Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Về khuynh hướng xã hội chủ nghĩa ở một số nước Mỹ la tinh hiện nay vấn đề và triển vọng Luận văn ThS. Triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1019.59 KB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





NGUYỄN THANH TÙNG






VỀ KHUYNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở MỘT SỐ NƯỚC MỸ LA TINH HIỆN NAY
VẤN ĐỀ VÀ TRIỂN VỌNG





LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC












HÀ NỘI - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-




NGUYỄN THANH TÙNG





VỀ KHUYNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở MỘT SỐ NƯỚC MỸ LA TINH HIỆN NAY
VẤN ĐỀ VÀ TRIỂN VỌNG



Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 85



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN VIẾT THÔNG






HÀ NỘI - 2011
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
Chương 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ LÀM XUẤT HIỆN KHUYNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở MỘT SỐ NƯỚC MỸ LATINH 7
1.1. Tổng quan về lịch sử và tình hình kinh tế, xã hội, văn hoá, chính trị
khu vực Mỹ Latinh 7
1.1.1. Khái quát lịch sử Mỹ Latinh 7
1.1.2. Tình hình kinh tế, xã hội, văn hoá, chính trị khu vực Mỹ Latinh 11
1.2. Phong trào cánh tả và khuynh hướng xã hội chủ nghĩa của một số quốc
gia Mỹ Latinh 17
1.2.1. Khái quát về phong trào cánh tả Mỹ Latinh 17
1.2.2. Các nhân tố dẫn tới sự hình thành và thúc đẩy khuynh hướng xã
hội chủ nghĩa ở một số quốc gia Mỹ Latinh 24
Chương 2. THỰC TRẠNG, TRIỂN VỌNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 33
2.1.
Các cuộc cải cách theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa ở một số quốc
gia Mỹ La tinh hiện nay
33

2.1.1. Venezuela 33
2.1.2. Bolivia 51
2.1.3. Ecuador 61
2.1.4. Nicaragua 70
2.2. Những nhận xét bước đầu về khuynh hướng xã hội chủ nghĩa của một
số quốc gia khu vực Mỹ Latinh 78
2.2.1. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa các quốc gia có
khuynh hướng xã hội chủ nghĩa ở Mỹ Latinh 78
2.2.2. Về triển vọng của các cuộc cách mạng theo khuynh hướng xã
hội chủ nghĩa ở Mỹ Latinh 92
2.2.3. Những vấn đề đặt ra 95
KẾT LUẬN 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107


BẢNG QUY ƯỚC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

ALBA: Liên minh Sự lựa chọn Bolivar cho châu Mỹ
CARICOM: Khối Thị trường chung Caribean
CEPAL: Ủy ban kinh tế Mỹ Latinh và vùng Caribean
CSN: Cộng đồng các quốc gia Nam Mỹ
IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế
MAS: Đảng phong trào Tiến lên chủ nghĩa xã hội (của Bolivia)
MECROSUR: Khối Thị trường chung Nam Mỹ
MVR: Ðảng Phong trào Cộng hòa thứ V (của Venezuela)
PDVSA: Tập đoàn Dầu khí quốc gia Venezuela
PETROCARIBE: Tổ chức Dầu khí Caribean
PETROSUR: Tổ chức Dầu khí Nam Mỹ
PSUV: Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Venezuela
UNASUR: Liên minh các quốc gia Nam Mỹ

WB: Ngân hàng Thế giới


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Vào cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội
đã lâm vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc và toàn diện. Sự đổ vỡ của mô hình
xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã đẩy các đảng cộng sản và các
đảng cánh tả vào một tình thế khó khăn chưa từng thấy.
Tuy nhiên, vào những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, đã có
nhiều dấu hiệu ghi nhận sự khởi sắc của phong trào cánh tả trên thế giới.
Thắng lợi liên tiếp của các đảng cánh tả theo xu hướng dân chủ và tiến bộ
cùng tuyên bố xây dựng chủ nghĩa xã hội của một số quốc gia Mỹ Latinh đã
khiến khu vực này trở thành tâm điểm chú ý của cả thế giới. Mặc dù còn tồn
tại những khác biệt nhất định trong quan niệm về mô hình và con đường tiến
lên chủ nghĩa xã hội nhưng những động thái tích cực trong đời sống chính trị
của khu vực đang gợi mở những nhận thức mới, niềm hứng khởi mới cho
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Kể từ năm 1998 đến nay, đã có nhiều đảng cánh tả ở Mỹ Latinh giành
được chính quyền, chiếm 1/3 số nước trên lục địa châu Mỹ. Đó là Venezuela
(1998); Chile (2000); Brazil (2000); Argentina (2003); Panama (2004);
Uruguay (2004); Bolivia (2005); Nicaragua (2006); Ecuado (2006) và gần đây
nhất là Paraguay (2008). Đặc trưng nổi bật trong thắng lợi của các đảng cánh
tả ở Mỹ Latinh là đều thông qua bầu cử hợp hiến, được cộng đồng quốc tế
công nhận. Kết quả này cũng đã đưa nhiều nước hướng theo mục tiêu xây
dựng chủ nghĩa xã hội, thoát khỏi sự chi phối của chủ nghĩa đế quốc. Tiến lên
chủ nghĩa xã hội đang dần trở thành một xu thế lôi cuốn nhiều quốc gia trong
khu vực, là nguồn cổ vũ, khích lệ to lớn đối với phong trào cánh tả, lực lượng

dân chủ, tiến bộ trên thế giới đẩy mạnh sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân
tộc, dân chủ, hòa bình, phát triển và tiến bộ xã hội.

2
Một mô hình xã hội mới đang dần được hình thành. Đó là mô hình chủ
nghĩa xã hội kiểu mới: “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ 21”. Bất chấp những diễn
tiến phức tạp, khó lường của đời sống chính trị khu vực, bất chấp nhiều vấn
đề lý luận đang còn tiếp tục chờ lời giải từ thực tiễn và có thể mô hình “chủ
nghĩa xã hội thế kỷ 21” chưa hoàn toàn tiếp hợp với những nguyên lý của chủ
nghĩa xã hội khoa học, song những nỗ lực tìm tòi, bứt phá của các nước Mỹ
Latinh là rất đáng trân trọng. Đáng quý hơn nữa là thông qua hiện tượng Mỹ
Latinh, chúng ta lại thấy sự phát triển mạnh mẽ của xu thế xã hội chủ nghĩa ở
Tây bán cầu sau hơn 40 năm hạt giống đầu tiên nảy nở trên đất Cuba.
Chính sức hấp dẫn của những biến động chính trị dồn dập và đầy hứng
khởi của khu vực Mỹ Latinh trong thời gian vừa qua cùng xu hướng tiến lên
chủ nghĩa xã hội của một số quốc gia trong khu vực đã thôi thúc tác giả chọn
đề tài: “Về khuynh hướng xã hội chủ nghĩa ở một số nước Mỹ La tinh hiện
nay - Vấn đề và triển vọng” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Sự trỗi dậy mạnh mẽ của các đảng cánh tả và xu hướng xây dựng chủ
nghĩa xã hội của một số nước Mỹ Latinh trong thời gian vừa qua đã thu hút
được sự quan tâm, chú ý của các chính trị gia và các nhà nghiên cứu nhiều nơi
trên thế giới. Tuy nhiên, đây là một hiện tượng chính trị mới nổi, còn đang
diễn biến phức tạp với nhiều ẩn số khó lường nên việc nghiên cứu và dự báo
một cách chính xác tương lai, triển vọng của phong trào này thực sự là một
vấn đề không đơn giản. Cho dù hiện nay đã có khá nhiều học giả nghiên cứu
về vấn đề này nhưng chúng ta vẫn còn thiếu những công trình nghiên cứu có
tính chất chuyên khảo, có khả năng đánh giá một cách sâu sắc và toàn diện về
hiện tượng chính trị đặc biệt này.
Ở nước ta, vấn đề phong trào cánh tả cũng như mô hình “chủ nghĩa xã

