TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
ĐỀ ÁN
"NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
LAO ĐỘNG VIỆT NAM"
Họ tên : Trần Thu Thảo
Mã sinh viên : 11123643
Lớp : Kinh tế quốc tế 54c
Trường : Đại học Kinh tế quốc dân
Hà Nội - 2015
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
I. LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ như hiện
nay, xuất khẩu lao động đã trở thành một hoạt động kinh tế- xã hội quan trọng
góp phần phát triển kinh tế nước ta. Đây là một lối đi bền vững được nhà
nước cũng như người dân hết sức quan tâm. Trải qua hơn 20 năm ra đời và
phát triển, hoạt động xuất khẩu lao động nước ta đã đạt được nhiều thành tựu
đáng kể, đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước, tuy nhiên bên cạnh
đó, vẫn còn nhiều các hạn chế như về đội ngũ cán bộ quản lý ,công tác đào
tạo, giáo dục định hướng, chất lượng nguồn lao động xuất khẩu, dẫn đến
hiệu quả hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam chưa cao. Làm sao để đưa
hoạt động xuất khẩu lao động thực sự trở thành một trong bốn ngành kinh tế
quan trọng của cả nước, xứng tầm với vị thế vốn có của nó là một vấn đề
không hề đơn giản, cần sự chung tay của các nhà quản lý, doanh nghiệp và
người lao động xuất khẩu để giải quyết vấn đề trên. Vì vậy, em quyết định
chọn đề tài "Nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam"
là đề tài nghiên cứu lần này.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề án sẽ hướng tới làm rõ các nội dung sau :
+ Hệ thống hóa cơ sở luận bàn về xuất khẩu lao động và hiệu quả xuất
khẩu lao động.
+ Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động của nước ta trong
những năm gần đây (từ năm 2006-2015), các điểm được và chưa được trong
công tác thực hiện.
+ Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động của Việt
Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1 Đối tượng nghiên cứu: hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam.
3.2 Phạm vi nghiên cứu:
5
Đề án tập trung nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu lao động của Việt
Nam từ năm 2006 đến năm 2015 trên phạm vi cả nước.
4. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng phương pháp như
thống kê, phân tích, so sánh và tổng hợp một cách logic, có kế thừa những kết
quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu khoa học trước đây để giải
quyết các nhiệm vụ đặt ra.
5. Kết cấu của đề tài
Nội dung của đề án có 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận chung về hiệu quả xuất khẩu trong quá
trình hội nhập
- Chương 2: Phân tích thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam
từ 2006-2015.
- Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu xuất khẩu lao động của Việt
Nam trong giai đoạn tới.
6
II. NỘI DUNG 3 CHƯƠNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ XUẤT KHẨU TRONG
QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
1.1.1 Các khái niệm liên quan đến xuất khẩu lao động
1.1.1.1. Nguồn nhân lực
Tùy theo cách tiếp cận khái niệm nguồn nhân lực có thể khác nhau, do
đó, quy mô nguồn nhân lực cũng khác nhau. Ở đây, chúng ta sẽ tiếp cận dựa
vào khả năng lao động của con người và giới hạn độ tuổi lao động: nguồn
nhân lực gồm toàn bộ những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao
động không kể đến trạng thái có việc làm hay không.
1.1.1.2. Nguồn lao động
Nguồn lao động bao gồm toàn bộ những người trong độ tuổi lao động
có khả năng tham gia lao động.
1.1.1.3. Nguồn lao động xuất khẩu
Ở nước ta, người đi xuất khẩu lao động (người đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng) được quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Người lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, như sau :”Người lao động
đi làm việc tại nước ngoài theo hợp đồng là công dân Việt Nam cư trú tại Việt
Nam, có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật
của nước tiếp nhận lao động, đi làm việc ở nước ngoài theo quy định”.
1.1.1.4. Xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động là hoạt động mua_bán hàng hóa sức lao động nội
địa cho người sử dụng lao động nước ngoài.
+ Hoạt động mua bán: thể hiện ở chỗ người lao động trong nước sẽ bán
quyền sử dụng sức lao động của mình trong một khoảng thời gian nhất định
cho người sử dụng lao động để nhận về một khoản tiền dưới hình thức tiền
7
lương (tiền công).
+ Hàng hóa sức lao động nội địa: muốn nói tới lực lượng lao động
trong nước sẵn sàng cung cấp sức lao động của mình cho người sử dụng lao
động nước ngoài.
+ Người sử dụng lao động nước ngoài: là chính phủ nước ngoài hay các
tổ chức, cơ quan kinh tế nước ngoài có nhu cầu sử dụng lao động trong nước.
1.1.1.5. Thị trường xuất khẩu lao động
Thị trường xuất khẩu lao động đối với một quốc gia là một nước
(vùng lãnh thổ) hoặc nhiều nước khác mà nước đó có thể đưa lao động của
mình sang làm việc một cách hợp pháp. Cung về lao động xuất khẩu là khả
năng nước đó có thể đáp ứng được một số lượng lao động thỏa mãn yêu cầu
của thị trường xuất khẩu lao động trong một khoảng thời gian nhất định. Còn
cầu về lao động xuất khẩu là khả năng tiếp nhận của một nước (vùng lãnh
thổ) hoặc một số nước khác đối với lao động của nước đó.
1.1.2 Các hình thức xuất khẩu lao động
Hình thức xuất khẩu lao động: là cách thức thực hiện việc đưa người
lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài do nhà nước quy định.
