ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
KHOA LUẬT 
 
 
 
 
TRẦN THỊ THU HÀ 
 
 
 
 
 
NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC 
PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH 
TRẠNG PHÁ SẢN. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 
HOÀN THIỆN 
 
 
 
 
 
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC 
 
 
 
 
 
 
 
HÀ NỘI – 2010 
     ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
KHOA LUẬT    
TRẦN THỊ THU HÀ     
NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC 
PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH 
TRẠNG PHÁ SẢN. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 
HOÀN THIỆN  
Chuyên ngành : Luật kinh tế 
Mã số : 60 38 50   
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC    
Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Quang  
 HÀ NỘI - 2010        
MỤC LỤC    
Trang  
Trang phụ bìa   
Lời cam đoan   
Mục lục   
MỞ ĐẦU 
1  
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ THỦ TỤC PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP 
LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN 
6 
1.1. 
Bản chất pháp lý của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm 
vào tình trạng phá sản 
6 
1.1.1. 
Khái quát về thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình 
trạng phá sản 
6 
1.1.1.1. 
Khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản 
6 
1.1.1.2. 
Những căn cứ để tiến hành thủ tục phục hồi doanh nghiệp 
lâm vào tình trạng phá sản 
10 
1.1.1.3. 
Điều kiện để xác định thời điểm một doanh nghiệp lâm vào 
tình trạng phá sản 
12 
1.1.2. 
Những đặc trưng cơ bản của thủ tục phục hồi doanh nghiệp 
lâm vào tình trạng phá sản 
13 
1.2. 
Vai trò của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình 
trạng phá sản 
15 
1.3. 
Vai trò của cơ quan Tòa án đối với thủ tục phục hồi doanh 
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản 
19 
1.4. 
Quá trình hình thành và phát triển chế định pháp luật về thủ tục 
phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản ở Việt Nam 
22 
1.5. 
Pháp luật về thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình 
trạng phá sản của một số nước trên thế giới 
23    
1.5.1. 
Thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản 
của Estonia 
23 
1.5.2. 
Thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản 
của Hoa Kỳ 
25  
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC PHỤC HỒI 
DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN 
THEO LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM 2004 
26 
2.1. 
Thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản 
theo quy định của Luật phá sản năm 2004 
26 
2.1.1. 
Hội nghị chủ nợ 
26 
2.1.1.1. 
Triệu tập Hội nghị chủ nợ 
26 
2.1.1.2. 
Quyền hạn Hội nghị chủ nợ 
28 
2.1.1.3. 
Nghĩa vụ tham gia hội nghị chủ nợ 
30 
2.1.2. 
Điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh 
của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản 
32 
2.1.2.1. 
Nợ của doanh nghiệp 
33 
2.1.2.2. 
Khả năng hoạt động sản xuất của doanh nghiệp 
34 
2.2. 
Xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của 
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản 
34 
2.1.3. 
Trình tự, thủ tục thông qua phương án phục hồi hoạt động 
kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản 
38 
2.1.3.1. 
Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản 
38 
2.1.3.2. 
Thụ lý và thủ tục Tòa án 
43 
2.1.3.3. 
Tổ chức quản lý tài sản 
44 
2.1.3.4. 
Các hoạt động kinh doanh được pháp luật cho phép trong 
quá trình thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh 
doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản 
45    
2.1.4. 
Trình tự, thủ tục thực hiện phương án phục hồi hoạt động 
kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản 
46 
2.1.4.1. 
Điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi 
46 
2.1.4.2. 
Xem xét, thông qua phương án phục hồi 
47 
2.1.4.3. 
Giám sát việc thực hiện phương án phục hồi 
48 
2.1.4.4. 
Thời hạn thực hiện phương án phục hồi 
48 
2.1.5. 
Đối với các tổ chức tín dụng là doanh nghiệp đặc thù trong 
nền kinh tế quốc dân 
49 
2.1.5.1. 
Dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản đối với các tổ chức tín dụng 
49 
2.1.5.2. 
Phục hồi khả năng thanh toán trước thời điểm yêu cầu mở 
thủ tục tuyên bố phá sản và phục hồi tổ chức tín dụng sau 
khi có quyết định mở thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản của 
tổ chức tín dụng 
51 
2.2. 
Hệ quả pháp lý của việc đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động 
kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản 
56 
2.2.1. 
Các trường hợp đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh 
doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản 
56 
2.2.1.1. 
Doanh nghiệp bị thua lỗ 
56 
2.2.1.2. 
Doanh nghiệp đã quá thời hạn thanh toán mà không thanh 
toán được các khoản nợ khi chủ nợ yêu cầu 
57 
2.2.2. 
Hệ quả pháp lý của việc đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động 
kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản 
57 
2.2.2.1. 
Hệ quả đối với doanh nghiệp 
57 
2.2.2.2. 
Hệ quả đối với các bên có liên quan 
58 
2.3. 
Thực tiễn áp dụng pháp luật về phục hồi doanh nghiệp lâm 
vào tình trạng phá sản 
59 
2.3.1. 
Thực trạng áp dụng luật về phục hồi doanh nghiệp lâm vào 
tình trạng phá sản ở Việt Nam 
59    
2.3.2. 
Tình hình thụ lý, giải quyết yêu cầu mở thủ tục phục hồi 
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản 
59 
2.3.2.1. 
Những ưu điểm của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào 
tình trạng phá sản theo luật phá sản 2004 
63 
2.3.2.2. 