hội thế kỷ 21” của các nước Mỹ Latinh vẫn còn là một chủ đề rất mới. Hiện
nay, đã có một số công trình khoa học, đề tài nghiên cứu bước đầu khảo cứu

3
về vấn đề này. Có thể kể ra đây một số công trình như: “Tính chất của đảng
cánh tả và xu thế cánh tả ở Mỹ Latinh hiện nay” của Tiến sĩ Nguyễn Mạnh
Hùng, Ban Đối ngoại Trung ương, Hà Nội, 2007; “Một số vấn đề về các đảng
cánh tả Mỹ Latinh” của các tác giả Nguyễn Thị Hạnh, Nguyễn Anh Hùng, Đỗ
Minh Tuấn, Viện Nghiên cứu châu Mỹ, 2007; “Tổng quan kinh tế - xã hội
Venezuela năm 1999-2006” của Lê Thị Thu Trang, Viện Ngiên cứu châu Mỹ,
2006; “Vấn đề đôla hóa ở châu Mỹ Latinh” của Lê Thị Vân Nga, Viện Ngiên
cứu châu Mỹ, 2006; “Hệ thống chính trị của Venezuela” của Đỗ Minh Tuấn,
Viện Nghiên cứu châu Mỹ, 2004. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu
được thực hiện theo hướng tiếp cận đa ngành, liên ngành với các mức độ, quy
mô và hình thức khác nhau. Cùng với việc khái quát hoá bức tranh toàn cảnh
đời sống kinh tế, chính trị, xã hội khu vực Mỹ Latinh, các công trình này đã
phân tích, đánh giá quá trình hình thành và phát triển của phong trào cánh tả
trong khu vực. Kết quả của các công trình này là một nguồn tư liệu quan trọng
phục vụ nghiên cứu. Tuy nhiên, do sự hạn chế về mặt ngôn ngữ (vì phần lớn
các nước Mỹ Latinh sử dụng tiếng Tây Ban Nha) đã khiến các nhà khoa học
gặp không ít khó khăn trong việc tiếp cận với những nguồn thông tin và tài
liệu gốc rất cần thiết đối với hoạt động nghiên cứu. Mặt khác, sự hạn hẹp về
mặt kinh phí đã khiến phần lớn các công trình, đề tài nghiên cứu trong nước
còn thiếu những dữ liệu của hoạt động khảo cứu thực tế tại các nước Mỹ
Latinh. Nhưng với một thời gian triển khai nghiên cứu chưa lâu, những kết
quả bước đầu thu được là rất đáng khích lệ.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu nêu trên, còn có khá nhiều các
bài viết, các bài báo về phong trào cánh tả và xu thế xã hội chủ nghĩa của các
nước Mỹ Latinh. Đó là các bài: "Khuynh hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu
của cánh tả Mỹ Latinh'' của Nguyễn Khắc Sứ (2007), Tạp chí Cộng sản, số

21, tr.21-24; "Xu hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội của các nước Mỹ Latinh"
của tác giả Nguyễn Văn Quang (2007), Tạp chí Cộng sản số 7, tháng 4, tr. 27-
29; "Châu Mỹ Latinh tiến lên chủ nghĩa xã hội như thế nào" của Đào Thế

4
Tuấn (2008), Tạp chí Cộng sản số 22, tháng 11, tr.31; "Chủ nghĩa xã hội thế
kỷ 21 ở khu vực Mỹ Latinh", Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 12-
2008; “Mô hình phát triển của Mỹ Latinh”, Hồ Châu (2006), Tạp chí châu
Mỹ ngày nay, số 95, tháng 2, tr. 40-42.
Về cơ bản, đây là những bài báo được đăng trên các tạp chí chuyên
ngành, không phải là các công trình nghiên cứu độc lập nên không thể phân
tích và đánh giá toàn diện về mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của các nước Mỹ Latinh. Phần lớn các bài viết chỉ dừng lại ở
việc giới thiệu, thông tin một cách khái quát về khuynh hướng xây dựng chủ
nghĩa xã hội của các nước châu Mỹ Latinh.
Từ những căn cứ trên đây, tác giả luận văn nhận thấy, việc nghiên cứu
về khuynh hướng xã hội chủ nghĩa ở một số nước Mỹ Latinh hiện nay là hết
sức cần thiết và không trùng lặp với các luận văn, luận án sau đại học và các
công trình nghiên cứu đã từng được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn nhằm làm sáng tỏ thực trạng và triển vọng của xu thế xã hội
chủ nghĩa ở một số nước Mỹ Latinh, qua đó góp phần làm phong phú thêm
kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Với mục đích trên, luận văn đặt ra và hoàn thành các nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
Một là, trình bày bối cảnh lịch sử dẫn tới sự xuất hiện của khuynh
hướng xã hội chủ nghĩa tại một số quốc gia Mỹ Latinh.

Hai là, phân tích và làm sáng tỏ thực trạng các cuộc cải cách theo
khuynh hướng xã hội chủ nghĩa ở một số quốc gia Mỹ Latinh.
Ba là, chỉ ra những thuận lợi, khó khăn của xu thế xã hội chủ nghĩa ở
Mỹ Latinh, đồng thời dự báo triển vọng của xu thế này.

