phân tích số liệu
chính sau:

Phương pháp thống kê:
Tiến hành thực hiện các phương pháp phân tổ thống kê, phân tích thống kê;
tổng hợp đánh giá kết quả điều tra, số liệu của các tài liệu liên quan.
Phương pháp so sánh:
Phương pháp so sánh được sử dụng nhằm so sánh việc triển khai hoạt động
tài trợ xuất nhập khẩu của BIDV Ba Đình qua các năm cũng như so với các Ngân
hàng khác cùng địa bàn.
8
+ So sánh bằng số liệu tuyệt đối: để thấy được sự biến động về khối lượng
và quy mô của các hạng mục qua các thời kỳ.
+ So sánh bằng số liệu tương đối: Để thấy được tốc độ phát triển về mặt quy
mô qua các giai đoạn, các thời kỳ khác nhau.
Phương pháp đồ thị, biểu đồ:
Bằng hình ảnh, tính chất của đồ thị, biểu đồ ta thấy được sự biến động, cơ
cấu, vai trò của các khoản mục và từ đó phân tích mối quan hệ, mức độ ảnh hưởng
của các nhân tố tới các chỉ tiêu phân tích.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: là hoạt động tài trợ Xuất nhập khẩu của
Ngân hàng TMCP Đầu tư phát triển chi nhánh Ba Đình.
-Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
+ Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu hoạt động tài trợ Xuất nhập
khẩu của Ngân hàng TMCP Đầu tư phát triển chi nhánh Ba Đình
+ Phạm vi về thời gian: Luận văn nghiên cứu hoạt động tài trợ Xuất nhập
khẩu của Ngân hàng TMCP Đầu tư phát triển chi nhánh Ba Đình từ 2011-2013.
5. Cấu trúc luận văn:
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, thì nội dung của
luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lí luận cơ bản về hoạt động tài trợ xuất nhập
khẩu của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng về hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của chi

nhánh Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Ba Đình.
9
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại
chi nhánh Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Ba Đình.
10
Chương 1: Lý luận chung về phát triển hoạt động tài trợ XNK của
NHTM
1.1 Các vấn đề cơ bản về hoạt động tài trợ XNK của NHTM
1.1.1 Khái niệm tài trợ xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại
Hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại là hình thức tài
trợ thương mại, kỳ hạn gắn liền với thời gian thực hiện thương vụ, đối tượng tài trợ
là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp hoặc ủy thác. Giá trị tài trợ thường là
ở mức vừa và lớn.
Ngày nay, hoạt động tài trợ XNK được phát triển với nhiều hình thức phong
phú, đa dạng đã mang lại nhiều thuận lợi cho hoạt động ngoại thương. Do khả
năng tài chính có hạn mà các nhà XNK không phải lúc nào cũng có đủ tiền để
thanh toán tiền hàng nhập hay đầu tư để sản xuất hàng xuất, từ đó nảy sinh quan hệ
vay mượn với NH phục vụ mình. Khi thị trường thương mại thế giới ngày càng mở
rộng không ngừng, nhu cầu về thị trường tiêu thụ hàng hoá càng lớn thì nhu cầu tài
trợ càng trở nên cấp bách.
Trên cơ sở đó ta có thể hiểu “ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng
tiền tệ giữa một bên là ngân hàng, một tổ chức chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ
với một bên là các tổ chức, đơn vị kinh tế-xã hội, các cơ quan Nhà nước và các
tầng lớp dân cư”.
Tín dụng ngân hàng ra đời và ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhờ có khả
năng đáp ứng tốt mọi nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà nó đã không
ngừng được mở rộng sang tất cả các ngành, lĩnh vực khác nhau trong đó có lĩnh
vực kinh tế đối ngoại mà cụ thể hơn là hoạt động xuất nhập khẩu, nó đã trở thành
11
một nguồn tài trợ không thể thiếu đối với hoạt động xuất nhập khẩu của các quốc

