Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Chuyên đề đánh giá bước đầu về tác dụng biện pháp tuốt lá, tỉa cành đến thời điểm ra hoa của cây na

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.19 KB, 28 trang )

1
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1. Giới thiệu chung.
Cây na có tên khoa học: Annona squamosa thuộc chi Annona, loài
Annonaceae. Chi Annona xuất phát từ chữ Latin “anon” - “sản xuất hàng năm”
do thuộc tính cho quả hàng năm của các loài khác nhau trong chi này. Na còn có
tên thường gọi khác là mãng cầu ta, mãng cầu dai, sa lê, phan lệ chi. Có hàng
chục loại mãng cầu có quả ăn được nhưng trên thế giới có 2 loại được trồng phổ
biến nhất đó là na (Annona squamosa) và mãng cầu xiêm (Annona muricata).
Cây na là cây thân gỗ thường rụng lá vào mùa đông, cao từ 5 - 10m, phân cành
thường tạo thành tán hình nón. Hệ thống rễ ăn sâu và có thể lan rộng hơn đường
kính tán. Lúc cây còn nhỏ có tồn tại rễ cọc tuy nhiên rễ này sau đó bị tiêu biến.
Lá đơn, hình elip có mùi hăng. Hoa lưỡng tính, đài dưới màu trắng xanh hoặc
vàng xanh gồm 2 vòng xoắn 3 cánh ngoài lớn hơn. Quả hình trứng là quả phức
do nhiều nhụy hoa sau khi thụ phấn thụ tinh kết hợp lại, quả nhiều thịt màu
trắng, hạt màu đen bóng, mỗi quả có nhiều hạt.
Cây na được xác định có nguồn gốc ở vùng châu Mỹ nhiệt đới. Từ thế kỷ 16,
cây na đã được nhập vào nhiều nước nhiệt đới. Do tính thích nghi rộng nên na được
trồng phổ biến ở các vùng Nhiệt đới và Á nhiệt đới.
Na được nhập vào nước ta từ lâu và được trồng khắp cả nước chỉ trừ một
vài vùng có nhiệt độ xuống quá thấp về mùa đông. Na sinh trưởng thuận lợi ở
nhiệt độ trung bình hàng năm 25 - 30
0
C, lượng mưa trung bình khoảng 1.000
mm/năm. Na là cây có tính thích nghi rất rộng. Na chịu được đất xấu, đất trống
đồi trọc, đất chua mặn, chịu hạn rất tốt nhưng không chịu úng ngập, độ pH thích
hợp 5,5 - 6,5.
Cây na có thể được nhân giống vô tính, đặc biệt thông qua các kỹ thuật
ghép. Tuy nhiên na thường được nhân giống hữu tính bằng hạt. Việc nhân giống
bằng hạt vừa tạo được sự đồng đều của cây con, hệ số nhân cao. Hạt giống có
thể gieo trực tiếp vào các hố trồng hoặc trong vườn ươm. Sau gieo 20 - 30 ngày


hạt nảy mầm đạt 85 - 90% và cây có thể được trồng 6 - 8 tháng sau.
2
Quả na ngon, ngọt, có mùi thơm thanh khiết nên được nhiều người ưa
thích. Quả na nặng khoảng 130g - 370g, số hạt 1 quả từ 14 - 66 hạt, phần ăn được
từ 34,4% - 60,6%, chất hoà tan từ 18,0 - 28,2%, độ chua từ 0,20% đến 0,80%,
lượng đường chiếm khoảng 68% của tổng chất rắn. Quả na còn chứa nhiều
vitamin nhóm B (0,07 mg/100g) và C (20 mg/100g), một lượng nhỏ canxi và phốt
pho. Ở Cu Ba còn có giống Na không hạt nhưng quả hơi nhỏ. Trồng na chủ yếu
để lấy quả ăn tươi, ngoài ra ở một số nước, quả na được chế thành mứt, nước giải
khát, hoặc thuốc chữa bệnh.
Các bộ phận khác của cây cũng có thể được sử dụng vào việc hữu ích,
như bột tán từ lá cây na có thể dùng diệt chấy rận. Các lá cũng có thể được
nghiền ra chữa áp-xe, chữa chướng bụng khó tiêu, ghẻ và bệnh ngoài da,
Theo Verheij, E.W.M và R.E.Coronel (1992), có thể xử lý ra hoa trái vụ trên
cây na bằng cách làm rụng lá với hỗn hợp Urea 25% + Ethaphon 0,1% phun vào
tán lá với chất bám dính. Sử dụng các chất kích thích sinh trưởng cây trồng như
NAA 2,4D; 2,4,5-T và GA3 giúp gia tăng số trái đậu (Sundarajan et all, 1968).
Trong kỹ thuật chăm sóc cây Na có rất nhiều biện pháp kỹ thuật nhằm
tăng năng suất và chất lượng quả như: tỉa cành tuốt lá, thụ phấn bổ sung kết hợp
chăm sóc bón phân hợp lý. Na thường cho năng suất thấp, ngoài những nguyên
nhân kỹ thuật canh tác còn có vấn đề về thụ phấn. Na rất nhiều hoa nhưng tỉ lệ
đậu quả thấp vì nhị đực nở trước, phấn tung rất lâu sau đó nhị cái mới nở quả do
đó quả đậu ít. Muốn quả đậu nhiều, cần phải thụ phấn bằng tay cho Na. Song
song với kỹ thuật tăng tỷ lệ đậu quả bằng thụ phấn bổ sung ở na, tuốt lá là một
trong những biện pháp điều khiển cho cây na ra hoa trái vụ, rải vụ thu hoạch.
Huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh có điều kiện thổ nhưỡng và địa hình
rất thích hợp cho việc thâm canh và phát triển cây na dai. Theo báo cáo của
Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Đông triều sản llượng na năm 2010 của
huyện ước đạt hơn 8046 nghìn tấn quả. Ngay từ năm 1994 trong khi các địa
phương khác tập trung phát triển cây vải thiều thì huyện Đông Triều lại chọn cho

3
mình một hướng đi hoàn toàn khác đó là phát triển cây na dai và đến nay điều đó
đã cho thấy lựa chọn này là hoàn toàn đúng đắn.
Xuất phát từ vai trò và lợi ích kinh tế của cây na tại huyện Đông Triều,
chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật tác
động làm tăng năng suất, chất lượng quả và phòng trừ dịch hại tổng hợp trên
cây Na”.
Một trong những biện pháp kỹ thuật quan trọng tác động làm tăng năng
suất, chất lượng quả là tỉa cành, tuốt lá. Vì vậy, trong năm 2011 chúng tôi tiến
hành bố trí thực hiện chuyên đề: “Đánh giá bước đầu về tác dụng của biện
pháp tuốt lá, tỉa cành đến thời điểm ra hoa của cây na ”.















