Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Báo cáo Thể tài du ký nửa đầu thế kỷ XX và đôi điều về bài học quản lý, kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.71 KB, 19 trang )


185
TRAVELERS’ NOTE IN THE HALF OF 20
TH
CENTURY
AND THE LINK WITH BUSINESS MANAGEMENT

Travelers’ note is one kind of literature works related to the need of travelling.
This rapidly developed in the half of 20
th
century. Through the analysis of Travelers’
notes during this period, the author withdrew experience related to the business
management and organization in the tourism sector.


THỂ TÀI DU KÝ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
VÀ ĐÔI ĐIỀU VỀ BÀI HỌC QUẢN LÝ, KINH DOANH

Nguyễn Hữu Sơn
1


1. Khi nói đến “thể tài du ký” cần nhấn mạnh hơn ở phía đề tài, phía nội dung
và cảm hứng nghệ thuật người viết, chứ không phải ở phía thể loại. Thu hút vào địa
hạt du ký có các sáng tác chủ yếu bằng bài văn xuôi theo phong cách ký, ký sự, ghi
chép, hồi ức về các chuyến du ngoạn, các điểm du lịch, di tích lịch sử, danh lam thắng
cảnh và còn liên quan tới nhiều phương diện văn hóa học, xã hội học, dân tộc học khác
nữa… Tuy nhiên, trên thực tế, các tác phẩm du ký thường có sự đan xen, giao thoa
giữa những quan sát, thưởng ngoạn trực tiếp với những phác thảo, tổng thuật, tường
thuật về các nhân vật, sự kiện lịch sử có liên quan; thường có cả những ghi chép với
những đoạn trữ tình ngoại đề, có cả văn xuôi và thơ ca, cả cảm xúc, hồi ức, kỷ niệm và


những liên hệ, so sánh với các điểm di tích và các vùng miền văn hóa khác
(1)
… Cùng
với quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc nửa đầu thế kỷ XX, thể tài du ký cũng
ngày càng phát triển. Điều khác biệt so với nhiều thể tài và thể loại văn học khác là du
ký thường gắn với nhu cầu xê dịch ĐI và XEM, gắn với các chuyến du ngoạn, du lịch
và nghiêng hẳn về phía vị nghệ thuật, góp phần thỏa mãn nhu cầu giải trí, ham hiểu

1
TS, Viện Văn học

186
biết, ham chơi, ham vui của những người thuộc tầng lớp trên, nói chung là có của ăn
của để. Đọc qua các tác phẩm du ký nửa đầu thế kỷ XX có thể thấy được phần nào
cách thức tổ chức, quản lý, kinh doanh của ngành “công nghiệp không khói” đang dần
định hình và phát triển.
2. Liên quan đến vấn đề tổ chức, kinh doanh và hoạt động du lịch nói chung hồi
đầu thế kỷ có thể tìm hiểu trên ba phương diện chính: Tính mục đích của chủ thể các
chuyến du ngoạn – Cách thức tổ chức, quản lý, kinh doanh và những điều quan sát –
Kết quả và những đánh giá của chủ thể du khách.
2.1. Trên thực tế, các chuyến dã ngoại - du ngoạn - du lịch hồi đầu thế kỷ chưa
có tính tổ chức và tính mục đích cao, chủ yếu xuất phát từ một cá nhân, một nhóm
người kết hợp công việc sự vụ với việc thăm thú các di tích lịch sử, nơi danh lam
thắng cảnh và khám phá những vùng đất mới.
Trong vòng mấy năm, khi đã bước sang tuổi bốn mươi, nhà báo Tùng Vân
Nguyễn Đôn Phục (1878-1954) có liền bốn bài du ký viết về các chuyến du ngoạn đến
các điểm di tích lịch sử và danh thắng vùng ngoại thành Hà Nội. Bài du ký thứ nhất
nhan đề Du Ngọc Tân ký viết về bến Ngọc Tân (nay thuộc xã Đông Ngạc, huyện Từ
Liêm, ngoại thành Hà Nội). Ở đoạn mở đầu, ký giả ghi lại cảm xúc trên đường đi qua
vùng Hồ Tây: “Ba giờ chiều ngày 30 tháng Mạnh Xuân năm Nhâm Tuất (1922), Tùng

Vân cùng với năm ba người bạn thân hữu, tự thành Thăng Long lên chơi bến Ngạc, sự
gì đâu, là ngẫu nhiên vô sự mà xui nên một cuộc du xuân vậy”
(2)
… Bài du ký thứ hai
có nhan đề Du Tử Trầm sơn ký, Nguyễn Đôn Phục viết về chuyến thăm chùa Trầm và
núi Tử Trầm (nay thuộc xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, ngoại thành Hà Nội):
“Năm Khải Định thứ bảy, đầu năm Nhâm Tuất (1922), tháng mộ Xuân, sau tiết Thanh
minh, được buổi êm trời, chợt có người thân hữu lại rủ đi chơi núi Tử Trầm. Chao ôi!
Núi Tử Trầm kia có xa gì đâu, nhà ta ở đối với núi Tử Trầm chỉ cách một cánh bãi,
một con sông, một phía đồng, khi sớm ngày trở dậy mở cửa, trông ra phía tây nam, đã
thấy sơn sắc mông lung ở đó; mà hang Tử Trầm kia, cũng vưỡn là cái hang ta mấy
năm về trước ra vào thăm chơi; song ta cũng nhân vui lòng với thân hữu, mà miễn
cưỡng sắp cuốc sắp xe”
(3)
… Tác phẩm du ký thứ ba có tên Bài ký chơi Cổ Loa, Tùng
Vân viết về một điểm di tích tối cổ ở ngoại thành Hà Nội. Trong cảm hứng du ngoạn
“cái mục đích chỉ ở yêu mến lịch sử đấy mà thôi”, “đại khái là vì đường lịch sử mà đi

187
chơi” vào đúng ngày trung thu và thể hiện tình nghĩa giữa những người làm báo Hà
Nội – Sài Gòn, ký giả nêu rõ nguồn cơn:
“Người đi chơi cũng có lắm hạng, mà cuộc đi chơi cũng lắm đường… Như
ngày rằm tháng tám năm Khải Định thứ chín, lịch Tây năm 1924 vừa rồi, tôi với ông
Phạm Quỳnh, ông Nguyễn Hữu Tiến, ông Nguyễn Háo Vĩnh, ông Phạm Văn Duyệt,
cùng nhau đi chơi Cổ Loa thành, há vị gì đâu, cũng là vì chút cảm tình với lịch sử mà
đi chơi vậy.
Cuộc đi chơi này, đã là cuộc đi chơi về lịch sử, thì cái lịch sử Loa thành này thế
nào, chắc là phải có một đoạn sử bút khá dài, khá kì dị, khá ai oán, khá lâm ly, kí giả
cũng không dám ngại phiền, xin tả rõ ra đây, để những khách hữu tình trong bạn đồng
bang ta, cùng xem mà cùng cảm”

(4)

