Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Pháp luật về thủ tục đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 87 trang )

ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
KHOA LUậT



PHAN THị NGÂN Hà



PHáP LUậT Về THủ TụC ĐầU TƯ
RA NƯớC NGOàI CủA VIệT NAM



LUậN VĂN THạC Sĩ LUậT HọC






Hà NộI - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


PHAN THỊ NGÂN HÀ


PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC ĐẦU TƯ
RA NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM




Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Thị Lan Hương


HÀ NỘI - 2011

MỤC LỤC
CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI VÀ PHÁP
LUẬT VỀ ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM 6
1.1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư ra nước ngoài 6
1.2. Đặc điểm đầu tư ra nước ngoài 7
1.2.1. Chủ thể đầu tư ra nước ngoài 7
1.2.2. Phạm vi hoạt động đầu tư ra nước ngoài 10
1.2.3. Hình thức đầu tư ra nước ngoài 13
1.3. Vai trò của đầu tư ra nước ngoài 19
1.3.1. Vai trò đối với nước có nhà đầu tư ra nước ngoài 19
1.3.2. Vai trò đối với nước tiếp nhận đầu tư 21
1.3.3. Liên hệ đối với Việt Nam 22

1.4. Yêu cầu điều chỉnh về pháp luật đầu tư ra nước ngoài 24
1.4.1. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh 24
1.4.2. Bảo đảm quyền và lợi ích của nhà đầu tư 25
1.4.3. Bảo đảm sự phù hợp chính sách quản lý ngoại hối 26
1.4.4. Yêu cầu về trình tự, thủ tục đầu tư ra nước ngoài 28
1.5. Khái quát pháp luật Việt Nam về thủ tục đầu tư ra nước ngoài . 31
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC ĐẦU TƯ
RA NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM 37
2.1. Quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư ra nước ngoài 37
2.1.1. Quyền của nhà đầu tư ra nước ngoài 37
2.1.2. Nghĩa vụ của nhà đầu tư ra nước ngoài 39
2.2. Trình tự, thủ tục cấp giấy phép đối với hoạt động đầu tư ra
nước ngoài 41
2.2.1. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 41
2.2.2. Đầu tư gián tiếp ra nước ngoài 51
2.3. Thủ tục chuyển dịch vốn và tài sản ra nước ngoài đầu tư 51
2.3.1. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư 51
2.3.2. Quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng 55
2.4. Xử lý vi phạm về thủ tục đầu tư ra nước ngoài 57
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
ĐỂ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC ĐẦU TƯ RA
NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM 62
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về tủ tục đầu tư ra nước
ngoài của Việt Nam 62
3.2. Một số kiến nghị để hoàn thiện Pháp luật Việt Nam về thủ tục
đầu tư ra nước ngoài 66
3.2.1. Rút ngắn thời gian cấp giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài 66
3.2.2. Phân cấp cho địa phương cấp Giấy chứng nhận Đầu tư ra
nước ngoài 68
3.2.3. Bổ sung quy định về cấp giấy chứng nhận thực hiện hoạt động đầu

tư ra nước ngoài 68
3.2.4. Bổ sung quy định về hình thức đầu tư gián tiếp ra nước ngoài 69
3.2.5. Sửa đổi quy định về thủ tục chuyển tiền ra nước ngoài 70
3.2.6. Cấp Giấy chứng nhận tình trạng hoạt động của doanh nghiệp 71
3.2.7. Quy định rõ chế tài xử lý vi phạm đối với nhà đầu tư khi đầu tư ra
nước ngoài 73
KẾT LUẬN 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
PHỤ LỤC 80


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Bộ KH - ĐT: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
ĐTGT: Đầu tư gián tiếp
ĐTTT: Đầu tư trực tiếp
ĐTNN: Đầu tư nước ngoài
ĐTRNN: Đầu tư ra nước ngoài
ĐTTTRNN: Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
FDI (Foreign Dicrect Investment): Đầu tư trực tiếp nước ngoài
UBND: Uỷ ban nhân dân
WTO (World Trade Organization): Tổ chức thương mại Thế giới

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

1. Bảng 1: Bảng tổng hợp tình hình Đầu tư ra nước ngoài đến
28/2/2010 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư cung cấp (trang 80)
2. Bảng 2: Quy trình thủ tục ĐTRNN (trang 45)