4
PHẦN II: TÌM HIỂU VỀ BIỆN PHÁP TỈA CÀNH, TUỐT LÁ
2.1. Mục đích của việc tỉa cành tuốt lá
Cây na trồng sau 3 năm cho quả, năm thứ 4, thứ 5 trở đi quả ngày một nhiều.

Nếu được chăm tốt năng suất ngày càng cao và sẽ kéo dài được thời gian cho quả. Cùng
với việc bón phân tưới nước đầy đủ, cắt tỉa cành là biện pháp kỹ thuật để góp phần khắc
phục hiện tượng chóng tàn của cây: Làm cho cây khỏe, trẻ, hạn chế được sâu bệnh hại,
sai quả, quả to và phẩm chất thơm ngon, cây không cao dễ chăm sóc thu hoạch. Hàng
năm cần tiến hành cắt tỉa cho đến khi cây già không thể cho quả được nữa mới chặt đi
và trồng mới.
Tổ hợp các biện pháp kỹ thuật trồng trọt gồm các biện pháp chăm sóc
riêng rẽ phối hợp nhằm tăng năng suất, sản lượng cây trồng. Mỗi biện pháp
được áp dụng đều có mục đích cụ thể. Đốn tỉa cành tuốt lá là một trong những
biện pháp kỹ thuật cơ bản trồng na. Đốn tỉa cành đúng kỹ thuật có tác dụng
làm cho cây có tán đẹp, thông thoáng, giảm sâu bệnh hại, phát huy hiệu quả
của phân bón và thuốc BVTV.
Cây na thường cho quả từ năm thứ 3 sau trồng, ở các năm tiếp theo khung
tán cây vừa phát triển về chiều rộng ra và chiều cao. Nếu để cây quá cao sẽ ảnh
hưởng đến việc chăm sóc và thu hái.
Việc tỉa cành tuốt lá cây Na có 4 mục đích chính sau:
- Một là: Tỉa cành nhằm kích thích sự phát triển của cành sinh lộc (cành
hữu hiệu) đồng thời duy trì cây đúng kính thước và chiều cao cây, tạo tán cây
đồng đều tránh vườn cây rậm rạp. Trong những vườn cây rậm rạp như vậy sâu
bệnh dễ phát sinh gây hại, chất lượng quả trở nên kém và không ra quả đều hàng
năm. Do vậy, một chương trình tạo tán và đốn tỉa đúng đắn sẽ rất quan trọng để
duy trì một vườn cây ăn quả khỏe mạnh, năng suất và chất lượng.
- Hai là: Giúp cho ánh sáng và không khí tới lá để nâng cao tổng số diện
tích lá hữu hiệu và tăng cường quang hợp. Nếu các cành cây được phân bổ và
định hướng tốt chúng sẽ có một không gian đầy ánh sáng. Điều đó cải thiện tính
5
hữu hiệu của việc sử dụng nước cũng như chuyển đổi các chất dinh dưỡng của
cây. Kết quả là năng suất và chất lượng quả được nâng cao.
- Ba là: Tạo tán và đốn tỉa đúng cách sẽ giúp cho cây có một kích thước
đúng đắn. Nhờ vậy, người trồng có thể dễ dàng kiểm soát và quản lý các cây

trong vườn, nâng cao sức sống (thể chất) của cây, tăng cường sức chống chịu
với các điều kiện bất thuận cũng như duy trì một cân bằng hữu hiệu nhất giữa
sinh trưởng thân lá và ra quả.
- Bốn là: Tuốt lá giúp cây Na ra quả trái vụ và rải vụ thu hoạch.
Theo kinh nghiệm của ông Nguyễn Xuân Thuỷ, ở xã Huyền Sơn, huyện
Lục Nam (Bắc Giang) vào khoảng thời gian trung tuần tháng 11 sẽ đốn toàn bộ
cành cao của cây na, chỉ để cây na cao khoảng 1,5 - 1,8 m và cắt bớt cành cho
thoáng. Nhờ đó, cây na sẽ chống chịu được mưa gió, quả không bị dập nát do va
chạm trên cao; không tốn thức ăn để nuôi cành vô hiệu; quả ra tập trung vào
thân và cành cấp một (những quả na gần thân thường là những quả to và đẹp);
cây na cũng dễ thụ phấn và dễ thu hoạch hơn. Sau khi lập xuân khoảng 15 - 20
ngày, dùng kéo cắt sạch đầu cành từ 15 - 20 cm (cắt hết lá đầu cành và đốt để
diệt sâu bệnh), đồng thời bón 20% lượng phân chuồng và 20% NPK của năm;
tiếp đó phun kích phát tố để làm bật mầm hoa; khi hoa hé nở có màu trắng xanh
thì tiến hành thụ phấn. Khi chăm bón các mầm cây na nên xử lý tỉa thưa mầm,
những mầm để lại cắt sâu khoảng 10 - 15 cm và tỉa sạch lá. Những mầm này sau
khoảng 10 - 15 ngày sẽ nhú hoa, cho những quả nhanh to và nhanh thu hoạch
(bình thường những quả đầu cành khoảng 125 -130 ngày cho thu hoạch thì
những quả xử lý mầm thân chỉ khoảng 90 - 95 ngày đã cho thu hoạch). Áp dụng
kỹ thuật này cũng đã tăng tỷ lệ đậu quả, tăng trọng lượng mỗi quả na lên 300 -
400 gram (so trước đây chỉ khoảng 200 gram). Quả na dai to, đẹp hơn, khi bóc
vỏ ruột không bị vỡ và chảy nước, dóc hạt, để được lâu hơn khi quả đã chín
(khoảng từ 5 - 7 ngày), chất lượng thơm, ngon, nên bán rất được giá, có thời
điểm na dai Lục Nam giá bán buôn tới 42.000 đồng/kg. Riêng vụ thu hoạch
2009 vừa rồi, na dai huyện Lục Nam được tiêu thụ chủ yếu ở thị trường Hà Nội,
6
Hải Phòng và một số tỉnh phía Bắc đã mang lại nguồn thu hàng chục tỷ đồng
cho địa phương.
2.2. Các thời kỳ phát triển của cây na
Na là cây ăn quả lâu năm, có tuổi thọ và chu kỳ kinh tế dài. Sự phát triển