Bài du ký thứ tư có tên Cuộc đi chơi Sài Sơn, Tùng Vân nối tiếp Lê Đình Thắng
(người đã viết Bài ký chơi chùa Thầy) lại có thêm chuyến đi mới với những điểm quan
sát mới, cách cảm nhận mới:
«Năm lịch năm Khải Định thứ mười (1925), ngày mồng sáu tháng Ba, ký giả
với các ngài thân hữu tự Hà Nội qua cầu Hát Giang và huyện Thạch Thất, về phủ
Quốc Uy, lên núi Sài Sơn; đó là một cuộc hào hứng đi chơi trong buổi nhàn hạ
Núi Sài nguy nga khởi lên, ngọn cao cùng ngọn thấp, liên lạc với nhau, kể có
sáu bảy ngọn. Đại khái chia ra có ba mặt. Một mặt giáp ngay ở phía chùa, thì có đường
đi lên chợ trời và vào hang Thánh Hóa. Một mặt ở về cuối làng Đa Phúc, thì lưng
chừng núi có hang Cắc Cớ. Một mặt ở về đầu làng Thụy Khuê, thì trên núi có chùa
một mái, có hang bụt mọc, có đỗng gió lùa. Núi Sài có nhiều phong cảnh lạ, người thì
thích chỗ nọ, người thì thích chỗ kia. Khi lên núi, anh em đều tùy ý tự do. Ký giả mới
bắt đầu tìm đường đi lên chợ trời.
Chao ôi! Mình nguyên vẫn là một phái ít tiền mà nhiều sự muốn. Bấy lâu dìu
dặt ở trong cuộc đời, muốn mua danh không đủ tiền mà mua, muốn chuộc lợi cũng
không đủ tiền mà chuộc. Âu cũng muốn lên trời một chút, để ngó xem cái đường danh
lợi ở trên đó ra làm sao. Cho nên bấy lâu nghe cái tiếng «chợ trời», chẳng biết có quả
là trời, quả là chợ đấy hay không, nhưng lòng mình vẫn sẵn lòng hăm hở. Khi đó lóp
ngóp mà trèo lên »
(5)


188
Đến Nguyễn Tiến Lãng trong du ký Lại tới thần kinh đã nói rõ mình tới Huế
đây là lần thứ tư với công việc làm báo. Cùng với những đoạn tả cảnh, tả việc, tả
người xứ Huế thì vẫn canh cánh trong ông những nhớ thương một thủa, bảng lảng như
mất như còn, bâng khuâng thảng thốt: "Huế, cái tỉnh thật đúng với tên gọi là HUÊ, cái
đất khiến cho người phải yêu mê yêu mệt! Xưa kia được thấy Huế, đó là một điều

mong ước cần nhất, quí nhất của khách này Cùng em gặp gỡ, Huế ơi, lần đầu kể tới
nay đã được bốn năm trời. Vì em, ta lúc ấy còn là học trò ban Triết học trường Allbert
Sarraut, bỏ cả học hành luôn mấy buổi; một thầy giáo cũ ở bên trường Bảo hộ, ông
Foulon, cùng ta làm bạn tìm em Cùng em gặp gỡ, Huế ơi, lần thứ hai Thần kinh
điểm nét mưa xuân, ta thăm vườn Tĩnh Tâm, thăm cung điện, miếu đền, ta mến cái
phong cảnh trong thành và những khắc giờ im lặng, cái thú vị sông Hương cùng các
hương thơm của sông Hương. Nhưng bao nhiêu cái đó ta cũng chỉ nếm biết một ly mà
thôi; dạ chưa thoả, đã lại phải xa em, xa em mà trong lòng còn tiếc bao nhiêu tình cảm
chưa được hưởng Ngày ngày, tháng tháng, năm năm, thấm thoát một lần thứ ba nữa
lại cùng em tương kiến Bây giờ lại tới Thần kinh một lần thứ tư này, sẽ tới Thần
kinh do chuyến xe tốc hành đang vùn vụt chạy trong đêm rộng trời khuya này, không
biết khi tới thì có được xem cái vẻ mặt mới mẻ của kinh thành Huế ?"
(6)

Trong một trường hợp khác, Đào Hùng cùng nhóm phóng viên từ Sài Gòn ra
Bắc du lãm những nơi danh sơn thắng tích và phỏng vấn ý kiến các nhà trí thức ở
Trung Bắc kỳ đã viết bài Thăm cửa biển Thị Nại, lên núi Hoành Sơn, viếng mộ Tây
Sơn và nhấn mạnh ý nghĩa của việc giới thiệu lại những chuyến đi: “Từ nay đường
giao thông Bắc Nam tiện lợi, thì người trong ba xứ đi lại gặp gỡ nhau hằng ngày như
trong buổi chợ, tình thân ái liên lạc vì đó mà thêm khăng khít keo sơn, biết coi nhau
như anh em một nhà, chớ không còn hững hờ chia rẽ nhau như mấy năm xưa nữa; và
nói đến chuyện từ Nam ra Bắc hay từ Bắc vào Nam thì không phải là một việc mới lạ
như chuyện du lịch toàn cầu, qua Âu qua Mỹ, đáng cho người người chú ý muốn nghe.
Vậy thuật lại cuộc hành trình của chúng tôi, tức là kể lại câu chuyện đã cũ, ai nấy đều
biết, song vì cuộc du lịch của chúng tôi đã có mục đích riêng là thăm viếng các nơi
danh thắng có dấu vết cổ tích và lịch sử, để nhắc nhở lại những cuộc hưng vong thành
bại của tổ tiên, cũng là phỏng vấn các bậc trí thức hiện thời về mấy vấn đề cần ích cho

189
bạn thiếu niên ta, bởi vậy nên chúng tôi chẳng ngại chi câu chuyện cũ mà viết bài ký

thuật sau này một cách tường tận”
(7)

Điểm qua mấy ý kiến trên để thấy rõ hơn tính mục đích của những chuyến du
ngoạn bao giờ cũng gắn với việc Đi và XEM, đưa lại vốn kiến thức cũng như niềm vui
cho mỗi tác giả - nhà du lịch. Chính tính mục đích của mỗi chuyến du ngoạn này sẽ
xác định cách đi, cách lựa chọn phương tiện, thời gian, mùa vụ, số người, điểm đến, số
ngày lưu trú, cơ sở vật chất và các mối quan hệ xã hội khác. Cần nhấn mạnh thêm, các
chủ thể càng giảm bớt tính mục đích công việc, càng gia tăng tính “vị nghệ thuật” của
các chuyến du ngoạn thì họ càng có cơ trở thành một nhà du lịch đích thực.
2.2. Trên cơ sở cách thức tổ chức và những điều quan sát, ghi chép qua các
chuyến đi có thể giúp hình dung được phần nào hoạt động du lịch đang định hình và
phát triển hồi đầu thế kỷ XX. Ở đây cần chú ý rằng, trong bước đi ban đầu, trong cả
nước khi đó đã hình thành nhiều khu du lịch với qui mô, tính chất khác nhau như Hạ
Long, Yên Tử, Sa Pa, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Huế, Bà Nà, Đà Lạt, Phú Quốc… Đặc trong
tương quan chung, các tác phẩm du ký thường thiên về ghi chép các chuyến du ngoạn
kết hợp với các mục đích khác nhiều hơn là những khách du lịch thuần thành; và vì
thế, thể tài du ký cũng cần được nhìn nhận trong tính chất giao thoa, hỗn dung thể loại
và mức độ hạn chế các khả năng phản ánh hoạt động du lịch.
Trở lại bài du ký của Tùng Vân nhan đề Du Ngọc Tân ký, ký giả dường như
hứng thú hơn với mấy tiệc trà, cuộc hát ả đào và đi đến nhận xét về các biến thái của
lối hát ả đào thanh lịch một thuở xa xưa:
“Cô đào ở bến Ngạc này, xét ra mọi vẻ thanh tao, mọi bề diễm lệ, còn kém xa
những nơi đại ấp danh đô, nhưng khen thay cũng có một vẻ đặc sắc!
Cô đào bến Ngạc, rặt những cô đào ở nhà quê gia thế trong giáo phường, người
thì qua tỉnh Hà Đông, kẻ thì sang đò Nhị Thủy mà lại đây; còn có vẻ thật thà, có nền
mộc mạc; chưa biết cái chi chi là cái chông chênh, cái ngoa ngoắt, cái suồng sã, cái éo
le; mà nghề ca nghề vũ đều biết nghề cả, tuy chưa có chị nào hay lắm khéo lắm, nhưng
cũng không có chị nào đến nỗi đớn lắm mà mang tiếng giả danh; xét kỹ ra cũng có
phong cách, có chế độ, có tính tình…