Ở Việt Nam cho đến nay đã tồn tại một số hình thức sau:
a) Thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung: xuất khẩu lao động chủ
yếu thông qua các hiệp định liên chính phủ và nghị định thư;
b) Bước sang thời kỳ mới_ thời kỳ xuất khẩu lao động chịu tác động
của thị trường thì nó bao gồm các hình thức sau:
- Cung ứng lao động theo các hợp đồng cung ứng lao động đã ký kết
với bên nước ngoài.
Nội dung: Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động sẽ tuyển lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các hợp đồng cung ứng lao động.
Đặc điểm:
+ Các doanh nghiệp tự mình đảm nhiệm tất cả các khâu từ tuyển chọn
đến đào tạo đến đưa đi và quản lý người lao động ở nước ngoài;
8
+ Các yêu cầu về tổ chức lao động do phía nước tiếp nhận đặt ra;
+ Quan hệ lao động được điều chỉnh bởi pháp luật của nước tiếp nhận;
+ Quá trình làm việc là ở nước ngoài, người lao động chịu sự quản lý
trực tiếp của người sử dụng lao động nước ngoài;
+ Quyền và nghĩa vụ của người lao động do phía nước ngoài bảo đảm.
- Đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng nhận
thầu, khoán công trình ở nước ngoài, đầu tư ra nước ngoài.
Nội dung: Các doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận khoán công
trình ở nước ngoài hoặc đầu tư dưới hình thức liên doanh liên kết chia sản
phẩm hoặc các hình thức đầu tư khác. Hình thức này chưa phổ biến nhưng sẽ
phát triển trong tương lai cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực.
Đặc điểm:
+ Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam sẽ tuyển chọn lao
động Việt Nam nhằm thực hiện các hợp đồng kinh tế, hợp đồng liên doanh_
liên kết giữa Việt Nam và nước ngoài;
+ Các yêu cầu về tổ chức lao động, điều kiện lao động do doanh nghiệp
xuất khẩu lao động Việt Nam đặt ra;
+ Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam có thể trực tiếp
tuyển dụng lao động hoặc thông qua các tổ chức cung ứng lao động trong
nước;
+ Doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam trực tiếp đưa lao động đi
nước ngoài, quản lý lao động ở nước ngoài cũng như đảm bảo các quyền lợi
của người lao động ở nước ngoài. Vì vậy quan hệ lao động tương đối ổn định;
+ Cả người sử dụng lao động Việt Nam và lao động Việt Nam đều phải
tuân thủ theo quy định của pháp luật, phong tục tập quán của nước ngoài.
- Lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động
giữa cá nhân người lao động với người sử dụng lao động nước ngoài.
Hình thức này ở Việt Nam còn rất ít vì nó đòi hỏi người lao động phải
9
có trình độ học vấn, ngoại ngữ tốt, giao tiếp rộng, tìm hiểu rõ các thông tin về
đối tác.
1.1.3. Nội dung của xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động gồm hai nội dung:
+ Đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài:
+ Xuất khẩu lao động tại chỗ (XKLĐ nội biên): người lao động trong
nước làm việc cho các doanh nghiệp FDI, các tổ chức quốc tế qua Internet.
Do sự giới hạn phạm vi đề án em xin được đề cập đếnvấn đề xuất khẩu
lao động tương ứng với nội dung 1_ đưa người lao động đi làm việc có thời
hạn ở nước ngoài.
Người lao động ở đây bao gồm: người lao động làm các công việc
như lao động phổ thông, sản xuất, giúp việc,…(những công việc ít đòi hỏi về
trình độ chuyên môn); chuyên gia; tu nghiệp sinh.
Chuyên gia: là những người lao động có trình độ chuyên từ bậc đại
học trở lên.
Tu nghiệp sinh (TNS): (Mới chỉ có ở Nhật Bản, Hàn Quốc) chỉ
những người lao động chưa đáp ứng được yêu cầu về trình độ chuyên môn
của nước nhập khẩu lao động và nếu muốn vào làm việc ở các nước này họ
phải được hợp pháp hoá dưới hình thức TNS nghĩa là vừa làm vừa được đào
tạo tiếp tục về trình độ chuyên môn kỹ thuật.
1.1.4 Đặc điểm và vai trò của xuất khẩu lao động
1.1.4.1 Đặc điểm của xuất khẩu lao động
a. Hoạt động kinh tế mang tính xã hội cao
Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế mang tầm vi mô và vĩ mô.
Đây là hoạt động đem lại lợi ích cho cả hai bên tham gia. Ở tầm vi mô, bên
cung là người lao dộng mà đại diện của họ là các tổ chức kinh tế làm công tác
xuất khẩu lao động, bên cầu là người sử dụng lao động nước ngoài. Còn ở tầm
vĩ mô, bên cung là nước xuất khẩu lao động, bên cầu là nước tiếp nhận lao
động. Nhưng dù xem xét ở góc độ nào thì mục tiêu cuối cùng của cả bên cung
10
và bên cầu khi tham gia hoạt động xuất khẩu là nhằm hướng tới lợi ích kinh
tế. Cũng giống như các chủ thể của các hoạt động kinh tế khác, họ luôn tính
toán giữa chi phí bỏ ra và lợi ích thu được để từ đó ra quyết định hành động
sao cho có lợi nhất.
