BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐH KINH TẾ TPHCM
Đề tài : PHÁP LUẬT-THỰC TRẠNG
THÀNH LẬP, HOẠT ĐỘNG KHU CÔNG
NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT. NGUYÊN
NHÂN, GIẢI PHÁP
GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN HẢI
NHÓM 12- LỚP ĐÊM 4- K22
Năm 2013
MỤC LỤC
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 1
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 2
LỜI MỞ ĐẦU
Phát triển Khu công nghiệp ( KCN), Khu chế xuất (KCX) là định hướng chính
sách quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương của Đảng qua các thời kỳ đều xác
định vai trò của KCN, KCX là một trong những nền tảng của công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Thực tế đóng góp của hệ thống các KCN, KCX vào
phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong hơn 20 năm qua đã khẳng định tính đúng đắn
của chủ trương và mô hình KCN, KCX.
Quá trình xây dựng và phát triển KCN, KCX gắn liền với việc xây dựng mô hình
quản lý và hoạt động của các KCN, KCX tương đối đặc thù, mang tính đột phá; từng
bước hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, bộ máy của Ban Quản lý các KCN, KCX thể hiện
vai trò đầu mối quản lý nhà nước KCN, KCX ở địa phương. Trên thực tế, thành công của
thu hút FDI vào các KCN, KCX mang dấu ấn đậm nét của việc mạnh dạn thử nghiệm và
triển khai áp dụng có hiệu quả các cơ chế, chính sách, mô hình hoạt động riêng cho KCN,
KCX, qua đó tạo môi trường hấp dẫn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Trong bối cảnh chung của nền kinh tế còn nhiều khó khăn về môi trường đầu tư
kinh doanh, trong điều kiện pháp luật đã có những sự thay đổi nhất định, thể chế chính
sách, tổ chức bộ máy còn chưa hoàn thiện, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, chất lượng
nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, vẫn
còn một số hạn chế nhất định.
Với mục đích này, nhóm chúng tôi tập trung nghiên cứu “phân tích pháp luật và
bình luận, đánh giá về thực trạng thành lập, hoạt động của các Khu chế xuất, khu
công nghiệp ở Việt Nam.Nguyên nhân và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc
thành lập, hoạt động của KCX, KCN ở nước ta”.
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 3
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: PHÁP LUẬT VỀ KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT
1.1. Khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX)
Theo điều 2 chương 1 Nghị Định 29 NĐ-CP ngày 14 tháng 03 năm 2008 quy định về khu
công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế:
Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho
sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự
và thủ tục quy định tại Nghị định này.
Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho
sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, được thành
lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với khu công nghiệp quy định tại Nghị
định này.
Khu công nghiệp, khu chế xuất được gọi chung là khu công nghiệp, trừ trường hợp quy
định cụ thể.
1.2. Phân biệt khu công nghiệp, khu chế xuất
• Sự giống nhau:
- Là khu vực có ranh giới địa lý xác định, phân biệt với các vùng lãnh thổ khác và không
có cư dân sinh sống
- Được thành lập theo quy chế riêng của Chính phủ và hoạt động theo quy chế pháp lý
riêng.
- Là khu vực tập trung các doanh nghiệp sản xuất và các doanh nghiệp dịch vụ phục vụ
sản xuất
• Sự khác nhau:
Về mục tiêu thành lập:
Mục tiêu thành lập KCN nhằm mục đích thu hút vốn đầu tư trong nước và nước
ngoài.Trong khi đó, KCX được thành lập chỉ nhằm mục tiêu thu hút vốn đầu tư nước
ngoài.
Về căn cứ tính chất ranh giới, địa lý:
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 4
Ranh giới, địa lý của các KCN đơn thuần chỉ là xác định mốc giới, phân biệt các vùng,
lãnh thổ khác bằng hệ thống hàng rào. Trong khi đó, địa lý, ranh giới của KCX là biên
giới hải quan và thuế quan của một nước.
Các KCX yêu cầu có vị trí thuận lợi để thực hiện hoạt động xuất khẩu( ở gần hoặc có
điều kiện giao thông thuận tiện đến các cảng, bến bãi, hệ thống kho tập kết hàng…). Các
KCN lại yêu cầu vị trí đảm bảo có hệ thống giao thông thuận tiện cả tới các địa điểm tiêu
thụ nội địa.
Về tổ chức, hoạt động:
Tổ chức, hoạt động trong KCN bao gồm các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công
nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp. Trong khi đó, hoạt động trong
KCX bao gồm các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu và thực hiện các dịch
vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu.
Các công ty 100% vốn trong nước có thể được vào khu công nghiệp, khác với khu chế
xuất chỉ liên kết với các công ty vốn nước ngoài
Về chức năng hoạt động:
Chức năng hoạt động của KCN là sản xuất hàng công nghiệp và các dịch vụ cho sản xuất
hàng công nghiệp, kể cả sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Trong khi đó,
chức năng hoạt động của KCX là sản xuất hàng xuất khẩu và thực hiện các dịch vụ cho
sản xuất hàng xuất khẩu.
1.3. Pháp luật về khu công nghiệp, khu chế xuất
1.3.1. Cơ sở pháp lý cho KCN, KCX ở Việt Nam hoạt động và phát triển
Quá trình xây dựng và hoàn thiện luật pháp, chính sách về KCN, KCX đã được trải qua 4
giai đoạn:
- Giai đoạn 1 từ 1991 đến 1997: giai đoạn đầu xây dựng và triển khai một số cơ chế,
chính sách KCN, KCX (Nghị Định 192/1994/NĐ-CP ban hành ngày 28/12/1994 của
Chính Phủ, Nghị Định 12/1997/NĐ-CP ngày 18/02/1997 của Chính Phủ);
- Giai đoạn 2 từ 1997 đến 2006: cơ chế, chính sách KCN, KCX được quy định có hệ
thống tại Nghị định số 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ và là giai đoạn ủy quyền cho
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 5
một số ban quản lý KCN, KCX trong lĩnh vực đầu tư và một số lĩnh vực với mức ủy
quyền hạn chế.
- Giai đoạn 3 từ 2006 đến 2008: Luật Đầu tư 2005, Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày
22/9/2006 đã ban hành những quy định mới theo hướng đẩy mạnh phân cấp quản lý đầu
tư từ trung ương tới địa phương, tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của UBND cấp
tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư và Ban quản lý các KCN, KCX, điều chỉnh, thu hồi Giấy
chứng nhận đầu tư và quản lý các dự án đầu tư vào KCN, KCX.
Tuy nhiên, Nghị định 108/2006/NĐ-CP đã thay thế Nghị định 36/NĐ-CP trong khi các
quy định về quản lý KCN, KCX trên các lĩnh vực khác ngoài lĩnh vực đầu tư lại chưa
được ban hành kịp thời, đã tạo sự thiếu hụt về cơ sở pháp lý và gây khó khăn cho địa
phương và doanh nghiệp triển khai quản lý hoạt động của KCN, KCX.
- Giai đoạn 4: Từ sau năm 2008, sau khi Nghị định 29/NĐ-CP được ban hành ngày
14/03/2008 đã bổ sung kịp thời các quy định về hoạt động của KCN, KCX trên nhiều lĩnh
vực, đưa cơ chế quản lý KCN, KCX chuyển biến theo hướng mới: đẩy mạnh ủy quyền
sang phân quyền và mở rộng phân cấp quản lý KCN, KCX về cả quy mô vốn và lĩnh vực
quản lý.