của vườn cây thường được chia thành những giai đoạn như sau: Thời kỳ kiến
thiết cơ bản, thời kỳ đầu kinh doanh, thời kỳ khai thác và thời kỳ già cỗi. Trong
đó thời kỳ đầu kinh doanh và thời kỳ khai thác là giai đoạn cho thu hoạch quả
mang lại hiệu quả kinh tế.
2.2.1. Thời kỳ đầu kinh doanh
Từ khi cây bắt đầu cho quả đến khi cây ra quả toàn cây. Đặc điểm của
thời kỳ này là sinh trưởng dinh dưỡng vẫn còn rất mạnh, cành ra vẫn còn nhiều,
tuy nhiên số lần ra trong năm giảm 3 - 4 lần/năm, số lượng cành ra ít hơn, cành
ngắn và ít lá hơn. Bộ rễ trong giai đoạn này phát triển rất khỏe. Số cành ra quả
tăng dần cho đến khi toàn cây ra quả. Trong thời kỳ này có thể xuất hiện các vấn
đề sau:
- Sự mất cân đối giữa sinh trưởng tán cây và bộ rễ: Thời kỳ này sinh
trưởng dinh dưỡng vẫn còn chiếm ưu thế, bộ rễ cũng ở giai đoạn phát triển
mạnh, do nhu cầu cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho tán cây và nuôi quả, rễ phát
triển ra khỏi mô trồng và đi xuống tầng đất chặt sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng
sinh trưởng của rễ. Dẫn đến rễ không cung cấp đủ dinh dưỡng cần thiết cho cây tạo
nên sự mất cân đối giữa nhu cầu dinh dưỡng của thân cành lá và quả và sự cung
cấp từ rễ. Do đó, cần áp dụng những biện pháp để giúp hệ thống rễ phát triển tốt
như bón vôi điều chỉnh độ pH thích hợp kết hợp xới xáo ngoài tán, bón phân hữu
cơ, giữ mực nước thích hợp trong vườn, ủ gốc trong mùa nắng để giữ ẩm độ đất.
Ngoài ra trên tán cây áp dụng tỉa cành giúp cân đối nhu cầu dinh dưỡng của
cây, loại bỏ những cành không cần thiết như cành vượt làm tiêu hao dinh dưỡng
của cây, các cành thông thoáng nhận đầy đủ ánh sáng, tăng hiệu quả quang hợp
tích lũy chất khô cho cây. Điều chỉnh lượng quả trên cây cho phù hợp.
7
- Mất cân đối giữa sinh trưởng dinh dưỡng và ra hoa: Khi bắt đầu vào
thời kỳ này sinh trưởng dinh dưỡng vẫn còn mạnh hoặc trên những cây sinh
trưởng dinh dưỡng vẫn còn mạnh, có thể cây chậm ra hoa cho quả hoặc trên
những cây sinh trưởng dinh dưỡng kém, cây có khuynh hướng ra hoa nhiều ảnh
hưởng đến sinh trưởng thân tán của cây.

Những trường hợp trên phải tiến hành cắt tỉa khống chế những cành dinh
dưỡng, mở tán thông thoáng để cây nhận đầy đủ ánh sáng giúp cây phân hóa
mầm hoa tốt hơn. Đối với cây ra nhiều hoa thì cắt tỉa bỏ bớt để thúc đẩy sinh
trưởng cành lá.
2.2.2. Thời kỳ khai thác.
Là giai đoạn từ khi cây ra hoa toàn cây đến lúc cho năng suất cao nhất,
đây là thời kỳ có ý nghĩa kinh tế cao nhất của vườn nên thời kỳ này càng dài
hiệu quả kinh tế của vườn càng cao, nó phụ thuộc vào các yếu tố quản lý và
chăm sóc, thời kỳ khai thác của vườn có thể lên đến 10-15 năm. Đặc điểm của
thời kỳ này là cây ở giai đoạn thuần thục, tán cây đã ổn định, sinh trưởng dinh
dưỡng kém, cành nhỏ, ngắn, ít lá chủ yếu là cành mang quả. Số lần ra cành trong
năm ít từ 1 - 2 lần. Trong thời kỳ này thường xuất hiện những trường hợp sau:
- Cây giao tán và mau cỗi
- Hiện tượng sản lượng không ổn định.
Nguyên nhân do sự mất cân đối nghiêm trọng giữa sinh trưởng dinh
dưỡng và cung cấp dinh dưỡng cho hoa quả. Cành lá ra quá nhiều làm cây giao
tán rậm rạp, quang hợp không hiệu quả. Chất hữu cơ tạo ra không đủ dự trữ để
tiến hành phân hóa mầm hoa, thúc đẩy cây ra hoa, dinh dưỡng không đủ để cung
cấp cho hoa phát triển cũng như để nuôi trái sau khi đậu.
Cần tiến hành tỉa cành hàng năm không cho cây giao tán, loại bỏ những
cành vô hiệu, giúp cành phân bố hợp lý nhận đầy đủ ánh sáng, tỉa bớt trái, cây
mang trái vừa đủ giúp quả phát triển tốt và dinh dưỡng còn phải dự trữ để giúp
cây phân hóa mầm hoa năm sau.
8
2.2.3. Tuổi cây cắt tỉa.
Những năm đầu khi cây chưa ra quả việc cắt tỉa là tạo điều kiện cho tán
chóng phát triển, cành phân bố đều, cân đối để tận dụng tối đa ánh sáng và dinh
dưỡng. Có thể ngắt đọt để hạn chế bớt chiều cao cây. Cây bắt đầu cho thu hoạch
việc cắt tỉa là bắt buộc. Đó là một trong những biện pháp kỹ thuật để thâm canh cây
na. Nhất là thời kỳ sau khi cây có quả nhỏ, quả thưa từ năm 4 - 8 sau khi trồng.