190
Hiện nay mới có sáu trò hát, cái hình thức ở bề ngoài, xem ra cũng chưa có gì;
nhưng xét cái tinh thần ở bề trong, thời những cô đào ở bến Ngạc nay, chắc đã có kinh
qua con đường giáo dục, con đường pháp độ của các nhà tư tưởng, các nhà chính trị
trong quý hương rồi đây chăng? Thôi thôi, ta không phải nghi ngờ chi nữa”…
Bởi lẽ nếu chuyến du ngoạn mà không có trò vui thì người ta thà ngồi nhà, bất
tất phải đi đâu!?
Trên phương diện nhìn nhận, đánh giá việc tổ chức lễ hội chùa Hương, học giả
Thượng Chi (Phạm Quỳnh) trong bài Trẩy chùa Hương đã tường thuật lại chi tiết
quang cảnh ngày lễ hội, tỏ ý phê phán mạnh mẽ cái lối giành giật xô bồ ngay từ nơi
xuống đò đến nơi lễ bái: “Thật trông cái cảnh tượng nơi bến đò đó mà thảm thay…
Thật là hỗn độn cẩu thả, không có lề luật phép tắc gì cả […]. Các đám đông nước mình
thật là không có kỷ luật, không có trật tự gì cả, rất tạp đạp, rất hỗn độn, dầu ở nơi lễ
bái kính trọng cũng kẻ đi người lại, kẻ đứng người ngồi, nói nói cười cười, kêu kêu gọi
gọi, ồn ào lộn xộn, khó mà nghiệm cho được cái tâm lý những người ngẫu hợp lại đó”;
rồi sau khi đề xuất các phương án tổ chức, ông nhấn mạnh: “Nói rút lại cốt nhất là phải
sắp đặt thế nào cho vừa tiện cho hành khách mà lợi cho dân làng. Hành khách được lợi
thời dầu mất hơn tiền ra cũng không mấy người quản, mà khéo chiều khach, khéo sắp
đặt thời làng càng được lợi nhiều! Nhưng người mình đã không có tài gì, mà cái thuật
kinh tế kiếm tiền cũng ít có, còn mong chi?”
(8)
… Đã qua ngót trăm năm kể từ ngày
ông Thượng Chi cảnh báo sự nhốn nháo của lễ hội chùa Hương, đến nay con cháu đã
tiến bộ được bao xa?
Tác giả Mẫu Sơn Mục N.X.H có bài du ký trường thiên Lược ký đi đường bộ từ
Hà Nội vào Sài Gòn kể chuyện tác giả đi chơi bằng ô tô từ Hà Nội qua Huế, Nha
Trang, vào Sài Gòn, lên Đà Lạt rồi ngược trở ra Hà Nội… Đoạn viết về xứ Bình Định
mới chỉ là những quan sát bước đầu, phác thảo toàn cảnh ngắn gọn:
“Khi chửa đến tỉnh Bình Định, tôi nghĩ tỉnh này nghèo, cho nên Tây Sơn khởi

sự dễ, thành ra không phải, tỉnh này lại là tỉnh trù phú hơn cả trong Trung Kỳ. Tỉnh
này nghề võ và nghề hát tuồng có tiếng, chắc cũng là cái di phong thượng võ hào hiệp
của nhà Tây Sơn còn lại chăng? Tôi tiếc không được đến thăm miếu Tây Sơn.

191
Đường thì đi qua ngoài thành phố Bình Định, không trông thấy nhà cửa, thành
này tức là tích “Tượng kỳ khí xa”. Qua Bình Định một lát thì đến Quy Nhơn. Quy
Nhơn là một cái thành phố ở bờ bể. Sau lưng và ở giữa bể đằng trước mặt đều có núi,
phong cảnh cũng đẹp; phố xá buôn bán cũng vui, có nhiều hiệu khách to, họ thu yến
sào và vây cá. Nhiều chú lấy vợ người Bình Định, cũng ngồi bán hàng. Ở Bình Định
và Quy Nhơn đã bắt đầu có những tháp của người Hời còn di tích lại. Người Hời là
dân cũ Chiêm Thành bị nước ta lấn dần, nay còn một số ít người, rút vào miền Phan
Rang và Phan Rí (thuộc tỉnh Bình Thuận). Chúng tôi ngủ ở Quy Nhơn một tối”
(9)

Từ đây tác giả đã mô tả, nhận xét và nhấn mạnh tính hiện đại và sự mới mẻ của
hoạt động du lịch từ sự xuất hiện những điểm nghỉ mát, khách sạn cho đến yêu cầu cần
đổi mới tư duy phục vụ du khách ở Nha Trang:
“Nha Trang là một cái bãi bể, nơi nghỉ mát, và là đầu đường xe hỏa vào Nam
Kỳ. Thành phố mới lập, đẹp đẽ, vui vẻ. Có sở thí nghiệm việc đánh cá, có một chiếc
tầu và một người Tây làm nghề ấy.
Chúng tôi trọ ở bun-ga-lô (Bungalow). Bun-ga-lô là cái nhà khách sạn của Nhà
nước làm ra cho người Tây mở hàng cơm, để tiện hành khách đi lại trú ngụ. Từ Đồng
Hới trở vào, tỉnh to đều có. Cái bun-ga-lô ở Nha Trang này to và đẹp lắm.
Những khách sạn Trung – Nam Kỳ phần nhiều dùng người Khách làm bồi, coi
bộ chững chạc đứng đắn lắm. Người mình ở lẫn với người Tây nửa thế kỷ rồi, mà làm
bồi cũng kém người Tàu là thứ người không trông thấy người Tây mấy khi, thì cũng
chán thực!
Lại nói đến khách sạn cũng đã có nhiều người mình mở, có cái nhà cửa cũng to,
đồ đạc cũng tốt, nhưng mà sự bày biện, sự trông nom của chủ, sự hầu hạ của bồi, và sự

sạch sẽ còn kém người Tây quá. Hay là những nghề này cũng phải bọn du học về
mới làm nổi” (NHS nhấn mạnh)…
Những điều trăn trở của tác giả còn nối dài mãi đến ngày nay.
Trong tác phẩm Banà du ký, nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa (1896-1982) kể lại
những điều mắt thấy tai nghe qua suốt nửa tháng du lịch – du chơi – điều dưỡng trên
núi Bà Nà (theo cách đọc, cách viết ngày nay). Với phụ đề Mấy ngày đăng sơn lên
thăm núi “Chúa”, nữ sĩ nêu lý do cuộc du ngoạn cũng như các cách gọi tên và việc núi

192
Bà Nà được vinh danh là núi Chúa: “Đương khi lửa hạ nấu nung, ở giữa chỗ bụi lầm
xe ngựa, cái thú nước biếc non xanh dễ ai không mơ ước. Chiều chiều đứng trên bờ
biển Đà Hải, nhìn làn sóng lao xao, ngọn trào xô đẩy, ngoảnh trông về phía tây núi non
trùng điệp, đối ngọn Hoành Sơn, thấy một trái núi cao ngất mấy tầng, chót núi như
đụng mây xanh, chung quanh thì núi nhỏ xúm xít như đàn con chầu mẹ; núi này đại
danh là núi “Chúa”, vì núi “Chúa” có nhiều thắng cảnh và thời tiết khí hậu lại có phần
đặc biệt lắm. Mùa đông mây ủ như tuyết sa băng đóng, mùa hè mát mẻ êm đềm như
xuân phong hòa khí, cảnh sắc tuyệt trần, không nơi nào sánh kịp”
(10)

