ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM NGỌC KHÁNH
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ MUA BÁN HÀNG HÓA
QUA SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM NGỌC KHÁNH
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ MUA BÁN HÀNG HÓA
QUA SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ DUNG
Hà Nội - 2010
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phạm Ngọc Khánh
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ MUA BÁN
HÀNG HÓA QUA SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA VÀ
PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG MUA BÁN
HÀNG HÓA QUA SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA
7
1.1 Tổng quan về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng
hóa
7
1.1.1 Khái niệm mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa 7
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch
hàng hóa
10
1.1.3 Các loại hợp đồng trong hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở
giao dịch hàng hóa
19
1.2 Tổng quan pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng
hóa qua Sở giao dịch hàng hóa
27
1.2.1 Nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt
động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa
27
1.2.2 Khái quát pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa
qua Sở giao dịch hàng hóa của một số nước trên thế giới
30
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ MUA BÁN
HÀNG HÓA QUA SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA
35
2.1 Quy định về thành lập, cơ cấu tổ chức và hoạt động của
Sở giao dịch hàng hóa
35
2.1.1 Hình thức pháp lý của Sở giao dịch hàng hóa 35
2.1.2 Cơ cấu tổ chức Sở giao dịch hàng hóa 40
2.1.3 Thành lập và cấp phép hoạt động Sở giao dịch hàng hóa 44
2.2 Chủ thể tham gia hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở
giao dịch hàng hóa
46
2.2.1 Thành viên môi giới 47
2.2.2 Thành viên kinh doanh 49
2.2.3 Khách hàng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa 52
2.3 Hàng hóa mua bán qua Sở giao dịch hàng hóa 56
2.4 Hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa 59
2.4.1 Hình thức của hợp đồng 60
2.4.2 Các nội dung chủ yếu của hợp đồng 61
2.4.3 Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng 62
2.4.4 Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng
hóa
66
2.5 Một số quy định khác về mua bán hàng hóa qua Sở giao
dịch hàng hóa
68
2.5.1 Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa nước ngoài 68
2.5.2 Quản lý nhà nước đối với hoạt động mua bán hàng hóa qua
Sở giao dịch hàng hóa
69
Chương 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
MUA BÁN HÀNG HÓA QUA SỞ GIAO DỊCH HÀNG
HÓA Ở VIỆT NAM
81
3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật về mua bán hàng hóa
qua Sở giao dịch hàng hóa
81
3.1.1 Đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc của pháp luật nói chung và
của pháp luật thương mại nói riêng
81
3.1.2 Đảm bảo tính minh bạch, đồng bộ và tính khả thi 82
3.1.3 Tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế 83
3.2 Một số giải pháp cụ thể 83
3.2.1 Về lâu dài cần xây dựng luật mua bán hàng hóa qua Sở giao
dịch hàng hóa
84
3.2.2 Hoàn thiện pháp luật về cơ quan quản lý Sở giao dịch hàng
hóa và hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng
hóa
85
3.2.3 Hoàn thiện pháp luật về chủ thể tham gia mua bán hàng hóa
qua Sở giao dịch hàng hóa
85
3.2.4 Hoàn thiện pháp luật về hàng hóa trong mua bán hàng hóa
qua Sở giao dịch hàng hóa
88
3.2.5 Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở
giao dịch hàng hóa
89
3.2.6 Hoàn thiện một số nội dung pháp luật khác về mua bán hàng
hóa qua Sở giao dịch hàng hóa
91
KẾT LUẬN 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Các chữ viết tắt Đọc là
Luật Thương mại 2005 Luật Thương mại của Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
số 36/2005/QH11 ngày 14/6/2005
NĐ 158/2006/NĐ-CP Nghị định số 158/2006/NĐ-CP ngày
28/12/2006 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt
động mua bán hàng hóa qua Sở giao
dịch hàng hóa
TT 03/2009/TT-BCT Thông tư số 03/2009/TT-BCT ngày
10/12/2009 của Bộ Công thương
hướng dẫn hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp
giấy phép thành lập và quy định chế độ
báo cáo của Sở giao dịch hàng hóa theo
quy định tại Nghị định số
158/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành
Luật Thương mại về hoạt động mua
bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng
hóa
MỞ ĐẦU
1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
Hoạt động mua bán hàng hóa giao sau tại Việt Nam hiện nay đang ở
những bước phát triển đầu tiên. Một số đề án thành lập Sở giao dịch Hàng hóa
đang được đẩy nhanh thực hiện, như đề án thành lập Sở giao dịch nông - lâm
- thủy sản của Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, đề án thành lập Sở giao
dịch Cà phê của UBND tỉnh Đắk Lắk…, thu hút sự tham gia góp vốn của rất
nhiều tổng công ty, ngân hàng và tập đoàn kinh tế lớn. Nhiều ngân hàng
thương mại cũng đã trở thành thành viên môi giới tại các Sở giao dịch hàng
hóa nước ngoài, làm cầu nối cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia các sàn
giao dịch hàng hóa quốc tế như Ngân hàng kỹ thương Việt Nam, Ngân hàng
Đầu tư và phát triển Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng thương
mại cổ phần Quốc tế…
Thực tiễn trên cho thấy, các doanh nghiệp ở Việt Nam đã bắt đầu nhận
thức được lợi ích mà hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa
đem lại. Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là hình thức mua bán
hàng hóa giao sau, là phương thức mua bán giúp lưu thông và tiêu thụ hàng
hóa được thuận lợi. Điều này rất phù hợp với nhu cầu của một nước có nền
sản xuất nông nghiệp như Việt Nam. Lưu thông và tiêu thụ sản phẩm, yếu tố
giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền nông nghiệp hàng hóa, vẫn
luôn là vấn đề tồn tại của nước ta.