1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đặc biệt là từ khi Việt Nam chính thức
là thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), hoạt động đầu
tư ra nước ngoài của Việt Nam ngày càng được mở rộng về qui mô. Đến nay,
rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã xúc tiến thực hiện hoạt động đầu tư ra
nước ngoài với mục đích mở rộng thị trường tiêu thụ sản phần, tăng khả năng
tài chính cũng như kinh nghiệm kinh doanh, tiếp thu công nghệ mới, giao lưu
văn hóa,…. Khi ĐTRNN các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng được nguồn
nguyên liệu tại chỗ, lao động tại chỗ, giảm chi phí vận chuyển sản phẩm,
thâm nhập vào thị trường tiêu thụ của nước sở tại.
Tại Việt Nam, việc ĐTRNN gần đây đã trở thành hoạt động mang tính
chiến lược của nhiều nhà đầu tư có tiềm lực. Tính đến hết tháng 02/2010, Việt
Nam có 575 dự án của các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra 55 quốc gia và
vùng lãnh thổ với tổng vốn đầu tư của nhà đầu tư Việt Nam đạt trên 10 tỷ Đô
la Mỹ [3]. Để được con số đầu tư không nhỏ đó, bên cạnh nỗ lực của chính
nhà đầu tư thì còn nhờ chính sách khuyến khích của Chính phủ Việt Nam
thông qua việc ban hành cơ chế chính sách, hệ thống pháp luật. Tuy nhiên,
nhiều nhà đầu tư vẫn phản ánh tình trạng thủ tục cấp giấy chứng nhận
ĐTRNN còn phức tạp, dẫn đến thời gian thẩm tra, cấp giấy chứng nhận
ĐTRNN một số dự án vẫn còn kéo dài hơn so với luật định, thủ tục chuyển
tiền ra nước ngoài đầu tư khó khăn, pháp luật còn đi sau thực tiễn, ảnh hưởng
xấu tới tiến độ triển khai dự án ở nước ngoài. Chính vì vậy, Học viên đã quyết
định chọn đề tài luận văn Thạc sĩ “Pháp luật về thủ tục đầu tư ra nước ngoài
của Việt Nam”. Từ các quy định của Pháp luật Việt Nam, từ phản ánh của các

doanh nghiệp đã từng đầu tư ra nước ngoài, Học viên tập hợp và đưa ra những
2

đề xuất giải pháp để góp phần hoàn thiện hơn Pháp luật, đơn giản hóa thủ tục
ĐTRNN, tạo điều kiện cho các nhà Đầu tư trong nước thúc đẩy hoạt động
ĐTRNN.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, vấn đề Đầu tư ra nước ngoài đã
có nhiều học giả quan tâm nghiên cứu ở những khía cạnh và góc độ khác
nhau. Sau đây là một số công trình, bài viết cơ bản về Đầu tư ra nước ngoài
sau đây:
i. Nguyễn Khắc Định, Hoàn thiện pháp luật về ĐTTTNN trong xu hướng
nhất thể hoá pháp luật về đầu tư ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà
Nội 2003.
ii. PGS.TS Đinh Trọng Thịnh (chủ biên), Thúc đẩy DN Việt Nam
ĐTTTRNN, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội 2006.
iii. TAND Tối cao, trường Cán bộ Toà án- Những vấn đề pháp lý cơ bản
về hội nhập kinh tế quốc tế. Nhà xuất bản tư pháp, Hà Nội 2005.
Các tác giả của các công trình nghiên cứu, bài luận văn đã đều đề cập về
ĐTRNN trên khía cạnh khái quát, tổng hợp cả về vai trò của ĐTRNN, điều
kiện ĐTRNN, chính sách của Nhà nước, thách thức của các doanh nghiệp
Việt Nam và đưa ra các giải pháp mang tầm vĩ mô đối với chính sách của
Chính Phủ và cả chính từ phía Doanh nghiệp để thúc đẩy ĐTRNN.
Luận văn thạc sĩ với đề tài “Pháp luật về thủ tục đầu tư ra nước ngoài
của Việt Nam” làm rõ những vấn đề về thủ tục để được ĐTRNN, trên cơ sở
đối chiếu với pháp luật về thủ tục ĐTRNN của một số nước trên thế giới.
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề thực tiễn mà doanh nghiệp Việt Nam đã
và đang gặp phải trong thực tiễn khi xin cấp phép đầu tư và nước nhận đầu tư,
3


từ đó đưa ra các kiến nghị để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về
ĐTRNN của Việt Nam.

3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của
ĐTRNN và thực trạng pháp luật về thủ tục ĐTRNN tại Việt Nam, luận văn
đưa ra các đề xuất những giải pháp nhằm đơn giản thủ tục đầu tư ra nước
ngoài, đáp ứng nhu cầu tự do kinh doanh của các doanh nghiệp trong công
cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế.

4. Nhiệm vụ của đề tài
 Phân tích những vấn đề lý luận về thủ tục ĐTRNN.
 Phân tích thực trạng pháp luật về thủ tục ĐTRNN trên cơ sở so sánh
với pháp luật của một số nước trên thế giới và khảo sát thực tiễn ĐTRNN của
một số Doanh nghiệp Việt Nam.
 Đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về thủ tục
ĐTRNN để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra
nước ngoài.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: “Pháp luật về thủ tục về thủ tục
đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam”.
* Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn phân tích thực trạng về thủ tục ĐTRNN, từ đó đưa ra các kiến
4

nghị đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho các
nhà đầu tư Việt Nam ĐTRNN.


6. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
 Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài:
Việc nghiên cứu và trình bày của luận văn dựa trên cơ sở nguyên tắc bảo
đảm quyền tự do kinh doanh trong ĐTRNN, các quy định pháp luật về
ĐTRNN. Học viên có tham khảo một số công trình nghiên cứu của các tác giả
đã được công bố, có nội dung liên quan tới vấn đề mà luận văn đề cập.
 Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, quy nạp và diễn
dịch và so sánh pháp luật nhằm đạt tới mục đích đề tài đã đề ra.

7. Đóng góp mới của luận văn
 Luận văn phân tích những vấn đề lý luận về ĐTRNN.
 Phân tích thực trạng về thủ tục ĐTRNN trên cơ sở so sánh với pháp
luật của một số nước trên trên thế giới và khảo sát tình hình thực tiễn ĐTRNN
của một số doanh nghiệp Việt Nam trong xu hướng mở cửa, hội nhập quốc tế.
 Đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm đơn giản hóa thủ tục ĐTRNN,
khuyến khích các Doanh nghiệp Việt Nam mở rộng kinh doanh đầu tư ra
nước ngoài.

8. Cơ cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm có 3 chương:
5

Chương 1: Tổng quan về ĐTRNN và Pháp luật về ĐTRNN của Việt
Nam.
Chương 2: Thực trạng Pháp luật về thủ tục ĐTRNN Việt Nam.
Chương 3: Định hướng hoàn thiện và một só đề xuất kiến nghị để hoàn
thiện Pháp luật về thủ tục ĐTRNN của Việt Nam.



















6

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI VÀ
PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI CỦA
VIỆT NAM

1.1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư ra nước ngoài
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, hoạt động
đầu tư không ngừng được mở rộng và chiếm vị trí ngày càng quan trọng.
Khái niệm về đầu tư được quy định trong Luật đầu tư 2005 như sau:
“Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc

vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định
của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan” (Điều 3).
Về bản chất, đầu tư là việc bỏ vốn để tiến hành các hoạt động kinh
doanh nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong lớn hơn
nguồn vốn đã bỏ ra. Những kết quả thu về đó có thể là tài sản tài chính
(vốn bằng tiền), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá, các của cải vật chất
khác,…), kết quả này có thể làm tăng thêm lợi nhuận cho nhà đầu tư, đồng
thời làm tăng them của cải vật chất cho xã hội.

Nếu căn cứ vào hình thức góp vốn và tính chất quản lý của nhà đầu tư
đối với vốn đầu tư, có thể chia đầu tư thành: Đầu tư trực tiếp và Đầu tư
gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư mà người bỏ vốn trực tiếp tham
gia quản lý, điều hành quá trình sử dụng các nguồn vốn đầu tư (Điều 3
khoản 2 Luật đầu tư 2005). Đặc điểm nổi bật của các hình thức đầu tư này
là các nhà đầu tư thường kiểm soát trực tiếp hoạt động đầu tư và chịu trách
nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp có vốn đầu tư của
7

mình. Trong hoạt động đầu tư trực tiếp không có sự tách bạch giữa quyền
sở hữu và quyền quản lý của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư.
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ
phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông
qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp
tham gia quản lý hoạt động đầu tư (Điều 3 Khoản 3 Luật đầu tư 2005).
Trong xu thế hiện nay, đầu tư không còn chỉ bó hẹp trong phạm vi lãnh
thổ một nước mà các Nhà đầu tư còn vươn ra đầu tư ra nước ngoài. Đầu tư ra
nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác
từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và

đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Ở bất cứ quốc gia nào thì hai hoạt động này
cũng phải được tiến hành một cách đồng thời. Để phát triển kinh tế nước
nhà, các quốc gia không chỉ tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn
Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài mà còn không ngừng đẩy mạnh đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh, tiếp cận gần khách hàng, tận dụng nguồn tài
nguyên, nguyên liệu tại chỗ, tiết kiệm chi phí vận chuyển hàng hoá, tránh
được chế độ giấy phép xuất khẩu trong nước, đồng thời tăng cường khoa
học - kĩ thuật, nâng cao năng lực quản lý và trình độ tiếp thị với các nước
trong khu vực và trên thế giới, và từ đó mở rộng giao lưu văn hóa với các
nền văn minh khác nhau.
1.2. Đặc điểm đầu tư ra nước ngoài
1.2.1. Chủ thể đầu tư ra nước ngoài
Chủ thể ĐTRNN là các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động đầu tư thuộc
phạm vi điều chỉnh của pháp luật ĐTRNN. Pháp luật có thể mở rộng hay thu
8