gia.
1.1.2. Vai trò của hoạt động tài trợ XNK
Có thể nói sự ra đời của hoạt động tài trợ XNK là một yêu cầu khách quan,
gắn liền với các quan hệ ngoại thương giữa các nước với nhau. Hoạt động tài trợ
XNK có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của ngoại thương cũng
như đối với sự phát triển kinh tế của đất nước.
 Đối với ngân hàng
- Hoạt động tài trợ XNK của Ngân hàng thương mại là hình thức tài trợ thương mại,
kỳ hạn gắn liền với thời gian thực hiện thương vụ, đối tượng tài trợ là những DN
XNK trực tiếp hoặc uỷ thác. Giá trị tài trợ thường ở mức vừa và lớn. Tài trợ của
Ngân hàng trong lĩnh vực XNK là hình thức cho vay mang lại hiệu quả cao, an
toàn, đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tài trợ XNK nâng cao tính an toàn cho ngân hàng thông qua việc quản lý các
nguồn thu thanh toán. Nguồn thu để người NK hay XK trả các khoản tài trợ được
các Ngân hàng quản lý hết sức chặt chẽ, tránh được tình trạng xoay vốn trong thời
gian vốn tạm thời của DN nhàn rỗi, dễ xảy ra rủi ro
- Hiệu quả Ngân hàngtrong tài trợ XNK thể hiện qua lãi suất. Có nhiều loại lãi suất
của Ngân hàng trong quá trình tài trợ. Tiền thu lãi thường cao vì giá trị tài trợ ở
mức vừa và lớn. Ngoài ra, thông qua tài trợ XNK, Ngân hàng được hưởng các lợi
ích khác như: phí thực hiện bộ chứng từ NK – XK, chiết khấu, mua bán ngoại tệ,
tăng nguồn cung ứng ngoại tệ, ngân hàng tăng cường, mở rộng được mối quan hệ
với các DN và Ngân hàng nước ngoài, nâng cao uy tín Ngân hàng trên trường quốc
tế,
 Đối với DN
12
- NH cho các DN vay để NK máy móc, thiết bị hiện đại, đổi mới trang thiết bị kỹ
thuật, dây chuyền sản xuất chế biến hàng XK với công nghệ tiên tiến nhằm nâng
cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, hạ giá thành sản phẩm, tạo khả năng cạnh tranh
với hàng ngoại nhập và kinh doanh có lãi.
- Tài trợ XNK của Ngân hàng giúp DN thực hiện được những thương vụ lớn: có

những thương vụ trong ngoại thương đòi hỏi nguồn vốn rất lớn để thanh toán tiền
hàng. Do đặc điểm của vận chuyển hàng hải, các mặt hàng thiết yếu như phân bón,
sắt thép, gạo, bột mì, thường hai bên mua bán với số lượng nguyên tàu hàng (từ
10.000 – 20.000 tấn) nhằm tiết kiệm chi phí vận chuyển, thuận lợi trong công tác
giao nhận, nên giá trị lô hàng cũng rất lớn. Trong trường hợp này, vốn lưu động
của DN không đủ để chuẩn bị hàng xuất hoặc thanh toán tiền hàng. Tài trợ Ngân
hàng cho hoạt động XNK là giải pháp giúp DN thực hiện những hợp đồng loại này.
- Trong quá trình đàm phán, thương lượng, ký kết hợp đồng ngoại thương, nếu DN
trước đó đã thông qua Ngân hàng về việc tài trợ và thanh toán quốc tế, có nghĩa là
DN đã xác định đơn vị phục vụ mình, thì sẽ tạo được lợi thế trong quá trình này.
Vì, như đã rõ, hợp đồng ngoại thương được thực hiện thông qua Ngân hàng phục
vụ người mua và người bán, đã thoả thuận trước với Ngân hàng nghĩa là DN đã
xác định được năng lực thực hiện hợp đồng. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong
tiến trình thương lượng và đàm phán.
- Tài trợ XNK làm tăng hiệu qủa của DN trong quá trình thực hiện hợp đồng: thông
qua tài trợ của Ngân hàng, DN nhận được vốn để thực hiện thương vụ. Đối với DN
XK, vốn tài trợ giúp DN thu mua hàng đúng thời vụ, gia công chế biến và giao
hàng đúng thời điểm. Đối với DN NK, vốn tài trợ của Ngân hàng giúp DN mua
được những lô hàng lớn, được chiết khấu ưu đãi về giá cả.
- Tài trợ của Ngân hàng giúp DN nâng cao uy tín trên thị trường quốc tế: thông qua
tài trợ Ngân hàng, DN thực hiện được những thương vụ lớn trôi trảy, quan hệ được
13
với khách hàng tầm cỡ thế giới, từ đó nâng cao uy tín của DN trên thị trường thế
giới.
 Đối với nền kinh tế
- Ngoài việc tài trợ vốn để NK máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất, tài trợ XNK còn
góp phần NK các hàng hoá tiêu dùng cần thiết cho đời sống và sinh hoạt của nhân
dân.
- Tài trợ XNK của Ngân hàng thương mại tạo điều kiện cho hàng hoá XNK lưu
thông dễ dàng: thông qua tài trợ của Ngân hàng, hàng hoá xuất nhập theo yêu cầu