Tính xã hội thể hiện ở chỗ: khi các bên tham gia hoạt động xuất khẩu
lao động vì mục tiêu kinh tế thì cũng đồng thời tạo ra các lợi ích cho xã hội
như giải quyết công ăn việc làm, nâng cao phúc lợi xã hội, góp phần ổn định
và cải thiện cuộc sống cho một số bộ phận dân cư,….
b. Hoạt động mang tính cạnh tranh
Xuất khẩu lao động là hoạt động theo quy luật thị trường và tất yếu
nó cũng chịu sự tác động của quy luật cạnh tranh và mang tính cạnh tranh. Sự
cạnh tranh diễn ra giữa các nước xuất khẩu lao động với nhau và giữa các
doanh nghiệp xuất khẩu lao động trong nước để dành và thống lĩnh thị trường
xuất khẩu lao động. Cạnh tranh giúp cho chất lượng nguồn lao động xuất
khẩu ngày càng được nâng cao và đem lại lợi ích nhiều hơn cho các bên đồng
thời cũng đào thải những cá thể không thể vận động trong vòng xoáy ấy.
c. Hoạt động đầy biến đổi
Thực tế cho thấy hoạt động xuất khẩu phụ thuộc rất nhiều vào các
nước có nhu cầu nhập khẩu lao động, do đó, cần phải có sự phân tích toàn
diện các dự án ở nước ngoài đang và sẽ được thực hiện để xây dựng chính
sách đào tạo và chương trình đào tạo giáo dục, định hướng phù hợp và linh
hoạt. Chỉ có những nước nào chuẩn bị đội ngũ công nhân với tay nghề thích
hợp mới có điều kiện thuận lợi hơn trong việc chiếm lĩnh thị trường lao động
ở nước ngoài và cũng chỉ có nước nào nhìn xa, trông rộng, phân tích và dự
đoán đúng tình hình mới không bị động trước sự biến đổi của tình hình đưa ra
chính sách đón đầu trong hoạt động xuất khẩu lao động.
d. Mua bán một loại hàng hàng hóa đặc biệt vượt qua biên giới quốc gia
Hàng hóa sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt, nó tồn tại trong
con người và người ta chỉ có thể bán nó trong một khoản thời gian nhất định.
11
Vì thế giá trị sử dụng của nó khác với hàng hóa thông thường. Hàng hóa sức
lao động trong trường hợp này được mua bán giữa các quốc gia và vùng lãnh
thổ với nhau. Thị trường xuất khẩu lao động với một quốc gia xuất khẩu lao
động càng phong phú và đa dạng bao nhiêu thì càng tốt. Nó làm tăng các loại
ngoại tệ, giảm rủi ro trong xuất khẩu lao động và nó cũng thể hiện khả năng
cạnh tranh mạnh mẽ của quốc gia đó.
1.1.4.2. Vai trò của xuất khẩu lao động
a. Về mặt kinh tế
Xuất khẩu lao động có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế.
Trước tiên, xuất khẩu lao động góp phần giải quyết việc làm và tăng thu nhập
cho người lao động. Bên cạnh đó, xuất khẩu lao động còn đem lại nguồn thu
ngoại tệ đáng kể cho đất nước, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
b. Về mặt xã hội
Giải quyết phần nào tình trạng thất nghiệp, cải thiện đời sống của
nhiều người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, Song song với đó, thực hiện
tốt công tác xuất khẩu lao động sẽ giảm được tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây
ra, tạo một hướng lao động tích cực cho người lao động, học tập được phong
cách lao động mới do tổ chức lao động ở nước ngoài trang bị,…
c. Về quan hệ đối ngoại
Mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác trong lĩnh vực xuất khẩu lao
động là vô cùng quan trọng, từ đó quan hệ giữa nước cung ứng lao động và
nước tiếp nhận lao động trở nên gắn bó hơn, hiểu nhau hơn, tạo ra mối quan
hệ tốt đẹp giữa hai nước. Sự đa dạng hóa các quan hệ hợp tác quốc tế được
mở rộng thông qua hợp tác về lao động sẽ tạo điều kiện mở rộng hơn nữa các
quan hệ hợp tác khác.
1.2. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ CÁC
YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
1.2.1 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xuất khẩu lao động
Hiệu quả là chỉ tiêu so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để
12
đạt được hiệu quả đó. Có hai loại hiệu quả là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã
hội. Hiệu quả kinh tế là hiệu quả đạt được về mặt kinh tế, còn hiệu quả xã hội
là hiệu quả đạt được về mặt xã hội. Đây là khái niệm chung để đánh giá hiệu
quả, tuy nhiên khi đi vào từng lĩnh vực cụ thể thì việc đánh giá hiệu quả
không đơn giản chút nào, đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu lao động. Một số
chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả xuất khẩu lao động như sau:
1.2.1.1. Lợi ích kinh tế đạt được
- Lượng lao động được giải quyết việc làm trong năm:
Công thức tính: L = Lc + Lx - Ln
Trong đó:
L : Số lao động được giải quyết việc làm trong năm
Lc : Số lao động từ năm trước vẫn còn đang tiếp tục
Lx : Số lao động được đưa sang hoạt động trong năm
Ln : Số lao động kết thúc hợp đồng trở về nước trong năm
ý nghĩa: chỉ tiêu này nêu ra được chi tiết kết quả đạt được trong một
năm qua của công tác xuất khẩu lao động. Nó chỉ ra những đóng góp của lĩnh
vực này đối với việc tạo công ăn việc làm cho xã hội mà nhà nước ta đã
không phải bỏ vốn đầu tư để tạo việc làm mới, giải quyết một phần tình trạng
ứ đọng của lao động của đất nước (mặc dù trước khi đi xuất khẩu lao động
những lao động này không phải tất cả đều thuộc diện thất nghiệp).
