Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Quan điểm của John Dewey về dân chủ trong giáo dục Luận văn ThS. Triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (777.96 KB, 106 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




HOÀNG THỊ THÚY AN




QUAN ĐIỂM CỦA JOHN DEWEY VỀ
DÂN CHỦ TRONG GIÁO DỤC






LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học














Hà Nội – 2014




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




HOÀNG THỊ THÚY AN




QUAN ĐIỂM CỦA JOHNDEWEY VỀ
DÂN CHỦ TRONG GIÁO DỤC





Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60.22.03.01








Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Vũ Hảo





Hà Nội – 2014




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, do
chính tôi thực hiện, không trùng lặp với bất cứ một công trình nào được công bố
trong thời gian gần đây. Các tài liệu tham khảo được sử dụng để thực hiện luận văn
có nguồn gốc rõ ràng, tài liệu trích dẫn đảm bảo tính trung thực và chính xác. Nếu
sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm

Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả




Hoàng Thị Thúy An














LỜI CẢM ƠN

Luận văn được thực hiện và hoàn thành với sự giúp đỡ và hướng dẫn của các
thầy, cô trong khoa Triết học, Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc
Gia Hà Nội; bạn bè, người thân trong gia đình và các cán bộ nghiên cứu tại Viện
Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô trong khoa Triết học, Trường ĐH
Khoa học xã hội và Nhân văn, đồng nghiệp và ban lãnh đạo Viện Triết học đã luôn
quan tâm, động viên, tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và
thực hiện luận văn; qua đó giúp tôi có cơ hội tập dượt với công tác nghiên cứu về
lĩnh vực mà tôi tâm huyết.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Vũ Hảo,
giảng viên khoa Triết học, trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn, người đã tận
tâm chỉ dẫn tôi trong suốt quá trình xây dựng đề cương và hoàn thành luận văn này.

Trong quá trình luận giải và phân tích quan điểm của John Dewey về dân chủ và
giáo dục cũng như giá trị của nó đối với cải cách giáo dục Việt Nam, chắc chắn luận văn
không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của
thầy, cô, bạn bè đồng nghiệp để tôi hoàn thiện, nâng cao chất lượng luận văn, tiếp tục
nghiên cứu nâng cao hiệu quả tư duy lý luận nhằm đóng góp cho thực tiễn.
Xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả



Hoàng Thị Thúy An


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ RA ĐỜIQUAN
ĐIỂM CỦA JOHN DEWEY VỀ DÂN CHỦ TRONG GIÁO DỤC 11
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội cho sự ra đời quan điểm của J. Dewey về dân
chủ trong giáo dục 11
1.2. Những tiền đề tƣ tƣởng cho sự ra đời quan điểm của J.Dewey về 17
dân chủ trong giáo dục 17
1.2.1. Tư tưởng triết học của chủ nghĩa Hegel mới 17
1.2.2. Lý luận hoài nghi – niềm tin của Charles Sanders Peirce 21
1.2.3. Quan điểm của William James về kinh nghiệm 24
1.2.4. Quan điểm của W. Humboldt về giáo dục 27
1.3. Khái lƣợc về cuộc đời, sự nghiệp của J. Dewey và triết học 30
chính trị - xã hội của ông 30
1.3.1. J. Dewey: con người và tác phẩm 30
1.3.2. Khái lược triết học chính trị - xã hội của J. Dewey 35

CHƢƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUAN ĐIỂM JOHN DEWEY
VỀDÂNCHỦ TRONG GIÁO DỤC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ 45
2.1. Khái niệm “dân chủ” và “giáo dục” trong triết học chính trị - xã hội của J.Dewey45
2.1.1. Khái niệm “dân chủ” trong triết học chính trị - xã hội của J.Dewey 45
2.1.2. Khái niệm “giáo dục” trong triết học chính trị - xã hội của J. Dewey 51
2.2. Quan điểm về dân chủ trong giáo dục và giáo dục dân chủ 56
2.2.1. Về dân chủ trong giáo dục 56
2.2.2. Về giáo dục dân chủ 66
2.3. Trƣờng học thực nghiệm – mô hình thực hiện dân chủ trong giáo dục 72
2.4. Những giá trị và hạn chế của quan điểm J.Dewey về dân chủ trong giáo dục 84
KẾT LUẬN 92
DANH MỤC TÀI LIỆUTHAM KHẢO 94
1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, tư tưởng giáo dục là một trong những lĩnh vực
được quan tâm và nghiên cứu nhiều. Bởi vì giáo dục phản ánh tầm nhìn cũng như
mục tiêu và chiến lược phát triển của từng quốc gia, từng dân tộc, đồng thời, giáo
dục cũng có vai trò quyết định trong việc đào tạo những công dân tương lai có khả
năng thay đổi vận mệnh đất nước. Theo Nghị quyết số 29 – NQ/TW ngày 4/11/2013
của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, mục tiêu tổng quát của giáo dục nước nhà là ―giáo dục con người Việt Nam
phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá
nhân‖ [81]. Vì vậy, nhằm thực hiện được mục tiêu đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác
định việc ―kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp
thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới‖ [81] là rất quan trọng. Trên tinh
thần đó, trong quá trình hướng sự quan tâm và tìm hiểu của mình tới những mô hình
giáo dục thành công trên khắp thế giới, tác giả luận văn đặc biệt quan tâm tới quan
điểm về dân chủ trong giáo dục của Mỹ trong những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế

kỷ XX, đặc biệt là tư tưởng của John Dewey (1859 – 1952).
Thứ nhất, John Dewey là một trong những nhà sư phạm hàng đầu thế giới, đồng
thời cũng là người có ảnh hưởng không nhỏ tới hệ thống giáo dục phương Tây được
UNESCO công nhận. Trọng tâm trong tư tưởng giáo dục của ông là những phân
tích về dân chủ trong giáo dục. Nền giáo dục mang tính chất dân chủ đã tạo ra bước
đột phá trong lĩnh vực giáo dục cũng như chính trị - xã hội tại nước Mỹ những năm
đầu thế kỷ XX. Với mô hình trường học thực nghiệm được phát triển dựa trên
khung lý luận về dân chủ trong giáo dục, tư tưởng của Dewey đã tác động mạnh mẽ
tới hệ thống giáo dục công của nước Mỹ. Đồng thời, nó cũng tạo nên bước ngoặt
trong phong trào tiến bộ, làm nên thời đại vàng của giáo dục Mỹ. Tên tuổi của
Dewey trở thành thần tượng của nhiều thế hệ tri thức Mỹ. Richard Rorty (1931 –
2007) từng tuyên bố: ―John Dewey chính là triết gia mà tôi ngưỡng mộ nhất, tôi
được vinh hạnh coi mình là học trò‖ [4, tr. 119]. Noam Chomsky (1928 - ) khẳng
2

định, John Dewey ―là người có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời mình‖ [4; tr.119]. Với
những nỗ lực của mình trong quá trình truyền bá giá trị dân chủ và thực hiện hoài
bão canh tân giáo dục, Dewey xứng đáng được công nhận là nhà triết học và cải
cách giáo dục lớn của nước Mỹ.
Thứ hai, các tác phẩm lớn của John Dewey như Nhà trường và xã hội (1899),
Cách ta nghĩ (1909), Dân chủ và giáo dục (1916), Kinh nghiệm và giáo dục (1938)
đã đặt nền móng vững chắc cho tư tưởng giáo dục tiến bộ không chỉ trong nước Mỹ
mà còn ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là Phần Lan. Nhấn mạnh đặc biệt
tầm quan trọng của nhà trường và giáo dục nhà trường trong tiến trình phát triển xã
hội, Dewey khẳng định, nhà trường phải là nơi trẻ em được tập dượt cuộc sống của
một xã hội dân chủ với lý tưởng đề cao tự do và phẩm giá của con người, tính đa
dạng trong cá tính và năng lực cá nhân nhằm hòa nhập tốt hơn vào nền văn hóa
chung của nhân loại. Những trải nghiệm giáo dục xuất phát từ quan niệm về dân
chủ trong giáo dục sẽ giúp các cá nhân trở thành những công dân tích cực của xã
hội, tham gia đóng góp tài năng và sức lực của mình vào sự nghiệp xây dựng một