của thị trường được thực hiện thường xuyên, liên tục góp phần tăng tính năng động
của nền kinh tế, ổn định thị trường.
- Tài trợ XNK của Ngân hàng tạo điều kiện cho DN phát triển, tăng hiệu qủa sản
xuất kinh doanh, làm động cơ thúc đẩy nền kinh tế phát triển: thông qua tài trợ
XNK của Ngân hàng, DN có điều kiện thay đổi dây chuyền công nghệ, máy móc
thiết bị nhằm tăng năng xuất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Sự phát triển của
DN nói riêng sẽ tác động đến nền kinh tế nói chung.
1.1.3. Các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu
1.1.3.1.Hình thức tài trợ xuất khẩu
Hiện nay để tài trợ xuất khẩu các ngân hàng thương mại thường cho vay
bằng đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ để thu mua hàng xuất khẩu. Tài trợ xuất khẩu
hiện nay được áp dụng cụ thể dưới các hình thức sau:
• Cho vay thông thường
Cho vay thông thường là việc ngân hàng giao cho khách hàng một khoản
tiền để họ sử dụng trong một thời gian nhất định. Khi hết hạn, người vay phải trả
đầy đủ cả gốc và lãi. Đây là hình thức tài trợ truyền thống, về kỹ thuật và phương
pháp cho vay giống như các dạng tín dụng nội địa tương ứng thông thường khác.
Nó bao gồm các phương thức như cho vay một lần, cho vay theo hạn mức tín dụng
14
và cho vay theo hợp đồng tín dụng tuần hoàn. Đối với các nhà xuất khẩu hình thức
tài trợ này ngoài việc được sử dụng cho các mục đích thu mua sản xuất, chế biến
xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động nó còn được sử dụng để trang trải các chi
phí phát sinh trong quá trình sản xuất như: phí thuê tàu, thuế xuất khẩu
• Tài trợ trên cơ sở hối phiếu.
Hối phiếu là chứng từ có giá với 3 chức năng: chức năng bảo đảm, chức
năng thanh toán và chức năng tài chính.
Tín dụng chiết khấu hối phiếu là tín dụng của NH cấp cho khách hàng dưới
hình thức mua lại hối phiếu trước khi đến hạn thanh toán. Tín dụng chiết khấu này
tạo điều kiện thuận lợi cho nhà XK trong việc tái đầu tư với khoản tín dụng cung
ứng đã cấp cho nhà NK (bán chịu cho nhà NK).

NH mua lại hối phiếu thông qua hình thức chuyển nhượng và trả tiền cho
nhà XK bằng giá trị của hối phiếu trừ đi tỷ lệ chiết khấu hối phiếu. Tỷ lệ chiết khấu
hối phiếu cao hay thấp phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Khả năng truy hoàn nhà XK.
- Khả năng thanh toán của nhà NK, NH nhà NK cũng như nước nhà NK.
- Thời gian chờ thanh toán.
- Giá trị hối phiếu.
- Hình thức hối phiếu (hối phiếu thương mại hay hối phiếu tài chính).
NH chỉ chiết khấu hối phiếu khi không còn một sự nghi ngờ rằng hối phiếu
do nhà XK lập ra là nhằm mục đích kinh doanh chứ không phải là để cấp tài chính
cho nhà NK. Người phát hành hối phiếu cũng như người chấp nhận trả tiền hối
phiếu phải chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hối phiếu. Hoặc trường hợp khác,
NH chỉ chiết khấu các hối phiếu khi có khả năng tái chiết khấu tại NH Trung ương.
15
• Tài trợ trên cơ sở L/C trong thanh toán hàng xuất.
Thư tín dụng L/C là một văn bản pháp lí trong đó ngân hàng mở L/C cam
kết trả tiền cho nhà xuất khẩu nếu họ xuất trình được bộ chứng phù hợp với những
nội dung của L/C. Thư tín dụng có tính chất quan trọng là nó được hình thành trên
cơ sở của hợp đồng mua bán nhưng sau khi được thiết lập, nó lại độc lập hoàn toàn
với hoạt động mua bán.
Đi liền với phương thức thanh toán L/C có rất nhiều hình thức tài trợ của
NH cho nhà XK, bao gồm:
- Cho vay thực hiện hàng xuất theo L/C đã mở:
Trên cơ sở L/C đã mở, nhà XK có thể đảm bảo thanh toán sau khi giao hàng
nếu xuất trình bộ chứng từ phù hợp với các điều kiện đã quy định trong L/C. Nhà
XK hoàn toàn có thể dựa vào đó để nhờ NH phục vụ mình cấp một khoản tín dụng
để thực hiện xuất hàng theo L/C quy định.
Mục đích của khoản tín dụng này là đáp ứng nhu cầu vốn cho nhà XK để thu
mua nguyên vật liệu, trang trải các chi phí cần thiết hay thu gom hàng hoá nhằm có
được sản phẩm hàng hoá giao hàng đúng thời hạn. Sau khi được NH của nhà NK

