15 lưu ý khi uống rượu
CN, 13/02/2011 - 15:21
LSTV - Rượu là món không thể thiếu trong dịp lễ hội. Tuy nhiên khi
uống rượu chúng ta nên lưu ý 15 điều sau:
Kỵ uống rượu quá lượng
Sách cổ ghi chép rằng: “Uống rượu chắc sẽ say, say sẽ làm tổn thương
tinh thần, tổn thương ý chí”. Ví dụ như người mắc bệnh cao huyết áp,
nếu uống rượu quá lượng sẽ có nguy cơ bị chảy máu não. Vì vậy, uống
rượu phải biết chừng mực, thông thường lượng trúng độc cồn là từ 70-
80ml. Nếu uống rượu trắng thì một lần không nên vượt quá 50ml, uống
bia thì không quá 1 chai.
Kỵ “uống hết sức”
Uống rượu quá nhiều, độ cồn trong rượu sẽ làm cho biểu bì não ở trong
trạng thái tê liệt hoặc quá phấn khích, lúc đó sẽ mất đi kiểm soát ý thức.
Người mắc bệnh xơ cứng động mạch dễ thiếu máu não.
Kỵ uống rượu khi bụng đói
Bụng đói uống rượu, đặc biệt là rượu mạnh sẽ có hại cho bụng, dạ dày
và thực quản. Thực nghiệm chứng minh, bụng đói mà vui vẻ uống rượu
thì chỉ cần 30 phút, chất cồn sẽ gây hại cho cơ thể ở mức độ cao nhất.
Uống rượu giải sầu hoặc uống rượu để “ đấu trí” đều dễ gây ra say rượu,
vì vậy trước khi uống rượu chúng ta nên ăn một chút tinh bột, làm cho
hoạt lực xúc tác phân giải cồn ở trong cơ thể tăng mạnh, giúp bảo vệ
gan.
Kỵ uống rượu lạnh
Tại sao lại phải uống rượu nóng? Đây là do có nguyên ly khoa học nhất
định. Thành phần chủ yếu của rượu trắng là cồn, ngoài ra còn có anherit.
Uống rượu quá nhiều sẽ gây ra trúng độc rượu. Mặc dù anherit không
phải là thành phần chủ yếu của rượu trắng, nhưng gây nguy hại cho cơ
thể còn nhiều hơn cả cồn. Tuy nhiên, độ sôi của anherít thấp, chỉ có
khoảng 20
o
C. Vì vậy, chỉ cần làm nóng rượu thì có thể làm cho lượng lớn
anherit bốc hơi, như thế sẽ giảm bớt nguy hại cho cơ thể.
Kỵ uống nhiều loại rượu
Thành phần của rượu phân làm 2 loại. thứ nhất là rượu lên men (ví dụ
như bia, rượu vang) và rượu chưng cất (ví dụ như rượu trắng). Hai loaị
rượu này có phản ứng khác nhau trong cơ thể.
Hàm lượng cồn ở loại rượu lên men ít nhưng nhiều tạp chất, nếu uống
cùng với loại rượu chưng cất có nồng độ lớn sẽ gây ra đau đầu, buồn
nôn và dễ say.
Kỵ uống rượu cùng với nước có ga
Có người quen uống rượu trắng cùng với nước có ga, điều này đặc biệt
nguy hại cho cơ thể. Rượu trắng thông thường chứa cồn, khi rượu và khí
ga gặp nhau trong cơ thể thì sẽ làm cho cồn nhanh chong lan tỏa khắp
toàn thân, đồng thời sản sinh ra đại lượng CO2 gây nguy hại cho gan,
thận và dạ dày, đường ruột. Nó kích thích niêm mạc dạ dày, giảm bớt vị
toan bài tiết ảnh hưởng tiêu hóa, đồng thời người mắc bệnh dạ dày
đường ruột nếu sau khi uống rượu uống nước có ga thì sẽ làm cho ruột
và dạ dày chảy máu.
