ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
VŨ THỊ HOA
PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ Ở HÀ NỘI TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Luận văn thạc sỹ chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Chu Văn Cấp
HÀ NỘI - 2012
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1. CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2. ĐH: Đại học
3. Nxb: Nhà xuất bản
4. TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
5. UBND: Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG, HỘP
Bảng 2.1 Tổng hợp số làng nghề, làng có nghề của thành phố Hà Nội đến năm
2011 phân theo quận huyện, thị xã và ngành nghề sản xuất 36
Bảng 2.2 Số lượng làng nghề thành phố Hà Nội từ 2006 – 2011, phân theo địa
giới hành chính 37
Bảng 2 .3: Làng có nghề và làng nghề trên địa bàn thành phố Hà Nội 2011,
theo nhóm 38
Bảng 2.4: số lượng lao động làng nghề qua các năm 40
Bảng 2.5: Thu nhập bình quân từ ngành nghề của làng nghề và làng có nghề
qua các năm 41
Bảng 2.6 Cơ cấu ngành kinh tế của Hà Nội 42
Bảng 2.7 Giá trị sản xuất của các làng nghề 42
Hộp 2.1: Điểm làng nghề Hà Nội gây ô nhiễm nghiêm trọng 52
Bảng 3.1: Danh sách quy hoạch làng thuần nông thành làng có nghề Thành
phố Hà Nội đến 2030. 66
Bảng 3.2: Quy hoạch các cụm sản xuất tiểu thủ công nghiệp Thành phố Hà Nội
đến 2020 67
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 4
1. Lý do chọn đề tài…………………………………….………………………… 4
2. Tình hình nghiên cứu…………………………………………………………… 5
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………… 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………………… 7
5. Phương pháp nghiên cứu luận văn……………………………………………… 7
6. Đóng góp của luận văn……………………………… …………………………7
7. Kết cấu của luận văn…………………………………………………………… 8
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
LÀNG NGHỀ TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA ,HIỆN ĐẠI
HÓA 9
1.1 Một số lý luận về làng nghề. 9
1.1.1 Khái niệm làng nghề, tiêu chí xác định và các loại làng nghề. 9
1.1.2 Đặc điểm của làng nghề 11
1.1.3 Vai trò của làng nghề trong sự phát triển kinh tế 13
1.2 Xu hướng biến đổi làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa 18
1.3 Kinh nghiệm phát triển làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở một số tỉnh Việt Nam 22
1.3.1 Kinh nghiệm của tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Nam Định………… 21
1.3.1.1 Kinh nghiệm của tỉnh Bắc Ninh 22
1.3.1.2 Kinh nghiệm của tỉnh Nam Định 24
1.3.2 Những bài học kinh nghiệm 26
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ HÀ NỘI GIAI
ĐOẠN 2000 - 2011 29
2.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội liên quan đến sự phát triển
làng nghề 29
2
2.2 Tình hình phát triển làng nghề ở Hà Nội thời gian 2000 – 2011, nhất là
trong các năm 2008 đến 2011 31
2.2.1 Quá trình hình thành, phát triển của làng nghề 31
2.2.2 Toàn cảnh làng nghề ở Hà Nội 35
2.2.3 Những đóng góp của làng nghề vào phát triển kinh tế - xã hội thành
phố 39
2.2.4 Những diễn biến cụ thể của làng nghề Hà Nội 42
2.2.4.1 Sự phát triển về quy mô và giá trị sản xuất của làng nghề 42
2.2.4.2 Trình độ kỹ thuật công nghệ của các làng nghề 43
2.2.4.3 Thị trường tiêu thụ các sản phẩm của làng nghề. 45
2.2.4.4 Vấn đề tổ chức sản xuất và vốn trong các làng nghề 46
2.2.4.5 Vấn đề môi trường của các làng nghề 49
2.2.4.6 Việc bảo tồn nền văn hóa truyền thống của sản phẩm làng nghề
và du lịch làng nghề 53
2.2.4.7 Khái quát: Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế 55
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT
TRIỂN LÀNG NGHỀ Ở HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN 2011 - 2020 60
3.1 Những cơ hội và thách thức, mục tiêu và định hướng phát triển làng
nghề ở Hà Nội 60
3.1.1 Vài nét về cơ hội và thách thức 60
3 1.2 Mục tiêu và định hướng phát triển làng nghề 62
3.2 Những giải pháp chủ yếu 63
3.2.1 Đánh giá và điều chỉnh lại quy hoạch phát triển làng nghề 63
3.2.1.1 Định vị các làng nghề trong quá trình phát triển kinh tế xã hội
cũng như quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thủ đô 63
3.2.1.2 Quy hoạch phát triển làng nghề đặt trong quy hoạch phát triển,
kế hoạch công nghiệp hóa, hiện đại hóa thủ đô 65
3
3.2.2 Xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật cho làng nghề 70
3.2.3 Phát triển làng nghề gắn với phát triển du lịch 72
3.2.4 Đào tạo nguồn nhân lực 73
3.2.5 Mở rộng thị trường và tăng cường năng lực hội nhập quốc tế cho
làng nghề 74
3.2.6 Xây dựng quy chế quản lý môi trường làng nghề 75
3.2.7 Xây dựng một số cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển nghề, làng
nghề 76
3.2.7.1 Hỗ trợ lập dự án đầu tư xây dựng, quản lý và phát triển thương
hiệu 76
3.2.7.2 Cung cấp công nghệ thông tin 77
3.2.7.3 Xúc tiến thương mại 79
3.2.7.4 Hỗ trợ nguồn vốn 80
3.2.7.5 Thực hiện chương trình “Mỗi làng một nghề” 81
3.2.7.6 Hình thành các cụm công nghiệp làng nghề 82
3.2.7 .7 Thành lập hội, hiệp hội làng nghề 83
KẾT LUẬN 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xa xưa, các làng nghề truyền thống luôn gắn bó với cư dần Việt Nam trong
quá trình sản xuất. Sản phẩm của các làng nghề vừa có giá trị kinh tế cao vừa mang
đậm nét bản sắc văn hóa và truyền thống của dân tộc, vừa là cầu nối của quan hệ
giữa dân tộc ta với các dân tộc trên thế giới.