thanh toán, thì NH nhà XK sẽ giữ lại số tiền bằng khoản cho nhà XK vay cộng với
lãi vay, số còn lại trả cho nhà XK.
Đây là một hình thức tài trợ rất phổ biến, vì một mặt do phương thức L/C
trong thanh toán là phương thức đảm bảo nhất, được sử dụng rộng rãi, mặt khác do
kỹ thuật nghiệp vụ không phức tạp nên dễ dàng áp dụng. Trong trường hợp L/C trả
chậm có xác nhận, thì nhà XK có thể nhận tiền bất cứ lúc nào vì đã có sự xác nhận
trả tiền của đại lý tín dụng hoặc bất cứ NH thứ 3 nào. Lúc này nhà XK nhận tiền
dưới dạng tín dụng chuyển nhượng toàn bộ quyền sở hữu L/C cho NH cấp tín
dụng.
16
- Cho vay chiết khấu hay ứng trước chứng từ hàng XK:
Để đáp ứng nhu cầu vốn, nhà XK sau khi giao hàng xong có thể thương
lượng với NH thực hiện chiết khấu chứng từ hay ứng trước tiền khi bộ chứng từ
được thanh toán. Chiết khấu bộ chứng từ là hình thức NH tài trợ cho nhà XK thông
qua việc mua lại hoặc cho vay trên cơ sở giá trị bộ chứng từ XK hoàn hảo được
xuất trình.
Có 2 hình thức chiết khấu:
- Chiết khấu miễn truy đòi: Có nghĩa là nhà XK bán đứt bộ chứng từ cho NH, nhận
tiền và không còn trách nhiệm hoàn trả. Trách nhiệm thu tiền và quyền sử dụng số
tiền thu được hoàn toàn thuộc về NH. Hình thức này có nhiều rủi ro cho NH, vì
vậy, giá mua sẽ thấp hơn.
- Chiết khấu có truy đòi: Sau khi nhà XK chiết khấu bộ chứng từ cho NH thì họ vẫn
còn ràng buộc trách nhiệm hoàn trả trong trường hợp NH không thu được tiền từ
phía nước ngoài. Vì rủi ro đối với NH thấp nên giá chiết khấu cao hơn trường hợp
trên.
- Tín dụng ứng trước khi bộ chứng từ chưa đến hạn thanh toán:
Đó là việc tạm ứng cho quyền hưởng thanh toán. Các giấy tờ có giá theo
lệnh là những vật thế chấp cho khoản tín dụng này do đó đòi hỏi chúng phải có
mệnh đề chuyển nhượng khống hoặc chuyển nhượng cho NH cấp tín dụng ứng
trước.