đất nước, đồng thời chủ động trong đời sống của riêng mình. Đây là điều mà thế hệ
trẻ Việt Nam rất cần học tập và trang bị cho bản thân.
Không những vậy,tháng 9 năm 2014, Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) đã công
bố Báo cáo về Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2013 – 2014 (The Global
Competitiveness Report 2013 – 2014)
1
. Theo báo cáo này, chỉ số về chất lượng của
hệ thống giáo dục Việt Nam, đặc biệt là về giáo dục và đào tạo đại học chỉ xếp hạng
thứ 95 trên tổng số 148 quốc gia và chất lượng quản lý trường học đứng thứ 125.
Điều này cho thấy những thành quả bước đầu trong quá trình đổi mới giáo dục như
tỷ lệ mù chữ giảm, phổ cập giáo dục tiểu học thành công, chi ngân sách cho giáo
dục tăng…là chưa đủ. Trên thực tế, chất lượng và hiệu quả giáo dục ở Việt Nam

1
Báo cáo về Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2013 – 2014 (The Global Competitiveness Report 2013 – 2014) là
báo cáo về năng lực cạnh tranh của 148 quốc gia trên thế giới được xếp hạng dựa trên 12 tiêu chí chính nhằm
đánh giá khả năng cung cấp mức độ thịnh vượng cho dân chúng ở các quốc gia khác nhau, trong đó, báo cáo
này cũng công bố chỉ số cạnh tranh quốc gia nhằm đo lường khuynh hướng của các thể chế, chính sách,
những nhân tố tạo thành trạng thái hiện thời và giới hạn cho tăng trưởng quốc tế của các quốc gia trên thế
giới.
3

còn thấp, đội ngũ lao động không đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp
trong nước và nước ngoài. Chúng ta cần những cải cách mạnh mẽ và hiệu quả hơn
nhằm cải thiện chất lượng đào tạo và quản lý trong giáo dục. Để làm được điều đó,
việc nghiên cứu lý luận giáo dục là yêu cầu cấp thiết nhằm tìm ra những giá trị bổ
khuyết cho những hạn chế của giáo dục Việt Nam.
Với những lý do trên, tác giả đã chọn Quan điểm của John Dewey về dân chủ
trong giáo dục làm đề tài luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu

Chúng ta có thể chia những tư liệu, công trình nghiên cứu về tư tưởng của John
Dewey nói chung, và tư tưởng dân chủ trong giáo dục của ông nói riêng làm ba
mảng chính: (1) những tài liệu về triết học phương Tây hiện đại nói chung và triết
học thực dụng Mỹ nói riêng; (2) các tài liệu về tư tưởng triết học của John Dewey
và (3) những tài liệu, công trình liên quan trực tiếp tới đề tài – quan điểm về dân
chủ gắn với cải cách giáo dục của John Dewey.
Mảng tư liệu thứ nhất là những tài liệu về triết học phương Tây hiện đại nói
chung và triết học thực dụng Mỹ nói riêng. Một trong những công trình đáng chú ý
về lịch sử triết học nói chung và triết học phương Tây hiện đại nói riêng phải kể đến
đó là cuốn giáo trình Lịch sử triết học (1998) do GS.TS Nguyễn Hữu Vui chủ biên.
Tập thể các tác giả đã trình bày có hệ thống về các trào lưu cũng như triết gia lớn
của triết học phương Tây. Tuy nhiên, do mục đích của mình, công trình chưa trình
bày cụ thể và chi tiết về từng trào lưu triết học, hơn nữa, những nhận định về các
học thuyết triết học, đặc biệt là các học thuyết phương Tây hiện đại chưa thực sự
phù hợp với bối cảnh hội nhập hiện nay. Bên cạnh đó, chúng ta có thể kể đến cuốn
Lịch sử triết học phương Tây hiện đại (2008) của tác giả Bùi Đăng Duy và Nguyễn
Tiến Dũng. Các tác giả cũng đã đưa ra góc nhìn tổng quan về tình hình phát triển
của triết học phương Tây qua các thời kỳ. Cuốn Triết học phương Tây hiện đại
(2010) của tác giả Trung Quốc Lưu Phóng Đồng do Lưu Khánh Trường dịch đã
cung cấp những tài liệu có tính hệ thống về triết học phương tây hiện đại, khảo sát
đa dạng các xu hướng triết học phương tây. Tuy nhiên, văn bản gốc là tiếng nước
4

ngoài, lại không có những chú thích cụ thể về thuật ngữ và nguyên tác đã gây khó
khăn cho độc giả khi muốn kiểm tra tính đúng đắn của thông tin. Bên cạnh những
công trình về triết học phương Tây hiện đại, triết học thực dụng cũng là một trong
những mảng đề tài được nhiều học giả Việt Nam quan tâm hiện nay. Đáng chú ý là
cuốn Triết học Mỹ (2012) của Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng. Trong công
trình này, các tác giả đã trình bày những trào lưu triết học chính của Mỹ từ những
năm đầu thế kỷ XX đến nay, trong đó có triết học thực dụng. Các tác giả đã cố gắng

trình bày khái quát các tư tưởng cơ bản của ba đại diện tiêu biểu của triết học thực
dụng là C.S.Peirce, W.James và J.Dewey, đồng thời chỉ ra mối liên kết giữa các tư
tưởng này và ảnh hưởng của chúng tới đời sống học thuật và văn hóa tinh thần
chung của người Mỹ.
Trong luận văn Thạc sĩ Triết học Triết học thực dụng (2011), tác giả Trần Thị
Nhàn đã trình bày một cách có hệ thống những tư tưởng, phạm trù triết học cơ bản
của triết học thực dụng, chẳng hạn như: chân lý, kinh nghiệm, tự do, dân chủ và đưa
những đánh giá về chúng. Tuy nhiên, các tài liệu mà tác giả tiếp cận để viết luận
văn này chủ yếu là tài liệu thứ cấp, khiến người đọc khó kiểm chứng thông tin được
trích dẫn.
Ngoài ra, một số những bài báo trong nước về triết học thực dụng có thể kể đến
như ―Chủ nghĩa thực dụng qua một số đại biểu của nó‖ (1997) của Nguyễn Hào
Hải, Tạp chí Triết học, số 4 (98), ―Triết học Mỹ với việc thiết lập nền tảng triết học
cho khoa học‖ (2002) của Nguyễn Tiến Dũng, Tạp chí Triết học, số 2 (129) cũng
cung cấp thêm cho chúng ta những tư liệu bổ ích về triết học thực dụng.
Trong các công trình bằng tiếng Anh liên quan đến mảng tư liệu thứ nhất có thể
kể đến cuốn Chủ nghĩa thực dụng và triết học cổ điển Mỹ (Pragmatism and classical
American philosophy) (1999) được tác giả John S.Tuhr biên tập. Nội dung chính
của tác phẩm đề cập đến triết học Mỹ với những ý nghĩa lịch sử cũng như ý nghĩa
đương đại của nó, qua đó thể hiện thái độ phê phán đối với xã hội đương thời về
vấn đề cấp thiết liên quan đến sự phát triển của nước Mỹ trong tương lai. Cuốn sách
này đồng thời cung cấp những bài giới thiệu, bình luận, nhận xét, đánh giá của các
5

học giả hàng đầu về triết học Mỹ nói chung và triết học thực dụng nói riêng, chọn
lọc trích một số bài viết quan trọng của các triết gia đại diện cho trào lưu triết học
thực dụng Mỹ như Charles S.Peirce, William James, Josiah Royce, George
Santayana, John Dewey và George Herbert Mead. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng đặt
triết học thực dụng – dòng triết học cổ điển Mỹ bên cạnh các xu hướng như chủ
nghĩa nữ quyền, tư tưởng Mỹ - Ấn, chủ nghĩa tự nhiên và chủ nghĩa hiện thực, qua