Thành phố Hà Nội mở rộng năm 2008 (Sát nhập tỉnh Hà Tây, một huyện của
tỉnh Vĩnh Phúc và một số xã của tỉnh Hòa Bình) có diện tích tự nhiên 3.348,5km
2
,
dân số là 6,45 triệu người. Trong đó, khu vực nông thôn Hà Nội có diện tích tự
nhiên là 2.841 km
2
, chiếm 84,9% và dân số là 4,07 triệu người chiếm 63,1%
(1)1
.
Đây là địa bàn rộng lớn, có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của
thành phố cả trước mắt và lâu dài.
Hà Nội hiện có 1.350 làng có nghề, chiếm 59% tổng số làng nghề của cả nước
Số làng có nghề và làng nghề tập trung chủ yếu ở một số quận , huyện của tỉnh Hà
Nội với những sản phẩm đặc sắc và được nhiều người ưa chuộng, như: lụa Vạn
Phúc, sơn mài – Duyên thái, tiện gỗ - Nhị Khê, thêu – Quất Động, nón Chuông,
quạt Vác, khảm trai Chuyên Mỹ, hàng mây tre đan Phú Vinh, đồ mộc Chàng Sơn,
Sơn Đồng, may Trạch Xá, đàn Đào Xá, gốm sứ Bát Tràng…
Thực tế cho thấy sự phát triển làng nghề có nghề và làng nghề ở Hà Nội đã góp
phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, giải
quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa thủ đô nói riêng và cả nước nói chung…Tuy vậy, trong quá trình phát triển làng
nghề ở Hà Nội còn bộc lộ một số vấn đề khó khăn, như: thiếu vốn sản xuất, thị
trường tiêu thụ còn hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất,
thu nhập của người lao động còn thấp, việc đào tạo nâng cao tay nghề gặp nhiều
khó khăn. Bên cạnh đó vấn đề xã hội và tình trạng ô nhiễm môi trường đang ảnh
1
: Kỷ yếu hội thảo khoa học: Đẩy nhanh quá trình CNH. HĐH của thủ đô, Nxb ĐH Kinh tế quốc dân,
H.2010, tr401
5
hưởng xấu đến chất lượng cuộc sống dân cư…Chưa đảm bảo được sự phát triển
theo hướng bền vững.
Để làng nghề của tỉnh Hà Nội thực sự đóng vai trò quan trọng thúc đẩy CNH,
HĐH, nông nghiệp, nông thôn vấn đề cần thiết là phải tìm ra các giải pháp nhằm
phát huy tiềm năng, thế mạnh, khắc phục các hạn chế khó khăn trong sự phát triển
của các làng nghề. Vì thế, tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề “Phát triển làng nghề ở
tỉnh Hà Nội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” là hết sức cần thiết và đó
cũng là lý do tác giả chọn vấn đề này làm luận văn thạc sĩ kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Làng nghề và phát triển làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
một trong những vấn đề thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, dưới những góc
độ khác nhau và đã có nhiều công trình được công bố:
- Mai Thế Hởn (2000), “Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng ven thủ đô Hà Nội”, luận án tiến sĩ kinh tế
Học viện Chính trị quốc giá Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Trần Minh Yến (2003), “Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt
Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, bảo vệ tại viện kinh tế
Việt Nam.
- Nguyễn Văn Công (2005), “Vốn cho phát triển làng nghề ở Hà Tây”, luận án
thạc sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Phát triển các làng nghề của Hà Nội, CNH, HĐH, bài viết của phó giáo sư,
tiến sĩ Nguyễn Văn Phúc (ĐH Kinh tế quốc dân), tạp chí dự báo và kinh tế,
số 2 (tháng 1/2011)
- Bài tham luận của TS. Phạm Quốc Sử tại hội thảo “Phát triển bền vững thủ
đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình” về vấn đề “Các làng nghề Hà
Tây trong khung cảnh hội nhập thủ đô”
- Nguyễn Thị Nghĩa (2008), “Phát triển làng nghề Hà Tây trong hội nhập kinh
tế quốc tế”, luận văn thạc sĩ, đại học kinh tế - ĐH Quốc gia Hà Nội.
6
- Phát triển hệ thống các làng nghề nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa nông thôn
Hà Nội, trong kỷ yếu hội thảo khoa học: Đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của thủ đô, Nxb ĐH Kinh tế quốc dân. H.2010
- PGS.TS Nguyễn Văn Phúc: Phát triển các làng nghề của Hà Nội trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kỷ yếu hội thảo khoa học: Đẩy mạnh
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thủ đô, Nxb ĐH Kinh tế Quốc
dân, H.2010
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến các vấn đề:
- Khái niệm làng nghề, những đặc trưng của làng nghề, làng nghề truyền
thống, làng nghề mới
- Xu hướng vận động của làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa
- Sự phát triển làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên
địa bàn cả nước, một số địa phương cụ thể và trong xu thế hội nhập kinh tế
- Đã đề cập đến những thành tựu, khó khăn, hạn chế trong phát triển làng
nghề ở các địa phương cụ thể.
Tuy vậy, hiện vẫn còn ít công trình nghiên cứu về phát triển làng nghề ở thành
phố Hà Nội, đang đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa dưới góc độ
khoa học kinh tế chính trị. Vì thế đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế này vẫn rất cần thiết
và có ý nghĩa thực tiễn quan trọng.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
7.1 Mục đích nghiên cứu
Dựa trên những vấn đề lý luận về làng nghề phát triển làng nghề trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, luận văn đánh giá thực trạng phát triển làng nghề ở
Hà Nội. Trên cơ sở đó đề xuất giải pháp nhằm phát triển làng nghề trong thời gian
tới theo hướng đi bền vững.
7.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý luận về làng nghề, phát triển làng nghề trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
7
- Đánh giá thực trạng phát triển làng nghề ở Hà Nội nhằm xác định rõ thành
tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đang đặt ra cần giải quyết trong
thời gian tới.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển làng nghề trong thời gian
tới năm 2020 theo hướng đi bền vững.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Làng nghề và những xu hướng biến đổi của làng nghề trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Hà Nội, cụ thể là các quận,
huyện có nhiều làng nghề, như: Phú Xuyên, Thường Tín, Chương Mỹ, Ứng
Hòa, Thanh Oai, Ba Vì, Đông Anh, Hà Đông…
- Mốc thời gian để thu thập dữ liệu, đưa vào phân tích tình hình phát triển làng
nghề…từ năm 2000 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu luận văn
- Cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác – Lênin dựa trên cơ sở phương pháp luận đó.