hẹp chủ thể và phạm vi ĐTRNN. Việc quy định về ĐRTNN phải đảm bảo
quyền tự do kinh doanh của các đơn vị, cá nhân có năng lực, tránh bỏ ngỏ
trong quy định pháp luật, dẫn đến tình trạng luồn lách pháp luật, vi phạm
pháp luật.
Nghị định 22/99/NĐ-CP năm 1999 quy định về đầu tư nước ngoài của
doanh nghiệp Việt Nam được ban hành với chính sách là thu hút vốn đầu tư
từ nước ngoài với hàng loạt chính sách ưu đãi, không còn quan điểm hạn chế
đem tiền ra nước ngoài là đất nước bị hụt vốn, làm giảm đầu tư trong nước.
Vì vậy, quy định của pháp luật về đầu tư thời kỳ này đã theo hướng mở rộng
quy chế ĐTRNN.
Tuy nhiên, quy định mới này lại hạn chế về chủ thể được ĐTRNN. Việc
chỉ cho phép các nhà đầu tư là Doanh nghiệp Việt Nam (không bao gồm
doanh nghiệp có vốn ĐTNN và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh

doanh) được tham gia vào hoạt động kinh doanh mới mẻ này không những
hạn chế một số lượng lớn các nhà đầu tư muốn được ĐTRNN mà còn tạo ra
sự phân biệt, đối xử không bình đẳng giữa các nhà đầu tư, các loại hình doanh
nghiệp đang cùng tồn tại. Quy định này được lý giải là bởi vì các chủ thể
không phải là doanh nghiệp thì không thể có đủ khả năng về quản lý cũng như
tài chính để có thể tham gia vào sân chơi chung rất khắt khe và tiềm ẩn nhiều
rủi ro này. Cá nhân, hộ gia đình thông thường chỉ sản xuất với quy mô nhỏ,
cách thức tổ chức thủ công không thể có năng lực tài chính cũng như không
hề phù hợp với tính phức tạp của ĐTRNN. Nhưng hiện nay, trong điều kiện
kinh tế phát triển, các chủ thể không ngừng phấn đấu nâng cao chất lượng
hoạt động kinh doanh của mình và mở rộng quy mô sản xuất, nhu cầu được
tiến xa hơn, không chỉ giới hạn trong thị trường trong nước, các chủ thể có đủ
khả năng và điều kiện để tiến hành ĐTRNN. Để tháo gỡ vướng mắc này,
9

Nghị định 78/2006/NĐ-CP ra đời trên cơ sở kế thừa và phát huy có chọn lọc
những mặt tích cực, cũng như khắc phục những hạn chế của hệ thống pháp
luật hiện hành về ĐTRNN nhằm mở rộng. Nghị định mới đã có những quy
định mở nhằm phát triển quyền tự chủ, tự do kinh doanh, ghi nhận quyền
ĐTRNN cho tất cả các loại hình Doanh nghiệp, không phân biệt sở hữu, đã
đăng ký theo Luật Doanh nghiệp, kể cả các cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa
học và các hộ kinh doanh, cá nhân Việt Nam. Như vậy, đến khi Nghị định
78/2006/NĐ-CP ra đời thì phạm vi chủ thể ĐTRNN đã được mở rộng một
cách đáng kể. Điều 2 Nghị định 78/2006/NĐ-CP quy định đối tuợng được
ĐTRNN bao gồm:
i. Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh,
doanh nghiệp tư nhân được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo
Luật Doanh nghiệp.
ii. Doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước chưa
đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp.

iii. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo Luật Đầu
tư nước ngoài chưa đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư.
iv. Doanh nghiệp thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội chưa
đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp.
v. Hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã được thành lập theo Luật Hợp tác xã.
vi. Cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học, văn hóa, thể thao và các cơ sở
dịch vụ khác có hoạt động đầu tư sinh lợi.
vii. Hộ kinh doanh, cá nhân Việt Nam.
Quy định trên đã hoàn toàn mở rộng để tất cả các chủ thể có khả năng được
thực hiện hoạt động ĐTRNN. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các cá thể
thực hiện ĐTRNN và họ tự chịu trách nhiệm về hoạt động đó. Do vậy, Pháp luật
không nên hạn chế quyền đầu tư, tìm kiếm lợi nhuận của các chủ thể này.
10