2.3. Cơ sở khoa học của kỹ thuật tỉa cành tuốt lá
- Theo lý luận về giai đoạn phát dục các vị trí cành trên cây có trình độ
phát dục rất khác nhau. Cành phía trên hoặc phía trên ngọn của một cành thường
có trình độ phát dục già, chóng ra hoa kết quả và khả năng sinh trưởng dinh
dưỡng yếu, tuy nhiên nếu cành quá già cỗi sẽ cho quả nhiều quả nhỏ, kẹ, méo
mó, chất lượng giảm không đảm bảo giá trị thương phẩm. Sau một thời gian
sinh trưởng nhất định, những phần cành có tuổi phát dục già ấy cần được đốn đi
để các mầm ở phía dưới phát triển. Vì những mầm này được phát sinh trên các
cành có trình độ phát dục non nên có sức sống khỏe, sinh trưởng mạnh, khả
năng cho quả to, đẹp, chất lượng quả ngon.
- Trong quá trình sinh trưởng các cành ở phía trên mặt tán thường có ưu thế
sinh trưởng ngọn, kìm hãm sự phát triển của các cành phía dưới. Do đó cần đốn
tỉa để phá vỡ hiện tượng ưu thế ngọn, tạo điều kiện cho các mầm và các cành
phía dưới phát sinh phát triển tạo tán nhiều cành đồng cấp.
- Theo nghiên cứu của nhiều tác giả giữa bộ phận trên mặt đất và dưới mặt
đất của cây có sự phát triển cân bằng giữa hai bộ phận đó, đốn tỉa tạo điều kiện
cho bộ phận trên mặt đất phát triển từ đó hệ thống rễ dưới mặt đất phát triển sẽ
làm tăng hấp thu nước và dinh dưỡng nuôi cây, nuôi quả.
- Vào mùa đông ở nước ta thời tiết hanh khô, việc tỉa cành và tuốt lá là một
biện pháp hạn chế sự thoát hơi nước giúp duy trì sự cân bằng nước trong cây tạo
điều kiện cho cây sinh trưởng.

9
2.3.1. Các tập tính nảy chồi (lộc) và sinh quả của cây na.
Đặc điểm của cây na là sau khi rụng lá, gặp mưa hoặc tưới nước cành sẽ ra
lá mới đồng thời kèm theo nụ hoa. Ở những vùng khô hạn cục bộ trong năm có
thể thông qua việc điều tiết nước, kết hợp với phân bón như kiểu “xiết nước” như
với vườn quýt, làm cho cây ra hoa chậm lại, hoặc có thể dùng biện pháp tuốt lá
sớm hơn so với hiện tượng rụng lá tự nhiên. Kinh nghiệm trồng na ở Thái Lan
người ta còn kết hợp giữa việc cắt tỉa với tuốt lá để làm cho hoa ra muộn hơn. Các

biện pháp làm cho na ra quả trái vụ đều kết hợp với việc bón phân và tưới nước.
- Sự bật chồi: Ở cây na các chồi mới thường mọc vào mùa xuân, hè, đôi
khi mùa thu. Các chồi mùa xuân và mùa hè là quan trọng nhất chúng phải được
phát triển đúng cách không quá mạnh mẽ.
- Tập tính sinh quả: Ở cây na trưởng thành, cành sinh quả phát triển chủ yếu
từ các chồi xuân và hè. Các chồi xuân mọc từ các cành sinh quả cho năng suất cao
nhất. Các hoa có thể phát triển từ đỉnh chồi hoặc các chồi nách (mắt nách, nách lá).
2.3.2. Dáng cây và hệ thống tạo tán.
Các cây ăn quả có thể mọc rất cao, kể cả cây na. Cây na là cây có cành đa
cấp, chúng nên được tạo tán để có dáng thích hợp với một trung tâm mở hay còn
gọi là tán hình phễu, hình cốc, hình nón ngược. Người trồng cây sẽ có lợi nếu
làm theo hệ thống này dễ dàng chăm sóc cây kể cả phun thuốc và thu hái quả,
các cây trẻ cho tán mọc nhanh và ra quả sớm. Việc đốn tỉa cây được dễ dàng và
tán sinh quả chiếm một diên tích lớn.
Chọn 3 - 4 cành khỏe, thẳng mọc từ thân chính và phát triển theo 3 - 4
hướng tương đối đồng đều nhau làm cành cấp 1. Cành cấp 1 cùng với thân chính
tạo thành một góc 35 - 40
0
. Từ cành cấp 1 sẽ phát triển các cành cấp 2 và chỉ
giữa lại 2 - 3 cành.
Cành cấp 2 phải để cách thân chính 15 - 30 cm và cành này cách cành
khác 20 - 25 cm và cùng cành cấp 1 tạo thành một góc 30 - 35
0
. Từ cành cấp 2
sẽ hình thành những cành cấp 3.
10

Cành cấp 3 không hạn chế về số lượng và chiều dài nhưng cần loại bỏ các
chỗ cành mọc quá dày hoặc quá yếu. Sau 3 năm cây sẽ có bộ tán cân đối, thuận
lợi trong chăm sóc, phòng ngừa sâu bệnh và thu hoạch.