- Luận văn sử dụng phương pháp cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh, mô hình hóa bằng các bảng, khảo sát thực tiễn và kế thừa kết quả
nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố.
6. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ hơn xu thế vận động, phát triển của làng nghề trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Đánh giá một cách khách quan, sát thực tế về phát triển làng nghề của Hà
Nội
- Đề xuất giải pháp nhằm phát triển làng nghề theo hướng bền vững trong giai
đoạn đến năm 2020
8
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục nội
dung luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển làng nghề trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chương 2: Thực trạng phát triển làng nghề tỉnh Hà Nội
Chương 3: Những giải pháp phát triển làng nghề trong thời gian đến năm 2020
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA ,HIỆN ĐẠI HÓA
1.1 Một số lý luận về làng nghề.
1.1.1 Khái niệm làng nghề, tiêu chí xác định và các loại làng nghề.
* Khái niệm làng nghề: Thuật ngữ làng nghề được tạo thành từ hai chủ thể
“Làng” và “Nghề”. Nghề được đề cập ở đây là nghề tiểu thủ công nghiệp được tiến
hành trong phạm vi làng và gắn với làng. Hiểu một cách đơn giản làng nghề là làng
có hoạt động tiểu thủ công nghiệp. Nhưng không phải qui mô của nghề ở bất cứ
mức độ nào thì làng cũng được gọi là làng nghề. Làng được gọi là làng nghề khi các
hoạt động tiểu thủ công nghiệp đủ lớn đến một mức độ nào đó và mang tính ổn
định.
Có rất nhiều quan niệm về làng nghề. Ở thời kỳ đầu khi sản xuất công nghiệp
chỉ ở quy mô gia đình và bị phụ thuộc vào kinh tế tự nhiên V.L. Lênin mô tả: Ở
đây, nghề thủ công với nông nghiệp chỉ là một mà thôi. Theo giáo sư Trần Quốc
Vượng thì làng nghề là làng mà tuy vẫn có trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi
( lợn, gà,…), cũng có một số nghề phụ khác ( đan lát, làm tương, làm đậu phụ,…)
song đã nổi trội nghề cổ truyền tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên
nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường ( cơ cấu, tổ chức ), có ông trùm, ông phó
cả…cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định
“Sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” sống chủ yếu bằng nghề
đó và sản xuất ra những mặt hàng thủ công, những mặt hàng này đã có mỹ nghệ, đã
trở thành sản phẩm hàng hóa và có quan hệ tiếp thị với một thị trường tiến tới mở
rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu nước ngoài. Quan niệm này đúng với mặt hàng
truyền thống nhưng chưa thích hợp với làng nghề mới hoạt động ngày nay.
Quan niệm của TS.Phương Bá Thi: “Làng nghề là làng ở nông thôn có một
(hay một số) nghề thủ công tách hẳn khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập”.
Quan niệm này đưa ra yếu tố tách nghề trong làng khỏi nông nghiệp và kinh doanh.
10
Nhưng thực tế và xu hướng phát triển dưới tác động của quá trình đô thị hóa, có
những làng nghề không còn nằm ở khu vực nông thôn nữa. Đa số người dân trong
làng đó vẫn làm những nghề tiểu thủ công nghiệp và vẫn sống bằng chính nguồn
thu nhập từ nghề đó, nhưng lại nằm trong đô thị, làng trong phố.
Như vậy có thể hiểu: Làng nghề Việt Nam là một thuật ngữ dùng để chỉ các
cộng đồng dân cư, chủ yếu ở các vùng ngoại vi thành phố và nông thông Việt Nam,
có chung truyền thống sản xuất các sản phẩm thủ công cùng chủng loại tại Việt
Nam. Làng nghề thường mang tính tập tục truyền thống đặc sắc, đặc trưng, không
chỉ có tính chất kinh tế mà còn bao gồm cả tính văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc
Làng nghề có thể xem xét dưới nhiều góc độ, với nhiều cách hiểu khác nhau và
cũng như phù hợp với sự phát triển hôm nay. Ta có thể thấy làng nghề là cụm dân
cư sinh sống trong một thôn ( làng ) có một hay một số nghề được tách khỏi nông
nghiệp để sản xuất, kinh doanh độc lập. Thu nhập từ các nghề đó chiếm tỷ trọng
trong giá trị sản phẩm của làng.
* Tiêu chí làng nghề.
Theo quy định hiện hành của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn công nhận
là làng nghề phải đảm bảo ba tiêu chí sau:
- Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề
nông thôn.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính tới thời điểm đề
nghị công nhận.
- Chấp hành tốt chính sách pháp luật của nhà nước.
* Các loại làng nghề
Do đặc tính nông nghiệp và quan hệ làng xã Việt Nam, các ngành nghề thủ công
được lựa chọn và dễ phát triển trong quy mô cá nhân rồi mở rộng thành quy mô gia
đình. Dần dà, các ngành nghề thủ công đươc truyền bởi giữa các gia đình thợ thủ
công, dần được truyền ra lan rộng ra phát triển trong cả làng, hay những làng gần
nhau theo nguyên tắc truyền nghề. Và bởi những lợi ích khác nhau do các nghề thủ
công đem lại mà trong mỗi làng bắt đầu có sự phân hóa. Nghề đem lại lợi ích nhiều
11
thì mạnh dần, ngược lại những nghề mà hiệu quả thấp hay không phù hợp với làng
thì dần dà bị mai một. Từ đó bắt đầu hình thành nên những làng nghề chuyên sâu
vào một nghề duy nhất nào đó. Vì thế có thể chia các loại làng nghề theo tiêu thức:
+ Phân theo số lượng nghề
- Làng một nghề: là làng ngoài nghề nông chỉ có thể thêm một nghề thủ công.
Ví dụ bún (Bặt - Ứng Hòa ), Tăm hương (Quảng Nguyên, Ứng Hòa).
Thường đòi hỏi bí quyết nghề nhưng mang tính “Truyền nghề” nhiều hơn
dạy nghề.