Qua các giai đoạn phát triển đó, những quy định chủ yếu của luật pháp, chính sách
có liên quan đến KCN, KCX bao gồm các lĩnh vực quy hoạch, thành lập, mở rộng, đầu
tư, chính sách hỗ trợ đầu tư, tổ chức bộ máy, quản lý nhà nước theo từng lĩnh vực đã ngày
càng hoàn thiện, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi cho các KCN,
KCX hoạt động, thể hiện rõ xu hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính theo hướng “một
cửa, một đầu mối”. Bộ máy quản lý nhà nước KCN, KCX ở cấp địa phương mà đầu mối
là Ban quản lý KCN, KCX dần được kiện toàn để đáp ứng chức năng, nhiệm vụ mới.
1.3.2. Đóng góp của Nghị định 29/2008/NĐ-CP
Sau một thời gian triển khai, Nghị định 29/2008/NĐ-CP đã có những đóng góp đáng kể
vào việc hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển KCN, KCX thể hiện ở những mặt chủ
yếu sau:
- Nghị định 29/2008/NĐ-CP được ban hành là thực sự cần thiết, đáp ứng yêu cầu xây
dựng và triển khai cơ chế, chính sách phát triển KCN, KCX. Nghị định đã quy định khá
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 6
đầy đủ về công tác quản lý Nhà nước KCN, KCX trên nhiều lĩnh vực: quy hoạch, đầu tư,
xây dựng, đất đai, môi trường, lao động, thương mại, hải quan… Vấn đề tổ chức bộ máy,
biên chế, chức năng nhiệm vụ của các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh và các Ban quản lý
KCN, KCX trên từng lĩnh vực quản lý KCN, KCX cũng được quy định tương đối rõ
ràng. Nghị định thể hiện rõ chủ trương tăng cường phân cấp, ủy quyền trên các lĩnh vực
quản lý của các cơ quan Trung ương, UBND cấp tỉnh cho Ban quản lý KCN, KCX;
chuẩn hóa và hoàn thiện mô hình quản lý KCN, KCX theo nguyên tắc một cửa, tại chỗ
thông qua vai trò đầu mối tại Ban quản lý KCN, KCX trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ đã
được phân cấp, ủy quyền trên nhiều lĩnh vực.
- Nhìn chung, các bộ, ngành đã triển khai khá khẩn trương, nghiêm túc các quyền hạn,
trách nhiệm được giao tại Nghị định số 29/2008/NĐ-CP. Các bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài
nguyên và Môi trường, Công Thương, Xây dựng, Nội vụ, Tài chính, Lao động-Thương
binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc
trực tiếp ban hành Thông tư, Quyết định hoặc văn bản hướng dẫn các địa phương triển
khai các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp, ủy quyền.
Các bộ, ngành đã triển khai các công việc cụ thể sau:
- Vấn đề bảo vệ môi trường KCN, KCX: Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Quy
chế quản lý và bảo vệ môi trường KKT, KCNC, KCN và cụm công nghiệp (Thông tư
08/2009/TT-BTNMT ngày 15/7/2009) trong đó quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ
quan, đơn vị liên quan trong bảo vệ môi trường đối với từng giai đoạn phát triển KCN,
KCX, KKT.
- Vấn đề cấp ủy quyền cấp Giấy phép kinh doanh hoạt động mua bán hàng hóa đối với
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa form D,
Giấy phép thành lập văn phòng đại diện của thương nhân nước ngoài đã được hướng dẫn
tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Công Thương chủ trì xây dựng, công văn
hướng dẫn hoặc quyết định ủy quyền trực tiếp của Bộ Công Thương.
- Vấn đề cấp thẩm định phê duyệt quy hoạch chi tiết KCN, thiết kế cơ sở các dự án nhóm
B, C trong KCN, chứng chỉ quy hoạch các dự án trong KCN đã được Bộ Xây dựng
hướng dẫn tại Thông tư số 19/2008/TT-BXD ngày 20/11/2008.
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 7
- Việc kiện toàn bộ máy Ban quản lý KCN, KKT đã được Bộ Nội vụ nghiên cứu, trình
Thủ tướng Chính phủ ban hành các Quyết định thành lập Ban quản lý KCN, KKT trên cơ
sở hợp nhất các cơ quan quản lý KCN, KCX, KKT ven biển, KKT cửa khẩu ở địa
phương.
- Vấn đề quản lý lao động KCN, KCX, KKT: Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã
ban hành Thông tư số 13/2009/TT-BLĐTBXH ngày 06/5/2009 hướng dẫn thực hiện
nhiệm vụ quản lý Nhà nước về lao động trong các KCN, KCX, KKT và KCNC.
- Về Quy hoạch phát triển các KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm
2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 1107/QĐ-TTg ngày
21/8/2006. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt các Đề án quy hoạch tổng thể phát triển KCN của các địa phương.
- Hiện tại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang chủ trì xây dựng Quy hoạch phát triển các KCN
cả nước đến năm 2020 trình Thủ tướng Chính phủ ban hành. Quy hoạch các KCN, KCX
cả nước được xây dựng trên cơ sở tổng hợp các Đề án quy hoạch KCN của các địa
phương đã được phê duyệt hoặc đang trong quá trình trình duyệt.
1.3.3. Một số vấn đề vướng mắc, khó khăn khi triển khai cơ chế chính sách
KCN, KCX, KKT
Theo phản ánh của các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp thì cơ chế, chính sách
phát triển KCN, KCX, KKT mặc dù đã được hoàn thiện về cơ bản, song vẫn còn những
điểm vướng mắc, chưa hợp lý. Có thể khái quát những điểm chưa hợp lý thành một số
vấn đề chính sau:
- Các quy định của Nghị định 29/2008/NĐ-CP và các văn bản pháp luật khác còn chưa
thực sự thống nhất, hợp lý.
- Các bộ ngành chưa hướng dẫn đầy đủ các địa phương triển khai cơ chế phân cấp, ủy
quyền.
- Các địa phương do chưa có hướng dẫn thống nhất từ trung ương nên quy định chức
năng nhiệm vụ của Ban quản lý KCN, KKT cũng như cơ chế phối hợp công tác quản lý
Nhà nước KCN, KKT ở địa phương còn chưa thống nhất, chưa thực hiện phân cấp, ủy
quyền đầy đủ theo quy định.
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 8
- Một số điểm chồng chéo giữa các văn bản pháp luật chưa được giải quyết cũng như một
số yêu cầu mới đặt ra cần phải giải quyết, như:
+ Vấn đề ủy quyền cấp, cấp lại, gia hạn giấy phép lao động cho người lao động nước
ngoài, vấn đề đăng ký nội quy lao động, hệ thống thang bảng lương, đăng ký đưa lao
động đi đào tạo
+ Vấn đề đăng ký nội quy an toàn vệ sinh, an toàn lao động.
+ Vấn đề thẩm quyền của Ban quản lý KCN, KKT trong công tác thanh tra, xử phạt vi
phạm hành chính.
+ Thẩm quyền của Ban quản lý KCN trong một số nhiệm vụ quản lý môi trường như xác
nhận bản cam kết bảo vệ môi trường, cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình đối
với công trình xây dựng trong KCN.
Tổ chức bộ máy Ban Quản Lý KCN, KKT đáp ứng yêu cầu thực tiễn và chức năng,
nhiệm vụ mới.
Kiện toàn bộ máy quản lý KCN, KKT ở cấp Trung ương để tương xứng với sự phát triển
KCN, KKT và chức năng, nhiệm vụ của các Ban Quản Lý KCN, KKT
+ Vấn đề bổ sung, thành lập mới các KCN, KKT.
+ Vấn đề ưu đãi đầu tư vào các KCN (Nghị định 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của
Chính phủ số quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế Thu nhập
doanh nghiệp)
+ Vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng các dự án trong KCN, KKT (Nghị định
69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng
đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư).