- Thu nhập quốc dân về ngoại tệ thông qua hoạt động xuất khẩu lao động
Công thức tính: P = ∑ Yj ( j = 1 n n )
Yj = Xij . Kj
Trong ó:
P : Mc thu ca nhà n c
13
Y: Mc thu ca nhà n c mi th tr ng
n : Số thị trường đưa lao động sang
j : Nước đưa lao động sang
K : Tỷ số hối đoái quy đổi ra ngoại tệ quy ước
X : Thuế thu nhập mỗi người phải đóng
Ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết số tiền nhà nước thu được thông qua xuất
khẩu lao động. Vấn đề ngoại tệ (nhất là ngoại tệ mạnh) đối với Việt Nam có ý
nghĩa to lớn. Tất cả các hoạt động có thể đem về ngoại tệ cho đất nước cần
được khuyến khích. Khả năng hợp tác lao động với nước ngoài của nước ta là
rất lớn, nếu chúng ta biết tổ chức và khai thác hết những tiềm năng đó trong
quan hệ kinh tế đối ngoại thì sẽ thu được nguồn ngoại tệ đáng kể thúc đẩy sản
xuất phát triển.
- Ngoài ra còn có các chỉ tiêu về đánh giá: mức tiết kiệm đầu tư vào
việc làm của chính phủ; giá trị hàng hóa do người lao động đưa về; thu nhập
do lao động đi làm việc ở nước ngoài bổ sung vào thu nhập quốc dân.
1.2.1.2. Chi phí bỏ ra
Bao gồm các chi phí do người lao động trong lĩnh vực tham gia, chi
phí cho bộ máy quản lý, tổ chức tuyển mộ, đưa đi và quản lý ở nước ngoài, xử
lý các công việc sau khi đưa người lao động hết hạn trở về nước, tiền nộp phạt
cho nước bạn do người lao động tự ý bỏ hợp đồng….
Chi phí về mặt xã hội có ý kiến cho rằng còn có những tiêu cực do
lao động gây ra ở nước ngoài. Song những cái đó là yêu tố chủ quan có thể
khắc phục được nếu có biện pháp và chính sách thích hợp.
1.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả xuất khẩu lao động
1.2.2.1. Nhóm nhân tố khách quan
- Điều kiện kinh tế chính trị, tình hình dân số_ nguồn lao động của
nước tiếp nhận lao động.
Các nước tiếp nhận lao động thường là các nước có nền kinh tế phát
14
triển hoặc tương đối phát triển nhưng trong quá trình phát triển kinh tế của
mình họ lại thiếu hụt nghiêm trọng lực lượng lao động cho một hoặc một vài
lĩnh vực nào đó. Vì thế họ có nhu cầu tiếp nhận thêm lao động từ nước khác.
Sự thiếu hụt lao động càng lớn trong khi máy móc chưa thể thay thế hết được
con người thì nhu cầu thuê thêm lao động nước ngoài là điều tất yếu.
Ngoài ra, xuất khẩu lao động còn chịu nhiều tác động từ sự phát triển
kinh tế có ổn định hay không của nước tiếp nhận. Nếu nền kinh tế có những
biến động xấu bất ngờ xảy ra thì hoạt động xuất khẩu lao động cũng sẽ gặp rất
nhiều khó khăn.
- Chính trị cũng ảnh hưởng tới xuất khẩu lao động. Nếu nước tiếp nhận
có tình hình chính trị không ổn đình thì họ có thể cũng không có nhu cầu tiếp
nhận thêm lao động và nước xuất khẩu lao động cũng không muốn đưa người
lao động của mình tới đó.
- Sự cạnh tranh của các nước xuất khẩu lao động khác
Sự cạnh tranh này mang tác động hai chiều. Chiều tích cực: thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu lao động của nước mình không ngừng tự nâng cao chất
lượng hàng hoá sức lao động để tăng tính cạnh tranh trên thị trường, tạo ra sự
phát triển mới cho hoạt động xuất khẩu lao động. Chiều tiêu cực: cạnh tranh
không lành mạnh hoặc tính cạnh tranh yếu sẽ bị đào thải.
- Điều kiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc giữa quốc gia xuất
khẩu lao động và quốc gia tiếp nhận.
Nếu những điều kiện này tốt sẽ góp phần làm giảm chi phí trong hoạt
động xuất khẩu lao động cũng như thuận lợi trong quá trình đưa lao động đi
và nhận lao động về. Vì thế hoạt động xuất khẩu lao động sẽ diễn ra thường
xuyên và mạnh mẽ hơn.
1.2.2.2. Nhóm nhân tố chủ quan
Bao gồm hệ thống các quan điểm, chính sách và chủ trương của nhà
nước về hoạt đông xuất khẩu lao động. Nếu coi trọng xuất khẩu lao động, xác
định đúng vị trí của nó trong phát triển kinh tế_ xã hội sẽ tạo điều kiện thuận
15
lợi cho hoạt động xuất khẩu lao động và ngược lại. Đồng thời với quá trình
này thì công tác tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát việc thực hiện cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động xuất khẩu lao động.
1.3 KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
Khu vực châu Á Thái bình dương, còn được gọi là vùng Đông Á, trong
40 năm qua đã phát triển năng động. Công nghiệp hóa lan tỏa từ Nhật Bản
sang Hàn Quốc, Đài Loan, rồi đến Trung Quốc và nhiều nước ở ASEAN. Quá
trình đó được thúc đẩy bởi sự di chuyển nhộn nhịp của tư bản, công nghệ và
tri thức kinh doanh từ các nước đi trước đến các nước đi sau. Những năm gần
đây một yếu tố khác ngày càng nổi bật trên bức tranh sống động đó. Đó là lao
động. Đây là yếu tố di chuyển từ nước đi sau đến nước đã phát triển, nghĩa là
đi ngược dòng với tư bản, công nghệ và tri thức kinh doanh. Nhưng trong 40
năm qua cũng có hiện tượng một số nước xoay chuyển dòng chảy, từ vị trí
của nước xuất sang nước nhập khẩu lao động. Qua các hiện tượng nầy ta có
thể thấy được trình độ phát triển của các nước, và đôi khi thấy được hình ảnh
không mấy tốt đẹp của một số nước trên vũ đài quốc tế.