1.2.2. Phạm vi hoạt động đầu tư ra nước ngoài
Quy định về phạm vi hoạt động ĐTRNN phụ thuộc vào pháp luật nước
tiếp nhận đầu tư. Nước tiếp nhận đầu tư sẽ quy định lĩnh vực được phép đầu
tư và những lĩnh vực bị cấm. Tuy nhiên, pháp luật của nước đầu tư cũng có
quy định về lĩnh vực khuyến khích đầu tư và các lĩnh vực bị cấm ĐTRNN.
Quy định này mang ý nghĩa chính trị xã hội, đảm bảo ổn định chính trị và lợi
ích quốc gia.
Hầu như quy định trong Luật đầu tư của các nước đều có quy định cụ thể
lĩnh vực mà họ cấp phép đầu tư nước ngoài, lĩnh vực mà họ khuyến khích đầu
tư, đặc biệt khuyến khích đầu tư đồng thời cũng quy định các lĩnh vực không
cấp phép đầu tư. Trong hoạt động ĐTRNN các nước cũng có những quy định
về khuyến khích đầu tư. Các quốc gia thiếu tài nguyên thường khuyến khích
doanh nghiệp nước mình đầu tư vào các lĩnh vực có thể tận dụng được tài
nguyên thiên nhiên của nước tiếp nhận đầu tư như: Nhật Bản, Hàn Quốc,
Trung Quốc…
Vì vậy, khi đầu tư vào bất cứ quốc gia nào, nhà đầu tư Việt Nam đều

phải tìm hiểu và nghiên cứu kĩ vấn đề này tại Luật đầu tư của nước đó. Tuy
nhiên, khi ĐTRNN nhà đầu tư Việt Nam còn phải tuân thủ pháp luật Việt
Nam về các lĩnh vực ĐTRNN.
Theo pháp luật Việt Nam, nhà đầu tư được ĐTRNN trong tất cả các
lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên để thúc đẩy sự
phát triển cân đối trong các lĩnh vực, các ngành nghề của nền kinh tế
trong nước, thực hiện có hiệu quả mục đích của Luật đầu tư, Điều 75 Luật
đầu tư cũng có những quy định về khuyến khích đầu tư và cấm đầu tư cụ
thể như sau:
11

- Nhà nước Việt Nam khuyến khích các tổ chức kinh tế tại Việt Nam
ĐTRNN đối với những lĩnh vực xuất khẩu nhiều lao động; phát huy có hiệu
quả các ngành, nghề truyền thống của Việt Nam; mở rộng thị trường, khai
thác nguồn tài nguyên thiên nhiên tại nước đầu tư; tăng khả năng xuất khẩu,
thu ngoại tệ.
- Nhà nước Việt Nam không cấp phép ĐTRNN đối với những dự án gây
phương hại đến bí mật, an ninh quốc gia, quốc phòng, lịch sử, văn hoá, thuần
phong mỹ tục của Việt Nam.
Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam là nước đông dân, nguồn lao động rất
dồi dào nên Nhà nước cần phải có chính sách để sử dụng nguồn lao động đó.
Nếu không có đủ việc làm thì không những rất lãng phí sức lao động mà sẽ
xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội do tỷ lệ thất nghiệp càng ngày càng gia tăng. Do
đó, lĩnh vực xuất khẩu nhiều lao động cần phải được khuyến khích, tạo điều
kiện thuận lợi bằng các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ để các doanh nghiệp đưa
nhiều lao động ra nước ngoài.
Ngoài ra, ở Việt Nam hiện nay còn có rất nhiều làng nghề truyền thống
như: gốm sứ Bát Tràng, lụa Hà Đông, khảm trai, mỹ nghệ… cũng là một
trong những thế mạnh cần được mở rộng, hướng ra thị trường thế giới nhằm
cải thiện đời sống người nông dân, thay đổi cơ chế sản xuất nhỏ lẻ tạo nên cơ

chế sản xuất chuyên nghiệp hơn, rộng lớn hơn, lợi nhuận nhiều hơn, phù hợp
với xu thế vận động toàn cầu.
Không những vậy, pháp luật khuyến khích ĐTRNN đối với lĩnh vực khai
thác nguồn tài nguyên thiên nhiên tại nước đầu tư, đây là hướng đi đúng đắn
mà tất cả các quốc gia phát triển trên thế giới không có nguồn tài nguyên
thiên nhiên dồi dào sử dụng khi tiến hành ĐTRNN. Nhật Bản là một nước có
67% là đồi núi, với rất nhiều núi lửa, không được ưu đãi về nguồn tài nguyên
12