1.3.4. Vấn đề sửa đổi Nghị định 29/2008/NĐ-CP
Những điểm bất hợp lý, khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai Nghị định
29/2008/NĐ-CP đã đặt ra vấn đề cần phải nghiên cứu, sửa đổi Nghị định để phù hợp hơn
với yêu cầu thực tiễn phát triển KCN, KKT. Việc sửa đổi Nghị định 29/2008/NĐ-CP nên
được thực hiện theo hướng:
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 9
- Điều chỉnh, bổ sung một số quy định về quy hoạch, thành lập KCN, KCX, KKT; hoạt
động của KKT ven biển, KKT cửa khẩu; quyền và nghĩa vụ của công ty phát triển hạ tầng
KCN, KCX, KKT cho phù hợp với tình hình thực tế.
- Quy định rõ hơn cơ chế phân cấp, ủy quyền cho Ban quản lý KCN, KKT trên các ngành
lĩnh vực theo hướng tiếp tục chuyển dần từ cơ chế ủy quyền sang cơ chế giao quyền trực
tiếp của các bộ, ngành trung ương, UBND cấp tỉnh cho Ban quản lý KCN, KKT; quy
định bổ sung cơ chế phối hợp giữa Ban quản lý KCN, KKT với các bộ, ngành trung
ương, các sở ngành địa phương trong công tác quản lý hoạt động KCN, KCX, KKT.
- Giải quyết một số vướng mắc liên quan đến các quy định về thẩm quyền của Ban quản
lý KCN, KKT trong công tác thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm hành chính; lĩnh vực
lao động; môi trường… theo hướng tạo điều kiện cho Ban quản lý KCN, KKT thực hiện
đầy đủ vai trò đầu mối quản lý KCN, KCX, KKT ở địa phương theo cơ chế ”một cửa, tại
chỗ”.
- Bổ sung, làm rõ các quy định về vị trí, vai trò, tổ chức bộ máy, biên chế của Ban quản lý
KCN, KKT nhằm tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở pháp lý, nguồn lực để các BQL KCN,
KKT triển khai nhiệm vụ.
- Kiện toàn cơ quan quản lý nhà nước về KCN, KCX, KKT ở cấp Trung ương cho tương
xứng với sự phát triển và đóng góp ngày càng cao của hệ thống các KCN, KCX, KKT
trong phát triển kinh tế địa phương và cả nước, cũng như yêu cầu của việc thực hiện vai
trò kiểm tra, giám sát, chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn đối với hệ thống BQL KCN,
KKT ở địa phương.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THÀNH LẬP VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC KHU
CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT
2.1 Thực trạng thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất:
2.1.1 Lịch sử hình thành Khu công nghiệp, khu chế xuất:
2.1.1.1 Giai đoạn trước 1991:
Khu công nghiệp với tư cách là một khu vực hội tụ nhiều nhà máy công nghiệp đã
hình thành ở Việt Nam từ lâu. Ở Hà Nội từ những năm 1960 đã thành lập các khu công
nghiệp ở Thượng Đình, Văn Miếu – Pháp Vân, Cầu Bưu – Giáp Bát, Trương Định, Minh
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 10
Khai – Vĩnh Tuy – Mai Động, Đức Giang – Cầu Đuống, … Ở Miền Nam, dưới chế độ
cũ, một số khu công nghiệp (hay khu kỹ nghệ theo cách gọi khi đó) được thành lập như
An Hòa (Quãng Nam), Biên Hòa (Đồng Nai), Hòa Khánh (Đà Nẵng), Phong Đình …
Từ khi đổi mới, Việt Nam bắt đầu đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một trong những
biện pháp thu hút đầu tư là thành lập các khu công nghiệp, tại đó các doanh nghiệp được
hưởng những ưu đãi về hỗ trợ kết cấu hạ tầng cùng với ưu đãi về tài chính. Khu chế xuất
Tân Thuận thành lập vào tháng 11/1991 là khu công nghiệp đầu tiên của cả nước. Tiếp
theo là khu chế xuất Linh Trung I thành lập vào năm 1992. Cả hai khu này đều nằm ở
Thành phồ Hồ Chí Minh để khai thác lợi thế nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng giao
thông (đường sá, sân bay, cảng).
2.1.1.2 Giai đoạn 1991 – 1994:
Có thể gọi là giai đoạn thí điểm phát triển các khu công nghiệp. Gọi là thí điểm vì
giai đoạn đó không có cơ sở pháp lý nào hậu thuẫn việc phát triển các khu công nghiệp,
cũng không có quy định minh bạch nào về thế nào là một khu công nghiệp. Cả giai đoạn
này chỉ có hai khu chế xuất nói trên và 5 khu công nghiệp thành lập, trong đó hai khu ở
Hà Nội (Nội Bài, Thăng Long); một khu ở Hải PHòng (Nomura – Hải Phòng), một khu ở
Đà Nẵng (Khu công nghiệp Đà Nẵng), và một khu công nghiệp ở Đồng Nai (Amarta).
Lúc đó để phân biệt các khu công nghiệp này với những khu công nghiệp đã hình thành
từ những năm 1960, thì Nhà nước gọi những khu mới này là các khu công nghiệp tập
trung. Về sau, để thuận tiện, chỉ gọi là các khu công nghiệp, còn các khu công nghiệp cũ
và những khu có đặc điểm tương tự thì được gọi chung là cụm công nghiệp.
Tháng 12/1994, Chính Phủ ra nghị quyết 192/NQ-CP ban hành quy chế khu công
nghiệp. Từ đó các khu công nghiệp được thành lập nhiều hơn. Trong khi Chính Phủ phê
duyệt danh sách các khu công nghiệp ưu tiên thành lập đến năm 2000 mà toàn bộ các khu
trong danh sách đó chỉ tập trung ở Hà Nội hay Hồ Chí Minh, thì một số tĩnh thành cũng
đã xúc tiến phát triển các khu công nghiệp ở địa phương mình. Sau đó, theo đề nghị của
các tĩnh Chính Phủ cũng đã bổ sung phê duyệt danh sách nói trên.
Việc ban hành Quy chế khu công nghiệp năm 1994 là một bước tiến lớn trong
chính sách phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam, vì nó tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt
động của nhà đầu tư thứ cấp (doanh nghiệp thuê đất), nhà đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 11
khu công nghiệp, và các cơ quan chủ quản (chính quyền). Lần đầu tiên khu công nghiệp
được quy định rõ ràng trong một văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, do quy chế này
còn đơn giản, nên cơ sở pháp lý này chưa đủ mạnh để hậu thuẫn các nhà đầu tư, nhất là
các nhà đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thuộc khu vực kinh tế tư nhân.
Bên cạnh việc ban hành Quy chế về khu công nghiệp, Chính phủ đã thành lập một
cơ quan giúp việc cho Thủ Tướng về đường lối phát triển khu công nghiệp. Ban đầu đó là
Văn phòng các khu công nghiệp tập trung (tháng 8 năm 1996) đặt trong Văn phòng
Chính Phủ. Sau đó là Ban quản lý các khu công nghiệp Việt Nam (tháng 12/1996) do
Chính Phủ chỉ đạo trực tiếp.
2.1.1.3 Giai đoạn từ năm 1995 – 1997:
Cả nước có thêm 40 khu công nghiệp mới được thành lập, nhiều gấp tám lần số
lượng thành lập trong giai đoạn thí điểm. Phần lớn, các khu mới thành lập trong giai đoạn
này ở các tỉnh phía Nam, nhất là ở Bình Dương và Đồng Nai.
Để giải quyết những bất cập của Quy chế 1994, Chính Phủ đã ra nghị quyết số
136/NQ-CP ngày 24/4/1997 ban hành quy chế mới về khu công nghiệp thay cho quy chế
năm 1994. Từ đó đến nay phát triển các khu công nghiệp chuyển sang giai đoạn tăng
nhanh và ổn định, tốc độ tăng số lượng khu công nghiệp hàng năm đạt bình quân 20%.