Tại Đông Á bắt đầu có hiện tượng xuất khẩu lao động từ thập niên
1970, chủ yếu là lao động nam từ Phi-li-pin, Thái Lan và Indonesia sang làm
việc trong ngành xây dựng tại các nước Trung Đông, và lao động Việt Nam đi
làm việc tại các nước Đông Âu. Sang thập niên 1980, lao động di chuyển
trong nội bộ khu vực Đông Á bắt đầu tăng, lúc đầu chủ yếu là lao động nữ từ
Indonesia, Phi-li-pin, và Việt Nam di chuyển sang Đài Loan, Singapore và
Thái Lan, sau đó đến Nhật và Hàn Quốc. Vào thập niên 1980 và 1990, công
việc chính của những lao động nữ này là giúp việc nhà, nhưng sau đó mở
rộng sang các lãnh vực khác như săn sóc người già, phục vụ trong các nhà
hàng, v.v…
Năm 2012, Phi-li-pin xuất khẩu khoảng 1,8 triệu, Indonesia khoảng 19
vạn người. Việt Nam vào năm 2013 xuất khẩu độ 9 vạn lao động. So với Phi-
li-pin và Indonesia, số lượng lao động xuất khẩu của Việt Nam ít hơn nhiều,
16
một phần vì quy mô dân số nhỏ hơn. Nhưng đó là nói về lao động xuất khẩu
đến toàn thế giới. Nếu chỉ kể những thị trường chính ở Á châu thì số lượng
lao động đến từ Việt Nam, Indonesia và Thái Lan gần như tương đương.
Tại các nước phát triển ở Đông Á, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh
sang những ngành dùng nhiều tư bản, công nghệ và lao động trí thức, và
chuyển sang nước ngoài (đầu tư trực tiếp) những ngành dùng nhiều lao động
giản đơn. Tuy nhiên, những ngành dùng nhiều lao động giản đơn có quy mô
khá lớn nên không thể chuyển hết ra nước ngoài, nhất là những lãnh vực như
xây dựng, nhà hàng, và dịch vụ săn sóc người già vốn là những ngành không
thể dịch chuyển sang nước khác.
Từ thập niên 1980 Nhật Bản ngày càng thiếu hụt lao động trong những
lãnh vực vừa kể nhưng không tích cực nhập khẩu do lo ngại an ninh xã hội
không bảo đảm vì lao động giản đơn từ nước ngoài đến thường gặp trở ngại
về ngôn ngữ và bất đồng về văn hóa. Nhật có chính sách chỉ nhận thực tập
sinh (độ 155.000 người vào cuối năm 2013), là những người có trình độ văn
hóa nhất định và từ đầu được các công ty Nhật bảo lãnh. Do chính sách này,
vì tiềm năng cung và cầu khá lớn nên lao động giản đơn đến Nhật theo các
kênh bất hợp pháp và không có tư cách cư trú hợp pháp.
Hàn Quốc cũng thiếu lao động giản đơn từ đầu thập niên 1990. Lúc đầu
họ cũng hạn chế lao động nhập cư nhưng đến năm 2004 đã đưa ra chính sách
tiếp nhận có tổ chức bằng cách phát hành thẻ cho phép làm việc đối với lao
động nước ngoài theo hiệp định với nước xuất khẩu. Vào cuối năm 2012, tại
Hàn Quốc có 600.000 lao động nước ngoài trong đó 550.000 là lao động giản
đơn, phần lớn có xuất xứ từ Phi-li-pin và Việt Nam.
Đài Loan bắt đầu có chính sách tiếp nhận lao động nước ngoài từ năm
1989, lúc đầu giới hạn trong ngành xây dựng nhưng hiện nay phần lớn lao
động nước ngoài làm việc trong các ngành chế tạo công nghiệp. Vào năm
2013 lao động giản đơn nước ngoài tại Đài Loan độ 490.000 người, phần lớn
đến từ Indonesia và Việt Nam.
17
Trường hợp Thái Lan rất đặc biệt. Vào thập niên 1970, họ bắt đầu xuất
khẩu lao động nhưng cuối thập niên 1990 sau một thời gian phát triển nhanh
họ thiếu lao động nên xuất khẩu chấm dứt và chuyển sang nhập khẩu, chủ yếu
từ Myanmar.
Như vậy, dòng chảy lao động tại vùng Đông Á có hai đặc tính. Một là,
những nước thành công trong chiến lược phát triển kinh tế là những nơi ngày
càng nhập khẩu nhiều lao động. Trong đó, một số nước có kinh nghiệm xuất
khẩu lao động trong thời gian ngắn như Hàn Quốc và Thái Lan nhưng đã sớm
chuyển vị trí sang nước nhập khẩu. Hai là, những nước đã xuất khẩu lao động
từ rất sớm và hiện nay còn tiếp tục xuất khẩu với quy mô lớn là Phi-li-pin,
Indonesia và Việt Nam.