Hình 1: Tạo tán cơ bản ở cây na
2.4. Các phương pháp, thời gian tỉa cành tuốt lá.
Để biện pháp tỉa cành tuốt lá có hiệu quả cao nhất cần xác định thời gian
thích hợp. Tại các vùng cây ăn quả ôn đới và Á nhiệt đới có mùa đông lạnh, việc
trao đổi chất giảm trước lúc phát lộc xuân (ra chồi xuân) vì nhiệt độ thấp và mùa
khô. Thời kỳ cây bị giảm trao đổi chất chính là thời điểm đốn tỉa cây. Tỉa nhẹ
(tỉa phớt) cũng có thể tiến hành vào thời vụ khác để loại bỏ các chồi không
mong muốn hoặc mọc dầy. Đối với cây na thời gian tỉa cành tuốt lá thường vào
mùa đông (cuối tháng 12 năm trước đến tháng 2 năm sau). Có thể áp dụng biện
30-40
0

30-35
0

Cành cấp 2

Cành cấp 1
Cành cấp 3
11

pháp phun thuốc rụng lá xong tiến hành tỉa cành. Trường hợp không xử lý hóa
chất rụng lá thì sau khi tỉa cành cần tuốt những lá còn sót lại trên cành. Sau tỉa
cành tuốt lá kết hợp với bón phân lần 1 (bón đón lộc).
Khi tỉa cành cần loại bỏ những cành khô, cành sâu bệnh và cành vượt. Trên các
cành có khả năng cho quả, bấm tỉa các cành ở vị trí có đường kính từ 0,8 - 1,5 cm.
Trong kỹ thuật đốn, có “kỹ thuật đốn phớt”, “kỹ thuật đốn lửng” và “kỹ
thuật đốn đau”. Kỹ thuật đốn phớt nhằm trẻ hóa cây một cách tương đối, mà vẫn
duy trì được năng suất cao của mùa tiếp theo. Thông thường thì việc đốn phớt năm
sau luôn ở vị trí cao hơn và xa hơn (so với gốc và thân cây). Việc này sẽ giúp cho
sự phân cành thuận lợi và giúp tán cây ngày càng tăng trưởng. Sau một vài năm
đốn phớt nên tiến hành đốn lửng. Tuy nhiên, sau một số năm thì tán cây đã ngày
càng lớn hơn và buộc phải thực hiện việc đốn đau. Đốn đau là việc đốn được tiến
hành để trẻ hóa cơ bản vườn cây, vì vậy vị trí đốn sẽ tiến gần đến phần gốc hơn.
Trong kỹ thuật đốn, không nên đốn sát gốc, vì càng gần gốc quá thì thời
gian để cây phát triển cành lá (đủ để tận dụng tốt không gian) càng lâu và bỏ phí
nhiều thời gian kinh doanh của vườn cây. Việc đốn đau nên chọn những vị trí có
nhiều cành chính (cành cơ bản) để từ đó sớm có đủ số cành cho quả cần thiết.
Sau khi đốn đau đã có một bộ khung cành cơ bản mới và sau đó lại tiếp tục chu
trình đốn phớt như đã nói ở trên. Công việc này được tiến hành sau vụ thu
hoạch, khoảng cuối tháng 12 (năm trước) đến đầu tháng 2 (dương lịch năm sau)
kết hợp với việc bón phân cơ bản hàng năm cho Na.
* Cụ thể về các phương pháp đốn như sau:
- Đốn phớt: Với những cây na đang thời kỳ sung sức nhưng phát triển quá
rậm rạp, ít quả thì cắt bỏ toàn bộ những cành nhỏ mọc trong tán, chừa lại những
cành to bằng ngón tay út trở lên và trên những cành ấy cắt bỏ tất cả ngọn ở nơi
tiếp giáp giữa cành bánh tẻ và cành non. Sau khi cắt, ta có một bộ tán trụi lá toàn

cành hữu hiệu, sẵn sàng đâm chồi mới và ra hoa. Kinh nghiệm ở Chi Lăng -
Lạng Sơn cho thấy sau khi chặt tỉa bớt các cành già, cành yếu kết hợp tăng
12

cường bón phân, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh kịp thời thì na ra hoa, đậu quả
ngay, cho quả to đẹp.
Đốn phớt: là cách đốn được tiến hành mỗi năm một lần và đốn cao hơn mức
đốn hàng năm 3 - 5cm. Mục đích của đốn phớt là loại trừ các cành nhỏ, cành
tăm hương trên tán để xúc tiến sự nảy sinh và phát triển của lộc. Đốn phớt có thể
tạo mặt tán theo mặt bằng, theo chiều nghiêng của sườn dốc hoặc hình mâm xôi.
Trong sản xuất, thường tạo tán theo mặt hàng để tiện thao tác trong việc quản lý,
chăm sóc và thu hoạch.
Tỉa cành: Hàng năm, sau khi thu hoạch cần phải loại bổ những đoạn cành
sau đây:
+ Cành đã mang quả (thường rất ngắn khoảng 10 - 15 cm).
+ Cành bị sâu bệnh, cành ốm yếu, cành nằm bên trong tán không có khả
năng mang quả.
+ Cành đan chéo nhau, những cành vượt trong thời gian cây đang mang
quả nhằm hạn chế việc cạnh tranh dinh dưỡng với quả.
- Đốn lửng: sau một số năm đốn phớt liên tục, khi cây có chiều cao quá
tầm hái, mật độ cành trên mặt tán quá dày cành và cho quả nhỏ, năng suất giảm
thì đốn lửng. Dùng dao hoặc kéo để đốn, tạo mặt tán chè bằng.
- Đốn đau: những cây được đốn lửng nhiều lần, cành nhiều mấu, cây phát
triển kém, năng suất giảm rõ rệt thì đốn đau cách mặt đất 40 - 45 cm nhằm thay
thế một phần lớn bộ khung tán của cây.
Dùng dao sắc để đốn, vết đốn phải thẳng và sát vào phía trong.
- Đốn trẻ: Na sau khi cho thu hoạch khoảng 4 - 5 vụ thì quả nhỏ dần,
những cây già, yếu, nhiều sâu bệnh, cây mọc quá cao khó lấy quả. Theo kinh
nghiệm một số nông dân trồng Na lâu năm tại Đông Triều - Quảng Ninh, để có
quả to mập tiến hành kỹ thuật đốn trẻ lại từ năm thứ 4 - 5 trở đi, sau đó cứ 3 năm