Theo Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 21/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt Quy hoạch phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2015 và định
hướng đến năm 2020, Nhà nước sẽ cho phép thành lập mới một cách có chọn lọc các khu
công nghiệp, để đến năm 2015 tổng diện tích các khu công nghiệp đạt khoảng 65.000 ha
– 70.000 ha, đến năm 2020 thì hoàn thiện về cơ bản mạng lưới khu công nghiệp trên toàn
lãnh thổ với tổng diện tích các khu công nghiệp đạt khoảng 80.000 ha. Theo tính toán
của Bộ Kế Hoạch Đầu Tư, tổng số khu công nghiệp thành lập mới từ khi Quy hoạch trên
được phê duyệt đến năm 2020 vào khoảng trên 200 khu với tổng diện tích khoảng trên
63,5 nghìn ha.
Để phát triển các khu công nghiệp, các địa phương chủ yếu áp dụng hình thức kêu
gọi các nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước tới phát triển cơ sở hạ tầng khu công
nghiệp. Chính quyền địa phương hỗ trợ về hạ tầng giao thông kết nối khu công nghiệp
với các trục giao thông chính. Nhiều hình thức ưu đãi dành cho khu công nghiệp đã được
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 12
Chính quyền địa phương áp dụng. Tuy nhiên kể từ sau khi gia nhập Tổ Chức Thương Mại
Thế Giới WTO, các hình thức ưu đãi này đã bị hạn chế đáng kể.
Năm 1996 ban hành Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi lần thứ ba, năm 2000 ban
hành Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi lần thứ tư, năm 2005 ban hành Luật đầu tư là những
thời điểm đáng ghi nhớ trong lịch sử phát triển các khu công nghiệp, vì theo các luật này
khu công nghiệp là địa bàn ưu đãi đầu tư, nhà đầu tư xây dựng khu công nghiệp là đối
tượng được ưu đãi, Nhà nước hỗ trợ phát triển khu công nghiệp.
Một sự kiện nổi bật nữa trong lịch sử phát triển khu công nghiệp là việc Chính Phủ
ra Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 về khu công nghiệp, khu chế xuất và
khu kinh tế. Văn bản quy phạm pháp luật này được đánh giá là cơ sở pháp lý quan trọng
cho kiện toàn tổ chức của các ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh, phân quyền đáng kể
cho các ban này cũng như các trưởng ban, nâng cao vai trò của các cơ quan quản lý nhà
nước đối với các khu công nghiệp.
2.1.1.4 Tính đến hết năm 2012:
Cả nước có 283 khu công nghiệp, trong đó có khoảng 178 khu công nghiệp đi vào
hoạt động (đã có nhà đầu tư thứ cấp – tức là doanh nghiệp thuê đất trong khu công
nghiệp) với tổng diện tích tự nhiên 47.300 ha. Trong 4 vùng kinh tế trọng điểm là
Mekong Delta, Miền Nam, Miền Trung, và Miền Bắc thì vùng kinh tế trọng điểm Miền
Nam dẫn đầu cả nước về phát triển các khu công nghiệp, đã thành lập tới 146 khu công
nghiệp, chiếm trên 50% số khu công nghiệp cả nước. Mà tập trung chủ yếu ở tỉnh Long
An với 36 khu công nghiệp, và ít nhất ở tỉnh Tây Ninh với 4 khu công nghiệp. Còn ở
vùng kinh tế trọng điểm Miền Bắc thì tập trung được 55 khu công nghiệp, chủ yếu là ở
Hà Nội và tĩnh Bắc Ninh với khoảng 13 khu công nghiệp, và ít nhất là ở tỉnh Bắc Giang
chỉ có một khu công nghiệp. Vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung có khoảng 40 khu
công nghiệp, tập trung chủ yếu ở các tỉnh như: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình
Định. Vùng kinh tế trọng điểm Mekong Delta tập trung khoảng 48 khu công nghiệp,
trong đó tỉnh Cần Thơ tập trung số lượng khu công nghiệp lớn nhất là khoảng 11, còn
tỉnh Trà Vinh chỉ có một khu công nghiệp.
Tuy nhiên về mặt nổi thì ta thấy rằng số lượng các khu công nghiệp ngày một
tăng thế nhưng những bất cập trong việc hoạch định các khu công nghiệp đang là vấn đề
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 13
cần nhắc đến. Vậy những bất cập trong việc hoạch định xây dựng các khu công nghiệp đó
là:
• Vấn đề thứ nhất: Là tình trạng thiếu đồng nhất giữa quy hoạch ngành
với quy hoạch lãnh thổ.
Cuộc chạy đua thành lập các KCN, KCX với mục đích là có KCN, KCX và hy
vọng hưởng lợi từ các KCN đang làm mất đi quy hoạch tổng thể, không gắn quy hoạch
KCN, KCX với quy hoạch ngành, vùng và quy hoạch lãnh thổ quốc gia, chưa xem xét
đầy đủ tất cả các yếu tố: vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, nguồn lực vật chất, tài nguyên,
cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, để giải quyết tối ưu bài toán quy hoạch. Tình hình đầu
tư phát triển các KCN không theo quy hoạch tổng thể, thiếu sự phối hợp giữa các địa
phương trong vùng nên đã không tận dụng được lợi thế so sánh, dẫn đến tình trạng cạnh
tranh gay gắt làm hiệu quả hoạt động các KCN bị giảm sút.
• Vấn đề thứ hai: Là còn tồn tại là chưa thống nhất quan điểm phát triển
kinh tế và vấn đề xã hội.
Một số địa phương (như Hưng Yên, Hải Dương, Đồng Nai, Long An…) do quy
hoạch phát triển các KCN chưa hợp lý, sử dụng nhiều đất chuyên trồng lúa, đất có ưu thế
đối với sản xuất nông nghiệp, đất đang có khu dân cư tại những vị trí có hạ tầng kỹ thuật
dẫn đến tình trạng các hộ nông dân bị thu hồi đất, không có đất canh tác, ảnh hưởng đến
đời sống và gây tâm lý bất ổn trong nhân dân.
Mạng lưới KCN, KCX nặng tính cục bộ, khép kín trong địa giới hành chính, xuất
hiện sự cạnh tranh không lành mạnh. Tình trạng “Quy hoạch treo”, “Dự án treo”, “đền bù
treo ” đang diễn ra phổ biến ở hầu hết các tỉnh, dân mất đất không có việc làm, mất lòng
tin, nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực khác trong xã hội. Tình trạng các KCN được xây dựng
theo “nhiệm kỳ”, tệ xin – cho vẫn còn phổ biến trong việc phê duyệt dự án đầu tư, phê
duyệt và đưa vào quy hoạch phát triển KCN ở các địa phương, làm phá vỡ quy hoạch
tổng thể phát triển KCN của cả nước và sự thiếu các chuẩn mực để xây dựng một KCN
của cơ quan Trung ương dẫn đến hiện tượng các KCN được xây dựng theo kiểu phong
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 14
trào, đầu tư tràn lan, dàn trải, kém hiệu quả xảy ra ở rất nhiều nơi và ngày càng nghiêm
trọng.
Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch và việc xử lý đơn
khiếu kiện liên quan đến việc đền bù giải phóng mặt bằng bị buông lỏng và không giải
quyết kịp thời gây ra nhiều bức xúc cho người dân có đất bị thu hồi. Chưa có cơ chế kiểm
tra, giám sát lại của người dân đối với cơ quan nhà nước nên tình trạng tham nhũng, sách
nhiễu gây phiền hà cho doanh nghiệp và người dân của một bộ phận không nhỏ cán bộ
công chức là rất nghiêm trọng. Điều này thể hiện sự không công bằng, minh bạch của
chính sách, vừa không ngăn chặn được các tiêu cực xảy ra và làm cản trở đến hoạt động
và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
• Vấn đề thứ ba: Là chưa kết hợp quy hoạch KCN, KCX và quy hoạch
đô thị.