18
CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VIỆT
NAM THỜI GIAN QUA (TỪ 2006-2015)
2.1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VIỆT
NAM THỜI GIAN QUA
2.1.1 Chất lượng nguồn lao động Việt Nam
Nguồn nhân lực khá dồi dào nhưng chưa được quan tâm, nâng cấp và
đào tạo đến nơi đến chốn. Việt Nam hiện có một đội ngũ nhân lực khá dồi dào
so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Hiện nay, nước ta có trên
49,2 triệu người trong độ tuổi lao động trên tổng số 85,79 triệu người (chiếm
57,3%), đứng thứ 3 ở Đông Nam Á (sau In-đô-nê-xi-a và Phi-líp-pin) và đứng
thứ 13 trên thế giới về quy mô dân số. Số người trong độ tuổi từ 20 đến 39
khoảng 30 triệu người, chiếm 35% tổng dân số và chiếm 61% lực lượng lao
động, đây là lực lượng có thể tham gia xuất khẩu lao động. Sức trẻ là đặc
điểm nổi trội, là tiềm năng nguồn nhân lực Việt Nam, là yếu tố rất thuận cho
việc tuyển chọn lao đông đi làm việc ở nước ngoài.
Ở Việt Nam đang hình thành 2 loại hình nhân lực: nhân lực phổ thông
và nhân lực chất lượng cao. Nhân lực phổ thông hiện tại vẫn chiếm số đông,
trong khi đó, tỷ lệ nhân lực chất lượng cao lại chiếm tỷ lệ rất thấp. Theo ILO,
chưa đến 20% lực lượng lao động của Việt Nam được đào tạo chuyên môn và
những kỹ năng được trang bị thường không phù hợp với đòi hỏi của thị
trường. Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực có trình độ kỹ năng thấp nhất.
Cứ 10 lao động tại đây thì chỉ một người được đào tạo. Hệ quả của thực trạng
này là năng suất lao động của người Việt Nam rơi vào mức thấp nhất châu Á -
Thái Bình Dương. Một nghiên cứu khác của ILO tính toán năng suất lao động
của người Singapore năm 2013 cao gấp 15 lần năng suất lao động của người
Việt Nam. Thậm chí, năng suất lao động của người Việt Nam cũng chỉ bằng
1/5 so với Malaysia và 2/5 so với Thái Lan - hai quốc gia thu nhập trung bình
19
khác thuộc khối ASEAN.
Đánh giá tổng quan về chất lượng nhân lực Việt Nam qua các yếu tố:
+ Về thể lực: chỉ số phát triển con người (HDI) tăng qua các năm, năm
2005 là 0,540 đến năm 2010 tăng lên 0,572. So với một nước có GDP trên
đầu người ở mức tương đường thì HDI của Việt Nam cao hơn đáng kể. Nước
ta đã không ngừng đạt được các thành tựu phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao
mức sống mà đến nay tuổi thọ bình quân của dân số là 73 tuổi. Về các chỉ tiêu
trọng lượng, chiều cao trung bình của lao động: hiện nay, so với nhiều nước
trên thế giới và khu vực Đông Nam Á thì các chỉ tiêu này của dân số và lực
lượng lao động nước ta còn thấp hơn. Nhìn chung tình cảnh thể lực của phần
lớn lao động Việt Nam còn chưa phù hợp với yêu cầu của phương pháp tổ
chức và cường độ lao động ở nước ngoài.
+ Về yếu tố giáo dục đào tạo: tỷ lệ biết chữ: trong những năm qua, Việt
Nam nằm trong những nước có tỷ lệ người lớn biết chữ cao (từ 80 đến 97%
và có khả năng đạt được mục tiêu về xóa mù chữ cho người ở độ tuổi trưởng
thành vào năm 2015). Phổ cập giáo dục trung học cơ sở: hiện nay, cả nước có
khoảng 22 triệu học sinh, trong đó có 13,2 triệu học sinh tiểu học (chiếm
58%), 4,3 triệu học sinh trung học và 260.000 sinh viên cao đẳng và đại học.
Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: sau hơn 20 năm đổi mới, lực lượng lao
động có chuyên môn kỹ thuật cua Việt Nam đã tăng từ 7,6% năm 1986 lên
30% năm 2010. So với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nguồn lao
động Việt nam nhìn chung thông minh, cần cù, chịu khó, có khả năng nắm bắt
kỹ năng lao động và công nghệ nhanh.
+ Về yếu tố ý thức xã hội: ở nước ta, lực lượng lao động chủ yếu ở khu
vực nông thôn, khu vực nông dân, nông thôn chiếm hơn 80% dân số và hơn
70% lực lượng lao động. Chủ yếu tác phong lao động theo kiểu nông nghiệp,
manh mún, thiếu tác phong lao động công nghiệp, còn hạn chế trong việc
chấp hành kỷ luật lao đông, trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật.