Nước có ga cũng khiến cồn nhanh chóng thẩm thấu vào hệ thần kinh
trung ương, gây tăng huyết áp nhanh. Vì vậy, khi uống rượu trắng không
nên uống cùng với nước có ga, cũng không nên uống nước có ga trước
rồi lại uống rượu. Sau khi uống say, càng không nên dùng nước có ga để
giải rượu.
Kỵ vừa uống rượu vừa hút thuốc
Trên bàn tiệc, chúng ta thường nhìn thấy nhiều người vừa hút thuốc vừa
uống rượu. Hút thuốc có hại cho sức khỏe, vừa uống rượu vừa hút thuốc
đương nhiên là hại gấp nhiều lần. Điều này là do cồn làm cho mạch máu
giãn nở, đẩy nhanh tuần hoàn máu trong cơ thể; còn chất nicotin trong
thuốc lá lại dễ hòa tan trong nước. Vì vậy, khi uống rượu hút thuốc sẽ
đẩy nhanh tốc độ hấp thụ chất nicotin trong cơ thể. Ngoài ra, do tác dụng
độc tố của cồn có thể ảnh hưởng đến chức năng giải độc của gan đối với
chất nicotin. Chính vì thế, khi uống rượu hút thuốc thì gây nguy hại cho
cơ thể càng lớn.
Kỵ gặp lạnh sau khi uống rượu
Do cồn kích thích làm cho mạch máu giãn nở, tuần hoàn máu tăng khiến
da mẩn đỏ, thân nhiệt tăng vì vậy dễ mắc bệnh do gặp lạnh sau khi uống
rượu. Ví dụ, sau khi uống rượu đi ra ngoài dễ bị cảm và lạnh cóng.
Sau khi uống rượu dùng nước lạnh rửa mặt dễ bị mọc mụn, sau khi uống
rượu ngồi dưới quạt dẽ trúng gió, sau khi uống rượu nằm ở ngoài trời dễ
bị chứng tê liệt và hôi chân.
Kỵ đi tắm sau khi uống rượu
Sau khi uống rượu đi tắm se tăng nhanh tiêu hao chất đường tích trữ
trong cơ thể, làm cho đường huyết hạ thấp, thân nhiệt giảm nhanh. Hơn
thế, chất cồn còn ngăn chặn sự phục hồi tích trữ của đường đối với gan,
làm cho chúng ta bị choáng, vì vậy sau khi uống rượu không nên lập tức
đi tắm để tránh gây hại cho cơ thể. Ngoài ra có một báo cáo cho biết, sau
khi uống rượu lập tức đi tắm dễ mắc các bệnh về mắt, thậm chí làm cho
huyết áp tăng cao.
Kỵ sau khi uống rượu lập tức xem phim
Khoa học hiện đại chứng minh, chất cồn trong rượu có thể làm cho hệ
thần kinh thu co, nghiêm trọng sẽ dẫn đến mù mắt. Xem ti vi có thể làm
cho thị lực suy yếu, uống rượu lại tổn hại thần kinh thị lực, nếu đồng thời
tiến hành cả hai cái, thì có tổn lại với thị lực càng lớn. Vì vậy, sau khi
uống rượu đừng nên xem ti vi, người già nên đặc biệt chú ý điều này.
Kỵ sau khi uống rượu đi phun thuốc trừ sâu
Sau khi uống rượu, cồn vào huyết dịch, kích thích nhiệt độ cơ thể điều
tiết vùng trung ương, thúc đẩy huyết quản trên da và niêm mạc khuếch
trương, lưu lượng máu tăng lên. Lúc này nếu da bị nhiễm thuốc trừ sâu
hoặc thuốc trừ sâu trong không khí tản mát được hít vào trong niêm mạc
đường hô hấp thì sẽ làm đẩy nhanh hoặc chất độc ở trong da và niêm
mạc vào trong cơ thể, dẫn đến trúng độc hoặc làm nặng quá trình trúng
độc.