• Bao thanh toán (Factoring)
Đây là hình thức tài trợ đặc biệt dành cho nhà XK, trong đó, NH sẽ mua lại
các chứng từ thanh toán, các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán để trở thành chủ nợ
trực tiếp đứng ra đòi nợ nhà NK ở nước ngoài. Bao thanh toán là một dạng kỹ thuật
17
tài trợ cổ điển và được phát triển mạnh trong giai đoạn nền thương mại quốc tế
bùng nổ nhanh chóng như hiện nay.
Hợp đồng bao thanh toán là một hợp đồng được kết lập giữa bên cung ứng
với tổ chức tài trợ, theo đó:
- Bên cung ứng có thể và sẽ nhượng cho tổ chức tài trợ các khoản phải thu
phát sinh từ những hợp đồng thương mại.
- Tổ chức tài trợ thực hiện tối thiểu 2 trong số các chức năng sau đây:
+ Tài trợ bên cung ứng gồm có cho vay và ứng tiền trước.
+ Quản lý sổ sách liên quan đến các khoản phải thu.
+ Thu nợ các khoản phải thu.
+ Bảo đảm rủi ro không thanh toán của con nợ.
Con nợ phải được thông báo về việc nhượng bán khoản phải thu này.
Dịch vụ Factoring là dịch vụ cho phép nhà XK bán hàng theo lối ghi sổ,
nghĩa là cấp tín dụng ứng trước cho người mua nước ngoài với mức bảo đảm rủi ro
100%, với việc thu nợ được thực hiện thông qua mạng lưới quốc tế các tổ chức
Factor.
Bằng việc sử dụng Factoring, nhà XK có được những lợi ích mà các loại
dịch vụ tài trợ khác không có. Ví dụ, Factoring cung cấp dịch vụ thu nợ cho các
doanh nghiệp XK với mức chi phí mang tính cạnh tranh cao, giúp nhà XK vừa
nâng cao hiệu quả vừa tiết kiệm chi phí hành chính và các thủ tục có liên quan
trong vấn đề quản lý theo dõi thu nợ tiền hàng từ người mua nước ngoài. Mặt khác,
dịch vụ tài trợ và chống đỡ rủi ro trong thanh toán của Factoring giúp nhà XK có
được trạng thái lưu chuyển vốn nhanh chóng, an toàn hơn. Đặc biệt là khi hạn mức
tín dụng mà NH cấp cho nhà XK đã được sử dụng hết. Bằng cách sử dụng
18

Factoring nhà XK sẽ nâng cao sức cạnh tranh nhờ vào khả năng cấp tín dụng ứng
trước cho người mua nước ngoài dưới dạng thanh toán ghi sổ.
• Tài trợ thông qua bảo lãnh.
Bảo lãnh là một hình thức tín dụng bằng chữ kí của NH để bảo lãnh tài trợ
cho khách hàng. Trong nghiệp vụ này, NH không thật sự phải xuất quĩ mà chỉ bảo
lãnh trả tiền khi khách hàng không trả được. Trong mua bán quốc tế, đôi khi nhà
XK không nắm chắc khả năng tài chính để thanh toán và mức độ tín nhiệm của nhà
NK, do vậy nhà XK sẽ yêu cầu nhà NK phải có một tổ chức thường là NH, đứng ra
bảo lãnh thanh toán. Ngược lại, do không biết rõ hoặc không tin tưởng nhau, nhà
NK có thể yêu cầu bên XK có NH đứng ra bảo lãnh giao hàng hoặc bảo lãnh thực
hiện hợp đồng.
NH nhận bảo lãnh theo yêu cầu của khách hàng để vay vốn nước ngoài dưới
hình thức tín dụng thương mại hoặc tín dụng tài chính. Trách nhiệm của NH bảo
lãnh là đảm bảo thi hành đúng cam kết với nước ngoài trong trường hợp người xin
bảo lãnh không thực hiện đầy đủ một nghiệp vụ nào đó với đối tác nước ngoài.
Các hình thức bảo lãnh :
- Mở thư tín dụng trả chậm.
- Ký bảo lãnh hay ký chấp nhận trên các hối phiếu.
- Phát hành thư bảo lãnh.
- Lập giấy cam kết trả nợ nước ngoài.
• Forfeiting
Forfeiting là hoạt động mua lại các khoản nợ sẽ đến hạn thanh toán vào một
ngày tương lai, hình thành từ việc giao hàng hoá hay cung cứng dịch vụ mà phần
lớn là các giao dịch xuất nhập khẩu mà không truy đòi người bán nêu người chủ nợ
không thanh toán khi đến hạn. Có thể hiểu đơn giản rằng, forfeiting giống như một
19
hình thức mua hối phiếu trả chậm miễn truy đòi. Đây là nghiệp vụ bao thanh toán
cho những khoản phải thu cụ thể, riêng lẻ trong toàn bộ quá trình xuất nhập khẩu
dài hạn cho từng đối tượng cụ thể.
1.1.3.2. Hình thức tài trợ nhập khẩu