đó giúp độc giả có cách nhìn tổng quan và toàn diện về sự phát triển của triết học
Mỹ. Cuốn Hy vọng dân chủ: Chủ nghĩa thực dụng và Chính trị sự thật (Democratic
Hope: Pragmatism and the Politics of Truth) (2005) của tác giả Robert Westbrook
đã trình bày khái quát về tư tưởng của các triết gia thực dụng tiêu biểu thông qua
các tác phẩm của J.Dewey, W.James và C.Peirce. Đồng thời, công trình cũng chú ý
tới sự trỗi dậy của triết học thực dụng hiện nay qua những hậu duệ như Richard
Rorty, Hilary Putnam…và một số triết gia có ảnh hưởng khác trong tư tưởng chính
trị học đương đại Hoa Kỳ.
Chuyên trang ―Triết học Mỹ‖ (American philosophy) được đăng tải trên website
Bách khoa toàn thư triết học (Internet Encyclopedia Philosophy) đã cung cấp cách nhìn
lịch sử cụ thể và toàn diện về triết học Mỹ nói chung và triết học thực dụng nói riêng,
đặt triết học thực dụng trong mối liên hệ với những tư tưởng tiền đề cũng như những
ảnh hưởng của nó tới các tư tưởng sau này. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của bài báo,
các tư tưởng của chủ nghĩa thực dụng chỉ được đề cập đến một cách khái lược từ góc
độ triết học, chưa được luận giải một cách thấu đáo và có hệ thống.
Mảng thứ hai gồm những tư liệu về triết học của John Dewey, một trong ba đại
diện tiêu biểu của triết học thực dụng.
Hiện nay, một số công trình về triết học của John Dewey của giới nghiên cứu
trong nước có thể kể đến như luận văn Thạc sĩ Triết học Triết lý giáo dục của J.
Dewey trong “Dân chủ và giáo dục” (2011) của Thân Thị Hạnh. Trong luận văn
này tác giả đã phân tích những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến sự hình thành triết lý
giáo dục của Dewey, luận giải những nội dung cơ bản của triết lý giáo dục đó được
6

thể hiện trong tác phẩm Dân chủ và giáo dục và đưa ra một số giá trị và hạn chế của
triết lý giáo dục của Dewey trong bối cảnh cải cách giáo dục Việt Nam hiện nay.
Nhóm tác giả Quách Lê Công và Hà Lê Dũng trong bài báo ―Triết lý giáo dục
của John Dewey trong tác phẩm ―Kinh nghiệm và tự nhiên‖ trên Tạp chí khoa học
và công nghệ, trường ĐH Khoa học Huế (02/ 2014) đã tập trung luận giải triết lý
giáo dục của J.Dewey qua việc khảo sát một trong những tác phẩm nổi tiếng của

ông – Kinh nghiệm và giáo dục (Experience and Education) nhằm đưa ra những đề
xuất hữu ích cho việc phát triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Thêm vào đó, tác
giả Nguyễn Ái Học cũng đã công bố bài báo có tên gọi ―Triết lý giáo dục của John
Dewey với giáo dục và dạy học ở Việt Nam‖ (03/ 2014) trên website Khoa Ngữ văn
– ĐH Sư phạm Hà Nội. Bài viết này đã làm rõ một số những luận điểm cơ bản trong
triết học Dewey như mối quan hệ giữa triết học và giáo dục học, triết lý giáo dục
của John Dewey và đề xuất một số kiến nghị cho việc áp dụng triết lý giáo dục này
vào dạy và học ngữ văn trong trường trung học phổ thông.
Bên cạnh đó, trong phần tư liệu nước ngoài, trước hết, chúng ta phải kể đến,
cuốn John Dewey và Liên tưởng đạo đức: Chủ nghĩa thực dụng trong đạo đức học
(John Dewey and Moral Imagination: Pragmatism in Ethics) (2003) của Steven
Fesmire. Trong cuốn sách này, Fesmire cho rằng những đóng góp của Dewey đối
với kinh nghiệm đạo đức, niềm tin cũng như phán đoán vẫn chưa được giới nghiên
cứu khám phá và đánh giá đúng mức, đặc biệt là hai khái niệm nền tảng trong đạo
đức học: niềm tin và lý trí. Trong cuốn sách này, tác giả cũng đưa ra cách tiếp cận
triết học thực dụng của mình đối với chính trị học, đạo đức học và giáo dục đạo
đức. Cuốn Đạo đức học của John Dewey: Dân chủ là Kinh nghiệm (John Dewey’s
Ethics: Democracy as Experience) (2008) của Gregory Fernando Pappas. Cuốn sách
này đã trình bày các đánh giá có tính hệ thống và toàn diện về đạo đức học của John
Dewey, qua đó chỉ ra rằng, việc thấu hiểu đạo đức học là cách tốt nhất để có thể
hiểu các khía cạnh khác trong tư tưởng triết học của Dewey, đặc biệt là tư tưởng về
dân chủ, bởi vì dân chủ liên quan trực tiếp tới cách luận giải của Dewey về cá nhân,
cộng đồng cũng như mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng.
7

Ngoài ra, phải kể đến các bài báo trên các tạp chí uy tín, chẳng hạn bài viết
―Phổ biến tri thức: tư tưởng của John Dewey về các chuyên gia và nền dân chủ Mỹ‖
(The popularization of knowledge: John Dewey on Experts and American
Democracy) (1995) của Laura M.Wethoff trên tạp chí History of Education
Quarterly, vol.35, (no.1) đã đề cập và phân tích một trong những nội hàm của khái

niệm dân chủ trong triết học chính trị - xã hội của John Dewey - quá trình phổ biến
tri thức. Bài viết đã chỉ ra mối quan hệ của tri thức, của các học giả nắm giữ tri thức
của nhân loại đối với cách thức xây dựng, mở rộng nền dân chủ dựa trên tri thức,
đồng thời đưa ra một số nhận định về giá trị và hạn chế của quan niệm này. Bài viết
―Nhìn lại tác phẩm Nhà trường và xã hội của John Dewey‖ (John Dewey’s School
and Society Revisited) (1998), của Philip W.Jackson đăng trên tạp chí The
elementary school journal, vol. 98 (No.5). Tác giả đã trình bày tóm tắt những bài
giảng của Dewey về mối quan hệ giữa nhà trường, xã hội và đời sống của trẻ em, từ
đó đưa ra đánh giá của mình về những bài giảng này. Tuy nhiên, bài viết chỉ tập
trung vào khía cạnh giáo dục, không tập trung vào phân tích mối quan hệ giữa dân
chủ và giáo dục mà trong đó dân chủ là nền tảng cho các hoạt động giáo dục. Bài
viết ―Tái thiết lại giáo dục dân chủ của Dewey vì một thế giới toàn cầu hóa‖
(Reconstructing Deweyan democratic education for a globalizing world) (2009) của
tác giả Jessica Ching-Sze Wang đăng trên tạp chí Educational Theory, vol.59,
(no.4) đã cung cấp cho độc giả sự biến chuyển trong quan niệm về ―dân chủ‖ của
Dewey qua các thời kỳ cũng như những nỗ lực thực hiện dân chủ gắn liền với giáo
dục con người của ông. Mặc dù vậy, bài viết vẫn chưa làm rõ được sự vận dụng
quan niệm dân chủ của Dewey đối với nền giáo dục hiện đại đặc biệt trong thời đại
toàn cầu hóa.
Mảng tư liệu thứ ba là các công trình liên quan trực tiếp đến đề tài – quan điểm
của John Dewey về dân chủ trong giáo dục. Phần tư liệu tiếng Việt về tư tưởng dân
chủ trong giáo dục của Dewey vẫn chưa được đề cập trong các công trình chuyên
khảo cũng như giáo trình, bài báo và có thể nói đây còn là mảng trống. Tuy nhiên,
tài liệu tiếng nước ngoài lại tương đối phong phú. Trong số này, phải kể đến cuốn
8