5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực trạng và triển vọng của
khuynh hướng xã hội chủ nghĩa ở một số nước Mỹ Latinh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trong phạm vi của luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu thực
trạng và triển vọng của khuynh hướng xã hội chủ nghĩa ở bốn nước châu Mỹ
Latinh là: Venezuela, Bolivia, Ecuador và Nicaragua trong khoảng thời gian
từ năm 1998 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
đồng thời có sử dụng kết quả nghiên cứu của một số công trình có liên quan
đến luận văn.
Cơ sở thực tiễn của luận văn chính là quá trình hình thành, phát triển của
chủ nghĩa xã hội hiện thực trong hơn 90 năm qua với những thăng trầm, những
thành công và cả những thất bại của nó, đặc biệt là sự trỗi dậy mạnh mẽ của xu
thế xã hội chủ nghĩa ở một số nước Mỹ Latinh trong những năm gần đây.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Căn cứ vào mục đích và nhiệm vụ của luận văn, tác giả luận văn sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, lôgic,
lịch sử, so sánh, dự báo, phỏng vấn chuyên gia.
6. Đóng góp của luận văn

- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung thêm vào hệ thống
các tài liệu phục vụ công tác nghiên cứu và giảng dạy đối với các bộ môn như
chủ nghĩa xã hội khoa học, chính trị học.
- Luận văn bước đầu nghiên cứu một cách có hệ thống xu hướng tiến
lên chủ nghĩa xã hội của một số nước Mỹ Latinh từ một trào lưu chính trị cho

6
tới một mô hình xã hội đang được triển khai trong thực tế, đồng thời dự báo
triển vọng của nó trong tương lai.
7. Kết cấu chính của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1: Bối cảnh lịch sử làm xuất hiện khuynh hướng xã hội chủ
nghĩa ở một số nước Mỹ Latinh.
Chương 2: Thực trạng, triển vọng và những vấn đề đặt ra.








7
Chương 1
BỐI CẢNH LỊCH SỬ LÀM XUẤT HIỆN KHUYNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MỘT SỐ NƯỚC MỸ LATINH

1.1. Tổng quan về lịch sử và tình hình kinh tế, xã hội, văn hoá,
chính trị khu vực Mỹ Latinh

1.1.1. Khái quát lịch sử Mỹ Latinh
Mỹ Latinh là một bộ phận lãnh thổ rộng lớn của châu Mỹ với diện tích
20,2 triệu km
2
, kéo dài suốt từ Mexico đến tận phía nam châu Mỹ cùng nhiều
hòn đảo lớn nhỏ ở vùng biển Caribe. Là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi nên
ngoài nguồn lợi nông nghiệp phong phú, Mỹ Latinh còn sở hữu một nguồn tài
nguyên khoáng sản vô cùng giàu có, rất cần thiết cho một nền công nghiệp
phát triển cao như các mỏ đồng, sắt, thiếc, vàng, bạc, volfram, uranium và đặc
biệt là nguồn dầu khí có trữ lượng dồi dào, dễ khai thác.
Dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân châu Âu kéo dài nhiều thế kỷ,
hầu hết các dân tộc Mỹ Latinh hiện nay đều nói tiếng Tây Ban Nha hoặc tiếng
Bồ Đào Nha, chỉ một số ít nói tiếng Pháp (ở Haiti và vài đảo nhỏ trong vùng
biển Caribe), tiếng Anh và tiếng Hà Lan (như Guyana và một vài hòn đảo
nhỏ) nhưng nhìn chung, tiếng nói của của cư dân khu vực này đều nằm trong
hệ ngôn ngữ Latinh. Cũng chính vì ý nghĩa lịch sử - văn hóa đó mà lãnh thổ
rộng lớn này đã mang tên là Mỹ Latinh. Nếu hiểu theo nghĩa này, Mỹ Latinh
bao gồm hầu hết các quốc gia ở Trung và Nam châu Mỹ; nó phân biệt với tên
gọi Nam Mỹ (mang ý nghĩa địa lý nhiều hơn) để chỉ phần lục địa phía nam
châu Mỹ với 13 quốc gia và vùng lãnh thổ mà trong đó đa phần các quốc gia
Nam Mỹ là các nước Mỹ Latinh.
Ngày nay, cộng đồng Mỹ Latinh bao gồm các quốc gia: Argentina,
Bolivia, Brazil, Chile, Colombia, Costa Rica, Cuba, Dominican Republic,

8
Ecuador, El Salvador, Guatemala, Haiti, Honduras, Mexico, Nicaragua,
Panama, Paraguay, Peru, Uruguay và Venezuela.
Trước khi người châu Âu tới khai phá, châu Mỹ là vùng đất cư trú lâu
đời của người thổ dân da đỏ mà sau này được gọi chung là người Indian (xuất
phát từ nhầm lẫn của nhà thám hiểm thiên tài Christopher Columbus cho rằng

vùng đất ông mới tìm thấy chính là một phần của Ấn Độ). Có nhiều cơ sở để
ngày nay các nhà khoa học thống nhất với nhau về giả thuyết cho rằng người
Indian thật sự có nguồn gốc từ Đông Á di cư sang, họ sống khắp khu vực Bắc
Mỹ và di chuyển dần xuống và sống rải rác khắp phía Nam. Ba nền văn minh
Indian nổi bật nhất và để lại vết tích cho đến tận ngày nay là nền văn minh
Aztec ở miền trung Mexico; nền văn minh Maya ở bán đảo Yuncatan - Nam
Mexico và Guatemala; nền văn minh Incas ở vùng cao nguyên Andes và bờ
biển Peru .
Ngày 12 tháng 10 năm 1492, Christopher Columbus đặt bước chân đầu
tiên lên một hòn đảo thuộc châu Mỹ, là một trong những hòn đảo nằm trong
quần đảo Bahamas ngày nay, đảo San Salvador. Khám phá của Christopher
Columbus đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử đối với các quốc gia phương Tây
và cả nhân loại. Đối với phương Tây khi đó thì châu Mỹ là một vùng đất hoàn
toàn mới với điều kiện tự nhiên vô cùng thuận lợi để giao thương, chinh phục
và khai phá. Người Bồ Đào Nha là những người đầu tiên đặt chân đến châu
Mỹ nhưng người Tây Ban Nha mới thực sự là những người mở đầu cho quá
trình khai phá thuộc địa.
Từ cuối thế kỷ XVI đến hết thế kỷ XVIII là kỷ nguyên của những cuộc
di cư lớn nhất trong lịch sử nhân loại, từ châu Âu tới khắp nơi trên lục địa
châu Mỹ. Ngoài những người bản xứ bị nô dịch, người châu Âu cũng mang
tới châu Mỹ rất nhiều nô lệ từ châu Phi. Đây là thời kỳ mà nền kinh tế các
nước thuộc địa chủ yếu là nền kinh tế nông nghiệp dựa trên cơ sở tận dụng