Những điểm còn hạn chế của thủ tục phục hồi doanh nghiệp 
lâm vào tình trạng phá sản theo luật phá sản 2004 
66  
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN THỦ TỤC 
PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ 
SẢN THEO LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM 2004 
72 
3.1. 
Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định liên quan thủ tục 
phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản 
72 
3.2. 
Sửa đổi bổ sung các quy định của Luật phá sản (2004) về 
thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản 
74 
3.3. 
Cần tăng cường thi hành các quy định về thủ tục phục hồi 
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào 
tình trạng phá sản theo quy định của Luật phá sản năm 2004 
79  
KẾT LUẬN 
83  
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
85    
  1 
MỞ ĐẦU  
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Phá sản là một hiện tượng thường gặp trong nền kinh tế thị trường. vì 
những lý do khác nhau doanh nghiệp lâm vào tình trạng không trả được nợ 
đến hạn, lúc đó doanh nghiệp có nguy cơ bị quy luật thị trường đào thải bằng 
con đường phá sản. Để cứu vãn doanh nghiệp trong những trường hợp này, 
pháp luật về phá sản ở các nước nói chung thường quy định các biện pháp tổ 
chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. 
Trình tự, thủ tục phục rồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là 
một bộ phận quan trọng trong trình tự, thủ tục phá sản doanh nghiệp được quy 
định ở luật phá sản 2004. Thủ tục này nhằm tạo ra những điều kiện, cơ hội để 
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có thể vượt qua được tình trạng mất 
khả năng toán nợ đến hạn, tránh bị tuyên bố phá sản. Bên cạnh đó, nếu doanh 
nghiệp phục hồi thành công còn có thể đảm bảo quyền, lợi ích cho chủ nợ và 
những người liên quan; công ăn việc làm cho người lao động; duy trì ổn định, 
trật tự xã hội từ đó làm lành mạnh hóa môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp. 
Quốc hội khóa IX thông qua Luật phá sản doanh nghiệp ngày 
30/12/1993 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/1994 đã có quy định khá 
chi tiết và tương đối đầy đủ nội dung thủ tục phục hồi nhằm cứu vãn doanh 
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Song trong 9 năm thực hiện Luật phá sản 
doanh nghiệp nói chung và thủ tục phục hồi nói riêng đã thể hiện những bất 
cập trong quá trình áp dụng cũng như việc phát huy hiệu quả của nó trên thực 
tế khi thủ tục phục hồi được qui định như là một khâu của quá trình giải quyết 
yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. 
Trước những yêu cầu đòi hỏi mới của nền kinh tế thị trường, việc 
hoàn thiện khung pháp luật về phá sản nói chung và thủ tục phục hồi doanh 
   2 
nghiệp nói riêng là cần thiết. Ngày 15/06/2004 Quốc hội khóa XI đã thông 
qua Luật phá sản mới thay thế Luật phá sản doanh nghiệp (1993) và có hiệu 
lực từ ngày 15/10/2004. Thủ tục phục hồi đã được Luật phá sản qui định theo 
hướng tách ra thành thủ tục tương đối độc lập trong thủ tục phá sản với nhiều 
qui định mới. Vì vậy, việc nghiên cứu những qui về thủ tục phục hồi trong 
Luật phá sản là điều rất quan trọng và cần thiết, trên cơ sở đó đưa những kiến 
nghị nhằm sớm đưa Luật phá sản vào cuộc sống và đạt được hiệu quả trong 
quá trình áp dụng. Với mong muốn đó, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: 
"Những quy định pháp luật về thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình 
trạng phá sản. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện" làm đề tài luận văn tốt 
nghiệp Cao học luật. 
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 
Đến thời điểm hiện nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về thủ 
tục phá sản nói chung và thủ tục phục hồi nói riêng. Đó là các công trình: Báo 
cáo phúc trình đề tài "Đánh giá thực trạng, thực hiện nghiên cứu, phân tích 
để khuyến nghị hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp và các quy định 
khác có liên quan" của Câu lạc bộ Pháp chế doanh nghiệp do PGS.TS. Dương 
Đăng Huệ làm chủ nhiệm; Đề tài hoặc các bài viết như: ''Thực tiễn giải quyết 
yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong thời gian qua, những khó khăn 
vướng mắc và một số đề xuất kiến nghị'', của TS. Nguyễn Văn Dũng: Đề tài 
''Một số vấn đề lý luận về phá sản", của TS. Trần Kim Hào và ThS. Nguyễn 
Kim Anh ở Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương; Đề tài "Dấu hiệu 
xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản", của PGS.TS Đặng Văn 
Thanh Các công trình cũng như các bài viết này đã nghiên cứu về những nội 
dung cơ bản của thủ tục phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về 
thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản còn ở mức khiêm 
tốn. Đặc biệt, trong thời điểm hiện nay, khi Luật phá sản trong giai đoạn sửa 
đổi bổ sung, cần có công trình nghiên cứu khoa học phân tích, đánh giá sâu    
3 
hơn về những quy định của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng 
phá sản với tư cách là thủ tục độc lập. 
3. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài 
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp luật 
của chủ nghĩa Mác - Lênin, ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp khoa 
học khác như phân tích, so sánh tổng hợp Bên cạnh việc nghiên cứu các quy 
định của pháp luật về phá sản Việt Nam, tác giả còn tham khảo những tài liệu 
pháp luật về phá sản nước ngoài qui định về thủ tục phục hồi. Từ đó, có sự so 
sánh, đối chiếu và đánh giá khách quan những quy định thủ tục phục hồi trong 
Luật phá sản. 
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 
Mục đích nghiên cứu của luận văn phân tích đánh giá đúng thực trạng 
pháp luật về thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Từ đó, 
đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện Luật phá sản. 