Tình trạng các KCN đã được xây dựng hoặc là ở trong lòng thành phố gây rất
nhiều khó khăn cho công tác bảo vệ môi trường gây ách tắc giao thông, cung cấp nhà ở,
dịch vụ chăm sóc sức khỏe, trường học cho người lao động và con em họ, hoặc được bố
trí quá xa khu dân cư và các nguồn cung cấp dịch vụ nên khó khăn trong việc thu hút các
nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài.
2.2 Thực trạng hoạt động của các khu công nghiệp, khu chế xuất:
2.2.1 Giá thuê đất:
Về việc điều chỉnh mức giá tiền thuê đất theo nghị định số 142/2005/NĐ-CP ngày
14/11/2005 của Chính phủ về thu tiền thuê đất, mặt nước; Nghị định số 121/2010/NĐ-CP
ngày 30/12/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2005/NĐ-CP (Nghị
định 142/2005, Nghị định 121/2010), hiện nay có nhiều ý kiến phản ánh của doanh
nghiệp trong quá trình thực hiện, cụ thể như sau:
2.2.1.1 Thứ nhất: Là về cơ chế chính sách
Về cách tính giá thuê đất hàng năm theo Nghị định 142/2005:
Tiền thuê đất phải nộp 01 năm = Đơn giá thuê đất x Diện tích đất thuê
Trong đó đơn giá thuê đất được tính trên cơ sở giá thị trường các năm qua đều tăng cao
dẫn đến mức giá thuê đất tăng cao theo; về hệ số xác định đơn giá thuê theo Nghị định
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 15
142/2005 là 0.5%; hệ số này được Nghị định 121/2010 điều chỉnh thành 1.5%, thực tế
việc điều chỉnh này làm giá thuê đất tăng gấp 3 lần.
Nghị định 121/2010/NĐ-CP hướng dẫn xử lý các dự án thuê đất trước ngày
01/6/2006 theo hướng các dự án mà một trong ba loại giấy tờ gồm giấy chứng nhận đầu
tư, quyết định cho thuê đất, hợp đồng thuê đất nếu có quy định đơn giá và nguyên tắc
điều chỉnh thì được tiếp tục thực hiện nguyên tắc điều chỉnh giá thuê đó: việc quy định
như hiện nay là không thỏa đáng.
Các dự án thuê đất trước đây được áp dụng nguyên tắc điều chỉnh giá thuê theo
hướng ổn định chu kỳ ít nhất 5 năm, khi điều chỉnh tăng thì tăng không quá 15% so với
mức giá trước đó. Nguyên tắc này được quy định tại Quyết định 189/2000/QĐ-BTC ngày
24/11/2000, Quyết định 1357/TC/QĐ/TCT ngày 30/12/1995 của Bộ Tài chính và được áp
dụng cho tất cả các dự án (không qui định phải đưa vào giấy chứng nhận đầu tư, quyết
định cho thuê đất, hợp đồng thuê đất), theo quy định tại Nghị định 121/2010 chỉ cho các
dự án có ghi nguyên tắc điều chỉnh giá thuê vào 3 loại giấy tờ trên mới được hưởng là
không hợp lý, không thỏa đáng đối với các nhà đầu tư thuê đất cùng thời điểm.
Mặt khác các dự án thuê đất trước ngày 01/6/2006 không được khấu trừ tiền bồi
thường vào tiền thuê đất và phải tính đơn giá thuê đất cao bằng với các dự án vào sau
ngày 1/6/2006.
2.2.1.2 Thứ hai: Là giá tính thuế trên địa bàn tĩnh.
Thực hiện điều chỉnh giá thuê đất theo Nghị định 142/2005 và Nghị định 121/2010
trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua, Ban Quản lý các KCN nhận được nhiều ý kiến từ
phía các doanh nghiệp phản ánh về mức giá cao.
Cụ thể tại KCN Biên Hòa I, việc điều chỉnh đơn giá thuê lại đất theo hướng dẫn
của Sở Tài chính tại các văn bản số 323/STC-GCS ngày 21/02/2011 và văn bản số
1168/STC-GCS ngày 03/6/2011 đối với các doanh nghiệp hoạt động tại Khu công nghiệp
Biên Hòa I là rất cao so với đơn giá thuê đất cũ (800 đồng/m
2
/năm):
• Giai đoạn từ 01/6/2006 - 31/12/2010:
Mức giá thấp nhất (theo vị trí) là 5.250 đồng/m
2
/năm, cao hơn 6 lần đơn giá cũ;
mức giá cao nhất là 17.500 đồng/m
2
/năm, cao hơn 22 lần đơn giá cũ.
• Giai đoạn từ 01/03/2011:
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 16
Là 30.750 đồng/m
2
/ năm, cao hơn 38 lần đơn giá cũ.
Khu công nghiệp Nhơn Trạch 3 (Đồng Nai) vào thời điểm 1997- 2005 chỉ có 500
đồng/m2/năm, năm 2010 mức giá là trên 1.400 đồng/m2/năm. Diện tích đất ở nhiều nơi
đã tăng 2-3 lần, thậm chí có nơi tăng 18 lần.
Khu công nghiệp hiện có trên cả nước đa số đã được xây dựng và cho thuê đất
trước thời điểm năm 2006, do vậy nếu áp dụng mức giá thuê đất theo Nghị Định 142 là
không phù hợp. Bởi lẽ hợp đồng ký với các doanh nghiệp thuê đất đã được thực hiện, nay
đàm phán với các doanh nghiệp để tính tiền thuế đất tăng là khó khăn.
Tiền thuê đất tăng theo quy định hiện nay cũng gây khó khăn cho hoạt động của
các công ty kinh doanh hạ tầng khi đã ký hợp đồng thuê lại với các doanh nghiệp trong
KCN do không dự tính đến mức giá tăng cao và không ổn định như hiện nay, làm ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh cũng như khó khăn trong đàm phán lại với các nhà đầu
tư để thỏa thuận mức giá thuê đất cao hơn.
Tỷ lệ tăng cao của tiền thuê đất đã trở thành gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp,
xét về hoạt động đầu tư của một dự án thuê đất hoạt động trong 50 năm, điều chỉnh 5
năm một lần với mức điều chỉnh không dự báo trước được sẽ là yếu tố rủi ro, doanh
nghiệp không yên tâm hoạt động.
2.2.2 Về tình hình thu hút vốn đầu tư:
2.2.2.1 Tỷ lệ lấp đầy:
Tỷ lệ lấp đầy khu công nghiệp, khu chế xuất hiện nay là 63% (là tỉ lệ diện tích cho
thuê so với diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê). Bộ Xây dựng cho biết, đến nay đã
có 283 khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất có quyết định thành lập và phê duyệt quy
hoạch chi tiết với tổng diện tích đất tự nhiên gần 80.000ha, trong đó diện tích đất công
nghiệp có thể cho thuê đạt gần 52.000ha. Có 178 khu công nghiệp đã đưa vào hoạt động,
với diện tích 47.300ha, đã cho thuê khoảng 25.000ha (tỷ lệ lấp đầy 63%). Trong đó
khoảng 77 khu công nghiệp mà tỷ lệ lấp đầy thấp hơn tỷ lệ bình quân trong cả nước nói
chung. Hơn 100 khu công nghiệp mà tỷ lệ lấp đầy cao hơn mức bình quân. Và có hơn 41
khu đã cho thuê hết diện tích đất công nghiệp, nghĩa là tỷ lệ lấp đầy là 100% và tập trung
chủ yếu ở các khu công nghiệp tĩnh Bình Dương, Đồng Nai.