Luật Thương mại (2005) là văn bản pháp lý đầu tiên của Việt Nam điều
chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa. Đây là tiền đề
quan trọng trong việc tạo lập hành lang pháp lý để điều chỉnh và thúc đẩy
hoạt động của thị trường mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa. Quy
1
định chi tiết thi hành Luật thương mại về vấn đề này hiện nay có Nghị định số
158/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ và Thông tư số
03/2009/TT-BCT ngày 10/02/2009 của Bộ Công thương. Tuy nhiên, những
văn bản này chưa quy định đầy đủ các vấn đề pháp lý cần thiết cho hoạt động
mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch. Điều này có thể lý giải được vì đây là
những văn bản pháp luật đầu tiên điều chỉnh một vấn đề còn rất mới mẻ ở
Việt Nam, đồng thời cũng chưa có thực tiễn hoạt động Sở giao dịch hàng hóa
tại Việt Nam để kiểm nghiệm. Yêu cầu đặt ra là cần tiếp tục hoàn thiện pháp
luật về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa, tạo điều kiện để thành
lập Sở giao dịch hàng hóa và phát triển thị trường mua bán hàng hóa giao sau
có tổ chức tại Việt Nam.
Với những cơ sở khoa học và thực tiễn nêu trên, tác giả chọn đề tài
“Pháp luật Việt Nam về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa”
làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Tác giả chọn đề tài “Pháp luật Việt Nam về mua bán hàng hóa qua Sở
giao dịch hàng hóa” với mục đích nghiên cứu, làm rõ các vấn đề lý luận và
thực tiễn pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch,
so sánh và tiếp thu chọn lọc những kinh nghiệm của pháp luật về vấn đề này ở
một số nước trên thế giới, nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về mua bán
hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa.
Với mục đích như trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Nghiên cứu tổng quan về thị trường hàng hóa giao sau và hoạt động
mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa, làm rõ về mặt lý luận hoạt
động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa, tổng quan pháp luật về
2
mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa của Việt Nam và của một số
nước trên thế giới…
- Làm rõ thực trạng pháp luật Việt Nam về hoạt động mua bán hàng
hóa qua Sở giao dịch hàng hóa. Phân tích các quy định cụ thể về cơ chế tổ
chức, hoạt động của Sở giao dịch hàng hóa, chủ thể, hàng hóa, hợp đồng…
trong mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa, hoạt động mua bán hàng
hóa của thương nhân Việt Nam qua các Sở giao dịch hàng hóa nước ngoài,
các hành vi bị cấm, hạn chế nhằm bảo vệ thị trường giao sau có tổ chức, khiếu
nại, xử lý vi phạm… Bên cạnh đó, nghiên cứu quy định của pháp luật một số
nước trên thế giới về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa, qua đó
đối chiếu, so sánh để nhận định những quy định còn thiếu, còn chưa phù hợp
nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Một số
nước ngay gần chúng ta như Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan…
đều có Luật riêng điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa tương lai.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở
giao hàng hóa ở Việt Nam.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những yêu cầu và mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra,
trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước
pháp quyền Xã hội chủ nghĩa;
- Quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị
trường;
3
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
sau: Phương pháp phân tích, so sánh luật học; phương pháp đánh giá, bình
luận, diễn giải, quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học…
4. Tình hình nghiên cứu
Phương thức mua bán hàng hóa giao sau đã phổ biến ở nhiều nước trên
thế giới, tuy nhiên hiểu biết về phương thức này ở Việt Nam còn hạn chế.
Những công trình nghiên cứu dưới góc độ kinh tế về vấn đề này cũng chưa có
nhiều, tiêu biểu mới có một số công trình nghiên cứu của Viện Nghiên cứu –
Bộ Thương mại như cuốn sách “Thị trường hàng hóa giao sau”, Đề tài
“Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn để hình thành thị trường hàng hóa
giao sau của Việt Nam” năm 2000…
Ở góc độ luật học, việc nghiên cứu về mua bán hàng hóa giao sau càng
mới mẻ hơn. Thời gian vừa qua mới có một số bài báo, tạp chí nghiên cứu
một số khía cạnh pháp lý của vấn đề mua bán hàng hóa giao sau và một số
khóa luận tốt nghiệp đại học nghiên cứu về vấn đề này, nhưng số lượng cũng
chưa nhiều (TS. Nguyễn Thị Dung, “Hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền
chọn trên thị trường hàng hóa giao sau”, Tạp chí Luật học (2007); Ths.