Với mục đích đó đề tài có những nhiệm vụ sau: 
- Làm rõ những vấn đề mang tính lý luận về thủ tục phục hồi doanh 
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. 
- Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật về thủ tục phục hồi 
của Luật phá sản, từ đó nêu lên được những ưu điểm, tiến bộ cũng như những 
hạn chế của các quy định đó. 
- Đưa ra một số kiến nghị, phương hướng nhằm hoàn thiện Luật phá 
sản 2004. 
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài 
Phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là thủ tục quan 
trọng của Luật phá sản. Dưới góc độ pháp lý, phục hồi có thể được nghiên 
cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Có thể là biện pháp nhằm phục hồi doanh    
4 
nghiệp hoặc thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Quá 
trình phục hồi có thể diễn ra tại Tòa án hoặc ngoài Tòa án. 
Song, trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu 
những nội dung cơ bản liên quan tới trình tự, thủ tục tại Tòa án áp dụng cho 
việc phục rồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được quy định theo 
Luật phá sản 2004. 
6. Những đóng góp mới của luận văn 
Luận văn là công trình nghiên cứu tương đối toàn diện và chi tiết về 
các quy định liên quan đến thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng 
phá sản trong bối cảnh Luật phá sản mới được ban hành. Vì vậy, luận văn có 
những đóng góp sau: 
Thứ nhất: Luật phá sản quy định thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm 
vào tình trạng phá sản với tư cách là một thủ tục tương đối độc lập. Vì vậy, 
việc nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống những quy định về thủ tục 
phục hồi sẽ gợi mở một số vấn đề để cơ quan nhà nước có thẩm quyền lưu 
tâm trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật phá sản nói chung và thủ tục phục 
hồi nói riêng. 
Thứ hai: Luận văn đã phân tích, đánh giá thực trạng toàn bộ các quy 
định liên quan đến thủ tục phục hồi và thực tiễn áp dụng các quy định đó, làm 
cơ sở thực tiễn cho việc hoàn thiện Luật phá sản 2004. 
Thứ ba: Quá trình nghiên cứu những quy định của Luật phá sản về thủ 
tục phục hồi, luận văn đưa ra một số giải pháp sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện 
pháp luật về thủ tục phục hồi nói riêng và Luật phá sản nói chung. 
7. Kết cấu của luận văn 
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, 
nội dung của luận văn gồm 3 chương:    
5 
Chương 1: Khái quát về thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình 
trạng phá sản. 
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm 
vào tình trạng phá sản theo luật phá sản năm Việt Nam 2004. 
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện thủ tục phục hồi doanh 
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo luật phá sản Việt Nam 2004.                  
6 
Chương 1 
KHÁI QUÁT VỀ THỦ TỤC PHỤC HỒI 
DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN  
1.1. BẢN CHẤT PHÁP LÝ CỦA THỦ TỤC PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP 
LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN 
1.1.1. Khái quát về thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình 
trạng phá sản 
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản 
Ở nước ta, khái niệm phá sản xuất hiện sau thời kỳ đổi mới cơ chế 
kinh tế. Văn bản pháp lý đầu tiên liên quan đến giải quyết tình trạng doanh 
nghiệp kinh doanh thua lỗ không có khả năng thanh toán nợ đó là Quyết định 
số 315/QĐ-HĐBT ngày 01/09/1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Tại khoản 4 
Điều 3 của Quyết định quy định: 
Đối với các đơn vị kinh doanh thua lỗ kéo dài nhiều năm thì 
Bộ và địa phương phải lập danh sách đầy đủ, tiến hành phân loại theo 
mức độ quan trọng của các sản phẩm và dịch vụ do đơn vị tạo ra và 
theo mức độ kém hiệu quả của các đơn vị. Từ đó có thể tìm ra các 
biện pháp để hỗ trợ cho các đơn vị sáp nhập vào các xí nghiệp khác 
hoặc chuyển đổi thành các tổ chức kinh tế tập thể. Nếu đơn vị đã 
thực hiện các biện pháp chấn chỉnh trên mà vẫn không có hiệu quả, 
tiếp tục thua lỗ và không có khả năng trả nợ thì cho phép giả thể 
[12]. 
Như vậy Quyết định này đã đề cập đến doanh nghiệp kinh doanh thua 
lỗ không có khả năng thanh toán nợ, nếu xét về bản chất thì nó là phá sản.    
7 
Nhưng trong thời điểm này thì doanh nghiệp chỉ được phép giải thể bởi vì 
khái niệm về phá sản doanh nghiệp tại thời điểm này chưa được đặt ra. 
Luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990 và luật công ty năm 1990 đã 
bước đầu đề cập đến khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. 
Theo Điều 24 - Luật công ty 1990: ''Công ty gặp khó khăn thua lỗ trong hoạt 
động kinh doanh đến lúc tại một thời điểm tổng số các tài sản của công ty không 
đủ để thanh toán tổng số các khoản nợ đến hạn là công ty lâm vào tình trạng 
phá sản". 
Định nghĩa này đã có điểm hạn chế rất lớn là chưa phản ánh được bản 
chất của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Bởi vì, tại một thời điểm 
nào đó mà tổng giá trị tài sản của công ty không đủ để thanh toán tổng số các 
khoản nợ đến hạn nhưng chưa chắc doanh nghiệp đó đã rơi vào tình trạng mất 
khả năng thanh toán nợ nếu như các chủ nợ thực hiện việc hoãn nợ, xóa nợ 
cho doanh nghiệp hoặc có người mua nợ hoặc bảo lãnh cho doanh nghiệp. 