9
triệt để ưu thế điều kiện tự nhiên và nhân công, cung cấp cho châu Âu một
nguồn nông, lâm sản và nguyên liệu vô cùng to lớn.
Khi đã chinh phục được những miền đất mới, người Tây Ban Nha cũng
như Bồ Đào Nha phải đối phó với rất nhiều vấn đề trong việc cai trị những
vùng lãnh thổ rộng lớn, nằm xa mẫu quốc và thường xuyên có sự chống đối
của cư dân bản địa. Do đó, ngay từ đầu người Tây Ban Nha đã biết vận dụng

tôn giáo như một công cụ để đồng hoá, qua đó cai trị người bản xứ. Các thừa
sai Công giáo len lỏi khắp nơi để cải đạo, khai hoá người bản địa và nhà thờ
Công giáo dần có ảnh hưởng đối với cuộc sống của người bản xứ còn hơn cả
những sắc lệnh, luật lệ mà mẫu quốc ban hành ở vùng đất mới. Nhưng thay vì
thực hiện những lý tưởng cao đẹp ban đầu của giáo hội, những đòi hỏi kinh tế
của phương Tây đã dẫn đến việc đàn áp, bóc lột và nô dịch hoá người Indian
vô cùng tàn bạo. Đói rét, bệnh dịch cùng sự hành hạ, ngược đãi của những kẻ
thực dân đã gây nên cái chết của hàng chục triệu cư dân bản địa. Chỉ trong
vòng 200 năm, dân số của người Indian từ 25 triệu người vào năm 1519 đã
giảm xuống chỉ còn 1 triệu người vào năm 1700, một trong những sự suy
giảm dân số thảm khốc nhất trong lịch sử nhân loại [9, tr.15]. Cũng trong thời
kỳ này, sự biến đổi về nhân chủng đã diễn ra vô cùng mạnh mẽ. Quá trình hôn
phối giữa người da trắng châu Âu với người bản xứ và cả người nô lệ da đen
đã tạo nên một thế hệ người bản xứ mới. Những người này đã đóng một vai
trò quan trọng trong việc hình thành các quốc gia độc lập sau này.
Sau gần 3 thế kỷ dưới ách đô hộ của thực dân châu Âu, từ thế kỷ XIX
các thuộc địa Nam Mỹ bắt đầu trỗi dậy mạnh mẽ với các cuộc cách mạng đòi
độc lập. Đến năm 1830, hầu hết các quốc gia Nam Mỹ đã giành được độc lập
và bước vào thời kỳ xây dựng, phát triển đất nước. Nhưng đáng tiếc, nền độc
lập của các quốc gia Nam Mỹ non trẻ đã nhanh chóng bị bóp nghẹt khi Hoa
Kỳ tiến hành chính sách ngoại giao “hướng về phía nam” nhằm tăng cường

10
ảnh hưởng của mình với khu vực Mỹ Latinh và gạt bỏ dần ảnh hưởng của các
nước châu Âu đối với khu vực giàu tiềm năng này.
Ngày 2 tháng 12 năm 1823, Tổng thống Mỹ James Monroe chính thức
tuyên bố chủ trương của Hoa Kỳ đối với khu vực Mỹ Latinh và khẳng định:
"Lục địa châu Mỹ đã chọn và duy trì được độc lập, tương lai của nó không
thể bị một cường quốc châu Âu nào đô hộ nữa" [9, tr.31]. Chủ trương đó nêu
cao cái gọi là "chống lại sự xâm nhập của tư bản châu Âu" với khẩu hiệu

"Châu Mỹ của người châu Mỹ". Thực chất đây là âm mưu độc chiếm và biến
Mỹ Latinh thành “sân sau” của Hoa Kỳ. Học thuyết Monroe đã đóng một vai
trò quan trọng trong suốt thế kỷ XIX, ngăn chặn hoặc đẩy ảnh hưởng của các
nước châu Âu xuống hàng thứ yếu tại Mỹ Latinh. Chính sách ngoại giao nước
lớn cũng đã thành công phần nào trong việc áp đặt quyền lực của Hoa Kỳ đối
với các nước Mỹ Latinh trong một thời gian dài. Phải đến sau Chiến tranh thế
giới lần thứ II, chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ mới có những thay đổi đáng
kể khi nước Mỹ tuyên bố muốn trở thành "láng giềng tốt" đối với các quốc
gia còn lại ở châu Mỹ. Thay vì gia tăng áp lực quân sự, Hoa Kỳ đẩy mạnh
xâm nhập Mỹ Latinh bằng kinh tế: Xuất khẩu tư bản, khuyến khích đầu tư
trên quy mô lớn. Thông qua những khoản cho vay hoặc viện trợ có điều kiện,
Hoa Kỳ đã dần lũng đoạn nền kinh tế và khống chế đời sống chính trị khu vực
Mỹ Latinh. Các nước Mỹ Latinh sau khi thoát khỏi ách thống trị của thực dân
châu Âu, trên danh nghĩa đều là những quốc gia độc lập nhưng thực chất bị
phụ thuộc vào đế quốc Mỹ ở nhiều mức độ khác nhau. Chính sách “cây gậy
lớn” cùng với nền "ngoại giao đồng đô la” đã giúp Hoa Kỳ biến Mỹ Latinh
thành “sân sau” của mình trong nhiều thập kỷ.
Ngày nay, những chuyển biến tích cực của đời sống chính trị quốc tế
cùng sự lớn mạnh của các lực lượng tiến bộ trong khu vực đã khiến Hoa Kỳ
không thể tiếp tục chính sách ngoại giao bá quyền, độc chiếm Nam Mỹ như
trước đây. Áp lực của Hoa Kỳ đối với khu vực đã phần nào giảm sút song

11
quan hệ của Hoa Kỳ với phần còn lại của Tây bán cầu không vì thế mà bớt
căng thẳng. Nước Mỹ chưa bao giờ có ý định từ bỏ ảnh hưởng của mình đối
với khu vực Mỹ Latinh. Chính sách “cây gậy và củ cà rốt” vẫn tiếp tục được
người Mỹ sử dụng như một thứ vũ khí hữu hiệu để khống chế và kiểm soát
vùng đất rộng lớn, giàu tiềm năng này.
Quá khứ ngoại thuộc cùng bàn tay can thiệp của Hoa Kỳ đã đè nặng và
để lại dấu ấn sâu sắc trong toàn bộ các lĩnh vực đời sống của khu vực Mỹ

Latinh. Nếu có thể khái quát về Mỹ Latinh thì người ta có thể nói đó là vùng
đất của của những khát vọng tự do đang tìm cách vượt qua những trở ngại của
đói nghèo, chia rẽ và bất ổn.
1.1.2. Tình hình kinh tế, xã hội, văn hoá, chính trị khu vực Mỹ Latinh
1.1.2.1. Tình hình kinh tế
Từ khi giành được độc lập cho tới nay, hầu hết các quốc gia Mỹ Latinh
đều lựa chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa trong điều kiện trình độ
phát triển kinh tế - xã hội còn thấp kém. Mô hình Hoa Kỳ được coi là hình
mẫu lý tưởng cho sự phát triển của nhiều quốc gia trong khu vực. Tuy nhiên,
con đường phát triển tư bản chủ nghĩa chỉ giúp một số ít quốc gia đạt được
những thành tựu nhất định về kinh tế - xã hội (như Chile, Argentina, Brazil)
còn đa số các nước Mỹ Latinh bị đẩy vào tình trạng đói nghèo, chia rẽ và tụt
hậu. Nguyên nhân cơ bản là do sự xâm nhập, lũng đoạn của các tập đoàn tư
bản nước ngoài. Dựa trên ưu thế tuyệt đối về vốn và công nghệ, các công ty
Âu - Mỹ đã từng bước chi phối và kiểm soát nền kinh tế của nhiều quốc gia
Mỹ Latinh. Thậm chí, để có thể khai thác tối đa nguồn nguyên liệu giá rẻ từ
các hầm mỏ và những vùng trồng cây công nghiệp đặc hữu của Nam Mỹ, các
tập đoàn tư bản đã không ngần ngại ủng hộ cho các chế độ độc tài khét tiếng
tàn bạo hay giật dây cho các cuộc đảo chính đẫm máu. Lịch sử Mỹ Latinh đã
cho thấy, bất cứ chính quyền dân cử nào thực thi những chính sách tiến bộ,
bảo vệ chủ quyền quốc gia, chăm lo tới lợi ích của người dân nhưng đe dọa