Nguyễn Thị Yến, “Đặc trưng cơ bản của quan hệ mua bán hàng hóa qua Sở
giao dịch hàng hóa theo pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Luật học (2007); Bùi
Thị Hương Xuân, Pháp luật về hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn trên
thị trường hàng hóa giao sau, Khóa luận tốt nghiệp Đại học Luật, 2008; Phạm
Chí Dũng, Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa theo pháp luật Việt
Nam hiện hành, Khóa luận tốt nghiệp Đại học Luật, 2008 ). Một công trình
nghiên cứu về vấn đề mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa ở cấp độ
cao học và đi sâu nghiên cứu, so sánh với pháp luật nước ngoài là chưa có.
4
Việc nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài
để hoàn thiện pháp luật về vấn đề này là điều cần thiết.
Đề tài mang ý nghĩa lý luận cho việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động
mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa, nhằm tạo lập hành lang pháp lý
thúc đẩy sự phát triển của hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng
hóa tại Việt Nam, giúp nước ta có thêm một phương thức mua bán hiệu quả
cho những sản phẩm, hàng hóa của mình. Tác giả hy vọng rằng với sự đầu tư
thích đáng, kết quả nghiên cứu sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị.
5. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Nghiên cứu đề tài này, luận văn có những đóng góp mới về mặt khoa
học trên những khía cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch
hàng hóa, làm rõ những vấn đề lý luận về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch
hàng hóa, các đặc điểm của hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch
hàng hóa, tổng quan pháp luật Việt Nam và pháp luật của một số nước trên
thế giới về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa.
Thứ hai, đi sâu phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về mua bán
hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa, trên cơ sở đó chỉ ra những tồn tại, bất
cập và những điểm còn thiếu trong các quy định hiện hành về tổ chức, hoạt
động của Sở giao dịch hàng hóa, chủ thể tham gia mua bán hàng hóa kỳ hạn,
quyền chọn qua Sở giao dịch, hàng hóa, hợp đồng trong mua bán giao sau,
quản lý nhà nước, xử lý vi phạm trong vấn đề này…
Thứ ba, đề xuất những định hướng và các giải pháp cụ thể để góp phần
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về mua bán hàng hóa qua Sở giao
5
dịch hàng hóa, nhằm thúc đẩy Sở giao dịch hàng hóa sớm được hình thành và
phát triển tại Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về mua bán hàng hóa qua Sở
giao dịch hàng hóa và Pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa qua
Sở giao dịch hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về mua bán hàng hóa qua
Sở giao dịch hàng hóa.
Chương 3: Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về mua bán hàng hóa
qua Sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ MUA BÁN HÀNG HÓA
QUA SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
HOẠT ĐỘNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUA SỞ GIAO DỊCH HÀNG
HÓA
1.1 TỔNG QUAN VỀ MUA BÁN HÀNG HOÁ QUA SỞ GIAO DỊCH
HÀNG HOÁ
1.1.1 Khái niệm mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa
Trên thế giới hiện nay tồn tại một loại thị trường giao dịch sôi động là
thị trường hàng hóa giao sau, nơi diễn ra các hoạt động mua bán hàng hóa
tương lai. Mua bán hàng hóa tương lai hay mua bán giao sau là quan hệ mua
bán hàng hóa mà việc giao hàng và nhận tiền được diễn ra vào một ngày ấn
định trong tương lai theo giá cả đã thỏa thuận tại thời điểm ký kết hợp đồng.
Thị trường hàng hóa giao sau ra đời đáp ứng nhu cầu của người mua và
người bán: người mua muốn đảm bảo nguồn cung cấp hàng hóa vào một thời
điểm nào đó trong tương lai (có thể là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng sau…) để bảo
đảm kế hoạch kinh doanh cũng như kiểm soát được giá cả; người bán muốn
chắc chắn khả năng tiêu thụ hàng hóa, với giá cả dự liệu được ở một thời
điểm trong tương lai, thậm chí ngay từ khi hàng hóa của họ còn đang trong
quá trình sản xuất.
Thị trường hàng hóa giao sau là nơi ký kết các hợp đồng giao sau hay
còn gọi là hợp đồng mua bán hàng hóa tương lai (Futures contract). Việc xác
định tính chất giao sau của quan hệ mua bán chủ yếu dựa theo yếu tố thời
điểm giao hàng và giá cả của hợp đồng. Hợp đồng giao sau luôn có thời điểm
7
giao hàng là một thời điểm nào đó trong tương lai (sau thời điểm ký kết hợp
đồng). Tuy nhiên, trên thị trường hàng hóa giao ngay, không phải lúc nào các
bên cũng thực hiện việc giao hàng ngay sau khi hợp đồng được ký kết, do mỗi
bên đều cần khoảng thời gian phù hợp để chuẩn bị cho việc giao nhận hàng
hóa.