Gián cách với đời sống phố phường đô hội, nữ sĩ tả lại cảm giác thú vị khi ngủ
trên giường tầng trong gian nhà nhỏ tựa như ca – bin tàu thủy, trong đêm gió thổi ào
ào, tưởng như mình đang bồng bềnh trên mặt biển. Rồi nữ sĩ tái hiện lại quang cảnh và
sự phát triển khá sôi động, qui mô của khu nghỉ mát dưới thời thực dân cách ngày nay
vừa tròn tám mươi năm:
“Mấy hôm đầu vì lạ phong thổ, cho nên tinh thần không được thanh thản, sau
quen rồi mạnh mẽ, ăn ngon ngủ kỹ. Nhà tôi vì hết phép nghỉ, nên phải về trước, còn tôi
ở lại, ngồi rỗi dắt lũ trẻ đi chơi trong núi, đi chỗ nào cũng có đường sạch sẽ, sườn núi
xắn làm đường, bạt đỉnh núi làm nhà, thật có công phu của Nhà nước mới làm được
vậy, tô điểm cho vẻ thiên nhiên thêm xinh đẹp, cây cối mọc dưới đường đi, như đi trên
ngọn cây tòng bá trúc mai vậy. Kể người Pháp lên ở đây khởi đầu từ Sở Kiểm lâm lên

làm trụ sở mới năm 1915, rồi sau các công sở mới làm nhà mát tiếp lên đông đúc như
bây giờ, song những người ở đây duy có người Pháp, còn người Nam chỉ phục dịch mà
thôi. Đỉnh núi chia ra từng cụm, cụm nào cũng nhà cửa nguy nga lộng lẫy, đó là biệt
thự của các quan chức Đại Pháp, các tòa sở như Khâm sứ, Đốc lý, Thương chánh, Bưu
điện, Y tế; lại còn đồn lính Lê dương, có nhà giam tù quốc phạm, v.v… Việc cai trị An
Nam thì có viên Bang tá, coi việc tuần phòng dân phu. Mỗi năm đến mùa hè thì các
quan chức người Pháp lần lượt lên nghỉ mát cho đến tháng Octobre (tháng 10 – NHS
chú) mới thôi, sở nào cũng có nhà riêng; còn như tư gia thì ít lắm, duy có đôi nhà tư
bản và thương mại Pháp – Trung Hoa thì có một sở của người Compradore Ngân hàng
mà thôi, còn người Việt Nam ta thì từ nhà quyền quí cho đến nhà tư bản cũng tuyệt
nhiên không ai có sở nhà nào cả; không rõ vì khó xin đất, hay là sợ tốn tiền và hủ bại,
không biết thưởng thức phong cảnh thiên nhiên và di dưỡng thân thể tinh thần, thì thật

193
là đáng lấy làm thương tiếc cho họ lắm. Còn về sự thương mại ở đây có hãng Morin
frères là đắc thể hơn hết, nhà hôtel hai tầng làm trên đỉnh núi cao chót vót, đứng trên
trông được khắp mọi nơi. Trong hàng có cơm ăn, có phòng trọ, có chớp bóng, có thể
thao, đủ các cuộc tiêu khiển, lại bao cả việc vận tải thơ từ hàng hóa và kiêm việc mướn
kiệu thuê xe nữa. Vì thế cho nên hễ ai muốn lên ngoạn cảnh cũng phải nhờ hãng Morin
thuê mướn xe kiệu cho, còn giá tiền cho thuê phòng ở, cơm ăn rất đắt, mỗi ngày một
người phải mất từ tám chín đồng trở lên mới đủ. Vậy nên chỉ tiện cho người Pháp
dùng, còn người Nam thì rất khó. Thiết tưởng Chánh phủ mà muốn ra ơn cho được
tiện lợi cả hai đằng, thì trong các sở chỗ nào còn dư đất, Chánh phủ cho làm thêm một
sở nhà riêng tùng tiệm cho các viên chức tòng sự liêu thuộc người An Nam, ai đau ốm
mệt nhọc được lên đấy có chỗ nghỉ ngơi điều dưỡng, thì ơn của Chánh phủ ai mà
chẳng cảm bội”
Trong bài viết Nam du đến Ngũ Hành Sơn in liền hai kỳ trên tạp chí Nam
Phong, nhà văn Nguyễn Trọng Thuật (1883-1940) kể về chuyến đi xe lửa đến đất Đà
Nẵng: “Hết phận núi Hải Vân là vào địa hạt Quảng Nam. Vùng này sản mít, vườn
trong làng trồng nhiều (…). Đồng điền thì gần núi với bãi cát cũng không được tốt,

nhưng cấy lúc nào cũng được ăn. Bấy giờ mới tháng hai ta mà có ruộng thì đang rỗ,
ruộng thì mới cấy. Bãi cát vùng này thấp liền với bờ bể, cũng bát ngát nhiều lắm, cũng
trồng nhiều cây dương. Qua mấy ga Lăng Cô, Linh Điểu, Dũng Thùng, Nam Ổ… thì
đến Cửa Hàn.
Cửa Hàn là cái cửa bể ở Quảng Nam vốn tên là Chu Hàn Tấn, nên lại gọi là
Cửa Hàn. Dịch âm ra tiếng pháp là Tourane. Xe gần ga Tourane đã có bồi của công ty
Hào Hưng khách sạn lên tận xe mời và đón khách. Đến ga chúng tôi cho bồi mang
hành lý vào nhà Hào Hưng”
(11)

Đến đây, Nguyễn Trọng Thuật mô tả chi tiết cung cách đón rước khách, việc
làm và thái độ phục vụ của công ty du lịch Hào Hưng với rất nhiều thiện cảm:
“Vào nhà Hào Hưng, gặp ông phán Chánh người Bắc là chủ coi công ty đó, nên
sự hỏi han đường lối càng dễ. Ông ở nhà riêng phố khác, ân cần mời chúng tôi lại nghỉ
ở nhà riêng của ông, chúng tôi có lại thăm ông và nói chuyện rồi cảm ơn mà về nghỉ ở
khách sạn.

194
Công ty này vừa có nhà cho khách trọ vừa có hãng ô tô đưa khách và hàng hóa
đi lại trên con đường từ Cửa Hàn đến Qui Nhơn, Nha Trang, chiếu liệu cho bà con lao
động ngoài Bắc vô làm ăn trong Nam những lúc đi về được nhiều việc. Bởi vì đường
xe lửa từ Hà Nội vô mới đi liền tới Cửa Hàn. Từ Cửa Hàn phải đi ô tô một quãng dài
đến Qui Nhơn – Nha Trang. Từ Nha Trang mới lại có xe hỏa vào Sài Gòn. Hành khách
trong khi lên xuống ga hai đầu ấy có nhiều sự khó khăn về khuân vác và ngủ trọ, nhất
là những bà con lao động. Công ty Hào Hưng bèn ra ứng biện chỗ đó, sở xe hỏa cũng
vui lòng cùng liên lạc với công ty. Cửa Hàn với Nha Trang lập lại hai nhà khách sạn
và ga ô tô. Xe lửa đến gần ga hai nơi đó, có bồi của nhà Hào Hưng đeo dấu hiệu lên
mời và nhận khuân vác hành lý. Lúc khách ra xe lửa, bồi đi lấy vé giúp từ trước và
khuân vác hành lý lên đến xe. Lên xuống ô tô cũng thế. Trong nhà, phòng nằm, hạng
nhất hạng nhì hạng ba thì đều có từng phòng riêng một, giá tiền khác nhau. Hạng tư thì

không có phòng riêng, giường kê gần nhau trong một khuôn nhà, mỗi cái giường đều
có màn, chăn, giá tiền hạ nhất. Còn một hạng nữa thì không mất tiền, nằm những cái
bậc dài nhưng cũng có chăn gối tử tế. Cơm ăn thì có bốn hạng: 0$50, 0$30, 0$20,
0$10. Khách chỉ trọ mà không ăn cơm cũng được. Người trong nhà cùng bồi bếp tiếp
khách một cách ân cần lễ phép châu toàn. Cái chỗ giúp cho bà con lao động là có
những nơi ăn nằm hạng rất tít tiền hoặc không mất tiền đó. Một chỗ ăn trọ của người
nghèo ở nơi lữ thứ chốn thị thành mà có được như thế là yên ổn lắm. Chúng tôi cũng
khen một cách doanh nghiệp có cảm tình ấy, nên vì nghĩa công mà thuật ra đây. Cứ
chuyến ô tô Nam ra hay là xe lửa Bắc vô, khách trọ đông lắm. Chúng tôi trọ cái phòng
hạng nhất, ăn ba bữa cơm mỗi ngày 1$50. Dùng cơm trưa xong, bảo nhà hàng cho thuê
một cái ô tô đưa chúng tôi đi Ngũ Hành Sơn”
Mong sao những người làm du lịch hôm nay có được nhiều những ông chủ
phán Chánh, nhiều doanh nghiệp, công ty, hãng ô tô, khách sạn, nhà hàng và người
làm công cùng vươn đến tầm văn hóa “tiếp khách một cách ân cần lễ phép châu toàn”
như công ty Hào Hưng tám mươi năm về trước…
2.3. Chính thông qua các chuyến đi, các cuộc giao lưu mà mỗi người vừa tăng
thêm nhận thức và niềm tự hào dân tộc, vừa chiêm nghiệm và chứng nghiệm được
đầy đủ tình nghĩa đồng bào. Thượng Chi (Phạm Quỳnh) ghi lại trong bài Cùng các
phái viên Nam kỳ, nhân một chuyến tới thăm Hà Nội, ông Nguyễn Tử Thức là chủ

195
bút Nam trung nhựt báo ở Sài Gòn đã phát biểu: “Thiệt chúng tôi không ngờ giang
sơn nước Nam ta cẩm tú như vầy. Là bởi xưa nay chưa đi khắp nên chưa biết, chưa
biết bờ cõi nước ta to rộng, nhân dân nước ta đông đảo là dường nào. Tới nay mới
biết, càng biết mà cái cảm tình đối với tổ quốc càng chan chứa biết bao! Khi tới
Tourane, khi tới Hải Phòng, quanh mình toàn những người bổn quốc, cùng ăn bận
như mình, cùng nói năng như mình, nhận ra mới biết người với mình, mình với
người, tuy ăn ở xa nhau mà cũng là người một nòi một giống, chớ đâu”
(12)


Trong ghi chép Hành trình mạn ngược từ Cao Bằng xuống Phú Thọ, ngài Huấn
đạo trường Pháp - Việt Phú Thọ là Thái Phong Vũ Khắc Tiệp tường tả lý do chuyến
đi: “Tháng Octobre 1920 vừa rồi, ký giả mới ở Cao Bằng đổi về Phú Thọ. Ra về tự
hôm 23 Décembre, đến hôm 26 thì tới nơi. Trong bốn hôm trời, từ mạn ngược về đàng
xuôi, lịch duyệt không biết bao nhiêu là cảnh trí: nào núi cao rừng rậm, vực thẳm hang
sâu; nào khoáng dã bình nguyên, danh lam cổ miếu; kìa nơi thành thị, nọ chốn thôn
quê; nước non này, phong cảnh ấy, thực là cảnh rất nên thơ; tưởng phải có cái tài cao,
cái học rộng, cái con mắt tinh đời, cái tấc dạ như hoa thêu gấm dệt, cái tay khiến ngòi
bút như nước chảy mây bay, thời mới tả hết được cảnh thiên nhiên của tạo hóa, kỹ xảo
của nhân công, thắng tích của hàng trăm nghìn năm còn để lại. Như mà tiếc thay, bỉ
nhân đây, bấy lâu xa rời chữ nghĩa văn chương, quá ra thành sao nhãng đi ở nơi non
xanh nước biếc; mà muốn tả cho hết những quang cảnh đi đàng ấy, tưởng cũng khó
thay, rất khó thay! Giờ tiếc chẳng có bộ máy chụp ảnh thời chụp cho hết con đàng
nghìn dặm để làm kỷ niệm buổi du thì. Cái câu đó cũng chẳng qua là ảo tưởng của
khách si tình, chớ mong như thế có bao giờ lại được. Vậy xin cứ sự thực viết ra đây để
duyệt giả chư quân tử nhàn lãm”
(13)

Vào cuối thập niên thứ hai của thế kỷ XX, học giả Phạm Quỳnh (1892-1945)
cũng đã đến Sài Gòn - Gia Định và để lại những trang du ký sinh động. Chuyến đi của
Phạm Quỳnh nhằm ngày 22-8-1918 theo đường tàu biển Hải Phòng, đến ngày thứ tư
cập cảng sông Sài Gòn. Qua suốt hai tuần lễ đầu "chỉ chơi quanh ở Sài Gòn, Gia
Định", ông Chủ nhiệm kiêm Chủ bút Tạp chí Nam Phong ở tuổi 26 đã ghi lại cảm xúc
và nhận xét sâu sắc về thiên nhiên, con người và cuộc sống, từ con đường đến dinh
thự, công sở, từ tác phong làm việc đến hoạt động kinh tế và văn hóa, đặc biệt nhấn

196
mạnh sự phát triển mạnh mẽ của báo chí Nam Kỳ. Trên mỗi lĩnh vực cụ thể, Phạm
Quỳnh thường có những so sánh kỹ lưỡng với thực trạng ở Hà Nội và Bắc Kỳ.
Vừa bước chân đến Sài Gòn, Phạm Quỳnh đã có nhận xét đầy thiện cảm về

phong cách nghiêm túc của những người phụ việc: "Quan cảnh sát lên kiểm giấy thông
hành, ước một khắc đồng hồ thì cu ly mỗi đứa cái thẻ đồng ở tay ồ vào tranh nhau
khiêng đồ hành lý. Tuy vậy coi còn nghiêm hơn cu ly Hải Phòng, vì bọn đó chừng
có pháp luật riêng phải theo, không dám làm nhũng" (NHS nhấn mạnh)
(14)

Chính nhờ đi nhiều nên Phạm Quỳnh có điều kiện so sánh, thấy rõ những sự
tương đồng và cái khác biệt, nhấn mạnh cái mới ở vùng đất mới: "Người ta thường gọi
Sài Gòn là cái "hạt báu của Á Đông" (la perle de l'Extrême Orient)". Ông so sánh
đường phố, công sở và kiến trúc hai phủ Toàn quyền Sài Gòn - Hà Nội: "Đẹp nhất, coi
trang nghiêm nhất là con đường đi thẳng vào phủ Toàn quyền (người Sài Gòn thường
gọi là tòa Chánh soái). Hai bên có hai khu vườn trồng những cây lớn, tối trông như hai
đám rừng nhỏ, ở giữa một con đường rộng chạy thẳng băng tự đầu tỉnh đằng kia cho
tới ngang cửa phủ. Coi thật là có bề thế, có vẻ tôn nghiêm, xứng đáng với một nơi
tướng phủ. Mà phủ Toàn quyền ở đây, qui mô cũng đẹp hơn ở Hà Nội. Phủ Toàn
quyền Hà Nội tựa hồ như một đống gạch xếp vuông, trông có vững vàng bền chặt mà
nặng nề biết bao nhiêu! Ở Sài Gòn thì như hình chữ đinh, nét ngang trên là chính dinh,
nét sổ dưới là các tơ tào. Mặt trước ở gian giữa có bậc lên, hai bên hai con đường dốc
quanh lại như hình bán nguyệt, trông ra cái vườn rộng thênh thang, giữa có bãi cỏ
phẳng lì như một tấm thảm xanh, trên chỉ trồng hai khóm trúc in nhau như hệt" ; so
sánh hai dinh Đốc lý: "Nhưng đẹp nhất là nhà Thị Sảnh Sài Gòn ( ). Kiểu đại khái
cũng giống như các nhà thị sảnh bên Tây, trên có cái chòi vuông mấy từng cao chót
vót ( ). Chẳng bì với nhà Đốc lý Hà Nội ta, thật so sánh mà thẹn thay. Mà Hà Nội lại
là nơi thủ đô của Đông Dương ( ). Xin các ông hội viên phải lưu tâm đến sự đó, thật
là có quan hệ cho danh dự Hà Thành ta" ; so sánh hai nhà thờ: "Nhà thờ Sài Gòn tuy
không có cái nền đá cao như nhà thờ Hà Nội mà có hai cái tháp nhọn cao ngất trời,
những khi trời sáng sủa đi tự ngoài Vũng Tàu (Cap Saint Jacques) cũng trông rõ" ; so
sánh hai khu chợ: "Còn Chợ Mới Sài Gòn cũng có cái nhà chòi ở cửa giữa thật là vĩ
đại, vừa cao vừa vững vàng lực lưỡng, coi như một cái pháo đài vậy. Mà trong chợ thì
rộng mênh mông, chợ Đồng Xuân Hà Nội chẳng thấm vào đâu" Rồi Phạm Quỳnh


197
hào hứng so sánh trên tổng thể: "Nói tóm lại, cái hình thức của thành phố Sài Gòn
sánh với thành phố Hà Nội còn hơn nhiều. Từ cách đặt đường phố cho đến cách dựng
cửa nhà, từ cách thắp đèn điện cho đến cách đặt máy nước ở các nhà, cho đến cách
tuần phòng vệ sinh trong phố xá, nhất nhất đều có tiến bộ hơn Hà Thành ta cả. Ở Sài
Gòn thật là có cái cảm giác một nơi đô hội mới, nghĩa là một nơi đô hội theo lối Tây.
Vào đến Chợ Lớn thì lại ra cái cảm giác một nơi đô hội theo lối Tàu. Còn các châu
thành khác ở lục tỉnh thì những nơi quan sở là Tây mà chốn phố phường là Tàu, phần
An Nam thật ít lắm. Xét về phương diện đó thì những đô hội Bắc Kỳ tuy coi cũ kỹ mà
còn có cái vẻ An Nam hơn. Người khách ngoại quốc nào sang du lịch đây, nếu không
có cái chủ ý quan sát phong tục người dân thì ở Sài Gòn sướng tiện hơn, nếu muốn
biết cái chân tướng sự sinh hoạt dân An Nam thì cứ đi chơi qua phố phường Hà Nội
cũng đủ làm một cái kho khảo cứu không cùng. Tuy vậy, các tỉnh thành khác không
nói làm gì, mà Hà Nội đã là nơi thủ đô của Đông Dương thì về phần hình thức mới
cũng không nên kém Sài Gòn mới là phải. Nếu cái hình thức mới cũng đủ mà cái đặc
sắc cũ vẫn còn thì mới thật là xứng đáng vậy"
Đi sâu khảo sát thực địa và kiểm lại vốn tri thức lịch sử, Phạm Quỳnh lược tả
địa giới Sài Gòn - Gia Định: "Gần Sài Gòn có tỉnh lỵ Gia Định cách đô thành một cây
lô mét. Có con đường lớn đi vòng quanh Nay có con đường xe lửa nhỏ, qua Gia
Định, Gò Vấp, tới Hóc Môn. Đất Gia Định là đất cổ nhất ở Nam Bộ, có quan hệ lịch
sử bản triều nhiều lắm. Khi bản triều mới khai thác xứ Nam dựng cơ sở ở đấy. Rồi sau
Đức Cao Hoàng ta hưng đế nghiệp, đánh Tây Sơn, đặt Nam trấn cũng ở đó. Cho nên
trước kia cái tên Gia Định thường dùng để chỉ chung cả đất Nam Kỳ vậy" Đồng thời
Phạm Quỳnh miêu tả kỹ lưỡng vị trí và đặc điểm "hai cái cổ tích có tiếng" là Lăng
Ông (tức mộ và đền thờ Tả quân Lê Văn Duyệt) và Lăng Cha Cả (chỉ kiến trúc lăng
mộ và bài văn bia Giám mục Bá - đa - lộc
Trong những ngày ở Sài Gòn, Phạm Quỳnh cảm thấy phấn chấn, tin tưởng:
"Cho nên cái cảm giác của người mới bước chân tới đây là cái cảm giác vui, vui mà tin
cậy ở cái tương lai, chớ không phải buồn mà thương tiếc cho sự ký vãng" Trước hết

là niềm vui và sự tin cậy nơi con người, những bậc trí giả đầy năng lực, những đồng
nghiệp cần mẫn, năng động, những người cùng chí hướng mới lần đầu gặp mặt mà như
quen thân tự bao giờ. Trong khoảng một tháng, Phạm Quỳnh đã gặp các ông chủ bút

198
Nam Kỳ tân báo (Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phú Khai), gặp cha con chính khách Diệp
Văn Cương - Diệp Văn Kỳ và nhiều vị quan chức khác. Nhân thăm các bạn nhà báo,
Phạm Quỳnh nêu rõ quan niệm và chức phận nghề làm báo cùng tình bằng hữu Bắc
Nam: "Mấy bữa sau đi thăm các bạn "đồng nghiệp", tức là các anh em làm báo ở Sài
Gòn. Gặp ông nào cũng được chuyện trò vui vẻ lắm, mới biết kẻ Nam người Bắc tuy ít
dịp gần nhau thân nhau, mà mỗi lần biết nhau, thật là dễ nên cái tình thân ái vậy. Cho
hay người một nước một nhà, dẫu xa cách mà cũng là anh em, miễn là đối với nhau lấy
lòng thành thực, đừng có cái thói ghẻ lạnh người thường, thì khó gì mà chẳng nên thân
mật được? Huống bọn mình lại cùng theo đuổi một nghề, tức là cái nghề khua chuông
gõ mõ trong quốc dân, đem những lời hay lẽ phải mà bàn bạc với bạn đồng bào, mong
gây lấy một mối tư tưởng cảm tình chung, mưu cho nước nhà giống nhà sau này được
cường mạnh vẻ vang, có ngày được mở mặt mở mày với thế giới, thì cái mục đích cao
xa ấy há lại không đủ khiến cho ta đồng tâm hiệp lực mà cùng nhau đạt cho tới ru?"
Quan sát hoạt động báo chí, Phạm Quỳnh xác định: "Báo giới trong Nam Kỳ thạnh
lắm, phát đạt hơn ngoài Bắc nhiều. Hiện có đến mười tờ báo bằng quốc ngữ ( ). Cứ
lấy cái "lượng" (quantité) mà xét thì thật đủ khiến cho Bắc Kỳ, Trung Kỳ phải thẹn với
Nam Kỳ rằng về đường ngôn luận còn chậm kém xa quá" Tiến thêm một bước,
Phạm Quỳnh lý giải những khác biệt và ưu thế của vùng đất sách báo Nam Kỳ từ
chiều sâu đặc điểm cơ sở kinh tế - văn hóa và tâm lý xã hội: "Ta vừa nói nghề làm
sách: nghề làm sách ở Nam Kỳ cũng thịnh lắm, có phần lại thịnh hơn nghề làm báo
nhiều. Tuy vài năm gần đây đã bớt đi nhiều mà trong khoảng năm năm mười năm về
trước, cái số những sách quốc ngữ xuất bản ở Sài Gòn không biết bao nhiêu mà kể
( ). Song có một điều nên chú ý, là báo nhiều như thế, sách nhiều như thế, mà bán
được chạy, có nhiều người mua, thời cũng là một cái chứng rằng dân Nam Kỳ có tính
ham đọc sách và có tiền thừa mua sách. Như vậy là nếu có những báo thiệt tốt, sách

thiệt hay cho mà đọc thì ích lợi biết bao nhiêu. Chẳng bù với dân Bắc Kỳ, Trung Kỳ,
trăm người chưa được một người đọc thông chữ quốc ngữ, mười người đọc thông chữ
quốc ngữ chưa được một người thích xem văn quốc ngữ, lại thêm dân nghèo, bỏ ra
mấy đồng bạc mua báo một năm đã lấy làm một món tiền nặng; đến những bậc sĩ phu
thì phần nhiều những quẩn quanh trong vòng danh lợi mà sao nhãng những việc văn
chương; nghề làm báo làm sách thật không được đủ điều tiện lợi như Nam Kỳ. Cho

199
nên khá tiếc thay cho những bậc trí thức trong Lục châu không biết khéo lợi dụng cái
cơ hội tốt ấy mà đặt để ra những sách vở hay có ích cho phong hóa, nỡ để cho cái lòng
ham đọc sách của người dân ấy ngập vào những sách vở hoặc vô vị, hoặc tầm bậy
không ra gì, thật uổng quá"
Không chỉ ở Sài Gòn - Gia Định, Phạm Quỳnh còn hăng hái đi thăm mấy tỉnh
miền tây, trải khắp Mỹ Tho, Cái Bè, Vĩnh Long, Sa Đéc, Long Xuyên, Cần Thơ và
thức nhận biết bao điều mới mẻ về đời sống xã hội, cảnh quan, cư dân, ngôn ngữ,
phong tục, tập quán con người nơi đây Sau cuộc du ngoạn, sau tất cả những điều tai
nghe mắt thấy và trở về xứ Bắc, nhà văn hóa Phạm Quỳnh đi đến đoạn kết như một lời
ước nguyện: "Tôi càng đi du lịch trong Nam Kỳ lại càng thấy cái cảm giác rõ ràng
rằng người Nam người Bắc thật là con một nhà, nếu biết đồng tâm hiệp lực thì cái tiền
đồ của nước Nam ta không thể nào hạn lượng cho được. Tôi xin đốt lửa thắp hương
mà cầu nguyện cho cái mối đồng tâm ấy ngày một bền chặt, thật là may mắn cho nước
nhà lắm lắm"
Lại nói như bài Cảnh vật Hà Tiên do Đông Hồ và Nguyễn Văn Kiểm sao lục
đã mở đầu bằng niềm tự hào: “Tỉnh Hà Tiên có nhiều cảnh đẹp, có bãi dài biển
rộng, hồ trong núi biếc, mỗi cảnh đều có vẻ đẹp thiên nhiên của tạo hoá Cảnh bãi
biển thì kiêm cả màu trời sắc nước, bãi cát mênh mông, gió nam mát mẻ. Cảnh núi
như Thạch Động có các kỳ quan quái thạch, núi Bình San, núi Tô thì có cỏ đẹp hoa
thơm”
(15)
… Niềm tự hào trước vẻ đẹp quê hương xứ sở của tác giả cũng đồng điệu

với tấm lòng người chủ báo qua mấy dòng đề tựa đầy ý nghĩa: “Muốn cho con trẻ
yêu mến nước nhà thì phải cho con trẻ thông thuộc nước nhà, hiểu biết cả lịch sử,
địa lý, lễ giáo, phong tục; nhỏ từ cách sinh hoạt trong dân gian; lớn đến các kỷ
cương về đạo lý, ngõ hầu mới có lòng thiết tha đến nơi quê hương tổ quốc của
mình. Lại trước khi biết đến cái tổ quốc lớn là toàn thể quốc gia, phải biết cái tổ
quốc nhỏ là nơi địa phương mình sinh trưởng đã”
Vào chặng cuối nửa đầu thế kỷ XX, Tiên Đàm Nguyễn Tường Phượng (1899-
1974) với bài Hà Nội ngày nay không như Hà Nội dưới mắt nhà học giả Trương Vĩnh
Ký đã đi sâu tìm hiểu, nhận xét, đối chiếu cảnh quan Hà Nội đương thời so với những
ghi chép của học giả Trương Vĩnh Ký khoảng bảy mươi năm về trước. Sau đoạn trích

200
dẫn, Nguyễn Tường Phượng nhấn mạnh những sự còn mất, đổi thay qua hai phần ba
thế kỷ:
“Thì ra trong khi ông Trương Vĩnh Ký ở Hà Nội đã đi xem khắp cả kinh thành.
Theo đoạn trên, ông đã xem chùa Quan Thượng, Thành cũ, Cột Cờ, đền Trấn Vũ và
chùa Một Cột.
Từ năm 1876 đến nay, nghĩa là trong khoảng gần 70 năm, Hà Nội đã thay đổi
những gì?
Ta thử nghĩ xem có đúng như câu chuyện của Trương Vĩnh Ký đã kể?
Chùa Quan Thượng? Nay là Phòng Thương mại, nhà Địa ốc! Di tích của chùa
còn trơ một cái Hòa Phong tháp sừng sững ở ven hồ. Mà xung quanh chùa khi xưa là
nước, thì nay lại đường phố, sạch sẽ, giải dựa, lại thêm tàu điện, xe cộ đi lại như mắc
cửi, có chăng còn lại câu truyền miệng: Trước đền Quan Thượng, sau hồ Hoàn
Gươm”
(16)

Rõ ràng là vượt qua những áp đặt tuyên truyền tư tưởng chính trị “Pháp -
Việt đề huề” và hạn chế lịch sử không tránh khỏi, song phải ghi nhận các trang du
ký trên Tạp chí Nam phong đã tiếp nối được tinh thần yêu nước và niềm tự hào dân

tộc từ cội nguồn văn học ông cha. Trong một chừng mực nhất định, nhiều trí thức
cựu học và tân học đã biết lợi dụng diễn đàn công khai để khơi gợi và giáo dục tình
cảm yêu nước, nhắc nhớ lại truyền thống đấu tranh anh dũng ngàn năm thông qua
việc du ngoạn, thăm viếng, tưởng niệm các danh nhân đất nước (An Dương Vương,
Lý Thái Tổ, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung ) và các di tích
lịch sử (Cổ Loa, đền Lý Bát Đế, hồ Hoàn Kiếm, Hoa Lư, lăng điện xứ Huế, danh
thắng Bà Nà, Ngũ Hành Sơn, Sài Gòn, Tây Đô, Phú Quốc, Thạch Động, Hà Tiên)
3. Lời kết mở
Trên cơ sở giao thông từng bước phát triển mà nhu cầu hiểu biết, giao lưu
văn hoá ngày càng mở rộng từ Bắc vào Nam, từ nơi đồng bằng đến miền núi, từ
vùng sâu vùng xa tới thị thành, từ trong nước cho tới nước ngoài. Không phải ngẫu
nhiên mà cảm hứng được đi xa nhờ các phương tiện ô tô, xe lửa, tàu thuỷ, tàu bay
vốn gắn liền với kỹ nghệ thời hiện đại đã đem lại cho người viết biết bao những
cảm xúc mới lạ, hấp dẫn. Nhu cầu ĐI (kể cả thời gian, cách thức và phương tiện) và

201
XEM (xem gì, khả năng chiều sâu nhận thức và hiểu biết, khám phá về xứ sở du
lịch) đã kích thích mạnh mẽ tâm thức sáng tạo của các nhà du hành Qua các trang
du ký có thể nhận diện được phần nào cảnh sắc thiên nhiên, hình ảnh con người và
cuộc sống xã hội ở mọi miền đất nước giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Điều chúng tôi
thu nhận được qua các trang du ký và đặc biệt nhấn mạnh là những bài học về tổ chức,
quản lý, kinh doanh du lịch và sự tương đồng về quá trình giao lưu, phát triển và hội
nhập giữa hai giai đoạn lịch sử, giữa ngày nay với những tháng năm thuộc nửa đầu thế
kỷ XX…
Điểm tương đồng trước hết là sự hình thành tư duy du ngoạn, du lịch, giải trí,
khám phá, tìm đến những nơi danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa và những
vùng đất mới. Chính đây là điều kiện hình thành các công ty lữ hành, nhà nghỉ, khách
sạn, cơ sở điều dưỡng và các loại dịch vụ khác. Hơn nữa, tất cả các hình thức du lịch
này, cả phía các ông chủ và du khách, đều phát triển theo định hướng thương trường,
nhưng bao giờ cũng cần có sự quản lý, giám sát chặt chẽ của nhà nước.

Thứ hai, quan niệm về du lịch, hình thức tổ chức và việc phát triển các cơ sở
dịch vụ du lịch từng bước làm thay đổi nhận thức của du khách trong vai các nhà viết
du ký, ký giả, trí thức. Điều này thể hiện đặc biệt rõ với những nơi có sự đầu tư mạnh
mẽ như ở Bà Nà, Ngũ Hành Sơn, bảo tàng Chàm, Nha Trang… và tạo nên sự đối sánh
giữa cách nhìn cũ và mới, truyền thống và hiện đại, hiện tại và tương lai, từ đó nêu lên
ước nguyện trong việc phát huy các giá trị di sản văn hóa truyền thống và phát triển
các hình thức du lịch.
Thứ ba, bản thân các tác phẩm du ký có ý nghĩa tích hợp kiến văn, thâu nạp các
giá trị văn hóa, từ sưu tập truyện cổ, thơ ca dân gian, truyện danh nhân, các nguồn sử
liệu, ghi chép câu đối, miêu tả cảnh quan, con người, cuộc sống đương thời và thêm
vào đó là những bài thơ đề vịnh, bình luận trữ tình ngoại đề, mở rộng so sánh vùng này
với vùng khác, thời này với thời khác. Tất cả những điều đó tạo cho các thiên du ký in
đậm sắc thái “vị nghệ thuật” độc đáo, vừa là những áng văn chương vừa chuyển tải
được các giá trị lịch sử - văn hóa, vừa là những ghi chép tư liệu khách quan vừa bộc lộ
sắc nét nguồn cảm hứng và tiếng nói trữ tình tác giả. Trên một phương diện khác, có
thể coi các tác phẩm du ký này là những bảo tàng bằng ngôn từ nghệ thuật về một thời
và về từng điểm du lịch, từng vùng văn hóa, di tích lịch sử cụ thể trong cả nước.

202
Thứ tư, khi đọc lại các trang du ký, người đọc hôm nay vừa có điều kiện nâng
cao vốn tri thức bởi được “ngồi một chỗ mà thấy ngoài muôn dặm”, vừa thỏa mãn tâm
lý hoài cổ, đối chiếu những điều mắt thấy tai nghe hôm nay với câu chuyện một trăm
năm trước. Nhìn rộng ra, giới nghiên cứu và các nhà quản lý sẽ có điều kiện khôi phục,
chỉnh trang, tôn tạo lại di tích, cảnh quan theo nguyên mẫu đã được thế hệ cha anh ghi
chép lại; các nhà tổ chức và hướng dẫn viên các tour du lịch cũng nhờ các trang du ký
mà có thêm sự hiểu biết, góp phần phục vụ du khách ngày càng hiệu quả hơn.
______________
(1)
Tham khảo Nguyễn Hữu Sơn: Thể tài du ký trên Tạp chí Nam Phong. Nghiên cứu Văn
học, số 4-2007, tr.21-38.

(2)
Tùng Vân: Du Ngọc Tân ký. Nam Phong, số 57, tháng 3-1922; Tuyển in trong Du ký
Việt Nam – Tạp chí Nam Phong, 1917-1934, Tập III (Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, giới
thiệu). NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2007, tr.322…
(3)
Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục: Du Tử Trầm sơn ký. Nam Phong, số 59, tháng 5-1922).
Tuyển in trong Du ký Việt Nam – Tạp chí Nam Phong, 1917-1934, Tập I (Nguyễn
Hữu Sơn sưu tầm, giới thiệu). NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2007, tr.365…
(4)
Tùng Vân: Bài ký chơi Cổ Loa. Nam Phong, số 87, tháng 9-1924; Du Tử Trầm sơn ký.
Nam Phong, số 59, tháng 5-1922). Tuyển in trong Du ký Việt Nam – Tạp chí Nam
Phong, 1917-1934, Tập I. Sđd, tr.491…
(5)
Tùng Vân: Cuộc đi chơi Sài Sơn. Nam Phong, số 93, tháng 3-1925; Tuyển in trong Du
ký Việt Nam – Tạp chí Nam Phong, 1917-1934, Tập III. Sđd, tr.104-138.
(6)
Nguyễn Tiến Lãng: Lại tới thần kinh. Nam phong, số 200+204, tháng 7+9-1934). Tuyển
in trong Du ký Việt Nam – Tạp chí Nam Phong, 1917-1934, Tập III. Sđd, tr.104-138.
(7)
Đào Hùng: Thăm cửa biển Thị Nại, lên núi Hoành Sơn, viếng mộ Tây Sơn. Phụ nữ tân
văn, số 73, ra ngày 2-10-1930, tr.9-12.
(8)
Thượng Chi: Trẩy chùa Hương. Nam phong, số 23, tháng 5-1919; Tuyển in trong Du ký
Việt Nam – Tạp chí Nam Phong, 1917-1934, Tập III. Sđd, tr.80-101.
(9)
Mẫu Sơn Mục N.X.H: Lược ký đi đường bộ từ Hà Nội vào Sài Gòn. Nam Phong, số 129,
tháng 5-1928. Tuyển in trong Du ký Việt Nam – Tạp chí Nam Phong, 1917-1934, Tập
III. Sđd, tr.31-32
(10)
Huỳnh Thị Bảo Hòa: Banà du ký. Tạp chí Nam Phong, số 163, tháng 6-1931; Tuyển in

trong Du ký Việt Nam – Tạp chí Nam Phong, 1917-1934, Tập II (Nguyễn Hữu Sơn
sưu tầm, giới thiệu). NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2007, tr.50…

203
(11)
Nguyễn Trọng Thuật: Nam du đến Ngũ Hành Sơn. Nam Phong, số 184-185, tháng 5+6-
1933. Tuyển in trong Du ký Việt Nam – Tạp chí Nam Phong, 1917-1934, Tập III.
Sđd, tr.178-223.
(12)
Thượng Chi: Cùng các phái viên Nam kỳ. Nam phong, số 32, tháng 2-1920, tr.126.
(13)
Thái Phong Vũ Khắc Tiệp: Hành trình mạn ngược từ Cao Bằng xuống Phú Thọ. Tạp
chí Nam Phong, số 44, tháng 2- 1921, tr. 136-142; Tuyển in trong Du ký Việt Nam –
Tạp chí Nam Phong, 1917-1934, Tập I. Sđd, tr.276-277…
(14)
Phạm Quỳnh: Một tháng ở Nam Kỳ. Tạp chí Nam phong, số 17, tháng 11-1918 và số
19+ 20-1919; Tuyển in trong Du ký Việt Nam - Tạp chí Nam phong, 1917-1934, Tập
II. Sđd, tr.158
(15)
Đông Hồ và Nguyễn Văn Kiểm: Cảnh vật Hà Tiên. Nam phong, số 150, tháng 5-
1930, tr.145
(16)
Tiên Đàm Nguyễn Tường Phượng: Hà Nội ngày nay không như Hà Nội dưới mắt nhà
học giả Trương Vĩnh Ký. Tri tân, số 4, tháng 6-1941; Tuyển in trong Tạp chí Tri tân
(1941-1945) – Truyện và ký (Lại Nguyên Ân và Nguyễn Hữu Sơn sưu tập). Nxb. Hội
Nhà văn, H., 2000, tr.31-32.

×