Trong quá trình nghiên cứu để ngày càng hoàn thiện hơn về nhận thức 
vấn đề phá sản doanh nghiệp, khắc phục những hạn chế trong Luật công ty 
1990 và Luật doanh nghiệp tư nhân 1990. Luật phá sản doanh nghiệp 1993 là 
đạo luật về phá sản đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã 
đưa ra dấu hiệu mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và nguyên nhân của việc 
mất khả năng thanh toán, hành động của doanh nghiệp khi bị mất khả năng 
thanh toán, làm cơ sở cho việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. 
Theo quy định tại Điều 2 - Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam 1993 
thì doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản phải thỏa mãn các dấu hiệu sau: 
Thứ nhất: Doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động 
kinh doanh. 
 Thứ hai: Doanh nghiệp bị mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.    
8 
 Thứ ba: Doanh nghiệp đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết để 
khắc phục việc mất khả năng thanh toán nhưng vẫn không khắc phục được. 
Quy định này cho thấy việc mất khả năng thanh toán nợ đến hạn là do 
doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc thua lỗ trong kinh doanh một cách trầm 
trọng và đã áp dụng các biện pháp tài chính để khắc phục nhưng không đạt 
kết quả chứ không phải do một nguyên nhân nào khác. Về mặt pháp lý, doanh 
nghiệp chỉ bị xem là phá sản khi có quyết định tuyên bố phá sản của cơ quan 
nhà nước có thẩm quyền. Tình trạng mất khả năng thanh toán chỉ là tình trạng 
báo động rằng doanh nghiệp đang đứng trước nguy cơ bị tuyên bố phá sản. Sẽ 
không có một doanh nghiệp nào bị phá sản khi chưa có yêu cầu tuyên bố phá 
sản của chủ nợ, công đoàn hoặc chính doanh nghiệp mắc nợ hay Tòa án chưa 
chủ động mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Quyết định tuyên 
bố phá sản của cơ quan có thẩm quyền là cơ sở pháp lý xác định tính hợp 
pháp của một cái chết đã được dự báo khi chưa có quyết định tuyên bố phá 
sản của cơ quan có thẩm quyền thì dù doanh nghiệp có chấm dứt hoạt động 
kinh doanh thì cũng chỉ là "Một cái chết chưa được chôn". 
Như vậy, về mặt pháp lý nếu dùng khái niệm doanh nghiệp lâm vào 
tình trạng phá sản theo Luật phá sản năm 1993 để chỉ tình trạng doanh nghiệp 
mất khả năng thanh toán nợ đến hạn một cách thực sự quan trọng và đang 
đứng bên bờ vực phá sản làm cơ sở để ra quyết định tuyên bố phá sản là chưa 
hợp lý và đã gây không ít khó khăn cho chủ nợ trong việc chứng minh là 
doanh nghiệp đã trễ hạn thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ. Còn vì sao doanh 
nghiệp trễ hạn thanh toán không trả nợ thì chủ nợ không biết mà cũng không 
cần phải biết. 
Chính vì việc xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được 
quy định tại Điều 2 - Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 còn nhiều điểm 
chưa hợp lý nên điều này đã được sửa đổi tại Điều 3 - Luật phá sản năm 2004 
như sau: " Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp không có    
9 
khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ yêu cầu". Như 
vậy, để bị xem là lâm vào tình trạng phá sản, doanh nghiệp đồng thời phải hội 
đủ hai điều kiện cơ bản là mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và khi chủ nợ 
chính thức yêu cầu thanh toán nợ mà doanh nghiệp không có khả năng trả 
được các khoản nợ đó. Đây là một bước tiến lớn của pháp luật phá sản nước 
ta và đã thể hiện sự can thiệp sớm của nhà nước vào hiện tượng phá sản. 
Việc ghi nhận các vấn đề liên quan đến thủ tục phục hồi doanh nghiệp 
lâm vào tình trạng phá sản và thủ tục thanh lý nợ của doanh nghiệp được quy 
định từ Điều 13 đến Điều 94 của Luật phá sản năm 2004, Luật phá sản là luật 
về thủ tục phục hồi hoặc thanh lý nợ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo tinh 
thần của Luật phá sản, các thủ tục phục hồi hoặc thanh lý nợ khác liên quan 
tới quá trình phục hồi khi doanh nghiệp tự phục hồi, sắp xếp lại hoạt động sản 
xuất kinh doanh của mình hoặc thủ tục thanh toán nợ trong tố tụng dân sự. 
Tính chất đặc thù của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của 
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được nhìn nhận trong mối quan hệ 
so sánh với quá trình phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khi 
doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc thua lỗ trong kinh doanh nhưng chưa bị yêu 
cầu mở thủ tục phá sản. So sánh với quá trình tự phục hồi đó, thủ tục phục hồi 
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có sự khác 
biệt cơ bản đó là: Quá trình tự phục hồi là giải pháp tổ chức sản xuất kinh 
doanh được doanh nghiệp chủ động thực hiện, còn phục hồi hoạt động kinh 
doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản lại là thủ tục tư pháp. 
Trong kinh doanh, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, doanh nghiệp có 
thể gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ. Khi đó, để lành mạnh hóa hoạt động của doanh 
nghiệp khỏi phải lâm vào tình trạng phá sản, chủ doanh nghiệp có thể thực hiện 
việc tổ chức lại hoạt động kinh doanh hay nói cách khác tự phục hồi hoạt động 
kinh doanh của doanh nghiệp mình. Quá trình phục hồi này hoàn toàn phụ 
thuộc vào ý chí của chủ doanh nghiệp, họ tự quyết định có hay không thực hiện  
  10 
việc phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; tự quyết định các phương 
án phục hồi hoạt động kinh doanh cũng như thực hiện phương án phục hồi. 