thiên nhiên nhưng nên kinh tế rất phát triển vì chủ yếu xuất phát từ số lượng
đầu tư ra nước ngoài nhiều.
Không chỉ vậy, những lĩnh vực đầu tư làm tăng khả năng xuất khẩu, thu
ngoại tệ cũng được nhà nước Việt Nam khuyến khích. Bởi vì hoạt động
ĐTRNN của các nhà đầu tư không chỉ thu lại nhiều lợi nhuận cho đất nước
mà còn là đòn bẩy đẩy mạnh các hoạt động kinh tế quan trọng khác phát triển.
Bên cạnh lĩnh vực khuyến khích đầu tư, nhà nước còn quy định những
lĩnh vực cấm cấp phép đầu tư nhằm đảm bảo bí mật an ninh quốc phòng, lịch
sử, văn hoá, thuần phong mỹ tục của Việt Nam bởi suy cho cùng tất cả các
hoạt động của nhà nước đều nhằm mục đích cuối cùng là xây dựng đất nước
Việt Nam ổn định, hoà bình và phát triển. Vì vậy, phải kết hợp hài hoà giữa
lợi ích kinh tế và đảm bảo an ninh quốc phòng, ổn định chính trị đất nước.
Không thể vì lợi ích kinh tế trước mắt mà Chính phủ xem nhẹ lợi ích lâu dài,
bảo vệ tổ quốc và lịch sử, văn hoá, thuần phong mỹ tục của quốc gia mình.
Với những quy định trên thì Nghị định 22/1999/NĐ-CP đã đảm bảo việc
đầu tư có quy hoạch, đem lại lợi ích cho nhà đầu tư và cho xã hội. Tuy nhiên
điểm hạn chế dễ nhận thấy sau khi đi vào thực hiện là các quy định này chỉ
mới dừng lại ở tính chất là các quy định khung. Cho đến Nghị định
78/2006/NĐ-CP cũng không hề có các quy định cụ thể về danh mục các lĩnh
vực được khuyến khích, hạn chế, cấm ĐTRNN.
Theo Bảng Tổng hợp Đầu tư ra nước ngoài theo ngành do Bộ Kế hoạch

và Đầu tư cung cấp đến ngày 28/2/2010 thì phạm vi đầu tư ra nước ngoài của
các Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào 18 lĩnh vực, tập trung chủ yếu trong
lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo với 110 dự án, tổng vốn đăng ký đầu tư
ra nước ngoài hơn 558 triệu đô. Tiếp theo là đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh
13

vực bán buôn, bán lẻ, sửa chữa với 98 dự án, tổng vốn đăng ký đầu tư ra
nước ngoài hơn 205 triệu USD. Thứ ba là đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực
khai khoáng có 96 dự án với tổng vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài là 16 tỷ
đố USD, chỉ chiếm 15% về số dự án nhưng chiếm 69% tổng vốn đăng ký đầu
tư ra nước ngoài. Còn lại là các dự án có đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực y tế và
trợ giúp xã hội, cấ pnước và xử lý chất thải; sản xuất, phân phối điện, khí,
nước, điều hòa (Phụ lục 1).
Những số liệu của năm 2010 cho thấy các nhà đầu tư Việt Nam đã xúc
tiền ĐTRNN với đa ngành, đa nghề, đa lĩnh vực. xu thế ĐTRNN của Việt
Nam đang gia tăng và tình hình ĐTRNN sẽ còn sôi động hơn nữa trong các
năm tiếp theo.
1.2.3. Hình thức đầu tư ra nước ngoài
Hình thức đầu tư ra nước ngoài khá đa dạng. Pháp luật của nước tiếp
nhận đầu tư sẽ quy định cụ thể về hình thức đầu tư và nội dung hình thức đó.
Ở Việt Nam, ĐTRNN có các hình thức sau:
1.2.3.1. Đầu tư gián tiếp ra nước ngoài
Đầu tư gián tiếp ra nước ngoài là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ
phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và
thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực
tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư.
Đầu tư gián tiếp ra nước ngoài có các đặc điểm sau:
- Chủ đầu tư nước ngoài không kiểm soát các hoạt động kinh doanh, bên
tiếp nhận đầu tư có quyền chủ động hoàn toàn trong sản xuất kinh doanh.
- Vốn đầu tư là của các tổ chức quốc tế thường đi kèm với các điều kiện

ưu đãi và gắn chặt với thái độ chính trị của các chính phủ và tổ chức quốc tế
khác. Còn nếu vốn đầu tư là của tư nhân thì bị giới hạn bởi tỷ lệ góp vốn theo
14