Tuyển tập Dewey (The essential Dewey) (1998) do Larry A.Hickman và Thomas
M.Alexander biên tập. Đây cũng là một trong những tài liệu nguyên tác hữu ích khi
tiếp cận tư tưởng của triết gia này. Bộ tuyển tập gồm hai cuốn, cuốn 1: Chủ nghĩa
thực dụng, Giáo dục và Dân chủ (vol 1: Pragmatism, Education, Democracy) và

cuốn 2: Đạo đức học, Logic học, Tâm lý học (vol 2: Ethics, Logic, Psychology) đều
bao gồm những bài viết của Dewey được chọn lọc và biên tập, chủ yếu là phần trích
các chương trong các sách của Dewey hoặc những bài viết nhỏ, lẻ được đăng tạp
chí của Dewey. Qua đó, người đọc có thể tiếp cận tác phẩm của Dewey theo hệ vấn
đề, cũng như có cách nhìn xâu chuỗi và có tính hệ thống đối với tư tưởng triết học
của triết gia này. Cuốn Thẩm tra và Giáo dục: John Dewey và Vấn đề dân chủ
(Inquiry And Education: John Dewey And the Quest for Democracy) của James
Johnston (2006) bao gồm các bài viết của chính Dewey về tư tưởng giáo dục của
mình và sự phù hợp của nó với triết học của ông. Bên cạnh đó, tác giả cuốn sách
cũng tập trung vào bốn vấn đề cơ bản của triết học chính trị - xã hội Dewey là
phương pháp thẩm tra, sự tăng trưởng, cộng đồng và nền dân chủ và chỉ ra mối
quan hệ chặt chẽ giữa các khái niệm này với bản thân nền giáo dục. Cuốn John
Dewey và viễn cảnh giáo dục của chúng ta (John Dewey and our educational
prospect) do David T.Hansen (2007) làm chủ biên lại bao gồm những bài bình luận,
đánh giá của các học giả hiện nay về triết học giáo dục của John Dewey giới hạn
trong tác phẩm Dân chủ và giáo dục (Education and Democracy). Những bài bình
luận chuyên sâu về Dân chủ và giáo dục được tuyển chọn đưa vào tác phẩm này đã
giúp độc giả hiểu sâu sắc hơn về tác phẩm này, một trong những tác phẩm điển hình
thể hiện triết học giáo dục của Dewey.
Bài viết ―Nền dân chủ Mỹ của John Dewey‖ (John Dewey’s American
Democrat) (1979) của Quentin Anderson (Daedalus, vol.108, (No.3) cũng đã trình
bày về sự mở rộng những ứng dụng trong khái niệm ―dân chủ‖ của Dewey sang quá
trình thực thi nền dân chủ hiện đại, qua đó giúp độc giả nhận thấy tính thực tiễn cao
của tư tưởng triết học chính trị - xã hội của ông. Tuy nhiên, do mục đích của mình,
các tác giả trên cũng chưa trình bày được một cách đầy đủ và toàn diện vấn đề dân
9

chủ trong giáo dục. Bài viết ―Dân chủ như là liên kết phản tư: John Dewey và lý
thuyết dân chủ ngày nay‖ (Democracy as Reflexive cooperation: John Dewey and
the theory of democracy today) (1998) (Political Theory, vol.26, No.6) của Axel

Honneth và John.M.M Farrell. Bài viết ―Dewey, Dân chủ và Công dân‖ (Dewey,
Democracy and Citizenship) (2001) của Debra J.Anderson và Robert L.Major (The
Clearing House, vol.75, No. 2) đã trình bày những thông tin đáng chú ý về cuộc đời
cũng như các hoạt động chính trị - xã hội thực tế của Dewey, đồng thời những thách
thức và mục tiêu của nền dân chủ theo quan điểm Dewey cũng được luận giải.
Tóm lại, các công trình kể trên đã cung cấp bức tranh tương đối toàn diện về
triết học chính trị xã hội của Dewey với trọng tâm là khái niệm dân chủ, cũng như
về triết học thực dụng Mỹ và triết học phương Tây hiện đại, các công trình chủ yếu
là bằng tiếng nước ngoài, các công trình bằng tiếng Việt về đề tài luận văn còn ít,
chưa phong phú, gây khó khăn cho những nghiên cứu chuyên sâu. Do vậy, việc
nghiên cứu quan niệm về dân chủ trong giáo dục, mối quan hệ giữa dân chủ và giáo
dục về cả lý luận lẫn thực tiễn của Dewey vẫn rất mới mẻ mà cho đến nay, ở Việt
Nam, vẫn chưa có một một công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu và có hệ
thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích nghiên cứu: mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích làm rõ
quan điểm của John Dewey về dân chủ trong giáo dục, từ đó đưa ra một số đánh giá
về giá trị và hạn chế của quan niệm này.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích trên thì luận văn đã tập
trung giải quyết những vấn đề sau:
+ Phân tích những điều kiện và tiền đề tư tưởng cho sự ra đời quan điểm của
John Dewey về dân chủ trong giáo dục.
+ Làm rõ những nội dung cơ bản của quan điểm của John Dewey về dân chủ
trong giáo dục.
+ Đưa ra một số nhận định về giá trị và hạn chế của quan điểm của John Dewey
về dân chủ trong giáo dục.
10

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những tư tưởng cơ bản của John Dewey

về dân chủ trong giáo dục.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tư tưởng về dân chủ trong giáo dục cu
̉
a
John Dewey và giới hạn trong một số tác phẩm tiêu biểu của ông, gồm: The school
and society (Nhà trường và xã hội) (1899), How we think (Cách ta nghĩ) (1909),
Democracy and Education (Dân chủ và giáo dục) (1916), và Experience and
Education (Kinh nghiệm và giáo dục) (1938).
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Về cơ sở lý luận: luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong nghiên cứu triết học.
Về phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng các phương pháp của triết học
Mác – Lênin, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp logic – lịch sử,
phương pháp văn bản học, phương pháp so sánh, phương pháp quy nạp, đặc biệt là
phương pháp macxit nghiên cứu lịch sử triết học.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần giới thiệu một cách có hệ thống về nội
dung và phương thức thực hiện dân chủ trong giáo dục của John Dewey, bước đầu
chỉ ra những giá trị, hạn chế chủ yếu trong tư tưởng đó, từ đó đóng góp thêm tri
thức vào mảng nghiên cứu về Dewey – triết học giáo dục cũng như triết học chính
trị xã hội của ông tại Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn mong muốn cung cấp một phần tài liệu tham khảo
cho công tác giảng dạy, nghiên cứu cho những ai quan tâm đến triết học của Dewey,
đồng thời góp phần đưa ra một hướng đi, một phương thức cho công cuộc đổi mới
nền giáo dục Việt Nam nhằm đạt tới mục tiêu phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội
dung của luận văn gồm 2 chương và 7 tiết.
11