Khác với quy trình tự phục hồi, phục hồi hoạt động kinh doanh của 
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là thủ tục tư pháp. Đây là một giai 
đoạn trong thủ tục yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp, được 
tiến hành sau khi Tòa án mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp 
và chính Tòa án là người quyết định thủ tục phục hồi này. Mặc dù công việc 
chính trong quá trình phục hồi do doanh nghiệp thực hiện nhưng việc phục 
hồi chỉ được thực hiện khi có đủ điều kiện do pháp luật quy định về nội dung, 
thủ tục xem xét thông qua và thời hạn thực hiện phương án phục hồi phải tuân 
thủ theo đúng những quy định của pháp luật. Hơn nữa, phục hồi hoạt động 
kinh doanh của doanh nghiệp nằm dưới sự giám sát nghiêm ngặt của Tòa án 
cũng như các chủ nợ và doanh nghiệp phải chịu những hậu quả pháp lý tồi tệ 
trong trường hợp doanh nghiệp phục hồi hoạt động kinh doanh của mình 
không thành công. 
1.1.1.2. Những căn cứ để tiến hành thủ tục phục hồi doanh nghiệp 
lâm vào tình trạng phá sản 
Theo quy định tại Điều 2 - Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993: 
"Doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau 
khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh 
toán nợ đến hạn" 
 Tại nghị định 189/CP ngày 23/12/1994 của Chính phủ quy định dấu 
hiệu lâm vào tình trạng phá sản là: "Doanh nghiệp bị thua lỗ trong 2 năm liên 
tiếp đến mức không trả được các khoản nợ đến hạn, không trả đủ lương cho 
người lao động theo thỏa ước lao động và hợp đồng lao động trong 3 tháng 
liên tiếp"  
  11 
Theo các quy định này, có thể nói các doanh nghiệp lâm vào tình 
trạng phá sản hay những người nộp đơn đề nghị giải quyết phá sản doanh 
nghiệp là rất khó có thể đưa vụ việc đến Tòa án. Dường như vào thời điểm 
luật này được thông qua, việc phá sản doanh nghiệp còn quá mới mẻ và thực 
sự có nhiều ý kiến khác nhau về các hậu quả của việc cho phép doanh nghiệp 
lâm vào tình trạng phá sản được phá sản. 
 Ví dụ: Hậu quả mất việc làm của người lao động hay gây mất ổn định 
các hoạt động của xã hội mà không có sự quan tâm thích đáng cho các doanh 
nghiệp bị lâm vào tình trạng không thể hoạt động, không thể trả nợ, không 
đem lại lợi nhuận cho chủ doanh nghiệp và xã hội song vẫn phải tồn tại. Các 
điều kiện mà các quy định nói trên nêu ra cho việc có thể đưa việc phá sản 
doanh nghiệp đến Tòa án, một mặt có thể quá muộn khi nhìn vào thời hạn hay 
"Ba tháng liên tiếp không trả lương cho người lao động". 
Và theo Điều 3 - Luật phá sản năm 2004 "Doanh nghiệp, hợp tác xã 
không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu 
cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản". Như vậy, theo quy định này doanh 
nghiệp mắc nợ chỉ cần mắc nợ chủ nợ với số tiền là 1.000 đồng và thời gian 
quá hạn thanh toán là 10 ngày kể từ ngày chủ nợ gửi giấy đòi nợ thì được coi 
như doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Nhưng với quy định này, có thể 
sẽ khắc phục được tình trạng quá muộn để phục hồi hoạt động kinh doanh của 
doanh nghiệp hay có điều kiện tốt hơn trong việc thanh toán cho các chủ nợ. 
Đó là vì vào thời điểm khi phát hiện ra doanh nghiệp không có khả năng 
thanh toán các khoản nợ đến hạn thì việc này có thể đưa ngay đến Tòa án, các 
hoạt động và tài sản của doanh nghiệp sẽ được đặt dưới sự kiểm soát của Tòa 
án và các chủ nợ. Khi đó cơ hội để thực hiện phương án phục hồi hoạt động 
kinh doanh có thể được chấp nhận nếu có phương án phục hồi kịp thời được 
các chủ nợ và Tòa án đồng ý thông qua. 
   12 
Theo kinh nghiệm của các nước, có thể nói việc xác định thời điểm 
Tòa án thụ lý đơn để xem xét việc phá sản là khá sớm khi so sánh với quy 
định hiện thời của Việt Nam. 
Ví dụ: Luật phá sản của Nhật Bản quy đinh: "Mọi thương nhân và 
pháp nhân kể cả pháp nhân không có quy chế thương nhân, khi bị lâm vào 
tình trạng ngừng thanh toán thì đều phải khai báo trong thời hạn 15 ngày để 
mở thủ tục phục hồi doanh nghiệp hoặc thủ tục thanh lý doanh nghiệp". 
1.1.1.3. Điều kiện để xác định thời điểm một doanh nghiệp lâm vào 
tình trạng phá sản 
Trong hoàn cảnh thực tế ta có thể nhận thấy thời điểm bắt đầu mở thủ 
tục phá sản là thời điểm xác định Tòa án có thể bảo vệ được quyền lợi và lợi 
ích hợp pháp của các chủ nợ, giúp các chủ nợ có thể tham gia vào công việc 
quản lý, giám sát hoạt động của doanh nghiệp có dấu hiệu phá sản để họ có 
thể bảo vệ tốt hơn quyền lợi của mình. Bằng việc quy định một số điều khoản 
tại chương IV - Luật phá sản năm 2004, có thể giúp doanh nghiệp mắc nợ có 
thể có điều kiện tốt hơn để phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 
và giảm bớt những khó khăn có thể xẩy ra. Vì vậy, điều kiện để xác định thời 
điểm một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là: 
- Doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bị thua lỗ. 