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 17
Trong đó ở vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung thì riêng tại tỉnh Bình Định, là
một trong những địa phương có thể nói là thành công trong việc thu hút các nhà đầu tư
vào các khu công nghiệp, với tỷ lệ lấp đầy trên 89%, trong đó, khu công nghiệp Phú Tài,
Long Mỹ đã lấp đầy 100% diện tích. Đồng thời ở vùng kinh tế trọng điểm Miền Bắc thì
tĩnh Hải Phòng với khu công nghiệp Nomura có tỉ lệ lấp đầy trên 97%. Công Thương -
Khu công nghiệp Nomura được thành lập ngày 23-12-1994 giữa UBND thành phố Hải
Phòng và Tập đoàn Tài chính Nomura (Nhật Bản). Sau 19 năm thành lập, đến nay
Nomura đã có trên 53 dự án FDI đang hoạt động với tổng vốn đăng ký đầu tư đạt trên 1
tỷ USD. Tỷ lệ vốn đầu tư bình quân đạt khoảng 8 triệu USD/ha, đạt tỷ lệ đầu tư vào loại
cao nhất trong các khu công nghiệp đang hoạt động của cả nước. Các nhà đầu tư chủ yếu
đến từ Nhật Bản, Mỹ, EU…Trong đó, nhiều dự án công nghệ cao, hoạt động hiệu quả
như Robotech, Yazaki, Toyoda Gosei, Toyota Boshoku, Pioneer, GE…
Tuy nhiên cũng tại vùng kinh tế trọng điểm Miền Bắc thì tĩnh Bắc Giang có tỷ lệ
lấp đầy các khu công nghiệp chưa cao và thấp hơn so với mức bình quân của cả nước. Cụ
thể là tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp mới chỉ đạt 57%. Không những thế, điều đáng
quan tâm ở đây là các khu công nghiệp ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với tỷ lệ lấp
đầy bình quân 72.3% diện tích đất hữu dụng, cao hơn rất nhiều so với mức bình quân
chung của cả nước là 63%. Trong đó có nhiều khu công nghiệp đã lấp đầy 100% diện
tích.
Thông qua tỉ lệ lấp đầy khu công nghiệp của cả nước và một số tĩnh, khu kinh tế
trọng điểm ta thấy được sự lãng phí nguồn lực đang là một thực trạng đáng báo động.
Nguồn lực, trước hết là đất đai, nguồn lực vật chất hữu hạn và cực kỳ quan trọng
của một quốc gia. Trong xu thế tất yếu của quá trình đô thị hóa và phát triển các KCN,
KCX làm cho quỹ đất nói chung và quỹ đất nông nghiệp nói riêng ngày càng thu hẹp.
Nhiều KCN, KCX có thể đặt tại những khu vực không phải là đất nông nghiệp, song vì
nhiều lý do khác nhau, các KCN lại được xây dựng trên những khu vực đất canh tác (các
KCN Hải Dương).
Có quá nhiều KCN, KCX được hình thành nhưng không được “lấp đầy”, và để “lấp đầy”
(hình thức) các địa phương sẵn sàng cho thuê với giá rất rẻ. Đã có nhiều doanh nghiệp
thuê đất, sau một thời gian lại cho doanh nghiệp khác thuê lại với giá cao hơn. Đây là
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 18
nguyên nhân dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các địa phương, giữa
các KCN, gây lãng phí xã hội. Nhiều địa phương đã tự ý ban hành các chính sách ưu đãi
thái quá “mời chào” các nhà đầu tư vượt quá quy định chung của Chính phủ và các bộ,
ngành để thu hút đầu tư, chấp nhận dùng ngân sách địa phương bù lỗ, làm ảnh hưởng tới
ngân sách nhà nước.
2.2.2.2 Thu hút đầu tư:
Hiện nay, các KCN đã thu hút được trên 8.500 dự án đầu tư trong và ngoài nước
với tổng vốn đăng ký khoảng trên 70 tỉ USD, trong đó vốn đầu tư nước ngoài hơn 52 tỉ
(chiếm 30% FDI cả nước), còn lại là vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong nước. Tuyệt
đại bộ phận các khu công nghiệp đang hoạt động đều đã thu hút các nhà đầu tư trong và
ngoài nước. Một số ít khu chỉ thu hút được nhà đầu tư nước ngoài, chẳng hạn: Khu công
nghiệp Thăng Long (Đông Anh, Hà Nội), Kim Hoa, Bá Thiện (Vĩnh Phúc), Tân Trường
(Hải Dương), … Và càng ít khu chỉ thu hút được nhà đầu tư trong nước. Khu Kim Hoa ở
Vĩnh Phúc được thành lập năm 1998 có duy nhất một nhà đầu tư thứ cấp và đã thuê toàn
bộ khu, đó là Công ty Toyota Motor Việt Nam. Tuy nhiên khả năng thu hút đầu tư của
một số khu công nghiệp còn thấp, số lượng nhà đầu tư đăng ký mới thì nhiều nhưng triển
khai thực hiện sẽ thấp , dẫn đến không phát huy hiệu quả vốn đầu tư xây dựng hạ tầng
khu công nghiệp.
Thực vậy, tại Thành Phố Hồ Chí Minh, tổng vốn đầu tư thu hút, kể cả cấp mới và
điều chỉnh tại 19 KCX-KCN chỉ đạt 134,07 triệu USD, giảm 88,85% so với cùng kỳ
(tổng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đạt 70,93 triệu USD, giảm 0,85%; vốn đầu tư trong
nước đạt 63,14 triệu USD, giảm 88%). Ngoài ra, diện tích nhà xưởng cho thuê cũng giảm
48% so với cùng kỳ và chỉ đạt 10.232 m². Hơn thế nữa, ở những năm trước thì số lượng
dự án đầu tư vào khoảng 60-65 dự án/ năm, thế nhưng trong những năm gần đây thì số
lượng dự án đầu tư giảm chỉ còn khoảng 45-50 dự án/năm. Không những thế vốn các dự
án mới đăng ký cũng giảm, còn các dự án nhỏ thì vốn thấp và việc thực hiện giải ngân
cũng rất chậm. Không chỉ có vậy, hiện nay tỷ lệ các dự án thuộc nhóm công nghệ cao tại
các khu công nghiệp, khu chế xuất vẫn còn rất thấp.
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 19
Mặc dù tình hình chung của các khu công nghiệp trên cả nước là như vậy, nhưng
riêng các khu công nghiệp ở tỉnh Đồng Nai trong năm 2012 tình hình thu hút vốn đầu tư
có những chuyển biến đáng kể so với những năm gần đây. Đó là trong năm 2012 Ban
Quản lý các Khu Công nghiệp Đồng Nai đã cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho 53 Dự án
vốn đầu tư nước ngoài mới (FDI) với tổng vốn đầu tư là 546.983.076 USD và 14 dự án
vốn đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư là 2.389.697.244.000 đồng; đồng thời điều
chỉnh 406 dự án tăng vốn FDI với mức vốn tăng là 546.983.076 USD và 11 dự án vốn
trong nước với mức vốn tăng là 854.513.020.000 đồng. Như vậy, trong năm 2012 tổng
cấp mới và điều chỉnh tăng vốn vào các Khu Công nghiệp Đồng Nai đạt 1.199.103.987
USD và 3.244.210.264.000 đồng, đạt 141% kế hoạch năm (850 triệu đô la Mỹ).