Thông thường ngân hàng cho vay bằng ngoại tệ để nhập nguyên vật liệu, vật
tư, hàng hoá máy móc thiết bị, công nghệ… hoặc cho vay bằng VND, trường hợp
này rất hiếm vì khi vay VND đổi sang ngoại tệ để thanh toán hàng nhập khẩu,
khách hàng phải mất một khoản tiền do chênh lệch tỷ giá mua, bán của ngân hàng.
Ngân hàng thực hiện tài trợ NK với những hình thức sau:
• Cho vay theo phương thức nhờ thu.
Phương thức nhờ thu chỉ xảy ra trong trường hợp người mua và người bán
hoàn toàn tín nhiệm lẫn nhau. Nhà XK sau khi giao hàng thì tiến hành uỷ thác cho
NH phục vụ mình thu hộ tiền hàng.
Có hai hình thức nhờ thu: Nhờ thu trơn (Clean collection) và nhờ thu kèm
chứng từ (Documentary collection).
Trong nhờ thu kèm chứng từ có hai trường hợp:
- Nhờ thu theo điều kiện D/P (Document against Payment): NH chỉ giao bộ
chứng từ cho nhà NK sau khi họ đã nộp đủ tiền hàng và phí dịch vụ, chuyển tiền
thanh toán cho nhà XK.
- Nhờ thu theo điều kiện D/A (Document against Acceptance): NH chỉ giao
bộ chứng từ cho nhà NK sau khi họ ký tên, đóng dấu trên hối phiếu chấp nhận trả
tiền cho nhà XK.
Trong cả hai trường hợp, nếu nhà NK không đủ điều kiện thanh toán trong
khi họ rất cần nhận số hàng NK thì NH có thể cho vay trên cơ sở bộ chứng từ nhờ
thu.
20
• Cho vay thanh toán L/C.
Để thuyết phục nhà XK tin tưởng thực hiện giao hàng, nhà NK phải tìm
kiếm một giải pháp nâng cao uy tín và khả năng thanh toán của mình một cách
chắc chắn trước những đòi hỏi của nhà XK về các thông tin cần thiết. Phương thức
tín dụng chứng từ ra đời đáp ứng yêu cầu đó. Với L/C, nhà NK yêu cầu NH thay
mặt mình cam kết thanh toán cho nhà XK trong thời hạn xác định khi các điều kiện
quy định được đáp ứng hoàn toàn phù hợp.
Mọi L/C đều do NH mở theo đề nghị của nhà NK. Khi đã mở L/C thì NH

phải gánh chịu mọi rủi ro một khi nhà NK không có khả năng thanh toán hoặc
không muốn thanh toán khi L/C đến hạn trả tiền, bởi vì L/C thể hiện sự đảm bảo
thanh toán của NH đối với người được hưởng. Vì vậy, khi nhà NK nộp đơn đề nghị
NH mở L/C thì NH phải chắc chắn rằng nhà NK có khả năng thanh toán khi L/C
tới hạn. Điều đó có nghĩa là tài khoản của khách hàng phải đủ số dư nhất định -
đây chính là mức ký quỹ NH quy định khi mở L/C. Mức ký quỹ cao hay thấp còn
phụ thuộc vào uy tín của khách hàng, độ rủi ro của thương vụ,
Khi đến hạn thanh toán L/C với phía đối tác mà nhà NK vẫn không đủ tiền
để thanh toán thì họ phải nhận nợ với NH và phải chịu lãi suất phạt lớn hơn lãi suất
cho vay thông thường. Trên cơ sở hợp đồng tín dụng khung đã được ký kết, NH sẽ
cho nhà NK vay để thanh toán. Ngày nhận nợ và tính lãi của khoản cho vay này là
ngày ngân hàng NK thanh toán cho NH phục vụ nhà XK (ngày đến hạn thanh toán
L/C). Thông thường, khoản cho vay này có thời hạn rất ngắn, không quá 30 ngày
kể từ ngày NH cho vay thanh toán bắt buộc.
Ngoài ra, cho vay thanh toán còn thể hiện trong trường hợp nhà NK xin NH
tài trợ cho lô hàng sẽ nhập. Trên cơ sở phân tích đánh giá kế hoạch và phương án
của khách hàng về việc kinh doanh lô hàng nói trên, NH sẽ ra quyết định tài trợ và
xác định mức NH chấp nhận tài trợ. Khi hàng hoá, bộ chứng từ về đến nơi, nhà NK
21
có thể nhận được sự tài trợ của NH thông qua hình thức cho vay thanh toán L/C
(L/C trả ngay) hoặc thay mặt nhà NK ký chấp nhận thanh toán trên hối phiếu (L/C
trả chậm).
• Cho vay trên cơ sở hối phiếu tự nhận nợ.
Hối phiếu tự nhận nợ là một dạng hối phiếu do người mua phát hành nhận
nợ đối với người bán. Thông qua hối phiếu này, NH cấp một khoản tín dụng đặc
biệt là tín dụng chiết khấu hối phiếu tự nhận nợ. Hình thức này phát triển khá rộng
rãi trong hoạt động ngoại thương. Nó phục vụ cho những điều kiện thanh toán đơn
giản.
Khoản tín dụng trên đây thực chất là tín dụng NK, nhưng trốn thuế hối
phiếu. Những nó vẫn được sử dụng khá phổ biến, vì nó tạo điều kiện thuận lợi cho