- Làng nhiều nghề: Ngoài nghề nông ra còn có một số nghề hoặc nhiều nghề
khác.
+ Phân loại theo thời gian hình thành
- Làng nghề truyền thống: là những làng xuất hiện từ lâu đời trong lịch sử và
đến ngày nay : thêu (Quất Đông, Thường Tín), Thủ công mỹ nghệ (Sơn
Đồng, Hoài Đức)
- Làng nghề mới: đó là làng xuất hiện trong thời gian gần đây, được phát triển
từ các làng khác du nhập vào địa phương hoặc do chủ trương của Nhà nước
hoặc do nhu cầu cuộc sống phải thay đổi của thị trường mà chuyển sang
nghề mới…(Bình đà, Vác (Thanh Oai))
1.1.2 Đặc điểm của làng nghề
- Hoạt động làng nghề gắn với làng quê và sản xuất nông nghiệp
Các làng nghề xuất hiện trong từng làng – xã ở nông thôn sau đó các ngành
nghề thủ công được tách dần, xuất hiện với tư cách là nghề phụ, việc phụ trong các
gia đình để tăng thêm thu nhập, tạo thêm công ăn việc làm và vì tính thời vụ của sản
xuất nông nghiệp đã tạo ra sự dư thừa lao động trong một thời gian nhất định. Khi
đó ngay trên thị trường xuất hiện các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp phục vụ cho
sinh hoạt sản xuất nông nghiệp. Các làng nghề nông sản, thực phẩm,… lấy nguyên
liệu từ sản phẩm nông nghiệp.
- Làng nghề đa dạng cơ cấu ngành hàng và chủng loại mặt hàng. Khai thác lợi
thế tại chỗ phục vụ cư dân trong vùng và cung cấp nhiều chủng loại cho dân cư các
12
vùng. Ngoài ra còn dùng xuất khẩu như gốm Bát Tràng, mây tre đan, khảm trai
(Phúc Xuyên, ).
- Trình độ sản xuất thủ công là chủ yếu, trình độ sản xuất của làng nghề chủ yếu
thô sơ, nếu có máy móc cũng cũ và tiêu thụ hàng thường qua trung gian, tiêu thụ
hàng thường gặp khó khăn đầu ra.
- Phát triển làng nghề thu hút nguồn lực tiềm tàng trong nông thôn.
Hiện nay lao động nông nghiệp chiếm 60% lao động xã hội và dân số nông thôn
khoảng 70% dân số toàn quốc. Diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, thất
nghiệp nhiều. Sự phát triển làng nghề tạo thêm điều kiện sử dụng lao động nông
nhàn. Thế kỷ XX các làng nghề Đồng bằng sông Hồng thu hút trên 600.000 lao
động nông thôn. Thu hút trong làng và thu hút ngoài làng ví dụ bát tràng (Hà Nội),
thu hút thêm 3000 – 5000 lao động. Theo đánh giá Jica – Nhật Bản Thành phố Hà
Nội có 47 nghề trên tổng số 52 nghề phát triển, hàng chục nhóm ngành nghề đang
phát triển mạnh như: Gốm sứ, dệt, da giày, điêu khắc, sơn mài,…Sự phát triển của
các làng nghề kéo theo sự phát triển và hình thành của nhiều nghề khác, nhiều hoạt
động liên quan xã hội, tạo thêm việc làm, thu hút lao động. Ví dụ nghề chế biến
lương thực thực phẩm không chỉ có tác dụng thúc đẩy nghề trồng các loại cây phục
vụ chế biến phát triển mà còn tạo điều kiện chăn nuôi phát triển và thúc đẩy hoạt
động dịch vụ tín dụng ngân hàng.
- Phát triển làng nghề còn giới thiệu bản sắc văn hóa dân tộc
Sản phẩm sản xuất ra có sự kết hợp giữa sản xuất hàng loạt với những sản xuất
mang bản sắc truyền thống, có tính khác biệt, tính riêng, phong cách của mỗi nghệ
nhân và nét văn hóa đặc trưng địa phương, tồn tại trong sự giao lưu với cộng đồng.
Hãng trạm trổ trên từng chất liệu khác nhau (gỗ,đá, sừng, xương,…), hàng sơn (sơn
quang, đồ chơi, ) mỗi làng nghề đều có bản sắc riêng, từng nghệ nhân cũng có nét
riêng. Những nét riêng đó được thủ thách qua thời gian, qua giao lưu trao đổi được
chọn lọc được thừa nhận để tồn tại và phát triển, cùng với sự bổ sung lẫn nhau, trở
thành những kiểu mẫu hoàn thiện, đặc sắc cho những sản phẩm cùng loại được sản
xuất, chế tác tiếp sau thế hệ bản sắc độc đáo Việt Nam. Chính tính khác biệt mang
13
dấu ấn văn hóa mang lại khả năng cạnh tranh cho sản phẩm làng nghề trong quá
trình phát triển thị trường ra thế giới.
1.1.3 Vai trò của làng nghề trong sự phát triển kinh tế
Thứ nhất: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- Làng nghề đóng vai trò tích cực trong việc gia tăng sản xuất các ngành phi
nông nghiệp (các ngành tiểu thủ công nghiệp, các ngành dịch vụ) cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Góp phần chuyển
lao động từ sản xuất có thu nhập thấp sang ngành nghề phi nông nghiệp có thu nhập
cao hơn. Chuyển đổi tập quán sản xuất từ sản xuất nhỏ mang tính độc canh, tự túc
sang sản xuất hàng hóa với qui mô lớn đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc
tiếp nhận công nghệ sản xuất có trình độ ngày càng cao.
Xét về góc độ phân công lao động thì làng nghề không những cung cấp tư
liệu sản xuất mà còn dịch chuyển cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp như các ngành
nghề chế biến. Tạo điều kiện cho một đội ngũ lao động có điều kiện trình độ tay
nghề cao hơn. Giờ đây khi chuyển dịch sang công nghệ cao tạo ra khối lượng hàng
hóa lớn, chất lượng ngày một cao.
- Sự đa dạng hóa các hình thức kinh doanh trong quá trình phát triển làng
nghề (sự ra đời các doanh nghiệp vừa và nhỏ) và sự liên kết giữa các loại hình sản
xuất để thành những cơ sở doanh nghiệp mạnh ngay trên địa bàn.
Cùng với các nghề thủ công, làng nghề phát triển đã tạo cơ hội cho hoạt động
dịch vụ ở nông thôn mở rộng quy mô và địa bàn hoạt động, thu hút nhiều lao động
sản xuất trong các làng nghề là một quá trình liên tục vì vậy đòi hỏi dịch vụ cung
cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm phải thường xuyên.
Như vậy sự phát triển làng nghề có tác dụng quan trọng đối với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ hai: Phát triển làng nghề giải quyết việc làm.
Sự phát triển của làng nghề thu hút một lượng không nhỏ những lao động
còn dư thừa ở khu vực nông thôn cũng như tạo thêm việc làm và thu nhập cho
người dân lúc nông nhàn. Trong thời điểm hiện nay, khi kinh tế đang bị suy thoái
14
tình trạng nợ công, nợ xấu nhiều, doanh nghiệp phá sản nhiều, người dân thu hẹp
việc chi tiêu thì nhu cầu việc làm của người dân là gánh nặng không chỉ với khu vực
mà là nguy cơ dẫn đến tệ nạn xã hội. Chưa kể một số người có việc làm trong mùa
vụ, còn nhiều thời gian rảnh rỗi. Diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp nên
tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm có nguy cơ gia tăng, đời sống người dân còn
nhiều khó khăn (Hiện nay là nông nghiệp chiếm gần 60% lao động xã hội và dân số
nông thôn khoảng 70% dân số toàn quốc). Sự phát triển của làng nghề tạo thêm điều
kiện sử dụng lao động nông nhàn ở nông thôn (hiện nay ở nước ta có khoảng 18%
thời gian lao động của người sản xuất nông nghiệp bị rỗi việc do sản xuất nông
nghiệp thời vụ). Nghề của làng sẽ sử dụng được lao động người già, trẻ em tăng thu
nhập của người dân.
Hiện nay có khoảng 60 - 69% giá thành sản phẩm tiểu thủ công nghiệp trong
làng nghề là chi phí lao động sống, nên việc phát triển làng nghề là phù hợp với yêu
cầu giải quyết việc làm dư thừa ở nông thôn. Ví dụ tỉnh Nam Định các làng nghề
thu hút 108.680 lao động thu nhập bình quân từ 650.000 – 860.000
đồng/người/tháng. Hải Dương, các làng nghề thu hút khoảng 80.000 lao động,
chiếm trên 8% số lao động xã hội trong tỉnh, thu nhập bình quân của người lao động
từ 400.000 – 700.000 đồng/tháng. Có cơ sở thu nhập của người lao động từ
1000.000 – 3000.000 đồng/tháng
- Đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
là động lực lớn phát triển các làng nghề. Theo thống kê có gần 1500 làng nghề và
tạo ra 11 triệu việc làm thường xuyên và không thường xuyên.
=> Hiện nay Đảng và Nhà nước đang chú trọng và việc phát triển du lịch làng nghề,
giới thiệu sản phẩm, và tăng thu nhập từ loại hình dịch vụ làng nghề. Ngoài ra còn
muốn giới thiệu bản sắc với dân tộc. Vì vậy kéo theo sự phát triển các dịch vụ liên
quan tạo thêm nhiều việc làm mới, thu hút nhiều lao động.
Thứ ba: Tăng thu nhập, thu hẹp mức sống giữa thành thị và nông thôn
Phát triển làng nghề góp phần tăng thu nhập của người dân đồng thời tạo ra
nguồn tích lũy khá lớn và ổn định cho ngân sách địa phương cũng như các hộ gia
15
đình. Vì vậy nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn được huy động từ sự
đóng góp của người dân tại địa phương này khác hẳn với các địa phương không có
nghề.
Các làng nghề vùng đồng bằng sông Hồng gần như 100% đường làng, ngõ
xóm được bê tông, được lát gạch, có trường học các cấp đều khang trang, hệ thống
điện, nước được cải tạo nâng cấp. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân được
cải thiện, sức mua tăng lên tạo thị trường tốt, thu hẹp được khoảng cách giữa thành
thị và nông thôn.
Phát triển làng nghề là cơ hội cho người nông dân tăng thu nhập của nguồn
thu hai cách: Hoặc là tham gia vào làng nghề và nhận thu nhập do ngành nghề đem
lại hoặc tham gia hoạt động dịch vụ phục vụ cho làng nghề và nhận thu nhập từ hoạt
động đó. Các dịch vụ phát sinh phục vụ cho sản xuất làng nghề cũng rất phong phú,
có thể là dịch vụ cung ứng nguyên vật liệu, công cụ sản xuất, dịch vụ chuyên khâu
hỗ trợ sản xuất, dịch vụ tiêu thụ.
Đối với các làng nghề thu nhập từ phi nông nghiệp đặc biệt là lao động từ làng nghề
ngày càng trở nên quan trọng. Bởi thu nhập tăng lao động sản xuất cơ sở cho các
đơn vị sản xuất đầu tư nâng cấp các loại máy móc, nâng cấp yếu tố đầu vào, năng
suất, sản lượng sản xuất kéo gần khoảng cách giữa nông thôn và thành thị.
Đây là mục tiêu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nông nghiệp
nông thôn mà nước ta đã đề ra.
Thứ tư: Phát triển làng nghề để phát huy nội lực địa phương, thu hút vốn
đầu tư
Đối với các làng nghề kinh doanh chủ yếu là các hộ gia đình hay các cơ sở
doanh nghiệp chưa lớn, các cá thể tiểu chủ nên vốn đầu tư chưa lớn. Bên cạnh đó
các địa phương làng nghề có ưu thế về nguồn nhân lực, không những lao động có
sức khỏe còn cả lao động kỹ thuật cao như các nghệ nhân, người thợ thủ công và
những chủ cơ sở sản xuất kinh doanh. Thực tế khả năng cạnh tranh của nhiều sản
phẩm có thể đưa ra thị trường như tơ lụa, dệt thổ cẩm, rèm, sản xuất gạch ngói, mộc
dân dụng. Điều này nhờ vào bàn tay tài hoa của nghệ nhân và kinh nghiệm từ lâu
16
đời. Mỗi làng nghề thường có những thợ cả, nghệ nhân bậc thầy. Họ có vai trò trong
việc giữ nghề và truyền nghề. Tuy nhiên số người giỏi nghề ngày một ít. Đây là một
tiền năng để thu hút vốn đầu tư. Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước đang
chú trọng việc đầu tư cơ sở hạ tầng, nhà xưởng đầu ra của sản phẩm tạo ra sức
mạnh hàng hóa tại các làng nghề.
Nghề thủ công cho phép khai thác triệt để hơn các nguồn lực ở địa phương
cụ thể là nguồn lao động, tiền vốn. Làng nghề có qui mô nhỏ nên dễ dàng thay đổi
chuyển hướng kinh doanh phù hợp nên phát triển làng nghề có lợi thế trong việc
huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư cho sản xuất.
Mặt khác làng nghề phát triển còn tập trung thu hút được thợ thủ công có tay nghề
kinh nghiệm lâu năm về làm nghề, tận dụng lớp lao động trẻ để đào tạo chính quy
để có tay nghề chuyên nghiệp.
Thứ năm: Phát triển làng nghề góp phần phát triển du lịch
Việt Nam có rất nhiều danh lam thắng cảnh đang thu hút hàng vạn du khách
trong và ngoài nước và hình thức du lịch đang hấp dẫn du khách. Tiêu biểu một số
làng nghề nổi tiếng khảm trai (Chuyên Mỹ - Phúc Xuyên), Bát Tràng, Vạn Phúc,
Bản Lác (Hòa Bình), Hội An, Đông Hồ (Bắc Ninh)
Hiện tại rất nhiều làng nghề đã thực hiện thành công mô hình du lịch kết hợp các
tua du lịch được sắp xếp làng nghề thành điểm du lịch Sơn Đồng – Phú Vinh –
Chuyên Mỹ hay Bát Tràng, Cổ Loa.
Có nhiều làng nghề du lịch trở thành hoạt động chính còn nghề truyền thống
đóng vai trò phục vụ cho du khách. Ở Hội An người dân lập xưởng nghề thủ công
như thêu thùa, chạm khắc, dệt thổ cẩm, dệt lụa, dệt chiếu, may đo theo yêu cầu của
khách. Khách đến xem thợ làm đồ thủ công rồi mua những thứ mà họ thích. Du lịch
tại các làng nghề vừa đem lại doanh thu, vừa quảng bá được sản phẩm, vừa đem lại
thu nhập cho ngân sách của tỉnh, vừa góp phần thúc đẩy sự phát triển của du lịch địa
phương.
Làng nghề có thể xuất khẩu tại chỗ các sản phẩm thông qua hoạt động du
lịch và mang lại hiệu quả cho kinh tế cao hơn. Nhưng số lượng đạt được điều trên
17
chưa nhiều. Để phát huy được phải có chiến lược và phát triển đồng bộ có sự kết
hợp chặt chẽ giữa tự nhiên với khoa học công nghệ và quá trình nhận thức của
người làm nghề. Nhiều làng nghề khi qui hoạch đã bỏ qua thế mạnh với du lịch và
một số nơi nếu có chỉ là hình thức. Hầu như còn mang tính tự phát, chưa có sự phối
hợp giữa các ngành liên quan. Người dân còn mơ hồ về yếu tố làm vừa lòng khách
hàng. Chưa chủ động, chưa có lớp đào tạo du lịch làng nghề cho người dân.
Thứ sáu: Phát triển làng nghề góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa truyền
thống.
Khai thác được tiềm năng cũng như phát huy được lợi thế nhờ quy mô ở từng
vùng, từng địa phương góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước nói chung và công ngiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn nói
riêng.
Làng nghề không chỉ là nơi sản xuất ra hàng hóa mà còn chứa đựng những
tiềm ẩn giá trị với tinh thần, truyền thống văn hóa của dân tộc được lưu truyền bao
đời nay. Ngày nay xu thế hội nhập kinh tế quốc tế thì việc phát triển làng nghề còn
là cơ sở để tổ chức du lịch làng nghề thu lợi nhuận cao còn có khả năng thu hút
đông đảo du khách tìm hiểu, chiêm ngưỡng những nét văn hóa, những sản phẩm
truyền thống của dân tộc.
Chúng ta xác định làng nghề là một bộ phận kinh tế văn hóa, xã hội quan
trọng, là mô hình phát triển kinh tế, làng nghề nhất là các làng nghề truyền thống
mang rõ nét các yếu tố văn hóa, xã hội. Do đó phục hồi và phát triển là nhu cầu tất
yếu vì quá trình đô thị hóa có một số làng nghề dần mai một, thậm chí mất đi nhưng
các di sản làng nghề vẫn còn tồn tại. Bảo tồn làng nghề và các sản phẩm làng nghề
là công cụ để quảng bá hình ảnh văn hóa truyền thống Việt Nam ra thế giới. Hàng
triệu sản phẩm làng nghề xuất khẩu ra thế giới không chỉ có ý nghĩa thu ngoại tệ
cho đất nước mà còn giới thiệu trực tiếp với quốc tế những nét văn hóa, sự tinh xảo,
truyền thống dân tộc, kích thích sự khám phá của thế giới về Việt Nam.
18
Thứ bảy: Phát triển làng nghề nông thôn là động lực xây dựng nông thôn
mới
Một trong những mục tiêu của Chương trình Quốc gia xây dựng nông thôn mới
là: Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại,
cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý; gắn nông nghiệp với phát
triển công nghiệp và dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch.
Chính vì thế, việc phát triển làng nghề nông thôn hiện nay là khâu quan trọng nhằm
từng bước cải thiện và nâng cao bộ luật kinh tế vùng nông thôn. Phát triển các làng
nghề ở nông thôn là một trong những “động lực” thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông thôn, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đạt các tiêu chí xây
dựng nông thôn mới.[20]
1.2 Xu hướng biến đổi làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa
- Làng nghề truyền thống Việt Nam đã có từ hàng trăm năm, gắn liền với bản
sắc với dân tộc và góp phần tăng trưởng kinh tế xã hội. Cùng với những thay đổi
tích cực để thích nghi trong giai đoạn hội nhập của đất nước với nền kinh tế thế
giới, các làng nghề cũng phải đối mặt với nhiều thách thức trong đó vấn đề phát
triển làng nghề theo hướng bền vững.
Theo thống kê của Hiệp Hội làng nghề Việt Nam, hiện nay nước ta có 2790
làng nghề thu hút khoảng 30 triệu lao động nông thôn phân bố chủ yếu ở Đồng
bằng song Hồng (chiếm khoảng 60%), Miền Trung (khoảng 30%), Miền Nam
(khoảng 10%). Sự phát triển làng nghề đang góp phần đáng kể trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ở địa phương. Tại nhiều làng nghề, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch
vụ đạt từ 60 – 80% còn ngành nông nghiệp chỉ đạt 20 – 40%. Trong những năm gần
đây, số hộ và cơ sở ngành nghề ở nông thôn đang tăng lên với tốc độ bình quân từ
8,8 - 9,8%/năm, kim ngạch xuất khẩu từ các làng cũng không ngừng tăng lên. Làng
nghề thực sự đóng vai trò quan trọng đối với việc xóa đói giảm nghèo, trực tiếp giải
quyết việc làm cho người lao động trong lúc nông nhàn, góp phần tăng thu nhập,
19
nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động. Trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, các làng nghề có nhiều thay đổi, vừa có những
thuận lợi vừa có những thách thức, đồng thời có những sự biến đổi cho phù hợp với
“môi trường” kinh tế thị trường.
(1) Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và Hội nhập quốc tế, các
làng nghề và các làng nghề truyền thống có những cơ hội và khả năng phát triển
khác nhau. Một số nghề (và kéo theo nó là một số làng nghề, làng có nghề) có điều
kiện phát triển và phát triển khá mạnh trong những năm vừa qua, như: Gốm sứ Bình
Dương, Bát Tràng, Chu Đậu, Phù Lãng, Gò Công, cơ khí Ý Yên, mây tre đan Củ
Chi, chạm bạc Đồng Xâm, Đại Bản, đá nũng nghệ Non nước. Bên cạnh đó; thì một
số làng nghề đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức nhất là những làng nghề
gắn với các sản phẩm không còn phù hợp với nhu cầu tiêu dùng hiện đại. Qua khảo
sát, nghiên cứu cho thấy như: Nghề làm nón (Làng Chuông. Huyện Thanh Oai, Hà
Nội); Nghề làm giấy dó, mây tre đan (Phú Vinh Chương Mỹ, Hà Nội); Nghề sản
xuất sản phẩm tre – trúc (Thu Hồng, Sóc Sơn, Hà Nội); Nghề vẽ tranh Đông Hồ;
tỉnh Bắc Ninh…Hoặc một số làng nghề truyền thống sản xuất các sản phẩm thuộc
danh mục sản phẩm cấm sản xuất, ví như nghề làm pháo ở Bình Đà, huyện Thanh
Oai, Hà Nội [22, tr. 419]
(2) Trong quá trình phát triển, các làng nghề ở Việt Nam nói chung, ở Hà
Nội nói riêng, từng có thời kỳ suy thoái mạnh, thậm chí nghề truyền thống có một
số làng đã bị mất hẳn, người thợ phải chuyển sang nghề khác hoặc phải sống dựa
vào sản xuất nông nghiệp. Tìm hiểu nguyên nhân sâu sa thì bản chất của các khó
khăn không phải nằm ở các nghề, mà là ở các sản phẩm mà nghề đó tạo ra thị
trường không còn nhu cầu về chúng nữa. Như vậy, vấn đề chính là khả năng nắm
bắt sự thay đổi nhu cầu của thị trường và khả năng cải tiến, đổi mới sản phẩm
truyền thống đáp ứng nhu cầu mới nảy sinh của khách hàng truyền thống, hoặc khả
năng tìm kiếm thị trường, khách hàng mới cho các sản phẩm của mình.
Qua khảo sát ở một số huyện của tỉnh Hà Tây cũ có thể nêu ra 2 ví dụ điển hình:
20
- Trường hợp làng nghề Quạt (Làng Chàng Sơn, Thạch Thất) sản phẩm
truyền thống của làng là các loại quạt nan, bằng tay với công dụng truyền thống là
quạt mát bằng tay. Khi các loại quạt điện và máy điều hòa không khí được sử dụng
rộng rãi thì nhu cầu về sản phẩm quạt nan, quạt giấy cũng giảm dần. Trong bối cảnh
đó, dân làng nghề đã phải chuyển hướng sang làm quạt mỹ nghệ, quạt trang trí, quạt
tranh…Nhờ vậy, mà nghề và làng nghề không những được duy trì mà còn có sự
phát triển. [22, tr. 419]
- Trường hợp nghề mây tre đan ở Phú Vinh, huyện Chương Mỹ, sau nhiều
năm khó khăn, sản xuất giảm sút, hiện nay đã khá nhiều doanh nghiệp được thành
lập ở đây sản xuất kinh doanh mây tre đan, nhưng không còn sản phẩm truyền
thống, mà hầu hết là sản phẩm mói phù hợp với nhu cầu sử dụng của khách hàng,
như: các loại khay, đĩa, bàn, ghế, cặp, chao đèn…Với mẫu mã đa dạng, phong phú,
hợp thời trang và thiết kế nhà ở hiện đại. [22, tr. 419]
(3) Một xu hướng đáng chú ý là nhiều làng nghề đã gắn sản xuất ngành nghề với
các hoạt động du lịch, mà kết quả là gia tăng được giá trị doanh thu từ dịch vụ và
thương mại cùng với tiêu thụ tại chỗ sản phẩm của làng nghề. Qua khảo sát một số
huyện của Hà Nội, cho thấy hiện có 11 làng nghề truyền thống đã gắn được hoạt
động sản xuất kinh doanh nghề trên sản phẩm truyền thống của mình với các dịch
vụ du lịch, đưa làng nghề của mình thành một điểm đến ổn định trong các tour du
lịch, thu hút nhiều khách trong và ngoài nước.