CHƢƠNG 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ RA ĐỜI
QUAN ĐIỂM CỦA JOHN DEWEY VỀ DÂN CHỦ TRONG GIÁO DỤC
1.1.Điều kiện kinh tế - xã hội cho sự ra đời quan điểm của J. Dewey về
dân chủ trong giáo dục
Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nước Mỹ đã trải qua những thay
đổi to lớn. Đất nước dần phát triển và trưởng thành, những biến đổi về tình hình
kinh tế đã kéo theo nhiều đổi thay trên các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội và
khoa học.
Thời điểm từ năm 1890 đến 1917, kinh tế Mỹ đạt được những bước phát triển
thần kỳ trong cả công nghiệp, nông nghiệp lẫn dịch vụ. Thời kỳ này còn được gọi là
thời kỳ tiến bộ trong lịch sử phát triển nước Mỹ. Ngành công nghiệp trở thành đầu
tàu lôi kéo sự đi lên của các ngành khác với quá trình tập trung hóa cao độ và hình
thành các tập đoàn công nghiệp hay các công ty tập trung. Nông nghiệp với sự áp
dụng các thành tựu của cách mạng công nghệ và được sự hỗ trợ của chính phủ cho
đầu ra sản phẩm, cùng với các dự án hợp tác nghiên cứu của các trường đại học, các
viện nghiên cứu đã cho ra đời những nông sản phẩm chất tốt và có khả năng nuôi
trồng cao, khiến ngành này không chỉ phục vụ được nhu cầu của đại đa số người
dân trong nước mà còn có thể xuất khẩu. Trong bối cảnh vận dụng học thuyết kinh
tế tự do của Adams Smith (1723 – 1790), nhà nước không can thiệp vào các hoạt
động kinh tế mà để nền kinh tế tự điều tiết theo quy luật cung – cầu và ―bàn tay vô
hình‖ của thị trường với niềm tin rằng, nếu chính phủ khuyến khích khu vực kinh tế
tư nhân phát triển, hầu hết các tầng lớp dân cư khác sẽ được hưởng lợi từ sự phát
triển đó. Hàng loạt các tập đoàn tài chính, ngân hàng lớn cũng lần lượt ra đời. Sự
phát đạt của các công ty cũng như sự thịnh vượng của nền kinh tế đã đem lại sự
giàu có thật sự và nhiều lợi ích cho đa số người dân, đồng thời tạo nên lối sống tiêu
dùng của phần lớn công dân Mỹ như là một đặc trưng cho văn hóa quốc gia này.
Hơn nữa, sự phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ Tiến bộ cũng đã tác động
không nhỏ tới đời sống chính trị Mỹ. Đảng Cộng hòa chiếm được lòng tin của dân
chúng, có được những ủng hộ quan trọng về chính trị trong suốt thời gian cầm

12

quyền. Tuy nhiên, người dân vẫn tiếp tục mong muốn chính quyền ở mọi cấp từ
trung ương tới địa phương phải dân chủ hơn, hạn chế các tập đoàn công nghiệp và
kiểm soát tư bản độc quyền, giảm tệ nạn ở các thành phố và thừa nhận các tiêu
chuẩn đạo đức của tầng lớp trung lưu, chủ yếu là đội ngũ lao động ―cổ cồn trắng‖
với số lượng ngày càng đông đảo theo sự phát triển của các siêu đô thị và mạng lưới
công nghiệp dịch vụ đa dạng. Từ những mong mỏi của người dân, mô hình dân chủ
ở các tiểu bang dần chuyển sang hình thức dân chủ trực tiếp. Người dân trực tiếp
bầu thượng nghị sĩ thay cho việc thượng nghị sĩ được cơ quan lập pháp bang lựa
chọn. Trong thời kỳ này, việc phụ nữ được trao quyền bầu cử là một kết quả tích
cực cho quá trình đấu tranh giải phóng phụ nữ kéo dài hàng thập niên ở Mỹ.
Tuy nhiên, nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ đã bắt đầu có dấu hiệu sa sút từ
giữa những năm 1920. Ngay sau đó, sự phồn vinh và thịnh vượng trong hơn một thế
kỷ kể từ thời lập quốc đã bị thử thách nghiêm trọng trong cuộc Đại suy thoái kinh tế
(Great Depression) từ 1929 - 1933. Cuộc đại suy thoái đã phá hủy gần như hoàn
toàn nền kinh tế non trẻ của Mỹ. Lĩnh vực ngân hàng với bong bóng chứng khoán
đã dẫn tới sự sụp đổ của các thế lực tài chính hùng mạnh, lạm phát tiền tệ, các ngân
hàng vỡ nợ liên tục, các tập đoàn công nghiệp liên tục phá sản, nông sản số lượng
lớn nhưng không có đầu ra trở nên rẻ mạt, trong khi các hàng hóa khác lại khan
hiếm trở nên rất đắt đỏ, hàng tram nghìn thanh niên không có việc làm, đời sống
người dân trở nên khó khăn…
Sự suy sụp của nền kinh tế đã tạo nên một thử thách lớn đối với bối cảnh chính
trị nước Mỹ lúc bấy giờ. Khi đó, mối quan tâm của người dân là: bằng cách nào, đất
nước thoát khỏi khủng hoảng và khôi phục sự thịnh vượng từng có trước đây. Nơi
từng được gọi là mảnh đất của những vận hội và niềm hy vọng giờ đây trở thành
miền đất đầy âu lo và tuyệt vọng. Người Mỹ bắt đầu tự vấn về những tín điều mà họ
vẫn luôn tin tưởng như dân chủ, thị trường tự do, chủ nghĩa cá nhân hay chủ nghĩa
tư bản. Cuộc bầu cử tổng thống năm 1932 với sự thắng lợi của ứng viên đảng Dân
chủ Franklin Delano Roosevelt (1882 – 1945) một lần nữa khẳng định niềm tin của

người dân Mỹ với những tín điều về dân chủ. Quá trình thực hiện các chính sách
13

kinh tế mới (New Deal 1, 2) của tổng thống Roosevelt với bản chất từ bỏ chủ nghĩa
tư bản phi điều tiết, trở lại kiểm soát hệ thống đường sắt của nhà nước, đưa ra hàng
loạt cải cách luật pháp bang và liên bang, tạo việc làm cho thanh niên qua các dự án
công cộng, hỗ trợ các doanh nghiệp, cắt giảm sản lượng và trợ cấp cho nông nghiệp,
can thiệp vào thị trường đã dần dần giúp kinh tế Mỹ đi vào quỹ đạo vốn có, xây
dựng nền tảng cho một liên minh chính trị vững chắc và thu hút sự quan tâm của
người dân đối với chính phủ. Kết quả là, cuộc suy thoái chính thức kết thúc năm
1941 khi nước Mỹ bắt đầu có ý định tham gia vào Chiến tranh thế giới thứ hai.
Những năm tháng này cũng chứng kiến sự biến chuyển của Mỹ từ một nền cộng
hòa non trẻ sang một nước đế quốc với xu hướng mở rộng tầm ảnh hưởng ra khu
vực Thái Bình Dương và khu vực Mỹ - La tinh với hàng loạt những quyết sách như
mua lại Alaska từ Nga (1867), kiểm soát Puerto Rico, Guam, Cuba và quần đảo
Philippines (sau khi thắng Tây Ban Nha năm 1898), sáp nhập quốc đảo Hawaii
(1893), xây dựng kênh đào Panama (1914) nhằm đáp ứng những toan tính về vị trí
địa lý… Đồng thời, Mỹ cũng dần từ bỏ thế đứng trung lập hay còn gọi là chủ nghĩa
biệt lập Mỹ trong ngoại giao thời Chiến tranh thế giới thứ nhất để chính thức bước
vào Chiến tranh thế giới thứ hai sau sự kiện Trân Châu Cảng. Đây cũng là giai đoạn
chủ nghĩa tư bản trên toàn thế giới phát triển như vũ bão dù chịu tác động không
nhỏ của suy thoái kinh tế, các thế lực châu Âu và Nhật Bản cùng cạnh tranh nhằm
tranh giành quyền ảnh hưởng tại châu Á già cỗi và đầy mỏi mệt trong những ngày
tháng cuối cùng của chế độ phong kiến.
Văn hóa – xã hội cũng chịu tác động không nhỏ do sự biến đổi của nền kinh tế.
Trong trật tự công nghiệp mới, thành phố trở thành trung tâm đầu não quy tụ tất cả
các nguồn lực năng động nhất: doanh nghiệp, tổ chức tài chính, lực lượng lao động,
làng mạc thành thị trấn, thị trấn thành thành phố, siêu đô thị. Đại suy thoái kinh tế
khiến tình trạng phân hóa sâu sắc của nhóm người nghèo và người giàu nắm giữ
phần lớn của cải quốc gia trở nên nghiêm trọng hơn. Tình trạng bất bình đẳng giới