- Đã quá thời hạn thanh toán mà không thanh toán được các khoản nợ 
đến hạn khi chủ nợ yêu cầu. 
Như vậy, nếu doanh nghiệp làm ăn không bị thua lỗ thì tất cả các hoạt 
động sản xuất kinh doanh sẽ được thể hiện qua sổ sách tài chính kế toán của 
doanh nghiệp, song trong sổ sách kế toán lại thể hiện rõ doanh nghiệp có các 
khoản nợ đến hạn chưa thanh toán và cũng không chịu thanh toán thì chủ nợ 
chưa thể yêu cầu Tòa án bắt đầu thực hiện thủ tục phá sản doanh nghiệp đó. 
Và vấn đề được thực hiện đầu tiên là chủ nợ sẽ phải đi kiện để đòi nợ theo thủ    
13 
tục bình thường và chờ khi nào giải quyết xong và xin thi hành án. Điều này 
sẽ tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp chây lỳ không trả nợ và các chủ nợ 
hay các đối tượng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong phạm vi pháp luật 
cho phép đưa đơn yêu cầu phá sản doanh nghiệp. Phải chờ đợi cho đến khi 
trên sổ sách tài chính của doanh nghiệp mắc nợ đó phản ánh rõ sự thua lỗ của 
doanh nghiệp. 
Theo quy định chung thì Luật phá sản không chỉ chú ý đến việc thanh 
toán nợ hay việc "Trả nợ tập thể" cho các chủ nợ, người lao động mà rất chú 
trọng tới việc giúp doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có thể thoát ra 
khỏi khó khăn và phục hồi lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm 
vào tình trạng phá sản. Tuy nhiên có những ý kiến lại cho rằng, luật không 
nên coi việc phục hồi hay tổ chức lại việc hoạt động kinh doanh của doanh 
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là bắt buộc mà nên khuyến khích, tạo mọi 
cơ hội, điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp có thể thực hiện phương án 
phục hồi lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được dễ dàng hơn, tiện 
lợi hơn. 
Có thể nói rằng, cùng với sự hoàn thiện của Luật doanh nghiệp thì số 
lượng các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh 
tế tư nhân đã được phát triển một cách nhanh chóng và đóng góp ngày càng 
nhiều vào tổng đầu tư của toàn xã hội. Có nhiều doanh nghiệp đăng ký kinh 
doanh và hoạt động thì cũng có nhiều doanh nghiệp cần giải thể và phá sản, 
đây là một vấn đề không thể tránh khỏi của một nền kinh tế cạnh tranh. Vấn 
đề cần nêu ra ở đây là làm sao bằng các quy định phù hợp của luật pháp sẽ tạo 
cho các doanh nghiệp thực sự có một "Sân chơi" hợp lý để họ có thể được 
thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc chấm dứt hoạt động kinh doanh 
một cách công bằng, đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các 
trường hợp khác liên quan đến các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp 
bất kể họ là người cho doanh nghiệp vay tiền hay là người làm công ăn lương    
14 
của doanh nghiệp. Và điều kiện quan trọng hơn là các quy định này phải đảm 
bảo một cách có hiệu quả nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có 
liên quan và của các doanh nghiệp khi doanh nghiệp đó đã lâm vào tình trạng 
phá sản. 
1.1.2. Những đặc trƣng cơ bản của thủ tục phục hồi doanh nghiệp 
lâm vào tình trạng phá sản 
Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lầm vào tình 
trạng phá sản là một trong những thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt và nó được 
điều chỉnh bởi những hệ thống văn bản pháp luật riêng biệt. Tính chất đặc biệt 
của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được thể hiện ở 
những đặc trưng cơ bản sau: 
 Thứ nhất: Thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản 
là quyết định của tập thể. Đa số các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, 
nếu họ đã nợ các chủ nợ một số nợ khổng lồ mà không thể nào trả nổi hoặc vỡ 
nợ vì nguyên nhân khách quan hay chủ quan thì sẽ dẫn đến kết quả là khai 
phá sản. Nhưng khi các chủ nợ nộp đơn đến Tòa án yêu cầu Tòa án tiến hành 
các thủ tục phá sản thì khi Tòa án thụ lý đơn sẽ tổ chức hội nghị chủ nợ, khi 
đó các chủ nợ có thể đồng ý cho doanh nghiệp mắc nợ có cơ hội xóa bỏ các 
món nợ hoặc làm lại từ đầu bằng cách làm ăn có tổ chức và có quy củ để có 
thể trả dần những món nợ đó cho các chủ nợ. Như vậy doanh nghiệp mắc nợ 
có thể áp dụng thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. 
Thứ hai: Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 
tránh được những hậu quả xấu do việc phá sản gây ra. Việc tuyên bố phá sản 
doanh nghiệp sẽ không chỉ ảnh hưởng xấu đến quyền và lợi ích hợp pháp của 
bản thân chủ nợ, con nợ, người lao động mà còn kéo theo nhiều hậu quả bất 
lợi khác cho xã hội nói chung. Đối với các chủ nợ, trong trường hợp doanh 
nghiệp mắc nợ gặp nhiều khó khăn, việc thanh toán ngay tài sản của doanh    
15 
nghiệp mắc nợ cho chủ nợ không phải bao giờ cũng là giải pháp tối ưu cho 
họ, vì không phải doanh nghiệp nào lâm vào tình trạng phá sản cũng còn đủ 
tài sản để thanh toán hết các món nợ của mình. Vì vậy, sẽ tốt hơn nếu doanh 
nghiệp mắc nợ được giúp đỡ có thể thoát khỏi tình trạng phá sản bằng con 
đường phục hồi hoạt động kinh doanh. 