20
2.1.2. Khái quát về thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam
Dù trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt về lao động, nhưng Việt Nam vẫn
xây dựng được thị trường lao động đa dạng phong phú, hàng năm đưa được
số lao động ra nước ngoài ngày càng nhiều. Chỉ tính trong 3 năm (2006 –
2008) trung bình mỗi năm đưa được hơn 83.000 lao động đi làm việc ở nước
ngoài, chiếm khoảng 5% tổng số lao động được giải quyết việc làm trong cả
nước. Và tính đến nay đã có khoảng 500.000 lao động Việt Nam làm việc ở
40 quốc gia và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề, trong đó có
những nước, vùng lãnh thổ nhận số lượng lớn lao động Việt Nam như:
Malaysia, Đài Loan và Hàn Quốc, những nước Châu Á có nhiều điểm tương
đồng về phong tục, tập quán, khí hậu và chi phí đi lại tương đối rẻ. Các thị
trường truyền thống như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan không những duy trì
số lao động đã có mà còn tăng thêm, như thị trường Hàn Quốc, trong năm
2008 đã nhận 12.000 lao động Việt Nam mới sang và tái tuyển dụng 6.000 lao
động; thị trường Nhật Bản, ngoài chương trình hợp tác, nước ta đã mở thêm
nhiều chương trình phi lợi nhuận, người lao động đi làm việc ở Nhật không
phải nộp phí trước khi đi, nên tổng số tu nghiệp sinh Việt Nam sang Nhật năm
2008 đã lên đến 6000 lao động. Bên cạnh các thị trường truyền thống, Việt
Nam đã và đang mở rộng việc xuất khẩu sang các thị trường khác như
Brunây, Xingapo và một số nước khu vực Trung Đông như các Tiểu Vương
quốc Ả rập thống nhất (UAF), Cata, Arập Xê út, Oman; đồng thời bước đầu
triển khai thí điểm đưa lao động sang những thị trường mới có thu nhập cao là
Oxtrâylia, Hoa Kỳ, Canada, Phần Lan và Italia.
Nguồn lao động dồi dào cộng với chi phí nhân công rẻ đã tạo sự hấp
dẫn cho thị trường xuất khẩu lao động Việt Nam. Theo số liệu thống kê của
Tổng cục Thống kê, đến cuối năm 2013, cả nước có 53,65 triệu người trong
độ tuổi lao động (từ 15 tuổi trở lên). Lực lượng lao động tăng 864,3 nghìn
người so với cùng thời điểm của năm trước, tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp vẫn
tiếp tục tăng cao hơn so với năm 2012. Tình hình trên đã tạo sức ép làm cho
21
giá nhân công rẻ và một phần cũng là vấn đề có tính quy luật trong nền kinh
tế thị trường. Xét trên mặt bằng lương tối thiểu theo quy định, lao động tại
Việt Nam vẫn có giá thành rẻ với mức trung bình dưới 50 USD/tháng, thấp
hơn Jakarta (Indonesia) và Bắc Kinh (Trung Quốc) hơn 50 USD/tháng và bị
Manila (Philippines) bỏ xa, với trung bình khoảng 140 USD/tháng. Các yếu tố
đó đã tạo nên lợi thế cạnh tranh của nguồn lao động Việt Nam khi xuất khẩu
sang thị trường quốc tế.
Công việc chủ yếu là các các công việc mang tính chất giản đơn,
không yêu cầu cao về tay nghề, tuy vậy số lượng lao động qua đào tạo, có
chất lượng cao đang ngày càng được nâng lên, góp phần mở rộng thị trường
xuất khẩu lao động nước ta. Lao động Việt Nam nhìn chung được đánh giá là
cần cù chịu khó, song ngôn ngữ cũng như các kỹ năng khác lại kém lao động
đến từ Trung Quốc, Philíppin hay Inđônêxia. Các công ty môi giới lao động
cho biết, chủ thuê lao động cơ bản thích tuyển dụng lao động Việt Nam hơn
bởi ngoài tính cần cù, lao động Việt Nam ít yêu sách hơn, phong tục, tín
ngưỡng và văn hóa cũng tương đồng hơn, phù hợp làm giúp việc trong gia
đình họ hơn so với lao động Philíppin và Inđônêxia.
2.2 THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
(2006-2015)
2.2.1 Xét về lượng lao động xuất khẩu
Việt Nam là một đất nước có dân số trẻ với hơn 90 triệu dân. Theo
Tổng cục thống kê, năm 2013 số người trong độ tuổi lao động của cả nước là
53,25 triệu, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm là 2.75%, tức là có khoảng 1.45 triệu
người trong độ tuổi lao động bị thiếu việc làm. Con số này là không hề nhỏ.
Để góp phần giải quyết tình trạng này, Việt Nam đã tập trung đẩy mạnh công
tác xuất khẩu lao động
22
Bảng 2.1. Số lượng lao động xuất khẩu của Việt Nam
từ năm 2005 – Quý I/2015
Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước
- Qua bảng 2.1 ta thấy, từ năm 2006 đến nay, ngành xuất khẩu lao động
của Việt Nam đã có những tín hiệu đáng mừng. Tính đến cuối năm 2008, theo
số liệu tổng hợp của Cục Quản lý lao động ngoài nước, tổng số lao động xuất
khẩu của Việt Nam tại tất cả các thị trường là 554.685 người. Từ năm 2006 đến
2008, trung bình mỗi năm có hơn 83.000 lao động xuất khẩu sang nước ngoài,
chiếm khoảng 5% tổng số lao động được giải quyết việc làm trong cả nước Số
lượng lao động xuất khẩu lao động qua các năm tăng một cách đều đặn.
Theo báo cáo 8 tháng năm 2009 của Cục quản lý lao động ngoài
nước, tổng số lao động đi xuất khẩu lao động đạt 45.634 người tương đương
với 50,2% so với định mức đặt ra của năm 2009
Năm 2011, tổng số lao động Việt Nam xuất khẩu sang nước ngoài
theo số liệu từ Cục Quản lý Lao động Ngoài nước là 81.475 người. Theo
thống kê của Hiệp hội Xuất khẩu Lao động Việt Nam, con số này là 88.298
người. Riêng số lao động Việt Nam đang có mặt tại bốn thị trường lớn nhất là
Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc và Nhật Bản là hơn 200.000 người (40% tổng
số lao động Việt Nam tại nước ngoài).