vẫn tiếp diễn khi công nhân nữ chỉ được trả công bằng ¼ công nhân nam và nạn
phân biệt chủng tộc cực đoan đối với người Mỹ da đen vẫn kéo dài dai dẳng cho tới
14

thập niên 1950 của thế kỷ XX, thời kỳ rộ lên các phong trào đòi quyền công dân
cho phụ nữ và người Mỹ gốc Phi ở các bang miền Nam. Quá trình mở rộng lãnh thổ
về phía Tây tới những vùng đất của người da đỏ trong những năm cuối thế kỷ XIX
và di chứng của quá trình sử dụng lao động nô lệ da đen ở các bang phía Nam đã
gây nên những xung đột không đáng có giữa cư dân bản địa và những người khai
hoang.
Trong khi đó, tự do tôn giáo và tín ngưỡng vẫn được bảo đảm từ thời lập quốc
nhưng trong thời kỳ suy thoái, số lượng tín đồ cũng có sự giảm sút đáng kể. Giáo
dục công những năm cuối thế kỷ XIX đã được triển khai rộng khắp và miễn phí. Hệ
thống giáo dục được xây dựng đảm bảo tiêu chí phổ cập, toàn diện, chuyên nghiệp
và phi tập trung hóa. Hai triết lý giáo dục chính có những tranh cãi quyết liệt tồn tại
trong những năm 1890 với hai khẩu hiệu hoàn toàn trái ngược nhau đó là lý thuyết
―lấy trẻ em làm trung tâm‖
2
và thuyết ―lấy chương trình học làm trung tâm‖
3
. Tuy
nhiên, phong trào ―giáo dục tiến bộ‖
4
do John Dewey khởi xướng đã công kích cả
hai xu hướng tư tưởng giáo dục kể trên và xác lập một triết lý giáo dục mới dựa trên
kinh nghiệm của bản thân trẻ em và lựa chọn các môn học đa dạng và chủ đề học
tập khác nhau. Người Mỹ, từ thời của những nhà lập quốc như Thomas Jefferson
(1743 – 1826) đã luôn tin rằng, trường học công luôn được trông đợi là ―sẽ phục vụ
cho công bằng xã hội và là nơi mà mỗi đứa trẻ đều phải được đào tạo cơ bản và


2
Lý thuyết ―lấy trẻ em làm trung tâm‖ trong giáo dục (a child – centred education) do trường phái lãng mạn
trong giáo dục với đại biểu là Granville Stanley Hall (1844 – 1924) đề xuất. Lý thuyết này cho rằng chương
trình học tập nên phụ thuộc vào sự tăng trưởng tự nhiên và tự do của trẻ em. Các đại diện của thuyết này
cũng cho rằng xuất phát điểm của giáo dục nên là các động cơ tự nhiên và thiên bẩm của trẻ em, thay vì nội
dung và chủ đề của môn học.
3
Lý thuyết ―lấy chương trình học là trung tâm trong giáo dục‖ (a curriculum – centred education) do William
Torrey Harris (1835 – 1909) chủ trương. Lý thuyết này ủng hộ quy trình giảng dạy có kỷ luật theo từng giai
đoạn phát triển của trẻ em với mục đích giúp chúng tiếp nhận được nhiều nhất trí tuệ tổng thể của nền văn
minh nhân loại. Đồng thời thuyết này cũng quan tâm chủ yếu tới nội dung các môn học để từ đó xác định
phương pháp học tập phù hợp. Những người theo thuyết này trông đợi trẻ em sẽ chỉ tiếp nhận và tán đồng với
những gì được dạy, trở nên dễ dàng uốn nắn và ngoan ngoãn hơn.
4
Phong trào giáo dục tiến bộ (progressive education) là thuật ngữ được sử dụng nhằm diễn tả ý tưởng và nỗ
lực của các nhà hoạt động giáo dục trong việc biến trường học thành một chủ thể có vai trò tích cực trong xã
hội dân chủ.Trường học không chỉ là nơi đạt được tri thức mà còn là nơi chốn để trẻ em học cách sống như
thế nào trong một cộng đồng. Hai nội dung chính của phong trào giáo dục tiến bộ là tôn trọng sự đa dạng
(hàm ý mỗi cá nhân được thừa nhận dựa trên năng lực, tính cách, sở thích của cá nhân đó) và sự phát triển trí
tuệ xã hội có tính phê phán nhằm cho phép cá nhân hiểu và tham gia tích cực vào các vấn đề của cộng đồng
với nỗ lực tập thể nhằm đạt tới sự thịnh vượng chung.
15

vững chãi, trường học phải là một lực lượng dân chủ mạnh mẽ nhằm xây dựng một
quốc gia mà ở đó mỗi con người phải được coi như là một tài sản của chế độ mới‖
[83]. Hệ thống trường học công đã tạo ra các tiền đề cần thiết cho một xã hội dân
chủ có trật tự, khuyến khích sự phát triển của tính cách dân tộc và hỗ trợ cho nền
dân chủ Mỹ. Mô hình trường học tập trung nhiều hơn vào mối tương tác thầy trò,
gắn kết giáo dục với các tiến trình xã hội và mục tiêu nghề nghiệp cụ thể đã góp
phần tạo nên một diện mạo mới cho toàn bộ hệ thống giáo dục Mỹ.

Về triết học, chủ nghĩa Heghel mới (Neo – Hegelianism) bùng phát trên đất Mỹ
với mục tiêu khôi phục triết học Hegel nhằm giải quyết những vấn đề cũng như
thách thức chính trị - xã hội nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại
hóa. Điều này đã có ảnh hưởng không nhỏ tới nền học thuật nước Mỹ trong những
năm 1860. Tuy nhiên, một thời gian sau, dòng triết học này đã bị triết học thực dụng
(pragmatism) phê phán và thay thế. Thậm chí, trên nền tảng triết học thực dụng, các
trào lưu triết học khác gồm chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tự nhiên và bản thể luận
đã chi phối không gian tư tưởng nước Mỹ trong ba thập niên đầu thế kỷ XX.
Triết học thực dụng ra đời trong khoảng những năm 1871 đến 1874 tại câu lạc
bộ Siêu hình, thuộc đại học Havard do Charles Sanders Peirce (1839 – 1914) và một
số thành viên khác sáng lập ra và sau này được William James (1842 – 1910) phát
triển với quan niệm về chân lý và tính hữu dụng. John Dewey (1859 – 1952) được
biết đến là người đã nêu cao ngọn cờ triết học thực dụng trên hầu hết những khía
cạnh khác nhau của đời sống thực tế. Triết học thực dụng được đánh giá là truyền
thống triết học cổ điển Mỹ với khẳng định: ―Mọi chân lý, lý thuyết đều có thể sai
lầm và có thể được sửa chữa‖ [84], cho rằng chân lý chỉ mang tính tương đối, đưa
ra thuyết có thể sai lầm trong khoa học (fallibilism) và quan tâm tới tính chủ thể
trong nghiên cứu khoa học xác định vấn đề và khảo nghiệm chân lý.
Bên cạnh triết học, các ngành khoa học xã hội khác ở Mỹ thời điểm này cũng
chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Darwin xã hội – áp dụng thuyết tiến hóa sinh vật và
chọn lọc tự nhiên của Darwin vào nghiên cứu các yếu tố xã hội. Sự ảnh hưởng này
chủ yếu xuất hiện trong bộ môn tâm lý học và xã hội học – phân ngành tách ra khỏi
16

triết học trở thành khoa học độc lập vào những năm cuối thế kỷ 19 với đại diện là
Herbert Spencer (1820 – 1903) và William Graham Samner (1840 – 1910).
Không chỉ khoa học xã hội và triết học, khoa học công nghệ cũng đạt được
những thành tựu đáng kể. Ngành vật lý học đã phát minh ra phản ứng hạt nhân và
sau đó ứng dụng vào chế tạo bom nguyên tử. Thiên văn học phát hiện ra tiểu hành
tinh số 9 trong hệ mặt trời – tiểu hành tinh Pluto hay tiến bộ trong y học là phát hiện

và chế tạo thành công thuốc kháng sinh penicillin cũng như việc tìm ra phương thức
truyền máu sau này được áp dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Bên cạnh đó,
ngành đo đạc và địa chất là dấu ấn về những thành tựu tột bậc của người Mỹ trong
phạm vi nền văn hóa tri thức loài người những năm cuối thế kỷ XIX. Những tiến bộ
trong hầu hết các ngành khoa học đã tạo nên một nước Mỹ có ―phong cách khoa
học có những đóng góp không nhỏ vào nền tri thức thế giới với những đòi hỏi về
một nền khoa học có tính chất phê phán, liên tục thay đổi, trọng thực nghiệm hơn lý
thuyết và không chịu bất kỳ sự ràng buộc nào về học thuật. Công việc nghiên cứu
đó sẽ cho ra đời một nền văn hóa liên tục thay đổi và điều chỉnh, khoa học không
tạo ra trật tự mà ngược lại, gây ra những xáo trộn khi liên tục tạo nên ―cú sốc của
cái mới‖ [83].
Sự lớn lên một cách thần kỳ của nước Mỹ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX đã góp phần tạo nên ―một sự phồn vinh mà trong quá khứ không ai có thể
hình dung được, một sức mạnh ngoài tầm vóc con người, một tốc độ của sao băng
đã tạo ra một thế giới kích thích, dễ cáu gắt, dễ gây chuyện, vô lý và lo âu‖ [7, tr.
36]. Sự xuất hiện và nở rộ của chủ nghĩa Hegel mới, chủ nghĩa thực dụng và chủ
nghĩa Darwin xã hội đã thể hiện tinh thần trọng khoa học và ý thức về cái tôi của
người Mỹ. Chính bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học ấy đã ảnh hưởng
không nhỏ tới sự ra đời triết học chính trị - xã hội của Dewey nói chung và sự phát
triển những suy tư về dân chủ trong giáo dục của ông nói riêng.



17

1.2. Những tiền đề tƣ tƣởng cho sự ra đời quan điểm của J.Dewey về
dân chủ trong giáo dục
John Dewey sống trong một giai đoạn chứng kiến những đổi thay mạnh mẽ của
lịch sử nước Mỹ với những biến động nhất định trên nhiều lĩnh vực từ kinh tế tới
chính trị, văn hóa, xã hội. Điều này đã để lại dấu ấn tương đối rõ nét trong quá trình

vận động và biến chuyển của triết học Dewey nói chung và chính quan điểm về dân
chủ trong giáo dục nói riêng. Những chuyển biến này thậm chí còn được Dewey
thuật lại trong các bản tự thuật của ông sau này, do đó, khi nhắc đến những tiền đề
lý luận cho sự hình thành tư tưởng của Dewey về dân chủ trong giáo dục, cần phải
đề cập đến những nền tảng suy tư xuất phát từ truyền thống triết học châu Âu lục
địa như chủ nghĩa Hegel mới, quan niệm về giáo dục của W.Humboldt, cho đến
những tư tưởng hình thành dựa trên yêu cầu của điều kiện kinh tế - xã hội và mang
đậm đặc thù nước Mỹ là triết học thực dụng vốn được xem là dòng triết học đặc
trưng của nước Mỹ với hai đại diện tiêu biểu là Charles Sander Peirce và William
James.
1.2.1. Tư tưởng triết học của chủ nghĩa Hegel mới
Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770 -1831) là nhà biện chứng lỗi lạc của triết
học duy tâm Đức thế kỷ XIX. Những phạm trù cơ bản trong học thuyết của Hegel
phải kể đến như ý niệm tuyệt đối, nhà nước pháp quyền, quyền con người… đã trở
thành những vấn đề được quan tâm và bàn luận nhiều và ảnh hưởng không nhỏ tới
sự phát triển của triết học phương Tây hiện đại về sau. Hegel đặc biệt quan tâm và
nhấn mạnh tầm quan trọng của tư duy khoa học, của lý trí con người trong sự phát
triển của khoa học logic, triết học cũng như diễn biến của lịch sử và xã hội. Vào nửa
sau thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, nền học thuật của nhiều quốc gia đã chứng kiến
những nỗ lực nhằm phục hồi tầm ảnh hưởng của triết học Hegel đã bị chủ nghĩa
thực chứng thay thế cũng như cải biến tư tưởng duy tâm khách quan của Hegel
thông qua xét lại một cách có phê phán hệ thống triết học này.
Chủ nghĩa Hegel mới (Neo – Hegelianism) ám chỉ một số trường phái tư tưởng
được khơi nguồn cảm hứng và gắn bó chặt chẽ với các ý tưởng triết học của Hegel.
18

Trong suốt những thập niên cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, nhiều nhà triết học
châu Âu và Mỹ đã thể hiện niềm hứng thú đối với nhiều khía cạnh trong các tác
phẩm của Hegel. Ở Mỹ, phong trào làm sống lại Hegel bắt đầu từ những năm 60
của thế kỷ XIX. Trong thời kỳ đang xảy ra Nội chiến này, những nhà cá nhân chủ

nghĩa cấp tiến ở Boston thấy rằng cần phải củng cố nhà nước nhằm đảm bảo những
quyền cơ bản của cá nhân và ý thức xã hội đã chuyển dần từ chú trọng cá nhân sang
chú trọng quốc gia, toàn thể. Vì vậy, Hegel dường như phù hợp với yêu cầu đó. Sau
này, chủ nghĩa Hegel mới được phát triển hơn nữa nhờ nỗ lực của triết gia William
Torrey Harris (1835 – 1909). Năm 1866, Harris đã sáng lập trường phái Saint Louis
nhằm dịch thuật các tác phẩm và truyền bá tư tưởng của Hegel trên đất Mỹ. Năm
1867, ông tiếp tục sáng lập Tạp chí triết học tư biện (The Journal of Speculative
Philosophy) phục vụ cho yêu cầu mở rộng cộng đồng những người theo chủ nghĩa
Hegel mới, đây cũng được coi là tạp chí triết học đầu tiên của nước Mỹ. Sau này
triết học Hegel bị thay thế bởi những trào lưu tư tưởng khác tiến bộ và nhân văn
hơn nhưng nó vẫn đóng vai trò không nhỏ trong việc định hình và phát triển triết
học thực dụng My
̃
nói chung cu
̃
ng như tư tươ
̉
ng của Dewey nói riêng .
Dewey, dưới sự dìu dắt của người thầy hướng dẫn George Sylvester Morris
(1840 – 1889) đã chịu ảnh hưởng của triết học Hegel trong quá trình tiến hành luận
án nghiên cứu sinh của mình tại Đại học John Hopkins. Morris là một trong những
giáo sư chính giảng dạy về lịch sử triết học và thần học Thiên Chúa giáo tại khoa
triết học của trường John Hopkins. Sau này, khi chuyển tới đại học Michigan, ông
tiếp tục nghiên cứu và giảng dạy triết học Anh, mỹ học và đạo đức học Đức. Bên
cạnh đó, Morris cũng là một trong những người có công lớn trong việc truyền bá tư
tưởng Hegel vào đất Mỹ khi dịch thuật các tác phẩm của Hegel và Kant cũng như
viết các công trình nghiên cứu về triết học của hai triết gia nói trên. Những tác phẩm
của Morris có thể kể đến như: Tư tưởng và các triết gia Anh (British thought and
thinkers) (1880), Phê phán lý tính thuần túy của Kant: Một luận giải quan trọng
(Kant’s critique of Pure reason: A critical Exposition) (1882), Triết học và Kito giáo

19

(Philosophy and Christianity) (1883), và Triết học về lịch sử và nhà nước của Hegel
(Hegel’s Philosophy of State and of History) (1887).
Trong tác phẩm Từ chủ nghĩa tuyệt đối tới chủ nghĩa kinh nghiệm (From
Absolutism to Experimentalism), Dewey đã bộc bạch về sự lôi cuốn của sự hợp
nhất Hegel và Aristotle đối với ông như sau: ―Tuy nhiên, vẫn có những lý do chủ
quan khiến tư tưởng Hegel lôi cuốn tôi…Thời kỳ đầu, nghiên cứu triết học là
phương thức để tôi rèn luyện trí tuệ. Tuy nhiên, sự kết hợp giữa chủ thể và khách
thể, vật chất và tinh thần, thần thánh và con người trong triết học Hegel không đơn
thuần là một công thức trí tuệ, đối với tôi, nó giống như một sự khai phóng lớn lao.
Cách giải thích của Hegel về văn hóa nhân loại, các thể chế và nghệ thuật đã xóa bỏ
các bức tường ngăn cách nặng nề từng tồn tại như là hệ quả của di sản văn hóa Mỹ
do tình trạng cô lập cá nhân khỏi thế giới, linh hồn khỏi thể xác, tự nhiên khỏi chúa
trời. Điều này đã tạo nên một niềm hứng thú đặc biệt trong tôi‖
5
[52, tr.15]. Có thể
thấy được, mặc dù thừa nhận những tác động lâu dài của triết học Hegel đối với quá
trình hình thành tư tưởng triết học của mình, chính Dewey cũng cho rằng, những
suy tư của ông về tri thức, ý thức cũng như tư duy đi theo hướng hoàn toàn khác với
Hegel. Trong khi Hegel cho rằng sự tiến bộ của loài người hay sự tiến bộ của lịch
sử chỉ là sự phát triển của ý niệm tuyệt đối, là sự giải quyết những mâu thuẫn logic
nội tại của bản thân chủ thể tư duy trong những quan niệm nhất định thì Dewey đã
có cách suy nghĩ ngược lại do chịu sự tác động của bối cảnh học thuật với sự thống
trị của thuyết tiến hóa sinh học của Darwin. Ông cho rằng, quá trình diễn biến của
lịch sử loài người là quá trình con người đối diện với những xung đột hữu cơ cụ thể,
giữa cá nhân, môi trường xã hội của cá nhân và môi trường tự nhiên. Đối với
Dewey, ý thức, tâm thức, nhận thức hay tư duy của con người phải luôn luôn thích

5

Nguyên tác: ―There were, however, also ―subjective‖ reasons for the appeal that Hegel’s thought made to
me (…) My earlier philosophic study had been an intellectual gymnastic. Hegel’s synthesis of subject and
object, matter and spirit, the divine and the human, was, however, no mere intellectual formula; it operated as
an immense release, a liberation. Hegel’s treatment of human culture, of institutions and the arts, involved the
same dissolution of hard-and-fast dividing walls, and had a special attraction for me‖, John Dewey, ―From
Absolutism to Experimentalism‖, The Essential Dewey, Vol 1, edited by Larry A.Hickman and Thomas
M.Alexander, Indiana University Press, 1998, page 15.

20

nghi với môi trường bên ngoài và chỉ hoạt động tốt nhất khi tập trung xử lý các vấn
đề nảy sinh trong cuộc sống do tác động của thế giới tự nhiên. Điều này đặc biệt
quan trọng khi Dewey triển khai phương pháp tư duy khoa học được trình bày trong
tác phẩm Cách ta nghĩ và ứng dụng vào quá trình rèn luyện tư duy cho trẻ em trong
trường học thực nghiệm.
Thời gian sau, khi Dewey chuyển tới làm việc tại đại học Michigan, khiến mối
liên kết với Morris bị gián đoạn, đồng thời có sự tác động của người vợ, bà Alice
Chipman (1858 – 1927), người đã khơi dậy mối quan tâm của Dewey đối với các
vấn đề xã hội, chính trị, phong trào nữ quyền cũng như giáo dục công, niềm hứng
thú của Dewey về khoa học thực nghiệm và tâm lý học của James đã trở thành động
lực chính khiến ông từ bỏ chủ nghĩa Hegel mới. Bản thân Dewey cho biết: ―Tôi đã
dần dần xa rời chủ nghĩa Hegel trong 15 năm tiếp theo, từ ―trôi‖ (drifting) cho thấy
tính chậm chạp, trong một thời gian dài, là đặc tính không thể nhận thấy của quá
trình biến chuyển, mặc dù từ này không thể truyền đạt hết được cảm giác về một
nguyên nhân rõ ràng cho sự thay đổi. Mặc dầu vậy, tôi chưa bao giờ nghĩ là nên
phớt lờ, hay phủ nhận những hiểu biết về Hegel mà một nhà phê bình sắc sảo đôi
khi đề tập tới như là khám phá mới lạ - đã để lại lớp trầm tích trường tồn trong tâm
trí tôi‖
6
[52, tr.15].

Ảnh hưởng của Hegel tồn tại ở Mỹ trong khoảng 30 năm, đạt tới đỉnh điểm ở
khoảng gần cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên, ở Mỹ, thời kỳ này triết thuyết của Hegel lại
bị công kích trước hết bởi triết học thực dụng. Peirce cùng với câu lạc bộ siêu hình
do ông cùng những học giả khác sáng lập là những người đầu tiên của triết học thực
dụng phê phán Hegel. Peirce khẳng định, chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hegel
đã hết vai trò lịch sử, nhường chỗ cho những trào lưu triết học mới xuất hiện đáp

6
Nguyên tác: ―I drifted away from Hegelianism in the next fifteen years; the word ―drifting‖ expresses the
slow and, for a long time, imperceptible character of the movement, though it does not convey the impression
that there was an adequate cause for change. Nevertheless I should never think of ignoring, much less
denying, what an astute critic occasionally refers to as a novel discovery—that acquaintance with Hegel has
left a permanent deposit in my thinking.‖, John Dewey, ―From Absolutism to Experimentalism‖, The
Essential Dewey, Vol 1, edited by Larry A.Hickman and Thomas M.Alexander, Indiana University Press,
1998, page 15.

×