12
lợi ích của các tập đoàn tư bản nước ngoài thì ngay lập tức, các thế lực tư bản
nước ngoài sẽ tiến hành tác động về mọi mặt từ kinh tế, chính trị, ngoại giao,
quân sự để lật đổ chính quyền dân chủ hợp hiến, thiết lập một chính phủ mới
“biết vâng lời” hơn. Vốn, công nghệ sẽ tiếp tục được đổ vào các ngành khai
mỏ cũng như các vùng chuyên canh cây công nghiệp nhằm biến Mỹ Latinh
thành nguồn cung cấp nguyên liệu thô và là thị trường tiêu thụ hàng hóa của
các nước phát triển. Các doanh nghiệp nội địa sẽ không có nhiều lựa chọn:

hoặc phá sản hoặc lệ thuộc vào các công ty tư bản nước ngoài. Chủ quyền
quốc gia không được bảo đảm, người dân bản địa ngày càng bị bần cùng hóa,
trở thành kẻ làm thuê ngay trên chính vùng đất của tổ tiên mình. Các tập
đoàn, các công ty xuyên quốc gia dường như mới là chủ nhân thực sự trên
vùng đất giàu có tài nguyên này.
Những hậu quả kinh tế - xã hội hết sức nặng nề của “chủ nghĩa tự do
mới” đã khiến nền kinh tế của nhiều quốc gia Mỹ Latinh đến nay vẫn đang
phải đối mặt với những vấn đề lớn và cần những cải cách quan trọng mang
tính hệ thống. Chất lượng cơ sở hạ tầng yếu kém, khoa học kỹ thuật lạc hậu,
phân phối thu nhập không đều, chất lượng dịch vụ công thấp, tham nhũng,
xung đột xã hội và tình trạng quan liêu của các chính phủ vẫn tồn tại và đe
dọa tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhiều quốc gia Nam Mỹ đang trở thành những
con nợ khổng lồ, nợ công đạt tới mức kỷ lục trong khi chi tiêu công tiếp tục
tăng lên. Các loại thuế chiếm một phần lớn thu nhập quốc gia là một gánh
nặng với mọi tầng lớp xã hội, làm giảm các cơ hội đầu tư cũng như khả năng
giải quyết các vấn đề phúc lợi xã hội [17, tr.12]. Thực trạng kinh tế ảm đạm
đã phần nào phản ánh bức tranh xã hội không mấy tươi sáng của khu vực Mỹ
Latinh. Những khó khăn kinh tế là nguyên nhân của tình trạng phân hóa, chia
rẽ sâu sắc của của các giai tầng, các đảng phái và lực lượng chính trị trong
khu vực.

13
1.1.2.2. Tình hình xã hội
Là một khu vực giàu tiềm năng với nhiều nền kinh tế mới nổi nhưng
hiện nay hầu hết các nước Mỹ Latinh đều đang phải đối phó với những vấn đề
xã hội hết sức phức tạp. Khoảng cách kinh tế giữa người giàu và người nghèo
ở các quốc gia Nam Mỹ được cho là cao nhất trong các châu lục. Ở
Venezuela, Paraguay, Bolivia và nhiều quốc gia Nam Mỹ khác, 20% số người
giàu nắm giữ 60% tài sản quốc gia, trong khi 60% số người nghèo chỉ chiếm
chưa đến 5% tài sản quốc gia [18, tr.30]. Bất bình đẳng về kinh tế và chênh

lệch về thu nhập tất yếu dẫn đến bất bình đẳng về chính trị cũng như khả năng
thụ hưởng của cải và dịch vụ xã hội. Bức tranh phân hóa xã hội này được thể
hiện rất rõ tại tất cả các thành phố lớn của Mỹ Latinh, nơi mà lều trại của các
khu ổ chuột nằm xen kẽ giữa những cao ốc và trung tâm mua sắm sang trọng.
Tại các vùng nông thôn hẻo lánh, người nông dân (đặc biệt là những người
thổ dân) cũng đang phải đối mặt với tình trạng khốn cùng do sự suy giảm của
giá nông sản và sự bành trướng của của các công ty tư bản trong lĩnh vực
nông nghiệp.
Đói nghèo, thất nghiệp đã khiến cho tỷ lệ tội phạm tại nhiều quốc gia
Mỹ Latinh gia tăng liên tục trong những thập kỷ qua và trở thành một vấn nạn
nhức nhối. Chẳng hạn, tỷ lệ giết người tại Brazil cao gấp bốn lần so với Mỹ,
nạn cướp bóc, bắt cóc tống tiền cùng sự thống trị của các băng đảng khiến cho
nhiều đô thị Nam Mỹ bị xếp vào hàng nguy hiểm nhất thế giới. Những vụ đấu
súng giữa cảnh sát và các băng đảng tội phạm diễn ra quá quen thuộc giống
như một cuộc chiến tranh du kích trong đô thị. Chính quyền sở tại hầu như
không thể kiểm soát được bên trong các khu ổ chuột khiến chúng trở thành
hang ổ của những kẻ buôn bán ma túy, của các băng đảng đường phố. Thêm
vào đó, tình trạng tham nhũng tràn lan cùng sự yếu kém của bộ máy chính
quyền tại nhiều quốc gia đã khiến cho các vấn đề xã hội càng trở nên nghiêm
trọng tại nhiều quốc gia.

14
Chính vì vậy mà mâu thuẫn xã hội tại nhiều quốc gia Mỹ Latinh luôn ở
mức độ gay gắt và không thể điều hòa. Đó là mâu thuẫn lợi ích giữa một bên
là đại đa số người lao động nghèo khổ với một thiểu số tầng lớp tư sản giàu
có độc quyền chiếm hữu phần lớn các nguồn lợi quốc gia; mâu thuẫn giữa
người da trắng với người da màu (bao gồm người da đỏ bản địa, người da đen
di cư từ châu Phi và những người lai thuộc nhiều dòng máu). Những mâu
thuẫn ấy nếu không sớm được giải quyết sẽ dẫn đến những hậu quả xã hội hết
sức nặng nề có khả năng đe dọa tới sự ổn định và phát triển của cả khu vực

trong một tương lai không xa.
1.1.2.3. Tình hình văn hóa
Về cơ bản, nền văn hóa của nhiều nước Mỹ Latinh chịu ảnh hưởng chủ
yếu của văn hóa Tây Ban Nha và văn hóa Bồ Đào Nha (Brazil). Làn sóng di
cư của người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong suốt ba thế kỷ đã mang đến
cho văn hóa khu vực những nền tảng quan trọng là ngôn ngữ Latinh, đạo
Thiên chúa và kiến trúc. Bên cạnh đó còn là những phong tục, tập quán và lối
sống đặc trưng của châu Âu. Ngay cả khi đã giành được độc lập, thoát khỏi sự
thống trị của thực dân Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha thì nền tảng tư tưởng, chính
trị, xã hội của các quốc gia nơi đây vẫn mang đậm dấu ấn của “mẫu quốc”.
Trong khi đa số các nước Mỹ Latinh nói tiếng Tây Ban Nha thì tiếng
Bồ Đào Nha lại là ngôn ngữ chính thức duy nhất ở Brazil. Hai ngôn ngữ này
còn có ảnh hưởng lớn tới các ngôn ngữ của thổ dân da đỏ và cả ngôn ngữ của
người da đen gốc Phi. Nét đặc thù về ngôn ngữ cùng sự tương đồng về văn
hóa được coi là một “chất xúc tác” rất thuận lợi cho việc lan tỏa rộng rãi các
khuynh hướng chính trị khác nhau trong khu vực.
Đặc biệt, đạo Thiên chúa do người phương Tây truyền bá có ảnh hưởng
hết sức sâu sắc tới đời sống chính trị, văn hóa, tinh thần của người dân Mỹ
Latinh. Nhà thờ Thiên chúa giáo La mã có cơ sở rộng khắp trong xã hội, tư
tưởng Thiên chúa giáo giữ vai trò thống trị trong đời sống tôn giáo của khu

15
vực. Tại nhiều quốc gia, số lượng tín đồ Thiên chúa giáo La mã (Roman
Catholic) chiếm trên 90% dân số (tại Bolivia là 95%; Venezuela là 92,7%)
trong khi các tôn giáo khác chỉ chiếm khoảng 5 - 7%. Theo một cuộc thăm dò
dư luận gần đây, tại 17 quốc gia Nam Mỹ được khảo sát thì có tới 71% dân
chúng nói họ tin tưởng vào Giáo hội trong khi chỉ có 43% nói họ tin tưởng
vào tổng thống của mình [5, tr.37]. Đặc điểm này đã lý giải tại sao trong các
cuộc vận động tranh cử, các đảng phái chính trị muốn giành thắng lợi thường
tìm cách tranh thủ tối đa sự ủng hộ của Giáo hội Thiên chúa giáo. Thắng lợi

của các đảng cánh tả Mỹ Latinh trong những năm gần đây cũng không phải là
một ngoại lệ.
Về nghệ thuật kiến trúc, mặc dù chính người Tây Ban Nha đã đưa
phong cách kiến trúc châu Âu đến với Nam Mỹ nhưng trên thực tế những
người công nhân, những người thợ thủ công bản xứ mới chính là chủ nhân
thực sự của những công trình kiến trúc, hội họa và điêu khắc đặc sắc tại Mỹ
Latinh. Giai đoạn thuộc địa không chỉ để lại những bức họa của Pérez de
Holguín, Flores hay Bitti mà còn cả những tác phẩm xuất sắc của những
người thợ đá, thợ chạm gỗ, thợ kim hoàn vô danh. Điều này thể hiện rõ nét
trong các công trình kiến trúc tôn giáo tại nhiều quốc gia Mỹ Latinh, nơi mà
phong cách kiến trúc Âu châu có sự hài hòa đáng kinh ngạc với nghệ thuật tạo
hình của người bản xứ.
Một thực tế không thể phủ nhận, dù chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn
hóa châu Âu nhưng nền văn hóa bản địa cùng văn hóa của người da đen,
người gốc Á cũng đã để lại những dấu ấn to lớn, làm nên tính độc đáo của văn
hóa Mỹ Latinh. Trong khi những người thổ dân châu Mỹ có ảnh hưởng lớn
đến vốn từ vựng và văn hóa ẩm thực thì người da đen gốc châu Phi lại có vai
trò quan trọng tới đời sống âm nhạc và vũ điệu của hầu hết các nước Mỹ
Latinh. Thêm vào đó, những dòng người nhập cư đến từ Đức, Ý, Nhật Bản,
Trung Đông, sống tập trung trong các đô thị tạo thành những cộng đồng lớn

16
cũng đã góp phần tạo nên sự đa dạng của văn hóa bản địa. Những lễ hội
đường phố rực rỡ, những “điệu múa ma quỷ” kỳ bí hay những lễ rước dân
gian vui nhộn là những điểm nhấn tạo nên sức hấp dẫn tuyệt vời của văn hóa
Mỹ Latinh.
1.1.2.4. Tình hình chính trị
Hình thành trên cơ sở hệ thống thuộc địa cũ của Tây Ban Nha và Bồ
Đào Nha, sau khi giành được độc lập, đa số các nước Mỹ Latinh đã theo đuổi
một mô hình nhà nước cộng hòa kiểu Âu - Mỹ. Tuy nhiên, trong quá trình tìm

kiếm, thiết lập một mô hình chính trị tự do và dân chủ, hầu hết các quốc gia
Mỹ Latinh đã phải trải qua những chế độ độc tài hà khắc, những cuộc nội
chiến kéo dài nhiều thập kỷ. Dưới sự đấu tranh bền bỉ của các tầng lớp nhân
dân, chế độ độc tài tại nhiều quốc gia đã lần lượt bị xóa bỏ và thay vào đó là
sự trở lại nắm quyền của các chính phủ dân cử. Đó là những thắng lợi mang
tính lịch sử nhưng lại là những thắng lợi không triệt để. Bất chấp những bản
hiến pháp được soạn thảo công phu, những tuyên bố hùng hồn, những thỏa
ước cao thượng, dân chủ vẫn còn là một khái niệm mong manh khi đời sống
chính trị khu vực vẫn thường xuyên bị khuấy động bởi các cuộc biểu tình và
các cuộc đảo chính nổ ra liên tiếp. Những chia rẽ, khác biệt giữa các nhóm
sắc tộc, các giai tầng trong xã hội cũng đã góp phần tạo nên sự đan xen, pha
trộn phức tạp của các khuynh hướng chính trị trong khu vực.
Hiện nay, ngoại trừ Cuba, có thể chia các lực lượng chính trị ở Mỹ
Latinh thành 3 nhóm cơ bản: Thứ nhất, là lực lượng cánh hữu đại diện cho
giới kinh doanh và tư sản giàu có; Thứ hai, lực lượng cánh tả đại diện cho các
tầng lớp nhân dân lao động; Thứ ba, các nhóm chính trị trung lập có tư tưởng
trung dung, tùy theo ảnh hưởng của phái tả, phái hữu mà tính toán ngả theo
phái nào. Sự phân hóa rõ nét của các lực lượng chính trị đã dẫn đến cuộc đấu
tranh hết sức gay gắt giữa các đảng phái chính trị trong cuộc đua giành quyền
lực. Trong khi các đảng phái cánh hữu nhận được sự hậu thuẫn của giới doanh

17
nhân và tư bản giàu có thì các chính đảng cánh tả lại chiếm được cảm tình và
sự ủng hộ của đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động và những người thổ
dân bản xứ. Tầng lớp trung lưu thành thị vừa mong muốn những cải biến xã
hội tiến bộ vừa có tâm lý e ngại những cuộc cách mạng xã hội có tính chất
triệt để nên họ thường ủng hộ cho các đảng phái chính trị có tư tưởng trung
dung. Tình trạng chia rẽ này càng trở nên phức tạp khi có thêm yếu tố can dự
của Hoa Kỳ.
Suốt nhiều thập kỷ, các đảng phái cánh hữu - đồng minh của

Washington đã đóng vai trò năng động, nắm giữ quyền lực tại nhiều quốc gia
Mỹ Latinh nhưng lại không tổ chức được những guồng máy hiệu quả có khả
năng thực hiện những cải cách mang tính sáng tạo. Chán nản với những tuyên
bố sáo rỗng, những hứa hẹn vô nghĩa, dân chúng ở nhiều quốc gia đã mất
niềm tin đối với các chính trị gia cánh hữu, họ đã dồn lá phiếu cho các chính
đảng cánh tả đang lên. Thắng lợi của các lực lượng cánh tả ở Mỹ Latinh trong
các cuộc bầu cử gần đây đã minh chứng cho sự trỗi dậy mạnh mẽ của cả khu
vực. Ngọn lửa cách mạng mà những người cộng sản Cuba nhen nhóm sau
nhiều thập kỷ âm ỉ giờ lại được thổi bùng. Quần chúng lao động nghèo khổ
đang tập hợp lại trong cuộc đấu tranh không mệt mỏi cho lẽ phải, phẩm hạnh
và công bằng. Cả Mỹ Latinh như đang chất chứa một năng lượng bùng nổ
khổng lồ và hiện nó đang được chuyển hóa thành một xu thế tích cực tại nhiều
quốc gia, đó là xu thế cải cách theo con đường “chủ nghĩa xã hội thế kỷ 21”.
1.2. Phong trào cánh tả và khuynh hướng xã hội chủ nghĩa của một
số quốc gia Mỹ Latinh
1.2.1. Khái quát về phong trào cánh tả Mỹ Latinh
1.2.1.1. Nguồn gốc của các phong trào cánh tả
Ra đời từ thế kỷ XVIII nhưng phong trào cánh tả thế giới chỉ thực sự
phát triển mạnh mẽ với những thăng trầm trong suốt thế kỷ XX. Được sự cổ
vũ mạnh mẽ của cách mạng xã hội chủ nghĩa, làn sóng cánh tả đã từng lan

18
rộng và có ảnh hưởng to lớn từ châu Âu đến châu Á, từ lục địa châu Phi cho
tới khắp Mỹ Latinh. Sau hàng thập kỷ rơi vào thoái trào, giờ đây người ta lại
đang chứng kiến sự trỗi dậy mạnh mẽ của các trào lưu cánh tả ở Mỹ Latinh.
Vậy thực chất “cánh tả” là gì ? Đâu là tiêu chí cơ bản để nhận diện một chính
đảng hay một phong trào cánh tả? Những câu hỏi đó chỉ có thể được giải đáp
khi chúng ta có được cái nhìn thấu đáo về lịch sử hình thành và phát triển của
phong trào này.
Thuật ngữ “tả” - “hữu”, “cánh tả” - “cánh hữu” trong chính trị có nguồn

gốc từ thời Cách mạng tư sản Pháp năm 1789. Khi đó, trong Nghị viện Pháp,
những nghị sĩ có lập trường bảo thủ thuộc phái Girondins (đại diện cho giới tư
sản công thương và điền chủ lớn) thường ngồi ở bên phải nên được gọi là phái
hữu, còn những nghị sĩ có lập trường cấp tiến thuộc phái Montagnards (đại
diện cho giới tiểu tư sản và thị dân) thì ngồi bên tay trái (phái tả) của chủ tọa.
Truyền thống bố trí chỗ ngồi kiểu này trong Nghị viện Pháp được duy trì cho
đến tận ngày nay [5, tr.4].
Trải qua một quá trình lịch sử lâu dài, cùng với sự vận động của đấu
tranh chính trị giữa các đảng phái trên chính trường quốc gia và quốc tế, đến
nay khái niệm “tả” - “hữu” được sử dụng rất phổ biến để phân biệt các lực
lượng chính trị có lập trường tư tưởng đối lập nhau. Theo đó, thuật ngữ “cánh
tả” thường được dùng để chỉ những lực lượng, những đảng phái chính trị có
lập trường cấp tiến, cách mạng, muốn thực hiện các cuộc cải biến xã hội theo
hướng dân chủ và tiến bộ. Trái lại, thuật ngữ “cánh hữu” là để chỉ các lực
lượng, đảng phái có lập trường bảo thủ, cứng rắn và không muốn thay đổi.
Cũng với ý nghĩa đó, bên cạnh các khái niệm “cánh tả” và “cánh hữu” cũng
đã xuất hiện các khái niệm “trung dung”, “trung tả”, “trung hữu”, và “cực tả”,
“cực hữu”. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, trong hệ thống chính trị đa nguyên,
đa đảng ở các nước tư bản chủ nghĩa thì lập trường của các đảng cánh tả, cánh
hữu hay trung dung đôi khi chỉ mang tính tương đối, đan xen vào nhau nhằm

19
tranh thủ tối đa lá phiếu của cử tri trong các cuộc vận động tranh cử mà không
thể hiện được đầy đủ tính chất giai cấp của các đảng phái chính trị.
Xét về bản chất, đảng chính trị (chính đảng) là tổ chức chính trị đại
biểu cho lợi ích của những giai tầng nhất định trong xã hội; phấn đấu cho
quyền lợi của những giai tầng xã hội đó. Vì vậy, để đánh giá đúng tính chất
của một đảng chính trị, không thể chỉ căn cứ vào lập trường “tả”, “hữu” hay
“trung dung”…, mà rất cần đi sâu xem xét tính chất giai cấp của đảng đó, xem
đảng đó đại biểu cho giai tầng nào trong xã hội và các hoạt động của đảng đó.

V.I.Lênin từng nhấn mạnh: “Đấu tranh giữa các chính đảng là biểu hiện đầy
đủ, hoàn chỉnh và có giá trị nhất của đấu tranh chính trị giữa các giai cấp”;

“Không được đánh giá các chính đảng theo tên gọi, theo các lời tuyên bố và
các bản cương lĩnh của họ, mà phải đánh giá theo việc làm của họ” [11,
tr.245]. Đây là một nguyên tắc cơ bản khi chúng ta phân tích, đánh giá về các
đảng cánh tả và phong trào cánh tả ở Mỹ Latinh.
1.2.1.2. Các đảng cánh tả và phong trào cánh tả ở Mỹ Latinh hiện nay
Ở hầu hết các nước Mỹ Latinh, “cánh tả” được hiểu là lực lượng chính
trị đại diện cho các tầng lớp dưới trong xã hội, đấu tranh bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của nhân dân lao động. Mục tiêu hướng tới của những người
cánh tả là một xã hội dân chủ, tiến bộ, không còn tình trạng đói nghèo, áp
bức, bất công, người bóc lột người, các quyền và giá trị cơ bản của con người
được tôn trọng và đảm bảo. Chính vì vậy, các đảng cánh tả thường giữ lập
trường kiên định trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, cường quyền,
ủng hộ các quyền dân tộc tự quyết và đòi hỏi những cải cách theo hướng dân
sinh, dân chủ. Đây cũng là lực lượng đi đầu trong cuộc đấu tranh chống lại
những mặt trái của toàn cầu hóa; chống chiến tranh, chống phổ biến vũ khí
hạt nhân và bảo vệ môi trường. Ngày nay, lực lượng cánh tả Mỹ Latinh phát
triển theo hai khuynh hướng khác nhau, tạo thành hai nhóm cơ bản là Cấp tiến
và Dân túy.

20
Phái tả Cấp tiến hay còn gọi là phái “dân chủ xã hội ôn hòa” mà tiêu
biểu là các đảng cánh tả ở Brazil, Chile, Argentina, El Salvador, Uruguay với
chủ trương thực hiện những cải cách kinh tế - xã hội tiến bộ theo hướng
chuyển từ mô hình “chủ nghĩa tự do mới” sang mô hình kinh tế thị trường có
sự điều tiết của nhà nước. Các chính phủ của phái tả Cấp tiến thường chú
trọng các chính sách xã hội, giáo dục, các chương trình chống đói nghèo,
chăm sóc sức khỏe và nhà ở nhưng trong khuôn khổ của thể chế dân chủ tư

sản và nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Mặc dù, cũng thường xuyên
bất đồng với chính sách ngoại giao bá quyền của Hoa Kỳ nhưng hiếm khi
phái này đẩy những bất đồng đó tới đỉnh cao và tinh thần bài Mỹ truyền thống
cũng đã được giảm đi rất nhiều.
Phái tả Dân túy được coi là sản phẩm của sự kết hợp giữa phong trào
cánh tả với chủ nghĩa Dân túy truyền thống Mỹ Latinh, có vai trò to lớn và ảnh
hưởng sâu rộng tại nhiều quốc gia trong khu vực. Không hài lòng với những
cải cách ôn hòa trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, phái tả Dân túy muốn
tiến hành những cải cách mang tính đột phá, những thay đổi mạnh mẽ về thể
chế và luật pháp. Họ muốn tập trung mọi quyền lực nhà nước vào tay nhân dân
lao động thông qua việc quốc hữu hóa các công ty tư bản, kiểm soát các nguồn
tài nguyên thiên nhiên, cải cách chế độ bầu cử, sửa đổi hiến pháp và hệ thống
tư pháp. Tích cực trong việc bảo tồn các giá trị truyền thống và đề cao lòng tự
tôn dân tộc, các chính phủ cánh tả Dân túy thường thể hiện tinh thần chống Mỹ
quyết liệt. Những cải cách của họ ít nhiều đã vượt qua khuôn khổ của chủ
nghĩa tư bản và thể hiện khuynh hướng xã hội chủ nghĩa. Tổng thống
Venezuela Hugo Chavez, Tổng thống Bolivia Evo Morales hay Tổng thống
Rafael Corea của Ecuador là những nhân vật tiêu biểu cho trường phái này.
Tuy nhiên, sự phân chia nói trên chỉ mang tính tương đối. Có một thực tế
là ở hầu hết các nước Mỹ Latinh luôn tồn tại đan xen giữa phái tả Cấp tiến và
phái tả Dân túy. Thậm chí, ở các nước khác nhau có những chính đảng cánh tả

21
có cùng tên gọi song lại theo những khuynh hướng chính trị - tư tưởng rất khác
nhau. Chẳng hạn, cùng một tên gọi là Đảng Lao động (PT) nhưng các đảng PT
ở Brazil, Chile và Mexico thì theo khuynh hướng xã hội cánh tả; trong khi đảng
PT ở El Salvador thì theo khuynh hướng xã hội dân chủ; còn PT ở Colombia
lại theo khuynh hướng Maoism; các đảng PT ở Ecuador, Paraguy, Peru,
Uruguy lại theo hướng Trotskyism. Nhưng có lẽ, chính những khác biệt ấy đã
tạo nên một bức tranh đa màu về phong trào cánh tả Mỹ Latinh.

Mặc dù còn tồn tại khá nhiều bất đồng và mâu thuẫn thậm chí đấu tranh
với nhau để khẳng định ảnh hưởng nhưng về cơ bản đoàn kết, hợp tác vẫn là
khuynh hướng chủ đạo trong quan hệ giữa các đảng cánh tả ở Mỹ Latinh hiện
nay. Với mong muốn tạo lập một lực lượng chính trị lớn mạnh làm đối trọng
với các đảng phái tư sản, các đảng cánh tả tại nhiều nước đã liên kết, thậm chí
hợp nhất với nhau. Xu hướng này càng trở nên rõ nét hơn khi Tổng thống
Hugo Chavez đã hợp nhất đảng của mình với 20 đảng cánh tả khác để thành
lập nên một chính đảng duy nhất mang tên đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất
Venezuela (PSUV) - một đảng mà theo lời ông là để phục vụ phong trào cách
mạng và phục vụ nhân dân, chứ không phải phục vụ các đảng phái chính trị.
Ngoài ra, quá trình tập hợp lực lượng thông qua những diễn đàn, hội
thảo khu vực cũng là một phương thức sáng tạo, giúp các đảng phái cánh tả
vững bước trong sự nghiệp cạnh tranh và đấu tranh chính trị của mình. Trước
tiên, phải kể đến “Diễn đàn Sao Paulo” thu hút hơn 140 đảng phái cánh tả và
tổ chức tiến bộ trên thế giới tham gia. Đây là diễn đàn nhằm trao đổi, đánh giá
tình hình châu lục, phân tích hệ lụy của chủ nghĩa tự do mới, hoạch định chủ
trương, giải pháp thay thế, đồng thời thông qua các nghị quyết chống đế quốc,
ủng hộ cuộc đấu tranh vì hòa bình và giải phóng dân tộc. Ngoài “Diễn đàn
Sao Paulo”, phong trào cánh tả Mỹ Latinh còn có Hội thảo quốc tế “Các
đảng chính trị và một xã hội mới” do Đảng Lao động Mexico chủ trì hàng
năm, Hội nghị “Toàn cầu hóa và những vấn đề của sự phát triển” do Đảng

×