nhà NK được hưởng tài khoản thanh toán nhanh chóng trong hoạt động ngoại
thương mà bản thân NH phục vụ nhà NK không có đủ vốn.
• Cho vay theo phương thức chuyển tiền.
Nhà NK và nhà XK kí một hợp đồng mua bán hàng hóa với điều kiện thanh
toán theo phương thức chuyển tiền. Đến hạn thanh toán, nhà NK không có tiền, họ
có thể yêu cầu NH phục vụ mình cho vay theo phương thức chuyển tiền.
Phương thức này ít được sử dụng trong mậu dịch quốc tế, vì chuyển tiền
không kèm theo điều gì, thường được áp dụng trong các trường hợp như: tiền đặt
cọc, tiền ứng trước, bồi thường hàng hoá, trả lại tiền dư thừa.
• Tín dụng ứng trước đối với nhà NK
Trong trường hợp nhà NK phải thanh toán bộ chứng từ hàng hoá trước khi
hàng chưa cập bến và sau đó nhà NK phải giải phóng hàng hoá để thu hồi vốn, thì
nhà NK cũng có nhu cầu được NH tài trợ, vì đây là khoảng thời gian khá dài.
Khoản tài trợ này được gọi là tín dụng ứng trước.
22
Mức độ cấp vốn ứng trước phụ thuộc vào các yếu tố như khả năng thanh
toán của nhà NK, khả năng cạnh tranh của hàng hoá dự kiến, những rủi ro về tỷ
giá, Trong tín dụng ứng trước, NH quan tâm đến vật tư đảm bảo vốn vay, đặc biệt
là những chứng từ có giá theo lệnh phải có mệnh đề chuyển nhượng khống hoặc
chuyển nhượng cho NH cấp tín dụng ứng trước, vì nó thể hiện quyền sở hữu đối
với hàng hoá.
• Tín dụng chấp nhận hối phiếu (accepting credit)
Tín dụng chấp nhận hối phiếu là khoản tín dụng mà NH ký chấp nhận hối
phiếu. Người vay khoản tín dụng này chính là nhà NK và khoản vay chỉ là một
hình thức, một sự đảm bảo về mặt tài chính, thực chất NH chưa phải xuất tiền thực
sự cho người vay. Tuy nhiên, khi đến hạn nếu nhà NK chưa có đủ khả năng thanh
toán, thì NH là người đứng ra chấp nhận hối phiếu phải trả nợ thay.
Tín dụng chấp nhận hối phiếu xảy ra trong trường hợp bên bán thiếu tin
tưởng khả năng thanh toán của bên mua, họ đề nghị bên mua yêu cầu một NH
đứng ra chấp nhận trả thanh toán hối phiếu do bên bán ký phát. Nếu NH đồng ý,