đốn một lần. Khi đốn dùng cưa hoặc dao sắc đốn cách gốc 80 - 100cm (phía trên
các chạc 2, chạc 3 khoảng 20cm) với một vết cắt nghiêng 45
0
, sắc gọn, không xơ
13

xước. Cắt xong dùng dung dịch boóc đô 3% quết lên vết cắt vừa để hạn chế cây
bốc hơi nước, vừa để chống nhiễm khuẩn cho cây nhanh liền sẹo. Bón nhiều
phân chuồng hoặc phân hữu cơ, các loại phân khoáng theo qui trình, tủ kỹ gốc,
tưới đủ ẩm sang xuân cây sẽ bật chồi, hình thành bộ tán mới. Với cách làm này
chúng ta sẽ tạo được bộ tán mới khỏe mạnh, sung sức, thấp cây tạo điều kiện
thuận lợi cho việc chăm sóc, thu hoạch sau này và cây sẽ cho nhiều quả, quả to,
chất lượng tốt trong những vụ thu hoạch tiếp theo.
2.5. Các nguyên tắc và thủ tục tỉa cành tuốt lá.
- Tuốt lá: Sau thu hoạch quả na vào mùa đông cây sẽ rụng lá đến tháng 12
dương lịch các lá già còn lại sẽ được tuốt bỏ để kích thích cây ra lộc mới.
- Tỉa cành: Khi tuốt lá xong tiến hành cắt tỉa các cành tăm, cành già, cành
sâu bệnh, các cành hoặc chồi mọc không đúng hướng hoặc đúng vị trí (cành
vượt, mọc chen ngang hoặc hướng vào bên trong tán cây).
- Tỉa quả: Tỉa bỏ các quả ra sớm trong năm thứ hai, thứ 3 để cây lớn
nhanh. Tỉa quả khi cây trưởng thành (5 - 6 tuổi trở đi) sẽ làm tăng chất lượng
quả. Tiến hành tỉa những quả sâu, bệnh, méo, kẹ,…
Nói chung, không nên tỉa bỏ trên 15% tổng số chồi. Đốn tỉa nên bắt đầu từ
ngọn cành khung thứ 3, tiếp đến là cành khung thứ 2 và sau cùng là cành khung
thứ nhất. Tại mỗi cành khung, đốn tỉa nên bắt đầu từ cành cấp hai sau đến các
chồi bên, các cành và chồi không mong muốn.
(Kết quả chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật do Trạm Khuyến nông huyện
phối hợp với HTX Dịch vụ và Phát triển na Chi Lăng - Lạng Sơn).
- Ngay sau khi cắt tỉa, bón 25kg phân hữu cơ + 1-2 kg NPK 16-16-8 + 0,4
kg vôi/cây hoặc 25 kg phân hữu cơ + 1,5 kg đạm ure + 0,8 kg super lân + 0,7 kg

Kaclorua/cây. Cuốc xới đất, vùi đất kỹ, tủ gốc, tưới nước giữ ẩm cho cây để
chuẩn bị phân hóa mầm hoa và ra hoa tốt.
- Muốn cho na ra hoa sớm hoặc rải vụ thì áp dụng kỹ thuật tuốt lá: pha
800g urê trong bình 8 lít nước rồi phun ướt đẫm cây làm rụng lá già, số lá còn
14

lại thì tuốt bỏ luôn hoặc dùng thuốc gây rụng lá cây Rontar với lượng dùng pha
25ml thuốc với bình 10 lít phun cho 15 cây.
- Kinh nghiệm của nhiều nhà vườn cho thấy: sau khi cắt tỉa 10 ngày, trên
mỗi cành sẽ mọc ra nhiều chồi, nên tỉa bớt chỉ chừa lại 4 - 6 chồi khỏe mạnh
được phân đều về các hướng. Pha 35ml RA HOA C.A.T + 15g F.Bo trong bình
8 lít phun sương đều các cành mới này 2 lần cách nhau 5 ngày để kích thích cho
hoa ra và nở đều.
2.6. Một số kỹ thuật tỉa cành, tuốt lá chính.
Dùng dao hay kéo sắc cắt sâu vào bề mặt tán nhằm làm giảm chiều cao
của tán, thu hẹp diện tích tán, tạo cho tán có hình bán cầu đẹp. Tiến hành tỉa
những cành la, cành vóng, cành tăm hương, cành bị sâu bệnh, cành vượt (cành
tược) trong tán làm cho lòng tán có hình phễu thông thoáng giúp cho ánh sáng
chiếu vào làm giảm độ ẩm trong tán hạn chế sự sinh trưởng, phát triển của sâu,
bệnh hại.
Trong kỹ thuật cắt cành cành lưu ý dùng dao, kéo sắc để tạo vết cắt gọn,
tránh làm xước cành sẽ làm ảnh hưởng đến các mầm phía dưới vừa dễ nhiễm
sâu bệnh. Vết cắt, đốn vát 45
0
. Khử trùng dụng cụ bằng nước Javel hoặc cồn
90
0
khi tỉa cành, tránh lây bệnh (tiềm ẩn virus, viroid ) qua cây khác.
Tỉa cành nhỏ trên bề mặt tán, với những cành khoẻ đường kính >1cm, ta để
hai nhánh hình ngạnh trê. Những cành yếu, đường kính cành nhỏ <1cm chỉ để