Kỵ uống rượu trước khi ngủ
Trước khi ngủ uống nhiều rượu thì có thể làm ngắt đoạn hô hấp, nguy
hại đến sức khỏe. Uống rượu trước khi ngủ làm cho hệ thống hô hấp khi
ngủ tạm ngừng, thời gian tạm ngừng này có thế kéo dài 10 phút hoặc
hơn. Nếu hô hấp tạm ngừng phát sinh nhiều lần thì sẽ dẫn đến cao huyết
áp, thậm chí suy tim.
Kỵ sau khi uống rượu lập tức uống thuốc
Sau khi uống rượu, cồn bắt đầu gây tác dụng hưng phấn ngắn ngủi đối
với hệ thống thần kinh, sau đó chuyển thành khống chế. Nếu trong lúc
này uống thuốc an thần, thuốc ngủ hoặc các loại thuốc chống dị ứng có
tác dụng an thần và cả thuốc cảm hàm chứa các thành phần trên, dưới
sự tác dụng khống chế của thuốc và cồn sẽ làm cho huyết áp hạ thấp,
tim đập chậm, hô hấp khó, thậm chí gây ra tử vong.
Ngoài ra, sau khi uống rượu, uống kháng sinh, thuốc giảm đau, thuốc
đau viêm… đều dễ làm cho dạ dày xuất huyết, thậm chí thủng dạ dày.
Rượu còn gây ảnh hưởng giảm tác dụng dược lý của nhiều loại thuốc
như thuốc giảm huyết áp, thuốc tiêu viêm vv, gây ra nguy hại lớn cho cơ
thể.
Kỵ có bệnh uống rượu
Người bệnh không nên uống rượu, đặc biệt là những người mắc bệnh
gan mật, huyết quản tim, dạ dày hoặc viêm loét ruột, bệnh động kinh,
mất trí nhớ, bệnh béo phì… thì kiêng rượu là bắt buộc, kể cả hàm lượng
cồn ít như bia thì cũng không được uống để tránh làm cho bệnh tình
thêm nặng. Điều này là do cồn có thể ngăn chặn sự hợp thành của
đường gan, làm cho chất béo ở mô xung quanh lọt vào trong gan và đẩy
nhanh tốc độ hợp thành chất béo ở gan. Như vậy, người bị bệnh viêm
gan, trong tình trạng tế bào gan bị tổn hại thì dễ hình thành nên bệnh mỡ
gan.
Kỵ uống rượu khi mang thai
Chất cồn ở trong rượu có thể thông qua huyết dịch gây hại cho thai nhi,
thai nhi càng bé thì càng nhạy cảm với nhân tố có hại. Uống rượu sẽ làm
cho não và tim của thai nhi bị độc hại do cồn, làm cho thai nhi phát triển
trì trệ, tỉ lệ tử vong tăng cao, sau khi ra đời cũng có ảnh hưởng đến trí
năng
Mỳ ăn liền có nên ăn liền?
LSTV - Mỳ ăn liền rất tiện lợi, chỉ cần ngâm nước sôi là ăn được
ngay. Chính vì vậy, nó được sử dụng ngày càng phổ biến. Nhưng ít
người biết được rằng, nếu chế biến không đúng cách, gan có thể
phải làm việc cả tháng để giải độc cho cơ thể, nếu ăn thường xuyên
sẽ gây suy dinh dưỡng.