Năm 2013 con số người Việt Nam lao động ở ngoại quốc tăng lên
hơn 88.000, vượt con số chỉ tiêu của nhà nước. Đài Loan tiếp tục là nơi mướn
nhiều người Việt nhất, chiếm hơn 46.000 người. Nhật Bản và Malaysia là hai
quốc gia kế bảng hạng hai và hạng ba.
Theo thống kê của Cục quản lý lao động ngoài nước, trong năm 2014
có 106.840 lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, tăng 21,20% so với
năm 2013 và vượt 18% so với kế hoạch năm đặt ra. Riêng trong tháng 12, các
doanh nghiệp đã cung ứng được 8.092 lao động, tăng 6,40% so với tháng 11.
23
Nhìn chung, số lượng lao động xuất khẩu sang nước ngoài của Việt
Nam đều có sự tăng lên nhanh chóng trong các năm gần đây. Trong thời gian
trước , xuất khẩu lao động Việt Nam còn được đánh giá là đã gặp rất nhiều
khó khăn bởi bất ổn chính trị ở Lybia và thị trường xuất khẩu lao động Hàn
Quốc vẫn chưa hoàn toàn mở cửa đối với người lao động Việt Nam. Trước
năm 2006, có giai đoạn mà 2 thị trường quan trọng nhất của ta hiện nay là Đài
Loan (tạm dừng từ 20/1/2005, vì tỷ lệ lao động bỏ trốn cao, 9%) và Malaysia
( tạm dừng từ 27/1.2005, vì tình trạng lao động bất hợp pháp chưa giải quyết
triệt để) tạm ngừng tiếp nhận lao động của ta. Rất may là tình trạng này đã
được giải quyết và cải thiện hơn trong những năm gần đây. Năm 2014, dù
được đánh giá là không hoàn toàn thuận lợi cho hoạt động đưa người lao động
đi làm việc tại nước ngoài theo hợp đồng thì số lượng lao động Việt Nam đi
làm việc tại nước ngoài vẫn vượt kế hoạch đề ra. Điều này cho thấy các tín
hiệu đáng mừng của xuất khẩu lao động Việt Nam.
2.2.2 Xét về địa chỉ tiếp nhận lao động
Hiện Việt Nam đã đưa lao động đi làm việc ở trên hơn 40 quốc gia
và vùng lãnh thổ, tuy nhiên thực tế, số thị trường tiếp nhận lao động Việt
Nam thường xuyên và đều đặn không quá con số 10. Nếu như vào những năm
1980, dòng di chuyển lao động quốc tế của Việt Nam chủ yếu là đến Liên Xô
và các nước XHCN Đông Âu (cũ), thì nay thị trường cho xuất khẩu lao động
của Việt Nam lại tập trung vào các nước châu Á, và đang mở rộng dần sang
một số châu lục khác như Bắc Mỹ, Úc,…với các hình thức và nghành nghề
cung ứng lao động đa dạng hơn. Bên cạnh các thị trường lao động truyền
thống như: Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Malaysia,….các thị trường mới
cũng đang được quan tâm có thể kể đến như: Australia, Canada, Bahrain,
Angola, Thái Lan…
Từ năm 2007 đến tháng 6/2010 có 282.106 lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
Bảng 2.2. Số lượng lao động Việt Nam phân bổ theo một số địa bàn từ
24
2007-2010
Các thị trường Số lao động
(người)
Chiếm tỷ lệ
(%)
Đài Loan 89.887 38,58
Malaysia 39.817 17,09
Hàn Quốc 39.382 16,90
Nhật Bản 19.590 8,41
Khu vực Trung Đông 32.196 13,82
Khu vực châu Phi 12.092 5,20
Nguồn: Bộ Lao động – Thương Binh và Xã Hội
Có thể thấy rằng, trong thời gian qua Đài Loan vẫn luôn là thị trường
xuất khẩu lao động chủ lực của Việt Nam, cùng với đó Malaysia và Trung
Đông cũng là hai thị trường mà các doanh nghiệp kỳ vọng sẽ có mức tăng
trưởng cao trong thời gian tới. Bước sang năm 2011, xét về lượng tiếp nhận
thì lao động Việt Nam nhiều nhất tại Đài Loan, sau đó là Hàn Quốc,
Malaysia, Nhật Bản, Ả Rập Saudi, Lào, Campuchia, Trong số đó lao động
nữ chiếm gần 50%, chủ yếu làm trong ngành phục vụ cá nhân và xã hội và
công nghiệp. Một số thị trường khác như Brunei, Singapore, Các Tiểu vương
quốc Ả Rập Thống nhất cũng đang được mở rộng. Các quốc gia phát triển có
thu nhập cao như Úc, Mỹ, Canada, Phần Lan và Ý cũng là mục tiêu xuất khẩu
lao động Việt Nam hướng đến.
Bảng 2.3. Thị trường tiếp nhận lao động xuất khẩu Việt Nam phân theo
khu vực năm 2004
Thị trường Số lao động
(người)
Chiếm tỷ lệ
(%)
Khu vực Đông Bắc Á 91.648 85,78%
Khu vực Đông Nam Á 5.481 5,13%
Khu vực Trung Đông và Bắc Phi 5.968 5,58%
Các khu vực khác 2.059 1,93%
Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước.
Theo thống kê của Cục quản lý lao động ngoài nước, năm 2014, thị
trưởng tiếp nhận lao động xuất khẩu của Việt Nam phân theo khu vực đứng
đầu là khu vực Đông Bắc Á. Trong đó, số lao động đi làm việc tại Đài Loan là
25