nghĩa là NH chấp nhận một khoản tín dụng cho bên mua để họ thanh toán cho bên
bán khi hối phiếu đến hạn.
Đối với NH, kể từ khi ký chấp nhận trả tiền hối phiếu cũng chính là thời
điểm bắt đầu gánh chịu rủi ro nếu bên mua không có tiền thanh toán cho bên bán
khi hối phiếu đến hạn thanh toán. Tuy nhiên, nếu đến hạn mà nhà NK đủ tiền thanh
toán thì NH không phải ứng tiền ra và như vậy khoản tín dụng này chỉ là sự đảm
bảo về tài chính.
1.2. Phát triển hoạt động tài trợ XNK của NHTM
1.2.1 Khái niệm
23
Phát triển hoạt động tài trợ XNK là quá trình phát triển quy mô, hình thức và
chất lượng tài trợ XNK trên cơ sở kiểm soát được rủi ro và đảm bảo được lợi
nhuận cho Ngân hàng.
Quy mô và hình thức tài trợ XNK phản ánh độ lớn của hoạt động tài trợ
XNK, thể hiện ở dư nợ tài trợ XNK, số lượng khách hàng, số sản phẩm phục vụ
cho hoạt động tài trợ
Chất lượng của hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu được hiểu là sự đáp ứng
một cách tốt nhất yêu cầu của các bên liên quan. Đối với khách hàng – doanh
nghiệp, hoạt động này là chất lượng nếu có quy trình thủ tục gọn nhẹ, đảm bảo an
toàn và hạn chế rủi ro về vốn, giúp DN tận dụng được cơ hội kinh doanh. Đối với
Ngân hàng, hoạt động tài trợ XNK là chất lượng nếu tăng doang thu, tăng lợi
nhuận cho ngân hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế đối ngoại nói riêng và sự
phát triển kinh tế xã hội nói chung. Nói cách khác, hoạt động tài trợ xuất nhập
khẩu có chất lượng phải đảm bảo kết hợp hài hoà lợi ích của ba bên Ngân hàng,
các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu và của xã hội.
Như vậy, phát triển tài trợ XNK không chỉ đơn thuần là việc tăng trưởng quy
mô tài trợ XNK, thể hiện qua việc tăng trưởng dư nợ tài trợ, số lượng khách hàng
nhận tài trợ, hình thức và thu nhập từ tài trợ XNK mà còn bao gồm việc đảm bảo
chất lượng tài trợ.
1.2.2 Sự cần thiết phát triển hoạt động tài trợ XNK

Phát triển hoạt động tài trợ XNK là cần thiết vì các lí do sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ sự phát triển của thương mại quốc tế:
Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế không thể chỉ dựa vào nền
sản xuất trong nước mà còn phải quan hệ với các nước bên ngoài. Do có sự khác
nhau về điều kiện tự nhiên như tài nguyên, khí hậu mà mỗi quốc gia có thế mạnh
24
trong việc sản xuất một số mặt hàng nhất định. Để đạt được hiệu quả kinh tế đồng
thời đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày một đa dạng ở trong nước, các quốc gia
đều mong muốn có được những sản phẩm chất lượng cao với giá rẻ hơn từ các
nước khác đồng thời mở rộng được thị trường tiêu thụ đối với các sản phẩm thế
mạnh của mình. Chính từ mong muốn đó đã làm nảy sinh nhu cầu mua bán trao đổi
quốc tế (hay thương mại quốc tế).
Hoạt động thương mại quốc tế thông qua mối quan hệ rộng rãi vượt ra ngoài
biên giới quốc gia sẽ là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế bên
ngoài, đồng thời tạo ra động lực thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế ở mỗi khu vực
và trên toàn thế giới.
Thứ hai, xuất phát từ vai trò của hoạt động XNK
- XNK có thể bổ sung những hàng hóa mà trong nước không sản xuất được
hoặc chi phí quá cao hay trong nước có sản xuất nhưng không đáp ứng được nhu
cầu người tiêu dùng. XNK tạo ra nguồn hàng đầu vào cho các ngành, Công ty sản
xuất chế biến trong nước, đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng.
- XNK giúp luân chuyển hàng hóa trong nước ra khỏi quốc gia khi hàng hóa
đó có khả năng cạnh tranh về chi phí, tài nguyên, vốn, lao động, công nghệ…
- XNK góp phần đưa các tiến bộ khoa học kỹ thyật hiện đại của thế giới vào
trong nước, tăng cường cơ sở vật chất, đẩy mạnh chuyển giao công nghêk từ đó
nâng cao hiệu quả nền kinh tế trong nước.
- Mặt khác, XNK tạo ra sự cạnh tranh giữa các hàng hóa nội địa và hàng hóa
ngoại nhập; từ đó tạo ra động lực thúc đẩy các nhà sản xuất trong nước phải tối ưu
hóa tổ chức sản xuất, hợp lý hóa cơ cấu tổ chức để cạnh tranh đươc với các nhà sản
xuất nước ngoài. Từ đó tạo cho các DN sự năng động, sáng tạo để cạnh tranh ngày

một tốt hơn.
25

×