Các làng nghề gắn với hoạt động du lịch thường có điểm chung là nằm theo trục
giao thông cả đường bộ, đường thủy. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển
làng nghề gắn với các dịch vụ du lịch, các điểm du lịch: như Chùa Hương, Chùa
Đậu, đền thờ Hai Bà Trưng, Đền Gióng, Bát Tràng và các điểm du lịch sinh thái ở
Ba Vì. [22, tr. 419]
Theo cục công nghiệp địa phương ở tỉnh Bình Định có 5 làng nghề truyền thống
được quy hoạch gắn với phát triển du lịch, như: Làng nghề rượu Bầu Đá xã Nhơn
Lộc, làng nghề tiện gỗ Mỹ nghệ Nhạn Tháp, xã Nhơn Hậu, làng nghề ren hay nghề
21
nón Phú Gia, xã Cát Tường, huyện Phù Cát; làng nghề dệt thổ cẩm Hà Rui xã Vinh
Hiệp, huyện Vĩnh Thạch [8]
(4) Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, cũng như quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, quy luật có tính tất yếu là sản xuất tiểu, thủ công nghiệp được
chuyển dần thành sản xuất công nghiệp hiện đại, các làng nghề sẽ chuyển hóa thành
các đô thị hay các trung tâm công nghiệp ở những hình thức, quy mô và phạm vi
khác nhau theo tốc độ khác nhau. Do vậy, chắc chăn sẽ có những làng nghề, tới một
thời điểm nào đó, không còn là làng nghề nữa, và nghề thủ công của họ không còn
là thủ công nữa, mặc dù tính chất truyền thống vẫn còn ở những mức độ khác nhau.
Hai hướng chuyển hóa này đã xuất hiện trong thực tế:
Thứ nhất: Sự mở rộng các xưởng thủ công cá thể thành các xưởng bán cơ khí,
cơ khí, thậm chí đã có những dây truyền tự động hóa hoặc bán tự động. Ví như,
nghề làm giấy của Bắc Ninh, xí nghiệp giấy Hợp Tiến đã mở rộng quy mô, hiện đại
hóa dây chuyền sản xuất giấy được lắp ráp và nhận thiết bị từ Đức, Trung Quốc,
Nhật Bản trị giá gần 100 tỷ đồng; sử dụng công nghệ tiên tiến đáp ứng nhu cầu của
thị trường, từ loại giấy dó, giấy viết truyền thống phát triển them giấy in các loại,
bao bì, giấy ka-ráp, đúp – ních…Sự biến động của các làng nghề Hương Canh,
Vĩnh Phúc và Bát Tràng, Hà Nội trước đây cũng cho thấy không những các làng
nghề này không “chết” đi vì tìm được cho mình “lối thoát” nhờ đổi mới công nghệ,
sử dụng nhiên liệu không gây ô nhiễm. Qua đó, các cơ sở này đã chú ý đổi mới sản
phẩm, đã đổi mới thành công sản phẩm của mình, thậm chí đã nâng cao được khả
năng cạnh tranh của một số sản phẩm.
“Sự hình thành mô hình sản xuất công xưởng” có thể xem như một điển hình
diễn ra nhiều năm nay ở làng Dệt La Phù, một số cơ sở sản xuất tương tự (chưa
nhiều và phổ biến như La Phù) cũng đã xuất hiện ở Sơn Đồng, Vân Hà, Phú
Xuyên…[22, tr. 419]
Thứ hai: Các hoạt động sản xuất mở rộng quy mô đã được hiện đại hóa, được
tách ra khỏi khu dân cư và hình thành các cụm công nghiệp làng nghề. Hình thức
này xuất hiện đầu tiên ở Đa Hội, Bắc Ninh vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX và
22
nhanh chóng lan tỏa sang các địa phương khác ở Hà Nội, và trở thành phổ biến hiện
nay.
Theo số liệu của Sở Công nghiệp Hà Tây trước đây, khi chưa sát nhập vào Hà
Nội, tỉnh đã quy hoạch xây dựng gồm 200 cụm công nghiệp nhỏ và cụm công
nghiệp làng nghề. Theo Cổng Thông tin điện tử của Sở Công nghiệp Hà Nội, hiện
nay Hà Nội có gần 300 cụm công nghiệp và các điểm công nghiệp làng nghề, bao
gồm 49 cụm công nghiệp, 117 điểm công nghiệp, 114 điểm công nghiệp làng nghề.
Một số khá lớn cụm, điểm này hiện đã đi vào hoạt động, số còn lại chưa được khởi
công xây dựng. [22, tr. 419]
1.3 Kinh nghiệm phát triển làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở một số tỉnh Việt Nam
1.3.1 Kinh nghiệm của tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Nam Định
Sở dĩ tác giả luận văn chọn tỉnh Bắc Ninh và Nam Định để nghiên cứu kinh
ngiệm là vì: Tỉnh Bắc Ninh, Tỉnh Nam Định cũng như Hà Nội các huyện ngoại
thành Hà Nội đầu năm trong vùng Đồng bằng sông Hồng, có những điều kiện tự
nhiên gần tương đồng với Hà Nội (Các huyện của Hà Nội); Ở các tỉnh này cũng có
có nhiều làng nghề (tỉnh Bắc Ninh 62 làng nghề, tỉnh Nam Định 90 làng nghề) sản
xuất nhiều sản phẩm tương tự như sản phẩm của các làng nghề Hà Nội, và trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa các làng nghề ở 2 tỉnh này cũng có những
bước “thăng trầm” như các làng nghề của Hà Nội.
1.3.1.1 Kinh nghiệm của tỉnh Bắc Ninh [ 6; 5 ]
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ, phía Bắc giáp với Bắc Giang,
phía Đông và Đông Nam giáp Hải Dương, phía Tây và Tây Nam giáp thủ đô Hà
Nội và một phần giáp với Hưng Yên. Bắc Ninh là một tỉnh có vị trí thuận lợi cho
phát triển kinh tế nói chung và làng nghề nói riêng: nằm sát với thủ đô Hà Nội, tam
giác kinh tế trọng điểm Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh. Nơi đây có làng nghề
phát triển và tồn tại từ lâu đời. Phân bổ rộng khắp trên địa bàn toàn tỉnh. Các sản
phẩm làm ra phong phú, đa dạng, nhiều mặt hàng phục vụ nhu cầu tiêu dùng nhân
dân như: Bún, bánh, sắt, thép, đồng, giấy, đồ gỗ mỹ nghệ. Một số mặt xuất khẩu ra