luật đầu tư của nước sở tại, thường từ 10% - 25% vốn pháp định.
- Số lượng chứng khoán mà các công ty nước ngoài được mua có thể
bị khống chế ở mức độ nhất định tùy theo từng loại chứng khoán và tùy theo
từng nước để nước nhận đầu tư kiểm soát khả năng chi phối doanh nghiệp của
nhà đầu tư chứng khoán. Ở Việt Nam, Quyết định số 55/2009/QĐ-TTg do
Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định về tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư
nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam như sau: tỷ lệ nắm giữ tối
đa cổ phiếu được niêm yết của bên nước ngoài là 49%, đối với trái phiếu thì
không giới hạn tỷ lệ nắm giữ đối với nhà đầu tư nước ngoài.
- Chủ đầu tư nước ngoài kiếm lời qua lãi suất cho vay hay lợi
tức cổ phần.
- Vốn đầu tư được phân tán trong vô số cổ đông và trái phiếu, nên chủ
đầu tư có thể phân tán được rủi ro trong kinh doanh, hay độ rủi ro của đầu tư
nước ngoài gián tiếp là thấp.
- Nước tiếp nhận đầu tư không có khả năng, cơ hội tiếp thu công nghệ,
kỹ thuật máy móc hiện đại và kinh nghiệm quả lý vì kênh thu hút đầu tư loại
này chỉ tiếp nhận bằng tiền.
1.2.3.2. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Đây là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản
lý hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư. Về thực chất, đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài là loại hình đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư bỏ vốn để xây dựng
hoặc mua một phần, thậm chí toàn bộ cơ sở kinh doanh ở nước ngoài để
làm chủ sở hữu toàn bộ hay một phần cơ sở đó. Trực tiếp quản lý điều hành
hoặc tham gia quản lý điều hành hoạt động đối với đối tượng mà họ bỏ vốn
đầu tư. Chịu trách nhiệm theo mức sở hữu về kết quả sản xuất kinh doanh
của cơ sở đó.

15

Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có các đặc điểm sau:
- Chủ đầu tư nước ngoài phải góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp
định, tùy theo luật đầu tư nước ngoài của nước tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài quy định, quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn gắn liền với
chủ đầu tư.
- Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn của mỗi bên.
Với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì chủ đầu tư toàn quyền quản lý
doanh nghiệp.
- Lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt động
kinh doanh và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn.
- Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được thực hiện thông qua việc thành lập
doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc một phần doanh nghiệp đang hoạt
động hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau.
- Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài không chỉ gắn liền với di chuyển
vốn mà còn gắn với chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và
kinh nghiệm quản lý, tạo ra thị trường mới cho cả phía đầu tư và phía
tiếp nhận đầu tư. Vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài không chỉ bao gồm
vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định mà nó
còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai và mở rộng dự
án cũng như vốn đầu tư trích từ lợi nhuận thu được trong quá trình hoạt
động của doanh nghiệp.
- Vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài tạo ra một nguồn vốn dài hạn cho
nước chủ nhà và ít chịu sự chi phối của chính phủ cũng như các quan hệ chính
trị giữa chủ đầu tư với chính phủ nước tiếp nhận đầu tư.
Trên thực tế, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được thực hiện dưới rất
nhiều dạng, một số dạng cơ bản, phổ biến ở nước ta bao gồm:
16


i. Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (hợp đồng BBC) là hình thức đầu tư được
ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân
chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân mới tại nước tiếp nhận đầu tư.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh phải có sự tham gia của các bên đầu tư,
nội dung chính của Hợp đồng BBC là phân chia kết quả kinh doanh và trách
nhiệm của các bên cụ thể. Nội dung chính của hợp đồng này bao gồm:
- Quốc tịch, địa chỉ, đại diện có thẩm quyền của các bên hợp danh;
- Mục tiêu và phạm vi kinh doanh;
- Sản phẩm tiêu thụ;
- Quyền và nghĩa vụ của các bên hợp doanh;
- Đóng góp của các bên hợp doanh, phân chia kết quả kinh doanh, tiến
độ thực hiện hợp đồng.
Trong quá trình kinh doanh các bên hợp doanh được phép thỏa thuận
thành lập ban quản lý, điều hành dự án đầu tư để theo dõi giám sát công việc
thực hiện hợp đồng. Mỗi bên hợp doanh phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt
động của mình trước pháp luật và có nghĩa vụ tài chính tùy theo quy định của
nước tiếp nhận đầu tư. Trong quá trình hoạt động các bên hợp doanh được
quyền chuyển nhượng vốn cho các đối tượng khác nhưng cũng phải ưu tiên
cho đối tượng đang hợp tác .
Đặc điểm của Hợp đồng hợp tác kinh doanh
- Hai bên cùng nhau hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác
kinh doanh mà không thành lập pháp nhân mới.
17

- Các bên thỏa thuận thành lập ban quản lý để quản lý dự án mà hai bên
hợp tác đầu tư.
- Nội dung của Hợp đồng hợp tác kinh doanh có nội dung chính là phân
chia trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi giữa các bên.
- Thời hạn hợp đồng do hai bên thỏa thuận.