Trong trường hợp này, việc xác định tính chất “giao sau” hay “giao
ngay” không chỉ dựa vào thời điểm giao hàng mà vấn đề quan trọng là “giá
cả”. Nếu như giá cả được thỏa thuận theo giá thị trường tại thời điểm ký kết
hợp đồng thì đây vẫn là hợp đồng mua bán giao ngay. Ngược lại, khi các bên
lựa chọn một mức giá có dự liệu đến sự biến động về giá cả của hàng hóa trên
thị trường tính đến thời điểm giao hàng (giá này có thể cao hơn thời điểm hiện
tại) thì quan hệ mua bán này có tính chất giao sau.
Thị trường hàng hóa giao sau được chia thành hai loại: thị trường giao
sau có tổ chức (tổ chức hoạt động mua bán hàng hóa tương lai qua Sở giao
dịch hàng hóa) và thị trường ngoài Sở giao dịch (thị trường OTC). Tương ứng
với hai loại thị trường đó, hình thành một số thuật ngữ khác nhau: Hợp đồng
mua bán hàng hóa tương lai, hợp đồng giao sau và hợp đồng mua bán hàng
hóa qua Sở giao dịch hàng hóa.
Hợp đồng mua bán hàng hóa tương lai được hiểu tương tự như hợp
đồng giao sau. Đây là hợp đồng có thỏa thuận về giá cả là giá giao sau và việc
giao hàng, thanh toán thường diễn ra vào một thời điểm trong tương lai. Hợp
đồng mua bán hàng hóa tương lai có thể được ký kết và thực hiện trên thị
trường có tổ chức (Sở giao dịch hàng hóa) hoặc trên thị trường phi tập trung
(thị trường OTC).
Hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch là hợp đồng mua bán
tương lai được ký kết tại Sở giao dịch hàng hóa. Ngoài điểm đặc thù về địa
8
điểm ký kết, hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa còn có
đặc điểm là khi giao kết hợp đồng, các bên chủ yếu chỉ thỏa thuận, lựa chọn
điều khoản về giá và kỳ hạn (thời gian giao nhận hàng hóa). Các điều khoản
khác đều đã được Sở giao dịch tiêu chuẩn hóa - điều đó nói lên tính chất tập
trung, có tổ chức của thị trường này.
“Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa được hiểu là hoạt
động thương mại theo đó các bên thỏa thuận thực hiện việc mua bán một
lượng nhất định của một loại hàng hóa nhất định qua Sở giao dịch hàng hóa
theo những tiêu chuẩn của Sở giao dịch hàng hóa với giá được thỏa thuận tại
thời điểm giao kết hợp đồng và thời gian giao hàng được xác định tại một
thời điểm trong tương lai” (Khoản 1 Điều 63 Luật Thương mại 2005).
Như vậy, mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa mang những
đặc điểm chung của mua bán hàng hóa giao sau, đồng thời có các đặc điểm
riêng là:
- Về địa điểm và phương thức giao kết: mọi hợp đồng mua bán hàng
hóa qua Sở giao dịch đều giao kết tại Sở giao dịch hàng hóa, thông qua người
môi giới hoặc với thành viên tự doanh.
- Sở giao dịch hàng hóa có tư cách là trung gian giữa các bên trong việc
ký kết, thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa,
thể hiện thông qua nhà môi giới, trung tâm thanh toán bù trừ, trung tâm giao
nhận hàng hóa (Sở giao dịch chịu trách nhiệm cuối cùng về mọi hoạt động
mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa).
- Nội dung hợp đồng tuân thủ những điều khoản đã được tiêu chuẩn
hóa của Sở giao dịch (những điều khoản theo mẫu) và đều liên quan đến việc
ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa ở một thời điểm trong tương
lai.
9
- Hàng hóa mua bán qua Sở giao dịch hàng hóa thông thường là những
loại hàng hóa có sự biến động lớn về giá, thu hút khối lượng lớn các nhà giao
dịch tham gia mua bán và không bên nào có khả năng chi phối được thị
trường.
- Việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng
hóa không chỉ bằng cách giao hàng hữu hình mà còn có thể thanh toán bù trừ
bằng tiền mặt khoản chênh lệch lợi nhuận giữa các bên.
- Các loại hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch bao gồm: hợp
đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn.
Dưới đây ta sẽ phân tích cụ thể những đặc điểm của hoạt động mua bán
hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa.
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng
hoá
1.1.2.1 Địa điểm diễn ra hoạt động mua bán hàng hóa là Sở giao dịch hàng
hóa:
Sở giao dịch là điểm phân biệt thị trường giao sau có tổ chức với thị
trường OTC. Giao dịch giao sau được thực hiện tại một nơi gọi chung là Sở
giao dịch hàng hóa. Sở giao dịch được tổ chức gần giống như một công ty và
hình thức sở hữu của nó phụ thuộc vào quy định và điều kiện cụ thể của từng
nước. Rất nhiều nước trên thế giới đã có Sở giao dịch và số lượng Sở giao
dịch ngày càng tăng. Các Sở giao dịch nhộn nhịp nhất là ở Sydney,
Hongkong, Tokyo, Paris, London, Singapore và Toronto…
10
Khái quát có thể hiểu, Sở giao dịch hàng hoá là một công ty hoặc tổ
chức có tư cách pháp nhân, hoạt động nhằm cung cấp các phương tiện cần
thiết cho hoạt động mua bán hàng hoá tương lai.
Chức năng cung cấp và duy trì một nơi mua bán cụ thể cho thị trường
mua bán hàng hóa giao sau có tổ chức là chức năng chính của một Sở giao
dịch hàng hóa. Nơi diễn ra hoạt động mua bán cụ thể đó thường gọi là "sàn
giao dịch" hay "khung trường", tại đây các hợp đồng giao sau được các thành
viên của Sở mua và bán.
Hiện nay, sàn giao dịch hay khung trường của Sở giao dịch không chỉ
là một địa điểm hữu hình để các bên trực tiếp đến mua và bán tại đó, mà còn
có thể là một hệ thống điện tử và các chủ thể thực hiện giao dịch trực tuyến.
Giao dịch giao sau diễn ra trên các Sở giao dịch hàng hóa ở Mỹ và nhiều nước
khác trên thế giới hiện nay được thực hiện trên một hệ thống điện tử gọi là
Globex, thay cho việc giao dịch trên các sàn hữu hình.
1.1.2.2 Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là hoạt động mua bán
thông qua trung gian:
Trong hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch, Sở giao dịch
hàng hóa có tư cách là trung gian giữa các bên trong việc ký kết, thực hiện
hợp đồng, thể hiện thông qua thành viên môi giới, trung tâm thanh toán bù
trừ, trung tâm giao nhận hàng hóa. Người mua và người bán giao dịch mua
bán hàng hóa thông qua Sở giao dịch chứ không trực tiếp giao kết với nhau,
họ thanh toán với Trung tâm thanh toán bù trừ của Sở và giao nhận hàng qua
trung tâm giao nhận hàng hóa. Sở giao dịch chịu trách nhiệm cuối cùng về
mọi hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở. Cụ thể:
Các chủ thể không trực tiếp giao kết hợp đồng với nhau mà mua bán
thông qua Sở giao dịch, nhà môi giới: Hành vi tham gia vào giao dịch tại Sở
11
giao dịch hàng hoá là việc đưa ra các lệnh mua, bán một cách độc lập, sẵn
sàng bán và sẵn sàng mua. Việc các lệnh đó so khớp với nhau không phải là
của chủ thể giao dịch mà là của Sở giao dịch hàng hóa. Vì vậy thông thường
trong các giao dịch trên Sở giao dịch, người ta không biết và cũng không quan
tâm ai là người bán hoặc mua trong hợp đồng với mình, điều cần hơn cả là họ
được xác nhận các quyền hợp đồng từ Sở giao dịch. Do đó người ta còn nói
các hợp đồng giao dịch trên Sở giao dịch hàng hoá là hợp đồng mang tính vô
danh về đối tác. Bên cạnh đó, các khách hàng không phải là thành viên của Sở
giao dịch cũng không đặt các lệnh mua, bán trực tiếp tới Sở giao dịch, mà
thông qua trung gian là các nhà môi giới.
Các chủ thể thực hiện việc thanh toán theo hợp đồng thông qua Trung
tâm thanh toán bù trừ: Mỗi một Sở giao dịch hàng hóa có một Trung tâm
thanh toán bù trừ kèm theo để thanh toán mọi giao dịch ở Sở. Trung tâm
thanh toán bù trừ có thể là một tổ chức thuộc Sở giao dịch hoặc là một thể
nhân hoàn toàn độc lập. Trung tâm thanh toán bù trừ đảm nhận vai trò một
người trung gian cho mỗi giao dịch, bằng cách trở thành người bán để giao
dịch với mọi thành viên mua hoặc người mua giao dịch với mọi thành viên
bán. Theo đó, một hợp đồng giữa người bán và người mua bất kỳ đều được
chuyển thành hai hợp đồng: một hợp đồng giữa người bán và Trung tâm
thanh toán bù trừ và hợp đồng kia giữa Trung tâm thanh toán bù trừ và người
mua. Người bán thực hiện thanh toán theo hợp đồng không phải cho người
mua mà cho Trung tâm thanh toán bù trừ. Người mua thực thi nghĩa vụ thanh
toán không phải trực tiếp cho người bán mà cho Trung tâm thanh toán bù trừ.
Nhờ vậy, các bên tham gia mua bán trên sàn giao dịch không nhất thiết phải
xem xét khả năng thực tế của bên kia. Người mua không phải lo ngại về
chuyện hàng hoá là đối tượng của hợp đồng có đảm bảo hay không, ngược lại
12
người bán cũng không phải lo ngại về khả năng thanh toán thực tế của người
mua.
Việc giao nhận hàng hóa không thực hiện trực tiếp giữa người bán và
người mua mà thông qua Trung tâm giao nhận hàng hóa: Trong việc giao
hàng theo hợp đồng, hàng hoá sẽ được bên bán chuyển đến kho của Sở giao
dịch, Trung tâm giao nhận hàng hóa của Sở giao dịch thực hiện việc kiểm
duyệt hàng hóa theo tiêu chuẩn của Sở. Việc giao hàng được hiểu là chuyển
quyền sở hữu hàng hóa lưu kho từ bên bán sang bên mua chứ người bán và
người mua không phải giao hàng trực tiếp cho nhau.
1.1.2.3 Hàng hoá trong hoạt động mua bán qua Sở giao dịch hàng hóa là
hàng hóa có những đặc thù riêng:
Hàng hóa được trao đổi qua Sở giao dịch hàng hóa rất phong phú và
thường mang những đặc điểm cơ bản sau:
- Tồn tại sự biến động lớn về giá trong thị trường giao ngay, do đó các
nhà sản xuất và các nhà chế biến luôn đối mặt với nguy cơ thua lỗ nếu giá
biến động theo một hướng nào đó. Chính điều này thúc đẩy họ tham gia vào
thị trường kỳ hạn và quyền chọn để tự bảo hiểm, tức là chuyển rủi ro về giá
sang các nhà nắm rủi ro chuyên nghiệp.
- Thu hút một khối lượng lớn các bên tham gia và không có bên nào chi
phối được thị trường. Nếu giá cả chỉ do một người ấn định thì không còn sự
biến động tự phát về giá, do đó cũng không còn nhu cầu sử dụng các hợp
đồng kỳ hạn, quyền chọn.
Trên thế giới hiện nay hàng hóa được trao đổi qua các Sở giao dịch
hàng hoá có thể chia thành các nhóm:
13
- Ngũ cốc: lúa mì, lúa mạch, bắp, đậu nành (hạt đậu nành, dầu đậu
nành, sữa đậu nành)…
- Thịt: thịt bò, thịt heo (thịt đùi, thịt ba rọi…)…
- Kim loại: bạch kim, vàng, bạc, đồng…
- Thực phẩm và tơ sợi: cà phê, cô ca, đường, nước cam, vải…
- Hợp đồng giao sau về lãi suất: tín phiếu, trái phiếu trung hạn, trái
phiếu dài hạn…
- Ngoại tệ: Euro, Yên Nhật, Bảng Anh, Dollar Mỹ…
- Hợp đồng giao sau về chỉ số: chỉ số S&P 500, chỉ số trái phiếu…
- Hợp đồng giao sau về chứng khoán: tất cả các loại chứng khoán trên
thị trường niêm yết cũng như trên thị trường OTC.
- Hợp đồng giao sau về năng lượng: dầu thô, khí đốt, xăng…
- Gỗ: gỗ xúc…
…
Ngoài ra, tuỳ Sở giao dịch, càng ngày người ta càng đưa vào thị trường
giao sau nhiều loại hàng hóa khác để giao dịch. Các hàng hóa này còn được
gọi là hàng hóa cơ sở (underlying commodity), nó là cơ sở để các bên thiết
lập hợp đồng.
1.1.2.4 Hợp đồng mua bán hàng bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa
tuân theo những điều khoản đã được tiêu chuẩn hóa:
Hợp đồng trong mua bán giao sau tại Sở giao dịch hàng hoá do Sở giao
dịch quy định. Một trong những hoạt động quan trọng đang diễn ra hiện nay
của Sở giao dịch là phát triển những hợp đồng giao sau mới và đắc dụng. Hầu
14
hết các Sở giao dịch duy trì một đội ngũ cán bộ nghiên cứu không ngừng
kiểm tra tính khả thi của các hợp đồng mới.
Thông thường trong hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch chỉ
các điều khoản về loại hàng hóa, giá cả và thời gian giao nhận là cần các bên
thỏa thuận, còn điều khoản còn lại sẽ áp dụng theo điều khoản mẫu đã được
Sở giao dịch quy định. Điều khoản mẫu cho từng hợp đồng là quy mô, đơn vị
báo giá, biến động giá tối thiểu, phẩm cấp và giờ giao dịch, điều kiện giao
cũng như thủ tục giao hàng…
- Quy mô hợp đồng: là số lượng đơn vị cụ thể của một loại hàng hoá
cho mỗi hợp đồng. Số lượng này có thể là một số thùng đã định của một loại
ngũ cốc hay một lượng đô la đã định giá trị danh nghĩa của một công cụ tài
chính. Quyết định quy mô hợp đồng là một vấn đề quan trọng. Nếu quy mô
nhỏ quá, nhà đầu cơ sẽ phải chịu chi phí giao dịch cao hơn vì việc giao dịch
mỗi hợp đồng phải chịu một chi phí nhất định. Ngược lại, nếu quy mô hợp
đồng quá lớn, người mua bán có thể không đủ nhu cầu tương ứng bởi các hợp
đồng không thể phân chia ra được.
- Phẩm cấp hợp đồng: là chất lượng của một loại hàng hóa cho hợp
đồng. Hàng hoá đưa vào mua bán tại Sở giao dịch sẽ được phân chia phẩm
cấp, nhất là đối với hàng hoá nông sản. Các hàng hoá nông sản có thể có rất
nhiều loại phẩm cấp, mỗi loại sẽ được điều tiết ở một mức giá khác nhau.
Hợp đồng phải quy định phẩm cấp được chấp nhận cho việc giao hàng. Các
hợp đồng kỳ hạn tài chính phải chỉ ra chính xác các công cụ tài chính nào phù
hợp với quy định để giao hàng.
- Giá ước định: Ở các Sở giao dịch, giá ước định được tiêu chuẩn hoá.
Sở tính toán và đưa ra giá ước định cho các loại hàng hoá, các bên tham gia
15
phải mua bán theo giá ước định đã nêu. Đương nhiên, trong các giao dịch
ngoài Sở, hai bên mua bán tự thoả thuận giá ước định.
- Thời hạn giao hàng: Sở giao dịch cũng đề ra cho hợp đồng ngày hoặc
các ngày giao hàng cụ thể trong tương lai, thủ tục giao hàng và một loạt các
tháng hết hạn. Trong trường hợp các loại hàng hoá phải thu hoạch như đối với
nông sản, Sở giao dịch thường thiết lập các tháng hết hạn tương ứng với các
tháng thu hoạch. Đối với các loại hàng hoá không phải thu hoạch như các hợp
đồng kỳ hạn và quyền chọn tài chính, Sở giao dịch theo một thông lệ là cho
phép hợp đồng hết hạn vào tháng 3, tháng 6, tháng 9 và tháng 12. Sở giao
dịch cũng chỉ ra thời hạn của một hợp đồng. Đối với các hợp đồng giao sau
nông sản, thường thời hạn là vài ba tháng, một số loại hợp đồng khác thì thời
hạn khoảng 1 hoặc 2 năm.
Ngoài những điều khoản cơ bản nêu trên, ngoài ra nhiều điều khoản
khác trong hợp đồng cũng đều được tiêu chuẩn hoá, như điều khoản về
phương thức thanh toán, đơn vị báo giá, giờ giao dịch…
1.1.2.5 Việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng
hóa không chỉ bằng cách giao hàng hữu hình mà còn có thể thanh toán bù trừ
bằng tiền:
Đến thời điểm ấn định trong hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao
dịch, các bên có nghĩa vụ thực hiện việc giao và nhận hàng như đã thoả thuận.
Nghĩa vụ tương tự cũng đặt ra đối với bên bán và bên mua quyền chọn nếu
đến ngày đáo hạn người mua lựa chọn thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, giao và
nhận hàng hữu hình chỉ là một trong những cách thanh toán hợp đồng kỳ hạn,
bên cạnh đó các bên còn có thể thanh toán bằng tiền mặt.
Đối với giao hàng hữu hình, hàng hoá sẽ được bên bán chuyển đến một
trong những kho của Sở giao dịch. Vì hàng hoá lưu trong các kho sẽ được Sở
16
giao dịch phê duyệt, nên việc giao hàng chỉ có ý nghĩa là chuyển quyền sở
hữu hàng hoá lưu kho từ chủ này sang chủ kia, chứ không phải thực hiện một
việc giao hàng trực tiếp giữa họ.
Trên thực tế, nhiều hợp đồng giao sau không thực hiện việc giao hàng
hữu hình, dẫu việc giao hàng là một đặc tính quan trọng của hoạt động mua
bán. Thị trường giao sau không phải là con đường tốt nhất để mua hàng hoá.
Trong giao dịch giao sau, người sở hữu hợp đồng bảo hiểm hoặc đầu cơ giá
lên và giá xuống gặp nhau và thoả thuận về một giao dịch. Ví dụ, chủ trang
trại ký một hợp đồng kỳ hạn bán lúa mỳ cho công ty thương mại. Đến ngày
đáo hạn, giá lúa mỳ giao ngay thấp hơn giá kỳ hạn, chủ trang trại sẽ giao hàng
cho công ty thương mại và thu về được khoản lãi so với đem bán ở thị trường
giao ngay. Nhưng chủ trang trại và công ty thương mại cũng có thể thoả
thuận, thay vì giao nhận hàng của nhau thì cả hai cùng ra ngoài thị trường
giao ngay để bán và mua lượng lúa mỳ đó, và công ty thương mại vẫn trả cho
chủ trang trại khoản tiền lãi như trên. Ở đây, việc trên thực tế chủ trang trại có
bán hay công ty thương mại có mua lúa mỳ ở ngoài thị trường giao ngay hay
không không phải là mối quan tâm của nhau, chỉ có khoản tiền công ty
thương mại phải trả cho chủ trang trại là thực sự. Khoản tiền này được công
ty thương mại thanh toán qua việc nộp khoản tiền bảo chứng và việc thực
hiện thanh khoản hàng ngày của Trung tâm thanh toán bù trừ.
Đối với mỗi giao dịch được thiết lập, các bên tham gia sẽ phải nộp một
khoản tiền gọi là tiền bảo chứng, hay còn gọi là tiền ký quỹ kinh doanh
(trading margin). Tiền bảo chứng sẽ được gửi vào tài khoản của họ mở tại Sở
giao dịch và do Trung tâm thanh toán bù trừ quản lý. Tiền bảo chứng bao
gồm hai loại là tiền bảo chứng ban đầu và tiền bảo chứng biến đổi. Người
mua và người bán khi ký kết hợp đồng giao sau tại Sở giao dịch phải nộp một
khoản tiền ký quỹ gọi là “tiền bảo chứng ban đầu” để đảm bảo việc thực hiện
17
nghĩa vụ hợp đồng. Sau đó, biến động giá giao sau của hàng hóa sẽ làm thay
đổi trị giá hợp đồng nên để duy trì mức bảo chứng ban đầu như quy định,
Trung tâm thanh toán bù trừ yêu cầu khách hàng trả tiền hàng ngày ngang với
mức lỗ của vị thế giao sau và trả lại cho khách hàng tiền lãi của các vị thế.
Các khoản thanh toán hàng ngày được gọi là “tiền bảo chứng biến đổi” và
được tính toán bằng cách ghi vào tài khoản của khách hàng, chúng thường
được thực hiện trước khi thị trường mở cửa vào ngày giao dịch hôm sau.
Việc thanh toán các khoản tiền bảo chứng được thực hiện thông qua
quá trình thanh khoản hàng ngày. Hàng ngày, Sở giao dịch gửi đến Trung tâm
thanh toán bù trừ liên quan báo cáo chi tiết của toàn bộ giao dịch qua Sở, tạo
nên một sự đối chiếu hàng ngày. Vào cuối mỗi ngày, Trung tâm thanh toán bù
trừ sẽ xem xét mức lỗ lãi của từng vị thế mua bán kỳ hạn và quyền chọn, dựa
theo mức chênh lệch giữa giá giao ngay của ngày hôm đó với giá giao sau đã
ghi trong hợp đồng và thực hiện việc chuyển khoản. Quá trình thanh khoản
hàng ngày là một đặc điểm quan trọng và là sự khác biệt chính giữa thị trường
giao sau trong Sở giao dịch và thị trường giao sau bên ngoài. Ở thị trường kỳ
hạn và quyền chọn bên ngoài, kết quả lãi lỗ được thể hiện khi kết thúc thời
hạn của hợp đồng, khi việc giao hàng được thực hiện. Thị trường mua bán
hàng hoá giao sau trong Sở giao dịch theo dõi và khấu trừ theo sự thay đổi giá
cả hàng ngày. Việc này giúp bảo đảm tính toàn vẹn của thị trường, bởi vì
những khoản thua lỗ lớn sẽ được thanh toán từng phần nhỏ chứ không bị tích
lại và thanh toán một lần, lúc đó người sở hữu hợp đồng thua lỗ có thể không
còn khả năng để trang trải.
Sở giao dịch chấp thuận hình thức thanh toán bằng tiền mặt như là một
cách thay thế cho giao hàng hữu hình vì có thể xảy ra các trường hợp: chất
lượng, số lượng hàng hoá của người bán khi thu hoạch thực tế không phù hợp
với hợp đồng, nhu cầu mua bán của hai bên đã thay đổi hay chi phí giao hàng
18
thực tế có thể tốn kém cho các bên… Rõ ràng hình thức thanh toán bằng tiền
mặt thay thế cho giao hàng hữu hình tỏ ra rất linh hoạt. Trong Sở giao dịch,
các bên ký kết hợp đồng mua bán kỳ hạn, quyền chọn không hẳn để thiết lập
một việc giao nhận hàng hóa thực sự mà hầu hết chỉ coi đó là công cụ để bảo
hộ, để đầu cơ bằng nghiệp vụ thanh toán bù trừ. Trên thực tế, hợp đồng giao
sau được thanh toán bù trừ chiếm 97% - 98% số lượng hợp đồng giao sau
được ký kết, tức chỉ có 2% - 3% hợp đồng giao sau thực hiện việc giao nhận
hàng trong thực tế. Đối với các loại hợp đồng giao sau về chỉ số thì bắt buộc
phải thanh toán bù trừ hoàn toàn. Đây là một ưu thế của mua bán hàng hoá
thông qua Sở giao dịch, điều này không thể có được trong thị trường giao
dịch ngoài Sở cũng như trong thị trường giao ngay.
1.1.3 Các loại hợp đồng trong hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao
dịch hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hóa tương lai nói chung và hợp đồng trong
hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa bao gồm hai loại hợp
đồng cơ bản là hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn. Hai loại hợp đồng
này đều mang đặc điểm chung của hợp đồng mua bán giao sau, đều là những
hợp đồng mua bán hàng hóa mà việc thỏa thuận về giá cả, hàng hóa được
thực hiện tại thời điểm giao kết còn việc giao hàng thực hiện vào một thời
điểm trong tương lai. Tuy nhiên, hai loại hợp đồng này cũng mang những đặc
điểm riêng của chúng.
1.1.3.1 Hợp đồng kỳ hạn
Thị trường tiêu thụ hàng hoá nông sản có vai trò vô cùng quan trọng
trong sự phát triển của ngành nông nghiệp nói riêng cũng như của nền kinh tế
nói chung. Người ta đã sớm nhận ra rằng việc vận chuyển các hàng hoá nông
sản từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ phải mất nhiều thời gian và chi phí rất tốn
19