Thứ ba: Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm 
vào tình trạng phá sản có thể có tác động tốt đến môi trường kinh doanh. Việc 
phá sản doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh với 
quy mô lớn, có nhiều đối tác làm ăn hoặc hoạt động trong những ngành nghề 
chủ chốt quan trọng đối với nền kinh tế đất nước rất dễ làm phát sinh tác động 
dây chuyền đến các lĩnh vực kinh tế khác cũng như các hoạt động khác của 
các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. Vì vậy việc tạo điều kiện phục hồi 
hoạt động kinh doanh cho các chủ nợ là một xu hướng cần thiết và phải được 
khẳng định trong luật phá sản hiện đại. 
Thứ tư: Việc phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm 
vào tình trạng phá sản được Tòa án và các chủ nợ tạo điều kiện tối đa. Một 
trong những biện pháp giúp doanh nghiệp mắc nợ thoát khỏi tình trạng phá 
sản là việc pháp luật cho phép doanh nghiệp mắc nợ chủ động xây dựng 
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của mình. Kế hoạch này sẽ được 
trình lên Hội nghị chủ nợ, nếu được thông qua thì về cơ bản doanh nghiệp 
mắc nợ được khôi phục lại vị trí pháp lý ban đầu, được tiếp tục sản xuất kinh 
doanh một cách bình thường. 
1.2. VAI TRÒ CỦA THỦ TỤC PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP LÂM VÀO 
TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN 
Thứ nhất: Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 
lâm vào tình trạng phá sản là công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của 
các chủ nợ.    
16 
Khi tham gia vào các hoạt động kinh doanh trên thị trường, việc các 
doanh nghiệp mắc nợ nhau là chuyện bình thường, ít có doanh nghiệp nào có 
thể tránh khỏi nợ. Khi có đối tác kinh doanh nợ mình thì chủ nợ có quyền đòi 
nợ và việc đòi nợ có thể thông qua nhiều hình thức, biện pháp đòi nợ khác 
nhau trong đó có biện pháp khởi kiện ra Tòa án. Tuy nhiên nếu đòi nợ bằng 
con đường kiện tụng ra Tòa dân sự, nhiều khi không giải quyết được một cách 
thỏa đáng quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà kinh doanh. Vì vậy, với tư 
cách là một thủ tục đòi nợ thông thường, nhà nước phải thiết kế thêm các cơ 
chế đòi nợ đặc biệt nữa để các chủ nợ, khi cần thì có thể sử dụng để đòi nợ, đó 
là thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng 
phá sản trong thủ tục phá sản. Tính ưu việt ở thủ tục phục hồi hoạt động kinh 
doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là ở chỗ chủ nợ có thể 
theo dõi, giám sát được tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để 
từ đó có thể xác định được việc thu hồi nợ mà doanh nghiệp mắc nợ phải trả 
khi phương án phục hồi đã thực hiện xong. Việc bảo vệ quyền lợi cho các chủ 
nợ khi doanh nghiệp mắc nợ lâm vào tình trạng phá sản bằng cách mở rộng 
hành lang pháp lý, tạo cơ hội cho chủ nợ thu hồi được nợ đã làm cho luật phá 
sản trở thành công cụ pháp lý có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt 
động đầu tư của các nhà kinh doanh. 
Luật phá sản năm 2004 đã thể hiện rất rõ sự quan tâm của nhà nước 
đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Điều này được 
thể hiện qua các quy định của pháp luật liên quan đến quyền năng của chủ nợ 
như: quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, quyền đề xuất phương án 
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mắc nợ 
Thứ hai: Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 
lâm vào tình trạng phá sản bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp mắc nợ, tạo điều 
kiện để cho doanh nghiệp mắc nợ có cơ hội trở lại hoạt động kinh doanh bình 
thường trên thị trường.    
17 
Khi mới xuất hiện, Luật phá sản chưa đặt ra vấn đề bảo vệ doanh nghiệp 
mắc nợ, vì tại thời điểm này hầu hết các quan điểm cho rằng phá sản cũng là 
một tội phạm, người gây ra sự phá sản bị coi là phạm nhân, do đó họ không 
những không được bảo vệ mà còn bị trừng phạt bằng nhiều hình thức khác 
nhau, kể cả việc tử hình. Ngày nay quan niệm về việc kinh doanh đã được 
thay đổi, do đó, cách xử sự của nhà nước và pháp luật đối với doanh nghiệp 
mắc nợ lâm vào tình trạng phá sản cũng được thể hiện theo hướng tích cực, có 
lợi cho doanh nghiệp mắc nợ. Hoạt động kinh doanh là hoạt động chứa nhiều 
rủi ro, ngoài sự mong muốn của các doanh nghiệp bởi thị trường kinh doanh 
thường xuyên có sự biến đổi và do có nhiều sự tác động của khách quan nên 
tình trạng doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thua lỗ, không trả được các 
khoản nợ đến hạn khi chủ nợ yêu cầu là điều có thể xẩy ra ở bất kỳ nơi nào và 
vào thời điểm nào đối với bất kỳ nhà kinh doanh nào. Mặt khác, doanh nghiệp 
bị phá sản có thể kéo theo nhiều hậu quả xấu cho xã hội mà trước hết nó xẩy 
ra đối với chủ nợ và người lao động. Chính vì vậy, hiện nay khi một doanh 
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì điều đầu tiên mà Nhà nước quan tâm 
giải quyết không phải là việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp ngay và phân 
chia tài sản cho các chủ nợ mà là việc phải tìm mọi cách để giúp đỡ doanh 
nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn này để có thể tiếp tục đi trên con đường 
kinh doanh và thanh toán được các khoản nợ cho các chủ nợ. Để đảm bảo 
thực hiện được vấn đề trả nợ tốt hơn luật đã có nhiều hình thức phục hồi để 
các doanh nghiệp có thể lựa chọn hình thức phù hợp với quy mô và hoạt động 
của mình như: huy động vốn mới; thay đổi mặt hàng sản xuất, kinh doanh; 
đổi mới công nghệ sản xuất; tổ chức lại bộ máy quản lý, sáp nhập hoặc chia 
tách bộ phận sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản xuất; bán lại 
cổ phần cho chủ nợ; bán hoặc cho thuê tài sản không cần thiết. 