ii. Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập ở nước tiếp
nhận đầu tư giữa các bên nước tiếp nhận đầu tư và nước ngoài trong đó các
bên cùng góp vốn, cùng kinh doanh và cùng hưởng quyền lợi, nghĩa vụ theo
tỷ lệ góp vốn.
Hình thức Doanh nghiệp liên doanh là thành lập một pháp nhân để kinh
doanh ra nước ngoài của các bên tham gia có quốc tịch khác nhau. Các bên
hợp tác với nhau trên cơ sở góp vốn cùng kinh doanh, nhằm thực hiện cam
kết trong hợp đồng liên doanh và điều lệ doanh nghiệp liên doanh, phù hợp
với khuôn khổ luật pháp nước nhận đầu tư.
Đặc điểm của doanh nghiệp liên doanh:
- Hình thức liên doanh là thành lập mới một pháp nhân tại nước tiếp
nhận đầu tư, hoạt động theo luật pháp của nước nhận đầu tư. Hình thức liên
doanh do các bên tự thỏa thuận, phù hợp với các quy định của luật pháp của
nước nhận đầu tư. Các hình thức pháp nhân đó có thể là công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần hoặc công ty hợp danh. Quyền lợi và nghĩa vụ của
các bên là quyền quản lý Doanh nghiệp liên doanh phụ thuộc vào tỷ lệ góp
vốn và được ghi trong hợp đồng liên doanh và điều lệ của doanh nghiệp.
- Các bên trong liên doanh luôn cùng nhau điều hành hoạt động kinh
doanh, cùng phân chia lợi ích giữa các bên trong liên doanh và cả các bên
đứng phía sau các liên doanh.
18

- Các bên điều hành sản xuất kinh doanh theo quy định về việc ra quyết
định điều hành của Pháp luật nước tiếp nhận đầu tư. Các nguyên tắc điều hành
có thể là quá bán, nhất trí,
iii. Doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của
nhà đầu tư nước ngoài, do người nước ngoài thành lập tại nước tiếp nhận đầu
tư, doanh nghiệp tự quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.

Doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài là một thực thể kinh doanh
quốc tế có tư cách pháp nhân, trong đó nhà đầu tư nước ngoài đóng góp
100% vốn pháp định, tự chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có các đặc điểm sau:
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một pháp nhân của nước nhận
đầu tư nhưng toàn bộ doanh nghiệp lại thuộc sở hữu của người nước ngoài.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh
theo pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư và điều lệ của doanh nghiệp. Hình
thức pháp lý của Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài do nhà đầu tư nước
ngoài lựa chọn trong khuôn khổ của pháp luật. Quyền quản lý doanh nghiệp
do nhà đầu tư nước ngoài hoàn toàn chịu trách nhiệm .
- Nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Phần kết quả của doanh nghiệp sau khi hoàn thành nghĩa vụ tài chính
với nước sở tại là thuộc sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài .
- Nhà đầu tư nước ngoài tự quyết định các vấn đề các vấn đề trong doanh
nghiệp và các vấn đề liên quan để kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất trong
khuôn khổ của pháp luật cho phép .
iv. Ngoài ra, ĐTRNN còn có các hình thức đầu tư thông qua Hợp đồng như sau:
19

- Hợp đồng Xây dựng – Kinh doanh - Chuyển giao (hợp đồng BOT) là
hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư
để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất
định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho
Nhà nước Việt Nam.
- Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao – Kinh doanh (hợp đồng BTO)
cung có đủ ba quá trình như hợp đồng trên nhưng có sự hoán đổi vị trí ở hai
quá trình sau, thời gian kinh doanh đủ để nhà đầu tư thu hồi vốn và một phần
lợi nhuận.

- Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (hợp đồng BT), sau khi xây dựng
Chính phủ sẽ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện các dự án khác để thu hồi
vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thoả thuận trong
hợp đồng.
1.3. Vai trò của đầu tư ra nước ngoài
ĐTRNN nói chung và ĐTRNN nói riêng là một xu thế tất yếu khách
quan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay,
chính vì vậy mà vai trò, ý nghĩa của hoạt động này là không thể phủ nhận
1.3.1. Vai trò đối với nước có nhà đầu tư ra nước ngoài
- Thứ nhất, ĐTRNN giúp cho các nước đầu tư sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực trong nước, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Bất kỳ doanh nhân,
doanh nghiệp nào khi đi đầu tư cũng vì mục đích đầu tiên là tìm kiếm, tăng
lợi nhuận cho chính mình. Mở rộng phạm vi hoạt động, sử dụng sản phẩm do
mình sản xuất ra mở rộng cơ hội làm tăng lợi nhuận.
- Thứ hai, việc ĐTRNN giúp cho nước cho Nhà đầu tư tìm kiếm và tận
dụng nguồn tài nguyên của nước tiếp nhận đầu tư một sách hiệu quá. Ở một
số nuớc có thể có nguồn tài nguyên thiên nhiên rất dồi dào, đa dạng, phong
phú. Tuy nhiên, vì nước đó còn nghèo, thiếu vốn, nền khoa học công nghệ

×