một nhánh khoẻ, cắt bỏ các nhánh còn lại, loại bỏ các lá già và các lá bị bệnh.
Sau khi tạo tán xong tiến hành tưới ẩm và bón thúc phân cho na, giúp cho
cây nhanh phục hồi lại và phát lộc xuân được thuận lợi.
Các cành lộc trong tán tỉa thưa hợp lý không để rậm rạp, đảm bảo cho lòng
tán được thông thoáng, những lộc trong tán này cũng có khả năng cho thu quả.
Sau khi cây na ra lộc thành thục ta lại tiến hành cắt tỉa cành thêm 1 lần
nữa, loại bỏ bớt những cành tăm, cành sâu, bệnh, cành gối nhau, giúp cho cây
chuẩn bị bước sang giai đoạn phân hoá mầm hoa được thuận lợi.
15

PHẦN III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Kết quả điều tra hiện trạng của việc tỉa cành, tuốt lá cây na tại Đông Triều
Tại Quảng Ninh cây na được trồng tại tất cả các huyện thị, tuy nhiên được
trồng tập trung chủ yếu tại huyện Đông Triều. Toàn huyện hiện có hơn 815 ha
cây na dai, trong đó có hơn 200 ha trồng tập trung theo chương trình chuyển đổi
cơ cấu cây trồng từ năm 1994-1995. Theo lãnh đạo địa phương, những năm gần
đây bình quân mỗi năm huyện thu hoạch trên 8.000 tấn quả na, đây là một
nguồn thu rất lớn từ kinh tế vườn đồi mà không phải địa phương nào cũng có
được. Để có năng suất, sản lượng cao, bên cạnh điều kiện thổ nhưỡng thích hợp
với cây na còn phải kể đến sự chủ động, tích cực đầu tư chăm bón và đặc biệt là
việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất như thụ phấn bổ sung và cắt
lá, tỉa cành.
Trước khi thực hiện thí nghiệm tỉa cành tuốt lá tại vườn thực nghiệm,
chúng tôi đã tiến hành điều tra hiện trạng của việc tỉa cành tuốt lá tại 120 hộ
trồng na tại 3 xã thuộc huyện Đông Triều là: An Sinh, Việt Dân và Tân Việt.
Kết quả thu được như sau:
Tất cả các hộ điều tra đều sử dụng biện pháp tuốt lá, tỉa cành để tăng năng
suất và chất lượng quả na. Do khi sử dụng biện pháp tuốt lá, tỉa cành sâu bệnh
giảm đáng kể, tạo điều kiện cho cành quả hữu hiệu phát triển.
- Thời gian tỉa cành tuốt lá: Tháng 12 đến tháng 2. Trong 120 hộ điều tra

có 11 hộ tuốt lá tỉa cành vào cuối tháng 12, các hộ còn lại có thời gian tuốt lá tỉa
cành từ tháng 1 đến tháng 2.
- Thời gian cho thu hoạch (nếu tuốt lá) kéo dài từ tháng 6 đến tháng 8.
- Các hộ được điều tra đều khẳng định tỷ lệ đậu quả nếu tuốt lá cao hơn so
với không thực hiện biện pháp tuốt lá, tỉa cành.
- Ngoài phương pháp tuốt lá hầu hết các hộ đều không áp dụng phương
pháp nào khác gây rụng lá. Trong 120 hộ điều tra chỉ có 03 hộ áp dụng phương
pháp sử dụng thuốc gây rụng lá.
16

- Năng suất (đối với hộ có áp dụng tỉa cành tuốt lá) trung bình từ 92,48-
121,05 (tạ/ha). Xã Việt Dân có năng suất na cao nhất đạt 121,05 tạ/ha, xã Tân
Việt có năng suất na thấp nhất đạt 92,48 (tạ/ha).
- Tình hình dịch hại khi áp dụng phương pháp tuốt lá: Thấp hơn so với
không áp dụng phương pháp tuốt lá, tỉa cành.
Hoa na thường ra rải rác trong thời gian 2-3 tháng, thường vào cuối
tháng 3 đến cuối tháng 5, tuy nhiên thời gian ra hoa tập trung chủ yếu vào cuối
tháng 4 đến cuối tháng 5 và cũng là thời gian tiến hành thụ phấn bổ sung cho
hoa na. Trung bình 1 cây na 5-6 năm tuổi có khoảng 1000-1500 hoa/cây nhưng
chỉ 200-300 hoa được thụ phấn. Những hoa được thụ phấn khoảng 1 tuần sau sẽ
hình thành quả, thời gian ra quả cũng trùng với thời gian ra hoa.
Cây na nếu chăm sóc tốt ra rất nhiều hoa nhưng tỷ lệ đậu quả thấp vì nhị
đực và nhụy cái thường nở lệch pha nhau. Thường thì nhụy nở trước, sau đó nhị
cái mới nở tung phấn nên rất khó tự thụ phấn, nếu có thụ phấn được thường do
gió hoặc côn trùng nên tỷ lệ đậu quả thấp, nhiều quả có tỷ lệ múi lép cao do thụ
phấn không hoàn toàn. Muốn cho na sai quả, quả to, không bị lép, chất lượng tốt,
bán được giá cao thì cần phải thụ phấn bổ sung bằng tay cho na.
3.2. Điều kiện thời tiết tại Quảng Ninh từ tháng 01 - tháng 6 năm 2011
Sáu tháng đầu năm 2011 nhiệt độ có diễn biến phức tạp, nhìn chung nền
nhiệt độ, ẩm độ thấp hơn so với trung bình nhiều năm. Đặc biệt từ 28/12/2010