Thứ ba: Thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản 
góp phần bảo vệ lợi ích cho người lao động.    
18 
Trong chiến lược xây dựng và phát triển kinh tế xã hội, Đảng và Nhà 
nước ta luôn quan tâm đến việc bảo vệ người lao động bởi vì bảo vệ người lao 
động là thể hiện quan điểm vì con người, do con người mà trước hết là người 
lao động. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động không chỉ là 
trách nhiệm của riêng ai mà là vấn đề chung của toàn xã hội, trong đó thiết 
thực nhất vẫn là tổ chức Công đoàn, Công đoàn là thành viên trong hệ thống 
chính trị của xã hội Việt Nam [24, Điều 1] và "Công đoàn có quyền cùng với 
cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi 
của cán bộ, công nhân viên chức và những người lao động khác" [27, Điều 10]. 
Vì vậy, khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản và vấn đề này có thể gây 
ra các hậu quả xấu cho người lao động vì chính sự phá sản mà người lao động 
phải mất việc làm, lâm vào tình cảnh thất nghiệp. Do vậy, muốn bảo vệ người 
lao động, trước hết là phải làm sao để doanh nghiệp không bị phá sản. Ban 
chấp hành Công đoàn (đại diện cho người lao động) đồng ý cho doanh nghiệp 
áp dụng cơ chế phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 
thực chất là "cứu được doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng phá sản cũng chính 
là cứu được người lao động thoát khỏi tình trạng thất nghiệp" [15, tr. 21]. 
Thứ tư: Phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp lâm 
vào tình trạng phá sản góp phần bảo vệ kỷ cương xã hội. 
 Khi doanh nghiệp mắc nợ lâm vào tình trạng phá sản, trước những 
nguy cơ có thể mất nhiều khoản tín dụng của mình, các chủ nợ có động lực 
mong muốn thúc đẩy thực hiện những hành vi chống lại doanh nghiệp mắc 
nợ. Những hành vi đó có thể là hợp pháp cũng có thể là bất hợp pháp. Nếu 
không có sự can thiệp của pháp luật hoặc sự can thiệp đó không có hiệu quả 
thì những hành vi bất hợp pháp của các chủ nợ rất dễ xẩy ra, gây nên tình 
trạng lộn xộn trong đời sống xã hội. Do vậy pháp luật về phục hồi doanh 
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản phá sản quy định cách thức và thời gian 
mà mỗi nhóm chủ nợ được thanh toán nợ và không làm ảnh hưởng hoặc gây    
19 
lộn xộn đến những nhóm khác tạo nên một sự cân bằng cần thiết trong việc 
thanh toán cho các chủ nợ, cũng có nghĩa là các bên được đưa vào một 
khuôn khổ chung mà trong đó lợi ích của các bên đều được xem xét một 
cách công bằng và minh bạch. 
Bằng việc giải quyết thỏa đáng mối quan hệ về lợi ích giữa chủ nợ và 
doanh nghiệp mắc nợ cũng như giữa các chủ nợ với nhau, những quy định về 
thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đã góp phần hạn 
chế những mâu thuẫn, những căng thẳng có thể có giữa họ, nhờ đó góp phần 
bảo đảm trật tự, kỷ cương trong xã hội. 
Thứ năm: Phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào 
tình trạng phá sản góp phần tổ chức lại cơ cấu nền kinh tế. 
Phục hồi kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đã 
góp phần tích cực vào việc tổ chức cơ cấu lại nền kinh tế. Những doanh 
nghiệp nào không có khả năng phục hồi hoạt động kinh doanh coi như họ đã 
tự chứng minh doanh nghiệp của mình thực sự làm ăn kém hiệu quả. Đồng 
thời việc tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng là một 
trong những biện pháp buộc các nhà kinh doanh luôn luôn phải năng động, 
sáng tạo nhưng không được mạo hiểm, liều lĩnh. 
Tóm lại, phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào 
tình trạng phá sản có ý nghĩa rất to lớn trong nền kinh tế thị trường nói riêng, 
trong hệ thống pháp luật nói chung, là cơ sở pháp lý để các chủ thể tham gia 
vào các quan hệ kinh tế do Luật phá sản điều chỉnh, áp dụng một cách thống 
nhất góp phần lập lại kỷ cương và trật tự xã hội. 
1.3. VAI TRÒ CỦA CƠ QUAN TÒA ÁN ĐỐI VỚI THỦ TỤC PHỤC HỒI 
DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN 
Pháp luật của hầu hết các nước đều trao cho Tòa án có thẩm quyền 
giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản,