Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Lạng Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
***


NGUYỄN THỊ GIANG CHÂU



CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở
TỈNH LẠNG SƠN




LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ







HÀ NỘI – 2005





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
***

NGUYỄN THỊ GIANG CHÂU



CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở
TỈNH LẠNG SƠN


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Chuyên ngành: Kinh tế Chính trị
Mã số: 5.02.01



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHAN THANH PHỐ




HÀ NỘI - 2005


1
MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn đòi hỏi phải có một cơ cấu
kinh tế hợp lý, trong đó cần xác định rõ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
các ngành, các vùng kinh tế, lãnh thổ và các thành phần kinh tế, các yếu tố, bộ
phận, lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là một trong những nội dung cơ bản của
CNH, HĐH.
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi biên giới thuộc vùng Đông Bắc Tổ quốc.
Cuộc chiến tranh biên giới tháng 2 năm 1979 và những cuộc đụng độ biên giới
trong những năm sau đó đã tàn phá nặng nề cơ sở vật chất, kỹ thuật làm cho nền
kinh tế của tỉnh bị giảm sút nghiêm trọng. Sau một số năm khôi phục lại kinh tế,
thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của
cả nước, cơ cấu kinh tế của tỉnh Lạng Sơn bước đầu đã được chuyển dịch theo
hướng CNH, HĐH. Tuy nhiên, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Lạng Sơn
thời gian qua với nhịp độ còn chậm, chất lượng chưa cao, chưa tương xứng với
tiềm năng vốn có của một tỉnh biên giới trong điều kiện mở cửa và hội nhập.
Làm thế nào để chuyển dịch nhanh với chất lượng cao cơ cấu kinh tế của
tỉnh, phát huy thế mạnh nổi bật, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Lạng
Sơn trong thời gian tới. Lời giải cho vấn đề đặt ra mang tính bức xúc, có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn rất quan trọng đối với Lạng Sơn hiện nay. Để góp thêm vào
việc tìm ra lời giải nói trên, tác giả chọn đề tài: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH, HĐH ở tỉnh Lạng Sơn làm luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế.

2
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã có nhiều công trình, nhiều đề tài,
nhiều tác giả nghiên cứu ở những khía cạnh và mức độ khác nhau như:
- Đỗ Hoài Nam (chủ biên): “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát
triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam”. Nhà xuất bản Khoa học xã
hội, Hà Nội 1996.

- Phạm Khiêm Ích - Nguyễn Đình Phan: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
Việt Nam và các nước trong khu vực”, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội 1995.
- Ngô Đình Giao (chủ biên): “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
1994…
Nhìn chung các đề tài đã công bố, phản ánh nhiều mặt của chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong cả nước hoặc trên một địa bàn, một địa phương nhất định. Song
cho đến nay, việc nghiên cứu đề tài chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,
HĐH ở Lạng Sơn với tư cách là một đề tài được nghiên cứu một cách có hệ
thống, độc lập vẫn chưa được nghiên cứu. Vì thế đề tài được chọn còn là mới và
cần thiết đòi hỏi phải làm rõ hơn cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hoá có lựa chọn và phân tích một số vấn đề chung về chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH, HĐH trong thời gian qua ở tỉnh Lạng Sơn, đưa ra những vấn đề bức xúc
cần đặt ra để giải quyết trong thời gian tới.

3
- Đề xuất và phân tích phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm
đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ở tỉnh Lạng Sơn.
Mục đích của luận văn: Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Lạng Sơn những năm vừa qua, từ đó đề xuất những
phương hướng cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Lạng Sơn thời kỳ
2001 - 2010.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử

làm phương pháp luận chung, vận dụng thông qua phương pháp trừu tượng hoá.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp lôgíc kết hợp với lịch sử,
phương pháp thống kê, định lượng so sánh, phương pháp mô hình, biểu bảng…
trong quá trình nghiên cứu.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn lấy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Lạng Sơn làm đối tượng nghiên cứu.
- Việc phân tích, đánh giá, đề xuất phương hướng và giải pháp dưới góc
độ kinh tế chính trị tức là nghiên cứu những vấn đề cơ bản và chủ yếu. Thời gian
nghiên cứu từ thời kỳ đổi mới, nhất là từ 1991 đến 2010.
6. Những đóng góp và ý nghĩa của luận văn
Những đóng góp:
- Làm rõ thêm khái niệm, những nhân tố, sự cần thiết, nội dung mang tính
xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

4
- Phân tích đưa ra những đánh giá có căn cứ khoa học về thực trạng,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh
Lạng Sơn thời gian qua.
- Đưa ra phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm
đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở tỉnh Lạng Sơn đến 2010.
Ý nghĩa:
- Góp thêm cơ sở khoa học vào việc hoạch định chiến lược công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Lạng Sơn thời kỳ 2001 - 2010.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học tập
những phần có liên quan trong trường Cao đẳng sư phạm của tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, về
nội dung luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo

hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá thời gian qua ở tỉnh Lạng Sơn.
Chương 3: Phương hướng cơ bản và các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy
nhanh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH trong thời gian
tới ở Lạng Sơn.






5

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
THEO HƢỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

1.1. Phƣơng pháp luận tiếp cận cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Công nghiệp hoá, một quá trình kinh tế tất yếu khách quan mà bất cứ nước
nào đi từ sản xuất nhỏ đều phải trải qua. Mặc dù với thời điểm, quy mô, nhịp độ
và cách tiến hành có sự khác nhau nhất định giữa các nước.
Xét về mặt lịch sử thì công nghiệp hoá là quá trình diễn ra trước hiện đại
hoá, nhưng trong thời đại ngày nay luôn có sự đan xen, tác động qua lại lẫn
nhau, hai quá trình này không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Về mặt thuật ngữ
cho thấy hiện đại hoá là làm thay đổi trạng thái kỹ thuật - công nghệ và kinh tế
đạt trình độ của thời đại ngày nay. Nói cách khác, hiện đại hoá nền kinh tế quốc

dân là làm cho kỹ thuật và công nghệ sản xuất cũng như cơ cấu kinh tế của đất
nước đạt được ngang với trình độ của thời đại, đây chính là khía cạnh kinh tế -
kỹ thuật của hiện đại hoá. Tuy nhiên, hiện đại hoá không phải chỉ có thế mà còn
bao hàm cả khía cạnh xã hội, gắn với quá trình xây dựng một xã hội văn minh.
Như vậy, quá trình kinh tế - kỹ thuật và quá trình kinh tế - xã hội có quan hệ biện
chứng với nhau. Quá trình kinh tế - kỹ thuật tạo điều kiện vật chất cho việc thực
hiện nội dung của quá trình kinh tế - xã hội và đến lượt mình quá trình kinh tế -

6
xã hội lại góp phần tạo nên động lực cho việc thực hiện quá trình kinh tế - kỹ
thuật.
Ở nước ta, một nước tiến hành công nghiệp hoá sau, nên công nghiệp hoá
phải gắn liền với hiện đại hoá, bởi lẽ trong thời đại ngày nay nhân loại đã trải
qua hai cuộc cách mạng kỹ thuật: cuộc cách mạng công nghiệp và hiện nay là
cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học công
nghệ hiện đại này đã dẫn tới sự thay đổi về chất kỹ thuật và công nghệ sản xuất.
Là nước tiến hành công nghiệp hoá sau nên chúng ta không thể thực hiện theo
mô hình công nghiệp hoá phát triển theo kiểu tuần tự như các nước đi trước,
nghĩa là tiến hành với nội dung căn bản là cơ khí hoá các ngành của nền kinh tế
rồi mới tiến hành hiện đại hoá. Vả lại khi thực hiện cơ khí hoá cũng không thể sử
dụng máy móc được sản xuất trước đây mà phải sử dụng kỹ thuật và công nghệ
sản xuất tiên tiến. Với ý nghĩa trên Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng khoá VII, Đại hội VIII khẳng định công nghiệp hoá gắn liền với hiện
đại hoá và Đại hội Đảng lần thứ IX, nhấn mạnh về con đường công nghiệp hoá
rút ngắn đáng kể về thời gian, vừa có bước đi tuần tự vừa có bước nhảy vọt,
muốn vậy công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá. Đảng ta quan niệm
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là: “Quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế – xã hội từ sử dụng lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ và phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển

của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng xuất lao động xã hội
cao” [13, tr.80].
Thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là quá trình xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật dựa trên công nghệ, phương tiện và phương pháp sản xuất

7
tiên tiến hiện đại, yếu tố vật chất cơ bản của lực lượng sản xuất cho chủ nghĩa xã
hội nhằm đạt năng suất lao động xã hội cao. Tuy nhiên, đây không chỉ là quá
trình tăng thêm một cách giản đơn về tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công
nghiệp trong nền kinh tế mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với
việc thường xuyên đổi mới công nghệ tạo nền tảng cho sự tăng trưởng bền vững
hiệu quả cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong tất cả các ngành, các vùng
và các thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân.
1.1.1.2. Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế, một phạm trù kinh tế có tầm quan trọng to lớn trong quá
trình xây dựng và thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia qua các thời kỳ. Cơ cấu kinh tế hợp lý cho phép tạo nên sự cân đối, hài
hoà của nền kinh tế để sử dụng một cách hiệu quả các nguồn lực, tài nguyên, của
cải vật chất, của cải tinh thần và sức lao động. Điều đó có ý nghĩa to lớn đối với
sự tăng trưởng, và phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội của nền kinh tế quốc dân.
Thuật ngữ “cơ cấu” hay “cấu trúc” có nguồn gốc ban đầu từ chữ La tinh
“Strucke”, nó phản ánh cách sắp xếp các bộ phận của một chỉnh thể. Sau đó, các
khái niệm này được sử dụng mở rộng hơn cho các ngành khoa học khác.
Theo quan điểm triết học, “cơ cấu” hay “kết cấu” là một phạm trù phản
ánh cấu trúc bên trong của đối tượng, là tập hợp những mối liên hệ cơ bản, tương
đối ổn định giữa các yếu tố cấu thành nên đối tượng, trong một thời gian nhất
định.
Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống C.Mác tiếp
cận cơ cấu nền kinh tế như là: Toàn bộ các quan hệ giữa những người làm nhiệm
vụ sản xuất với nhau và giữa họ với tự nhiên - tức là những điều kiện trong đó họ


8
tiến hành sản xuất. Toàn bộ những quan hệ đó hợp thành xã hội, xét về mặt cơ
cấu kinh tế của nó.
Khi phân tích mối quan hệ giữa phân công lao động xã hội, với cơ cấu
kinh tế xã hội C.Mác đã nhấn mạnh: “Cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những
quan hệ sản xuất phù hợp với một quá trình phát triển nhất định của lực lượng
sản xuất vật chất” [25, tr.70].
C.Mác còn phân tích cơ cấu kinh tế ở cả hai mặt: số lượng (quy mô, tỷ
trọng, tốc độ) và chất lượng (vị trí, sự tương tác, trình độ công nghệ…). Đó là
biểu hiện của mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, lĩnh vực kinh tế. Và theo C.Mác,
cơ cấu là “một sự phân chia về chất lượng và một tỷ lệ về số lượng của quá trình
sản xuất xã hội” [26, tr.103].
Như vậy, theo C.Mác, cơ cấu nền kinh tế có cấu trúc bao gồm: Những yếu
tố gắn với lực lượng sản xuất (các quan hệ giữa họ với tự nhiên, kỹ thuật) và các
nội dung của quan hệ sản xuất (các quan hệ kinh tế giữa người với người trong
quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội) hợp thành. Nếu cơ cấu nền kinh tế bao
gồm hai mặt lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì khi phân tích cơ cấu kinh
tế không thể không xem xét mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất. Một cơ cấu kinh tế được coi là đúng đắn là một cơ cấu kinh tế
được hình thành và phát triển trong đó, các yếu tố của quan hệ sản xuất luôn phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tất nhiên, không
nên hiểu cơ cấu nền kinh tế là con số cộng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, mà nên hiểu nó là sự tác động qua lại giữa các yếu tố được xem xét về số
lượng và chất lượng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được hình thành
và phát triển qua các giai đoạn phát triển của nền sản xuất xã hội.

9
Với quan niệm trên thì cơ cấu của nền kinh tế quốc dân được hiểu là tổng
thể những mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế: Các lĩnh vực sản

xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng; các ngành kinh tế: công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ…; các thành phần kinh tế - xã hội: Nhà nước, tập thể, tư nhân…;
các vùng kinh tế.
Ở mỗi vùng, mỗi ngành, mỗi địa phương lại có cơ cấu kinh tế riêng, tuỳ
theo điều kiện tự nhiên, địa lý, kinh tế, xã hội cụ thể.
Trong tiếp cận cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải xem xét các yếu tố của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong trạng thái có tính tương đối ổn định,
lịch sử cụ thể, phát triển theo đúng các quy luật khách quan, nhất là mối quan hệ
chứa đựng trong đó quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất. Chính tính tương đối ổn định này làm cho cơ cấu kinh tế biến
đổi trong giới hạn cho phép, mà nếu vượt qua giới hạn đó, hệ thống kinh tế - xã
hội chuyển sang một trạng thái ổn định khác, mới về chất, hoặc thậm chí có thể
biến đổi sang loại hình cơ cấu khác.
Từ sự phân tích trên có thể rút ra những khía cạnh không thể thiếu được
khi tiếp cận khái niệm cơ cấu kinh tế:
- Bao gồm các bộ phận cấu thành mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất diễn ra thông qua mối quan hệ kinh tế giữa các
ngành và nội bộ ngành, giữa các vùng kinh tế và giữa các thành phần kinh tế với
nhau.
- Được xem xét trên cả hai mặt định tính và định lượng của từng yếu tố và
mối quan hệ giữa các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.

10
- Đặt cơ cấu kinh tế trong điều kiện lịch sử của mỗi nước, mỗi địa phương,
mỗi ngành trong từng thời kỳ nhất định.
- Gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội được xác định trong từng
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Từ đó ta có thể định nghĩa cơ cấu kinh tế như sau: Cơ cấu kinh tế là tổng
thể các quan hệ kinh tế hay các bộ phận hợp thành nền kinh tế gắn với trình độ

công nghệ, quy mô, tỷ trọng tương ứng với tính chất của mối quan hệ tương tác
giữa tất cả các bộ phận; gắn với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn
phát triển nhất định; nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội đã được xác
định trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Cơ cấu kinh tế là một hệ thống động, biến đổi không ngừng theo đà phát
triển của lực lượng sản xuất và những nhân tố quy định nó. Để đánh giá một
cách thực tế việc xác định đúng đắn cơ cấu kinh tế và ứng dụng đúng đắn cơ cấu
kinh tế vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng địa phương, trong từng giai
đoạn phát triển, cần lưu ý một số đặc trưng sau đây của cơ cấu kinh tế:
Thứ nhất, cơ cấu kinh tế mang tính khách quan.
Theo C.Mác cơ cấu kinh tế có quan hệ mật thiết với phân công xã hội.
Người khẳng định: “Trong sự phân công xã hội, thì con số tỷ lệ là một tất yếu
không sao tránh khỏi, một sự tất yếu thầm kín yên lặng” [26, tr.15].
Nói một cách khác, mọi sự vật hiện tượng nói chung và nền kinh tế nói
riêng chỉ có thể tồn tại và phát triển theo những cấu trúc nhất định, vận động,
phát triển theo những quy luật khách quan, nhất là quy luật quan hệ sản xuất phải
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong từng thời kỳ; phù

11
hợp với các quy luật của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, lưu thông tiền tệ,
cạnh tranh và cung cầu.
Cơ cấu kinh tế do những yếu tố vật chất của nền sản xuất quy định (tư liệu
sản xuất, tài nguyên, công nghệ, sức lao động) do đó cơ cấu kinh tế tồn tại, vận
động, phát triển theo những quy luật khách quan, độc lập với con người. Con
người không thể tuỳ tiện tạo ra cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, con người có thể tác
động làm thay đổi cơ cấu kinh tế thông qua việc tác động vào các yếu tố vật chất
của nền sản xuất. Nếu sự tác động của con người phù hợp với các quy luật khách
quan có thể làm cho cơ cấu kinh tế thay đổi theo chiều hướng tiến bộ, đẩy nhanh
quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Ngược lại, nếu sự tác động đó không
phù hợp sẽ cản trở quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Do đó, một cơ cấu

kinh tế hợp lý của nền kinh tế quốc dân phải phản ánh sự vận động của các quy
luật kinh tế và các quy luật khác, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Vai
trò chủ quan của con người là: thông qua nhận thức ngày càng sâu sắc những
quy luật đó mà phân tích, đánh giá những xu thế phát triển khách quan để tìm ra
những phương án thay đổi cơ cấu có hiệu quả cao nhất trong điều kiện cụ thể của
quốc gia hay địa phương. Chính đặc điểm này bác bỏ thái độ chủ quan, duy ý
chí, áp đặt cơ cấu kinh tế không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất xã hội.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế mang tính lịch sử cụ thể.
Nền kinh tế chỉ có thể phát triển khi giữa các bộ phận của quá trình tái sản
xuất xác lập những quan hệ cân đối nhất định của phân công lao động xã hội.
Giữa các nền sản xuất, những yêu cầu về số lượng có thể tương tự nhau, nhưng
những yêu cầu về chất lượng cách thức thực hiện, những tỷ lệ cân đối thì khác
nhau, sự khác nhau ấy là do quy luật kinh tế đặc thù của mỗi phương thức sản

12
xuất, mà trước hết là do quy luật kinh tế tuyệt đối của phương thức sản xuất ấy
quyết định. Ngay trong một hình thái kinh tế - xã hội, nhưng ở những nước khác
nhau, ở những địa phương khác nhau và mỗi thời kỳ khác nhau vẫn có cơ cấu
kinh tế khác nhau, do điều kiện địa lý, kinh tế, xã hội khác nhau quy định.
C.Mác viết: “Sự tất yếu phải phân công lao động xã hội theo những tỷ lệ
nhất định quyết không thể bị tiêu diệt bởi một hình thái nhất định của sản xuất xã
hội, chỉ có hình thái biểu hiện của nó có thể bị thay đổi mà thôi, điều này tự nó
đã rõ rồi” [26, tr.759].
Cơ cấu kinh tế luôn luôn biến động, nó không phải là một cái gì “chết
cứng”, “nằm im”, nên việc xác định cơ cấu kinh tế không thể không căn cứ vào
điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể của từng thời kỳ. Cơ cấu kinh tế gắn liền với sự
biến đổi không ngừng của bản thân các yếu tố, các bộ phận trong nền kinh tế và
những mối quan hệ giữa chúng.
Tính lịch sử cụ thể của cơ cấu kinh tế còn biểu hiện ở chỗ không có cơ cấu

kinh tế chung cho mọi nền kinh tế và cũng không có cơ cấu kinh tế duy nhất cho
một nền kinh tế, một địa phương ở các giai đoạn phát triển khác nhau.
Thứ ba, cơ cấu kinh tế có tính mục tiêu hiệu quả kinh tế – xã hội
Mục tiêu này được xem xét cả về hai mặt: kinh tế và xã hội trong từng giai
đoạn phát triển nhất định. Hiệu quả kinh tế – xã hội là mục tiêu phản ánh sự kết
hợp hài hoà giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội trong từng thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá cả nước và từng địa phương. Trong giai đoạn đầu của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khối lượng các yếu tố sản xuất (lao động, vốn, vật
tư) rất hạn chế, tới mức không cho phép đồng thời bảo đảm sự cân đối bên trong
của sản xuất cũng như giữa sản xuất với các mặt khác của đời sống xã hội. Ở đây
cần lựa chọn những quan hệ then chốt, tập trung lực lượng để tác động, tạo nên

13
một sự cân đối tương đối và nhờ vậy, có điều kiện để tiến tới, nắm bắt lấy “mắt
xích tiếp theo”.
Việc xác định cơ cấu kinh tế của một quốc gia hay một địa phương được
gọi là có hiệu quả kinh tế - xã hội, khi cơ cấu kinh tế đó hợp lý. Một cơ cấu kinh
tế hợp lý phải là một cơ cấu cho phép khai thác hết những tiềm năng kinh tế - xã
hội của quốc gia, các địa phương, tạo điều kiện cho các ngành kinh tế, các thành
phần kinh tế, các vùng kinh tế thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau
phát triển. Nó không chỉ đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế mà còn giải quyết
được các vấn đề xã hội và môi trường sinh thái, tạo đà cho sự phát triển trong
tương lai.
Việc thi hành chính sách cơ cấu có lựa chọn hợp lý như vậy đòi hỏi phải
đảm bảo tính đồng bộ, tính cân đối trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân,
là hai mặt mâu thuẫn của một quá trình biện chứng. Từ tính chất hai mặt của cơ
cấu kinh tế là tính cân đối ổn định và tính chất biến đổi tổ chức, nói lên tính phức
tạp của việc thay đổi cơ cấu kinh tế.
Phát triển kinh tế là một quá trình lịch sử, mà trong mỗi giai đoạn phát
triển đều có những vấn đề then chốt, những khâu quan trọng liên quan đến mục

tiêu kinh tế - xã hội, nó xa lạ với việc quá nhấn mạnh tính ổn định dễ dẫn tới bảo
thủ, trì trệ, lạc hậu. Ngược lại, nếu quá nhấn mạnh tính chất biến đổi bất chấp
tính khách quan và điều kiện lịch sử cụ thể, sẽ rơi vào chủ quan, nóng vội, duy ý
chí. Vì vậy, một yêu cầu bức thiết là phải tập trung những lực lượng chủ yếu để
giải quyết những vấn đề then chốt hoặc để “xoá bỏ” những ách tắc trong dòng
chảy của quá trình tái sản xuất là một đòi hỏi khách quan khi thực hiện đặc trưng
này.
Thứ tư, cơ cấu kinh tế mang tính thị trường và mở cửa.

14
Khác với cơ cấu kinh tế trong mô hình chỉ huy tập trung quan liêu bao
cấp, việc hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế để tạo ra sản phẩm chủ yếu là để
phân phối cho tiêu dùng, chứ không phải chủ yếu tạo ra hàng hoá để bán, nếu có
mua bán chỉ là hình thức mà không dựa trên các quy luật kinh tế vốn có của kinh
tế thị trường. Khi chuyển đổi mô hình kinh tế cũ sang mô hình kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế để tạo ra
hàng hoá với tư cách là hàng hoá để bán. Vì vậy việc xây dựng và phát triển cơ
cấu kinh tế nhất thiết phải mang tính thị trường. Có như vậy, mới làm cho cơ cấu
kinh tế được xây dựng không chỉ thích ứng mà còn có tác dụng thúc đẩy việc xây
dựng thành công mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta và địa phương.
Cơ cấu kinh tế của một nước hay một địa phương không khép kín trong
một không gian nhất định mà ngày càng mở rộng theo tiến trình xã hội hoá,
chuyên môn hoá sản xuất và mức độ mở rộng thị trường trong nước, khu vực và
quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường, sự vận động khách quan của cơ cấu kinh tế
theo hướng mở rộng sự hợp tác, và phân công lao động diễn ra không chỉ trong
phạm vi mỗi ngành, mỗi vùng, mỗi quốc gia mà còn phải xác định được cơ cấu
kinh tế trên cơ sở lợi thế của mình gắn với thị trường trong nước và quốc tế,
nhằm tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, thúc đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá nền kinh

tế quốc dân, tạo điều kiện để chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Sự phát triển đan xen cũng như sự phân công lao động quốc tế, sự thâm
nhập kinh tế các nước vào nhau đã chỉ rõ tính đa dạng phong phú và tính quốc tế
của cơ cấu kinh tế. Trong nền kinh tế "mở" nếu không chú ý đúng mức đến đặc
trưng này sẽ hạn chế sự phát huy các nguồn lực trong nước.

15
Tóm lại, tính khách quan, tính lịch sử cụ thể, tính mục tiêu hiệu quả kinh
tế - xã hội, tính thị trường và mở cửa là tổng hợp những tính chất cấu thành nên
đặc trưng cơ bản của cơ cấu kinh tế. Chúng ta phải nhận thức đầy đủ những đặc
trưng đó trong hoạt động xây dựng cơ cấu kinh tế hiện nay ở nước ta nói chung
và ở mỗi địa phương nói riêng.
Cơ cấu kinh tế, xem xét trên cấp độ nền kinh tế quốc dân hay trên một
vùng lãnh thổ, về mặt nội dung, là một hệ thống đa cơ cấu hợp thành:
- Một là: Cơ cấu ngành của nền kinh tế quốc dân và nội bộ từng ngành:
Cơ cấu kinh tế ngành là một kiểu, một bộ phận cơ cấu trong toàn bộ hệ
thống các cơ cấu của nền kinh tế quốc dân, xác định mối quan hệ tương quan về
định tính và định lượng giữa các ngành với nhau.
Cơ cấu ngành và lĩnh vực kinh tế là bộ phận cơ bản nhất của cơ cấu kinh
tế, là cốt lõi của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện
thực hiện thắng lợi các mục tiêu của chiến lược đề ra, trong đó quan hệ giữa
công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ là bộ phận có tầm quan trọng, “bộ xương”
của cơ cấu kinh tế. Các quan hệ này được xem xét dưới các khía cạnh trình độ
công nghệ, quy mô, nhịp độ phát triển giữa chúng.
Trong mỗi ngành lại phân chia thành các ngành nghề nhỏ chi tiết hơn. Các
doanh nghiệp trong các ngành và nội bộ ngành, nằm trong một cơ cấu kinh tế,
tác động qua lại lẫn nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển.
Chẳng hạn: Trong ngành nông nghiệp lại chia thành trồng trọt, chăn nuôi,
lâm nghiệp - ngư nghiệp; ngành công nghiệp lại chia thành công nghiệp khai
thác, công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng hoặc chia thành công


16
nghiệp truyền thống; công nghiệp gắn với công nghệ mới hiện đại; ngành dịch
vụ lại chia thành dịch vụ sản xuất, dịch vụ cho con người…
- Hai là: Cơ cấu vùng (hay lãnh thổ) là biểu hiện vật chất cụ thể của phân
công lao động theo lãnh thổ. Trình độ hình thành, phát triển và hoàn thiện của cơ
cấu lãnh thổ hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ phát triển của phân công lao động
theo lãnh thổ đến lượt mình, trình độ phát triển của phân công lao động theo lãnh
thổ lại phụ thuộc vào trình độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vấn đề đặt ra là
phải khai thác và sử dụng các điều kiện tự nhiên của đất nước một cách có lợi và
đạt hiệu quả cao nhất. Trong mối quan hệ hợp lý giữa nhu cầu trước mắt với sự
phát triển lâu dài theo hướng sản xuất hàng hoá cho thị trường trong nước và
xuất khẩu, cần có chiến lược kế hoạch khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên
thiên nhiên trên cơ sở điều tra, khảo sát khả năng và nhu cầu xã hội, nhu cầu địa
phương, trong nước và quốc tế, để xây dựng các đơn vị, ngành và vùng kinh tế
hợp lý.
- Ba là: Cơ cấu thành phần kinh tế là một nội dung, một bộ phận của cơ
cấu kinh tế xét về mặt kinh tế - xã hội. Lực lượng sản xuất bao giờ cũng tồn tại ở
nhiều trình độ khác nhau, tương ứng với mỗi trình độ của lực lượng sản xuất là
một kiểu quan hệ sản xuất phù hợp. Do vậy, sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần trong cơ cấu kinh tế là tất yếu khách quan. Trong cơ cấu đó, các
thành phần kinh tế vừa mâu thuẫn, đấu tranh lẫn nhau, vừa hợp tác và thống nhất
với nhau hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất, trong đó mặt hợp tác, thống
nhất là mặt cơ bản của mối quan hệ.
Từ chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất có thể hiểu cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần là tổng thể các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong môi trường hợp
tác và cạnh tranh. Tương ứng với mỗi thành phần kinh tế có loại hình sản xuất

17
với quy mô và trình độ công nghệ nhất định, chịu sự chi phối của các quy luật

kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế và cơ chế phân phối thích hợp. Sự tồn tại khách
quan của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng kinh tế mang tính phổ
biến ở các nước và nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ cấu thành phần kinh tế
với tư cách là lực lượng kinh tế có mặt trong cơ cấu ngành và nội bộ ngành,
trong các cơ cấu vùng kinh tế theo lãnh thổ. Sự có mặt về số lượng, chất lượng
và đồng bộ các thành phần kinh tế trong quá trình hình thành và phát triển cơ cấu
kinh tế có tầm quan trọng để biến khả năng của cơ cấu ngành, vùng thành hiện
thực sinh động và hiệu quả. Cái khó chính là ở chỗ cần có chính sách, cơ chế
thích hợp để phát huy mặt hợp tác, thống nhất và đồng bộ của các thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong cả nước và mỗi địa
phương.
1.1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Khi nghiên cứu khái niệm cơ cấu kinh tế, chúng ta xem xét nó ở trạng thái
tĩnh hay trạng thái tương đối ổn định, nhưng khi tiếp cận khái niệm chuyển dịch
cơ cấu kinh tế là nghiên cứu nó ở trạng thái động có tác dụng làm thay đổi cơ
cấu kinh tế theo hướng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy nền kinh tế phát triển [28, tr.47].
Như vậy, cùng với việc tổ chức lao động một cách khoa học và kỹ thuật
công nghệ ngày càng phát triển tất yếu làm cho cơ cấu kinh tế của một xã hội
cũng thay đổi, phát triển đi từ thấp lên cao, đi từ chưa hợp lý đến hợp lý, hiện đại
và hiệu quả theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Với cách đặt vấn đề như
vậy, chúng ta có thể hiểu: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình thay đổi cấu
trúc, tỷ trọng, tốc độ và chất lượng các mối quan hệ kinh tế giữa các ngành, các

18
vùng kinh tế và các thành phần kinh tế nhằm đạt tới một cơ cấu kinh tế hợp lý,
hiện đại và hiệu quả hơn, tạo thế và lực mới cho tăng trưởng và phát triển kinh
tế - xã hội, trong từng giai đoạn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế chịu sự chi phối của
nhiều nhân tố đa dạng và phức tạp, đó là những nhân tố khách quan và chủ quan
sau đây:
1.1.2.1. Nhân tố về địa lý, tự nhiên (khí hậu, đất đai, tài nguyên…).
Các Mác viết: "Bất cứ nền sản xuất xã hội nào cũng là việc con người
chiếm hữu lấy những đối tượng của tự nhiên, trong phạm vi một hình thái xã hội
nhất định" [27, tr.282].
Do sản xuất là "sự chiếm hữu tự nhiên" nên quá trình chiếm hữu đó cũng
luôn luôn chịu ảnh hưởng của chính những điều kiện tự nhiên. Do đó, ảnh hưởng
của địa lý, tự nhiên tới sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một tất
yếu, một nhân tố không thể thiếu được của mỗi nước, mỗi ngành và mỗi địa
phương khi chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
1.1.2.2. Nhân tố về kinh tế, văn hoá, xã hội
Lôgic và lịch sử chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp
hoá đều cho rằng: Khi nền sản xuất xã hội còn ở tình trạng lạc hậu (lực lượng
sản xuất thấp kém, trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật của người lao động chưa
cao) thì cơ cấu kinh tế của xã hội ấy phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện địa lý
tự nhiên. Khi đó những ngành kinh tế dựa vào việc khai thác tài nguyên thiên
nhiên như nông - lâm - ngư nghiệp, khai khoáng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu

19
ngành của nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế ngày càng phát triển trình độ văn
hoá, khoa học kỹ thuật của con người được nâng cao thì sự phụ thuộc đó càng
bớt dần; càng ngày công nghiệp và dịch vụ càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP
của cơ cấu ngành kinh tế quốc dân.
1.1.2.3. Nhân tố về môi trường, thể chế vĩ mô
Nhịp độ và chất lượng chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ chịu ảnh
hưởng của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội mà còn chịu ảnh hưởng của môi
trường thể chế vĩ mô của nhà nước trong từng thời kỳ.

Thực tiễn lịch sử cho thấy chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần có sự ổn định
chính trị - xã hội. Chẳng hạn:
+ Kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga trước đây bị gián đoạn
bởi 3 năm nội chiến (1918 - 1920).
+ Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 1 (1961 - 1965), công nghiệp hoá tiến
hành ở miền Bắc nước ta thực hiện đến năm 1964, Mỹ phong toả vịnh Bắc Bộ
ném bom và ngư lôi Hải Phòng, Quảng Ninh gây chiến tranh phá hoại ở miền
Bắc, công nghiệp hoá lúc này bị gián đoạn do chiến tranh hay chuyển sang làm
công nghiệp hoá theo quan điểm phục vụ chiến tranh là chủ yếu.
+ Một ví dụ khác như chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh trên
tuyến biên giới 6 tỉnh phía Bắc trong đó có Lạng Sơn, những địa phương này
buộc phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho thích ứng với môi trường chiến tranh
và môi trường xã hội trong thời kỳ này.
Rõ ràng môi trường chính trị, xã hội không ổn định khó có thể chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

20
Đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong từng thời
kỳ đều có ảnh hưởng đến sự hình thành, phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Đặc biệt, hệ thống luật pháp chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước có ảnh
hưởng lớn đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Từ Đại hội Đảng VI đến nay,
quan điểm mới, chính sách mới đã tạo ra một bước ngoặt mới cho sự phát triển
kinh tế nói chung và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói riêng. Những quan điểm
này thực sự trở thành nhân tố chính trị và tổ chức tác động rất quan trọng đến
việc hình thành, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta hiện nay. Ví dụ: Việc
chuyển đổi mô hình kinh tế cũ sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa tác động đến việc hình thành phát triển và chuyển dịch cơ cấu
thành phần kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá và
mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Việc ban hành luật đầu tư nước
ngoài năm 1987 và sau một số lần điều chỉnh gần đây đã tác động và mở ra khả

năng to lớn cho việc thu hút và sử dụng FDI thời gian qua ở nước ta. Chủ trương
nhà nước chỉ độc quyền quản lý ngoại thương mà không độc quyền kinh doanh
ngoại thương đã có tác dụng khuyến khích các thành phần kinh tế chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo tinh thần đẩy mạnh sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu và đã
đưa lại những thành tựu to lớn trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở nước ta, mà chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một nội dung cơ bản.
1.1.2.4. Nhân tố quốc tế
Trong điều kiện nền kinh tế khép kín, người ta phải đầu tư phát triển cho
rất nhiều ngành nghề để sản xuất ra tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ nhằm
thoả mãn nhu cầu đa dạng, phong phú của cả sản xuất lẫn tiêu dùng. Cùng với
các nhân tố nội sinh của nền kinh tế, trong thời đại ngày nay, nhân tố bên ngoài

21
có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội nói chung, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nói riêng. Nhân tố bên ngoài bao gồm:
Sự tác động như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện
đại gắn liền với sự chuyển biến từ nền văn minh công nghiệp sang văn minh hậu
công nghiệp phát triển theo hướng kinh tế tri thức. Nhân tố này buộc các nước
trong đó có nước ta phải tính đến trình độ tiến bộ khoa học - công nghệ khi
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cả nước
và từng địa phương.
Sự tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Nhân tố này vừa tạo cơ hội cho các nước đang phát triển về vốn, kỹ thuật công
nghệ hiện đại và kinh nghiệm xây dựng và quản lý một nền công nghiệp hiện đại
và một nền kinh tế thị trường hiện đại rất cần thiết ở nước ta. Tuy nhiên, nó cũng
vừa đặt ra cho các nước đang phát triển những thách thức về các mặt đòi hỏi phải
vượt qua để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong điều kiện nói trên đòi hỏi, cơ cấu kinh tế khi chuyển dịch theo
hướng những ngành có nhiều lợi thế sẽ phát triển nhanh, chiếm tỷ trọng ngày
càng lớn trong nền kinh tế quốc dân. Còn những ngành không có lợi thế, chi phí

sản xuất cao sẽ thu hẹp dần và nhu cầu về sản phẩm của ngành đó sẽ được thoả
mãn bằng con đường nhập khẩu.
Do vậy, mỗi quốc gia cần có quan điểm, chính sách, môi trường, thực lực
để tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và
quốc tế, nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã
hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong cả nước và từng địa phương.

22
Các nhân tố nói trên có quan hệ mật thiết với nhau và đều có tác động đến
việc hình thành, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Việc chú trọng một cách hợp lý các
nhân tố đó sẽ tạo nên những động lực thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá một cách nhanh chóng và có hiệu
quả.
1.2. Tính tất yếu khách quan và nội dung mang tính xu hướng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.2.1. Tính bức xúc của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một nội dung cơ bản của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, do vậy, nhịp độ và chất lượng chuyển dịch cơ cấu kinh tế liên quan
đến chất lượng và nhịp độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là quá trình chuyển
đổi cơ cấu kinh tế lạc hậu, ít hiệu quả sang một cơ cấu ngày càng phù hợp với xu
hướng phát triển của nền sản xuất hiện đại do sự tác động của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội, tăng
trưởng và phát triển kinh tế bền vững, mà ở nước ta là nhằm thực hiện mục tiêu:
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Tính bức xúc của
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá bắt
nguồn từ những vấn đề chủ yếu sau đây:
1.2.1.1.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Cơ cấu nông nghiệp được chuyển dịch và phát triển theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá bảo đảm vững chắc nhu cầu lương thực, thực phẩm cho

23
nhân dân, đáp ứng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, tăng nhanh khối lượng
nông sản xuất khẩu, giải quyết công ăn việc làm tăng thu nhập cho nông dân. Từ
đó, tạo điều kiện mở rộng thị trường cho sản phẩm và dịch vụ công nghiệp: bổ
sung lực lượng lao động cho các ngành công nghiệp nông thôn và dịch vụ nông
nghiệp phát triển sẽ góp phần tích luỹ vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch đúng đắn góp phần khai thác, sử dụng
các nguồn lực, các tiềm năng của đất nước như sức lao động, vốn, kỹ thuật, kinh
nghiệm quản lý của các thành phần kinh tế để phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Ở mỗi vùng, mỗi địa phương, nhịp độ và chất lượng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần trong các ngành kinh tế sẽ cho phép giải phóng lực
lượng sản xuất, khai thác mọi tiềm năng vào việc thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Sự thắng lợi của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp nông thôn sẽ tạo những điều kiện tiền đề cho việc đẩy mạnh và
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong cả nước.
Tạo điều kiện thúc đẩy sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi quy mô, cơ
cấu hàng hoá được sản xuất ra phải mang tính thị trường, phong phú, đa dạng về
chủng loại, yêu cầu đó chỉ có thể đáp ứng tốt nếu sự phân công lao động xã hội
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa phát
triển với nhịp độ nhanh, hiện đại, chất lượng và hiệu quả.

×