Tiện nhưng không lợi
Theo các chuyên gia, hầu hết mì ăn liền ở Việt Nam được sản xuất theo
công nghệ chiên (rán) nên khi ở nhiệt độ cao, dầu dễ bị ôxy hóa và nếu
dầu được dùng chiên đi chiên lại nhiều lần sẽ có khả năng tạo ra các
chất béo dạng trans fat nhiều hơn. Trans fat làm tăng cholesterol xấu,
giảm cholesterol tốt, gây xơ vữa động mạch, giảm sự lưu thông của máu,
từ đó làm tăng nguy cơ bị các bệnh tim mạch, đột quỵ. Trên thế giới,
nhiều nước đã đưa ra quy định về ghi thành phần dinh dưỡng và axit béo
bão hòa, axit béo dạng Trans trên mỗi gói mì ăn liền. Ngoài việc chứa
Transfat, trong mì ăn liền còn có những chất phụ gia (hành, muối, ớt )
làm ngon miệng nhưng những chất này cay nóng, hoặc quá nhiều muối
gây bất lợi cho người tăng huyết áp hoặc có thân nhiệt cao.
Khi chế biến nên cho thêm rau xanh vào
mì ăn liền.
Đặc biệt, với những loại mỳ ăn liền được chứa sẵn trong cốc, bát nhựa
thì còn nguy hiểm hơn cho sức khỏe vì trong chất liệu làm bát/cốc của
các loại mỳ tiện dụng có Polystyrene nhằm tránh tình trạng bị biến hình
khi gặp nước nóng. Theo một nghiên cứu, hàm lượng chất Polystyrene
có thể gây nguy hiểm cho mỗi kg thể trọng cơ thể trong 1 ngày là
0,001mg. Tuy nhiên, hàm lượng này trong 1 bát/cốc mỳ ăn liền có thể lên
tới 0,015mg.
Theo nghiên cứu đã chứng minh, các gói gia vị trong mỳ ăn liền phải qua
nhiệt độ cao để tiệt khuẩn, đóng gói chân không, nên các loại vitamin
nhóm B, chất sắt có trong thịt, hay vitamin C, vitamin A có trong rau
thực tế đã bị nhiệt làm cho biến mất. Những gì bạn nạp vào cơ thể chỉ là
năng lượng, chất béo, điều này hoàn toàn không có lợi cho sức khỏe.
Sử dụng sao cho an toàn?
Để sử dụng mỳ ăn liền được an toàn, không ảnh
hưởng đến sức khỏe, bạn nên thả mỳ ăn liền vào
nước sôi trước, chưa cho các gói gia vị vào vội. Đến
khi các sợi mỳ bắt đầu rời nhau, bạn dùng đũa tách
rời chúng rồi cho ra bát. Sau đó đổ chỗ nước vừa
trần mỳ đi, và nấu một nồi nước sôi khác để cho các
gia vị vào. Tuy nhiên, bạn chỉ nên cho 1/3 - 1/2 lượng
gia vị và cho thêm trứng gà cùng rau xanh vào nấu
chín rồi đổ lên trên mỳ.
Cách này dù hơi rắc rối nhưng giúp bạn không ăn phải chất dầu và chất
BHT có trong mỳ ăn liền (chất ổn định chống lên men thực phẩm có trong
dầu), là chất gây ung thư, có thể dẫn đến bệnh gan, nhiễm sắc thể dị
thường, hoặc làm suy giảm chức năng sinh sản; sợi mỳ cũng không bị
mềm nhũn.
Bạn chỉ nên ăn liền khi không có điều kiện nấu và nên hạn chế sử dụng
thường xuyên.
Các chuyên gia
dinh dưỡng cảnh
báo, việc sử dụng
nhiều mì ăn liền
thay cơm hoặc
quá nhiều/ngày
có thể khiến cơ
thể thiếu dinh
dưỡng, thiếu
vitamin, khoáng
chất khiến cơ thể
thiếu máu. Khi sử
dụng mì ăn liền
cần nấu thêm với
rau xanh, thịt
hoặc trứng để
cung cấp đầy đủ
chất cho cơ thể.
Rau xanh cũng
có tác dụng ngăn
chặn quá trình
hấp thu chất béo
vào mạch máu,
giảm được nguy
cơ tắc nghẽn
mạch máu,
chống béo phì
Góp ý kiến