2.2.3 Tình hình sản xuất kinh doanh:
Khu công nghiệp và khu chế xuất hiện nay đã và đang góp phần quan trọng trong
việc nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu, và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế. Để có thể thấy được thực trạng sản xuất kinh doanh của các khu công nghiệp,
khu chế xuất thì ta phân tích thông qua ba chỉ tiêu sau:
2.2.3.1 Thứ nhất: Là giá trị sản xuất công nghiệp và doanh thu
Tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN, KCX thời kỳ 1996-2000 đạt
khoảng 9,5 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 20%/năm (tốc độ tăng trưởng công nghiệp
bình quân trên cả nước đạt 12%).riêng trong Giai đoạn 1998-2000, do ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế - tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài có giảm sút, do đó ảnh hưởng tới tình hình hoạt động chung của
các doanh nghiệp KCN, đặc biệt là tình hình xuất khẩu. Giá trị sản xuất công nghiệp
1998-1999 chỉ tăng 6,9%. Cùng với sự phục hồi của nền kinh tế thế giới và khu vực, tình
hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp KCN trở lại với tốc độ tăng trưởng cao,
trong thời kỳ 2001 - 2005, tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN,
KCX (kể cả trong nước và nước ngoài) ước đạt khoảng 44 tỷ USD, tăng bình quân
khoảng 32%/năm. Trong thời kỳ 2006-2010 đạt khoảng 125 tỷ USD, tăng bình quân
24%/năm (tốc độ tăng trưởng công nghiệp bình quân cả nước trong 2 thời kỳ đạt khoảng
15-16%). Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN, KCX trong
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 20
tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước đã tăng lên đáng kể theo các năm: từ mức
khoảng 8% năm 1996 lên 14% năm 2000, 28% năm 2005 và 32% vào năm 2010.
6 tháng đầu năm 2011, Các doanh nghiệp KCN đạt tổng doanh thu gần 15,5 tỷ
USD và 80.000 tỷ đồng. Tổng doanh thu của các doanh nghiệp KCN trong năm 2012 đạt
hơn trên 60 tỷ USD (tăng 57% so với năm 2011) và 86,73 nghìn tỷ đồng (tăng gần
20.000 tỷ đồng so với năm 2011). Nếu tính bình quân 1 ha đất công nghiệp có thể cho
thuê trong năm 2011, các KCN đã tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp 2 triệu USD/ha.
2.2.3.2 Thứ hai: Là giá trị kim ngạch xuất khẩu
Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN, KCX thời kỳ kế
hoạch 5 năm 1996-2000 đạt 6,2 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 18%/năm. Trong kế
hoạch 5 năm 2001-2006, giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN, KCX đạt trên 22,3
tỷ USD, tăng bình quân khoảng 24%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị
xuất khẩu công nghiệp của cả nước (đạt bình quân khoảng 18%/năm). Trong kế hoạch 5
năm 2006-2010, các KCN, KCX xuất khẩu 63,7 tỷ USD, tăng 2,85 lần so với kỳ kế
hoạch trước và tăng bình quân khoảng 32%/năm trong khi đó tốc độ tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu bình quân cả nước khoảng 17,2%/năm. Đặc biệt trong 2 năm 2009, 2010
đã có sự xuất siêu nhẹ trong các KCN, KCX với chênh lệch giá trị xuất khẩu và nhập
khẩu gần trên 500 triệu USD.
Tỷ trọng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN, KCX trong tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả nước đã tăng lên từ mức khoảng 15% năm 2000 lên khoảng 20% năm
2005 và 25% năm 2010. Kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu năm 2011 đạt 1,27 triệu
USD/ha. Năm 2012, kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu của các doanh nghiệp đạt xấp xỉ
38 tỷ USD và 37,7 tỷ USD, tăng 26% so với năm 2011, bằng 33% so với giá trị xuất nhập
khẩu của cả nước năm 2012.
2.2.3.3 Thứ ba: Là mức độ đóng góp ngân sách
Các doanh nghiệp KCN, KCX bước đầu có đóng góp tích cực vào ngân sách nhà
nước. Trong giai đoạn 2001-2005, nhiều doanh nghiệp KCN đã hết thời gian được hưởng
ưu đãi miễn, giảm thuế nên tổng giá trị nộp ngân sách của các doanh nghiệp KCN, KCX
tăng mạnh và đạt khoảng 2 tỷ USD, gấp 6 lần so với kế hoạch 5 năm 1996-2000. Trong
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 21
giai đoạn 2006-2010, các KCN, KCX nộp ngân sách 5,9 tỷ USD, gấp 3 lần so với kỳ kế
hoạch trước. Năm 2011, các doanh nghiệp trong KCN, KCX đóng góp vào ngân sách nhà
nước 7.700 tỷ đồng và 55 triệu USD, trung bình nộp ngân sách khoảng 1,38 tỷ đồng/ha.
Đóng góp vào ngân sách nhà nước năm 2012 đạt 30,5 nghìn tỷ đồng và 416 triệu USD,
tăng hơn 15% so với so với cùng kỳ năm 2011.
Tiêu biểu cho cả nước về hoạt động sản xuất kinh doanh là khu công nghiệp
Nomura – Hải Phòng đây được đánh giá là khu công nghiệp hiện đại, đồng bộ nhất Việt
Nam, thu hút được phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài. Với sự khởi đầu khó khăn
nhưng bằng nhiều nỗ lực, đến năm 2009 khu công nghiệp này đã tạo việc làm cho 20 000
người lao động, giá trị sản xuất của các công ty, xí nghiệp trong công ty đã lên đến 500
triệu USD, đạt 10% GDP và 30% kim ngạch mậu dịch của Hải Phòng. Không dừng lại ở
đó, năm 2011 KCN Nomura đã tạo việc làm cho trên 23.000 lao động địa phương. Các
DN hoạt động sản xuất - kinh doanh trong KCN chủ yếu tập trung vào những ngành nghề
có kỹ thuật và công nghệ cao như: chế tạo máy móc, sản xuất linh kiện, phụ tùng ô tô,
các thiết bị điện, điện tử… Giá trị xuất khẩu đạt hơn 568 triệu USD- chiếm gần 30% tổng
kim ngạch xuất khẩu của thành phố; doanh thu đạt hơn 593 triệu USD; nộp thuế và ngân
sách đạt hơn 8,6 triệu USD; thuế thu nhập cá nhân nộp tăng gần 30% so với năm 2010.
Trong năm 2012, giá trị xuất khẩu của KCN Nomura đã chiếm gần 50% tổng kim ngạch
xuất khẩu của Hải Phòng.
2.2.4 Thực trạng về nguồn lực lao động:
2.2.4.1 Việc làm:
Việt Nam là nước đông dân, tốc độ tăng dân số là khá cao so với các nước trong
khu vực. Về thực chất, Việt Nam vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp có tỉ lệ nửa thất
nghiệp cao. Thêm vào đó, số người thất nghiệp ở đô thị ngày càng tăng và chủ yếu là
những người vừa đến tuổi lao động, do dân số tăng nhanh so với các thập kỷ trước. Vì
vậy vấn đề tạo thêm công ăn việc làm cũng là mục tiêu quan trọng trong những năm tới
và phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất chính là một biện pháp để tăng thêm việc
làm. KCN góp phần giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động và thúc đẩy
chuyển đổi cơ cấu lao động. Các KCN đã tạo ra một số lượng lớn việc làm, nâng cao
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 22
trình độ tay nghề và tương ứng với nó là thu nhập của người lao động, góp phần tạo ra sự
ổn định kinh tế và xã hội.
Tính đến giữa năm 2006 các KCN ở nước ta đã thu hút 86 000 lao động trực tiếp
làm việc trong KCN và trên 1 triệu lao động trong lĩnh vực xây dựng, cung cấp dịch vụ
cho các KCN tại các cơ sở kinh doanh ngoài KCN. Với KCN có quy mô diện tích lớn tới
2.700 ha như KCN Nhơn Trạch (Đồng Nai) thì khi lấp đầy lượng lao động làm việc tại
đây đạt mức 300.000 người và sẽ tạo nên ở đây một đô thị công nghiệp mới.
Việc phát triển các KCN, KCX đã và đang góp phần quan trọng giải quyết việc
làm cho lao động tại chỗ và lao động nhập cư. Trong thời gian tới, lực lượng lao động
trong các KCN, KCX gia tăng mạnh mẽ cùng với sự phát triển của các dự án hoạt động
trong các KCN, KCX. Tính đến 2007 , các KCN, KCX của cả nước đã thu hút được
khoảng 1 triệu lao động trực tiếp với tỷ trọng lao động có chuyên môn kỹ thuật tăng lên
và đạt gần 40%. Ngoài ra nếu tính cả số lao động gián tiếp thì tổng số việc làm được tạo
ra từ chương trình phát triển KCN, KCX tập trung nhiều nhất là tại TP Hồ Chí Minh với
khoảng trên 210 nghìn lao động làm việc tại hơn 100 xí nghiệp trong 14 KCN, KCX.
Lao động trong các KCN, KCX trên địa bàn cả nước nói chung hiện nay có đặc
điểm là lao động trẻ, lao động nữ và lao động di cư chiếm tỷ lệ khá cao. Lao động ở độ
tuổi từ 18 đến 35 chiếm 90% tổng số lao động trong các KCN, KCX. Lao động nữ
chiếm 60% (phù hợp với ngành da giày, dệt may, thuỷ sản); lao động từ địa phương
khác đến làm việc chiếm 65%.
Năm 2011, các KCN đã tạo việc làm cho trên 0,7 triệu lao động trực tiếp tăng gấp
3 lần so với năm 2001, 14 lần so với năm 1995 và gần 2 triệu lao động gián tiếp. Đến
cuối tháng 6/2011, các KCN, KKT trên cả nước đã giải quyết việc làm cho hơn 1,6 triệu
lao động trực tiếp. Đến tháng 12/2011, các KCN, KCX đã giải quyết việc làm cho hơn
1,76 triệu lao động trực tiếp. Trung bình 1 ha đất công nghiệp đã cho thuê đã tạo việc làm
cho 77 lao động trực tiếp. Cuối năm 2012, các KCN, KKT đã giải quyết việc làm cho hơn
2,15 triệu lao động trực tiếp.
Với sự phát triển mạnh mẽ của mình, khu công nghiệp hiện đại và đồng bộ nhất
Việt Nam – Nomura năm 2009 đã giải quyết việc làm cho 20 000 người lao động. con số
này đã tăng lên hơn 23 000 năm 2011.
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 23
2.2.4.2 Nhà ở:
Mặc dù khu công nghiệp đã tạo ra được một lượng lớn việc làm cho người lao
động nhưng một số vấn đề liên quan đến vấn đề nhà ở cho công nhân, nhân viên làm việc
trong các khu này vẫn chưa được đáp ứng.
Năm 2007, trong số 1 triệu lao động đang làm việc tại các KCN, KCX có khoảng
trên 700.000 lao động là người tỉnh ngoài hoặc huyện ngoài và có nhu cầu thuê nhà ở
trong thời gian lao động tại các KCN, KCX. Trong các khu nhà tập trung (xây dựng từ
nguồn ngân sách nhà nước hoặc từ phía các doanh nghiệp) cũng chỉ đủ cung cấp chỗ ở,
sinh hoạt cho khoảng 7-10% số lao động đang làm việc tại đây và có nhu cầu về nhà ở.
Trên 90% công nhân còn lại phải tự thu xếp chỗ ở, thuê trọ rải rác trong các khu dân cư
gần nơi họ làm việc hay các KCN. Tại thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007 chỉ có 4/14
khu công nghiệp, KCX có khu tập thể cho công nhân.
Năm 2011, chỉ khoảng 10% số lao động được ở trong các khu nhà xây dựng từ
nguồn vốn ngân sách Nhà nước hoặc nhà của doanh nghiệp đầu tư, còn lại đều phải tự
thu xếp thuê nhà trọ tại các khu dân cư gần KCN. Thực tế cho thấy, hầu hết phòng trọ
thuê của tư nhân đều rất chật hẹp, diện tích sử dụng bình quân từ 2 đến 3 m2/người, điều
kiện sống không bảo đảm, ảnh hưởng đến sức khỏe, đôi khi còn xảy ra tình trạng mất trật
tự, an toàn xã hội, hệ thống phòng cháy chữa cháy cũng không được đảm bảo Số nhà ở
cho công nhân đã tăng lên 20% năm 2012 nhưng con số này vẫn còn quá ít so với 80%
công nhân phải đi thuê nhà bên ngoài tại các KCN, KCX. Thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay cũng chỉ mới giải quyết được nơi ở cho 50% công nhân.
Theo quy hoạch phát triển các KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến
năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đến năm 2015, tổng số công nhân,
người lao động làm việc tại các KCN đạt khoảng 6,3 triệu người và đến năm 2020
khoảng 7,2 triệu người. Do vậy, số công nhân, lao động tại các KCN cả nước có nhu cầu
về chỗ ở đến năm 2015 khoảng 2,65 triệu người và năm 2020 khoảng 4,2 triệu người.
2.2.5 Các hoạt động của khu công nghiệp, khu chế xuất:
2.2.5.1 Hoạt động Marketing:
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 24
Vừa qua Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất và các công ty phát triển
hạ tầng khu công nghiệp chưa có những chiến lược cụ thể nhằm tổ chức xúc tiến, giới
thiệu các hoạt động của khu công nghiệp với các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
2.2.5.2 Hoạt động tài chính:
Tài chính của các công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp hiện nay chưa đáp
ứng được nhu cầu vốn đầu tư rất lớn từ chi phí đền bù giải tỏa, san lấp mặt bằng và xây
dựng đường giao thông nội bộ, xây dựng hệ thống xử lý nước thải. Tài chính của các Ban
quản lý khu công nghiệp thành phố được thực hiện theo cơ chế cấp phát và hành chánh
sự nghiệp. Do đó khó chủ động để thực hiện các chức năng được giao như xúc tiến đầu
tư.
2.2.5.3 Hệ thống thông tin:
Hệ thống thông tin giữa các khu công nghiệp, khu chế xuất với Ban quản lý khu
công nghiệp, khu chế xuất chưa thật thông suốt và kịp thời. Các thông tin về thị trường
cho các doanh nghệp trong khu công nghiệp, khu chế xuất cũng chưa được thực hiện
thường xuyên.
2.2.5.4 Nguồn nhân lực:
Lực lượng quản lý các công ty phát triển hạ tầng, Ban quản lý từng khu công
nghiệp chưa thực sự chuyên nghiệp hóa trong lĩnh vực đầu tư và kinh doanh hạ tầng công
nghiệp. Lực lượng chuyên viên tại Ban quản lý Thành Phố chưa đáp ứng được nhiệm vụ
do các chính sách thu hút nhân tài chưa thật sự hấp dẫn đặc biệt là vấn đề tiền lương.
2.2.5.5 Nghiên cứu phát triển:
Việc nghiên cứu phát triển vừa qua chưa được thật sự quan tâm nhất là việc xây
dựng chiến lược phát triển dài hạn, các mô hình thu hút vốn đầu tư, việc liên kết với các
khu công nghiệp các tỉnh lân cận, quy hoạch phát triển ngành nghề trong từng khu công
nghiệp, việc liên kết với nền sản xuất trong nước.
CHƯƠNG III: NGUYÊN NHÂN - GIẢI PHÁP
3.1. Nguyên nhân
3.1.1. Khu công nghiệp chưa được thừa nhận là một thực thể kinh tế hoàn
chỉnh:
Nhóm 12 - Đêm 4 – K22 Page 25