đến hết tháng 02/2011 có 38 ngày nhiệt độ thấp hơn 15
0
C gây ảnh hưởng không
nhỏ đến sản xuất nông nghiệp trong tỉnh. Diễn biến thời tiết được thống kê cụ
thể như sau:
Tháng 01/2011 chịu ảnh hưởng của 02 đợt không khí lạnh rất mạnh vào
các ngày 6 - 7 và 15 - 16/01 và liên tục tăng cường thêm, gây gió bắc đến đông
bắc cấp 3 - 4 ở vùng ven biển, trời rét đậm, rét hại. Lượng mưa ở các khu vực
thấp hơn rất nhiều so với trung bình nhiều năm, ợng mưa phổ biến ở khu vực
dưới 10mm. Nền nhiệt độ thấp hơn trung bình nhiều năm từ 3 - 3,5
0
C. Rét đậm,
17

rét hại trên toàn tỉnh kéo dài từ ngày 03/01 đến hết tháng. Cả tháng có 10 - 20
giờ nắng.
Tháng 02/2011 chịu ảnh hưởng của 02 đợt không khí lạnh tăng cường mạnh
vào ngày 11- 12/02 và 12 - 16/02 gây mưa nhỏ, mưa phùn, trời rét đậm, rét hại.
Ngoài ra, còn có 2 - 3 đợt tăng cường yếu không gây ảnh hưởng nhiều đến thời tiết
trong tỉnh. Lượng mưa ở các khu vực xấp xỉ trung bình năm 2010. Lượng mưa phổ
biến ở khu vực từ 20 - 30mm. Nhiệt độ thấp nhất 7
0
C. Rét đậm, rét hại xảy ra vào 2
- 3 ngày đầu tháng, sau ấm dần lên. Cả tháng có 40 - 50 giờ nắng.
Tháng 3 không khí lạnh ảnh hưởng mạnh. Cả tháng có 04 đợt không khó
lạnh ảnh hưởng vào các ngày 03 - 04, 07 - 08, 1 5- 16 và 22 - 23 gây mưa, mưa
nhỏ, trời rét đậm, rét hại. Lượng mưa ở các khu vực cao hơn trung bình cùng kỳ
năm trước. Cả tháng có 18 - 20 ngày mưa, chủ yếu là mưa nhỏ, mưa phùn.
Lượng mưa phổ biến ở khu vực từ 50 - 75mm.
Tháng 4 chịu ảnh hưởng của 03 đợt không khí lạnh yếu vào các ngày 04-

05, 17-18 và 22-23/4 gây mưa, mưa rào và dông. Đặc biệt đêm 17/4 có xảy ra
mưa đá tại Đông Triều.
Tháng 5 có 04 đợt không khí lạnh vào các ngày 03 - 04, 12 - 13, 16 - 17
và 23 - 24 gây mưa, mưa rào và dông, có nơi mưa vừa, mưa to. Lượng mưa cao
hơn trung bình năm 2010, nhiệt độ thấp hơn trung bình nhiều năm từ 0,5 - 1
0
C.
Tháng 6 có thời tiết có hiện tượng mưa dông nhiệt ngay từ đầu tháng, trời
oi nóng, kèm theo mưa dông, nhiệt độ trung bình tăng cao từ 25 - 26
0
C, nhiệt độ
cao nhất là 37
0
C.
18

Biểu đồ so sánh nhiệt độ và ẩm độ năm 2010 và 2011
74
76
78
80
82
84
86
88
90
92
Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6
Ẩm độ (%)
0

5
10
15
20
25
30
35
Nhiệt độ (
0
C)
Ẩm độ 2010
Ẩm độ 2011
Nhiệt độ 2010
Nhiệt độ 2011

Biểu đồ so sánh lượng mưa năm 2010 và 2011
0
50
100
150
200
250
300
Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6
Lượng mưa (mm)
Năm 2010
Năm 2011

3.3. Kết quả nghiên cứu của việc tỉa cành, tuốt lá cây Na tại Đông Triều
Để đánh giá hiệu quả của biện pháp tỉa cảnh tuốt lá đến thời điểm ra hoa na

chúng tôi tiến hành bố trí thí nghiệm gồm 5 công thức, 3 lần nhắc lại, mỗi công
19

thức bố trí 30 cây liền nhau. Tổng số cây = 5*3*30 = 450 cây. Thí nghiệm được
bố trí như sau:
+ CT 1: Tuốt lá vào giữa tháng 1;
+ CT 2: Tuốt lá, cắt đầu cành vào giữa tháng 1;
+ CT 3: Tuốt lá vào cuối tháng 1;
+ CT 4: Tuốt lá, cắt đầu cành vào cuối tháng 1;
+ CT 5: Không tuốt lá, tỉa cành (đối chứng).
- Kỹ thuật tuốt lá: Tuốt 90 % số lá già .
- Kỹ thuật tỉa cành: Cắt đoạn đầu cành dài khoảng 20cm, tỉa bỏ cành vượt
trong tán, cành bị sâu bệnh tạo sự thông thoáng cho cây.
- Bón phân: Dựa trên kết quả điều tra tập quán canh tác của nông dân tại vùng
trồng na của huyện Đông Triều và kết quả nghiên cứu “Kỹ thuật thâm canh cây na”
của Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh Lạng Sơn dự kiến lượng phân bón như sau:
+ Phân hữu cơ = 20kg/cây/năm. Sau thu hoạch bón 50% phân hữu cơ, khi
cây bắt đầu đâm hoa nẩy lộc bón 50% còn lại
+ Ure = 1kg/cây/năm. Bón 3 lần trải đều khi cây bắt đầu ra lộc
+ Lân Super = 0,5 kg/cây/năm. Bón sau thu hoạch 100% lân
+ Kaly Clorua= 0,5kg/cây/năm. Khi cây bắt đầu đậu quả bón 3-4 lần
Vườn na làm thí nghiệm có tuổi cây từ 5-6 năm tuổi có chiều cao cây từ 2 -
3 m, đường kính tán 2 - 3 m.
Thí nghiệm được bố trí kiểu khối ngẫu nhiên hoàn toàn theo sơ đồ:





20


Sơ đồ bố trí ô thí nghiệm








Qua theo dõi thí nghiệm chúng tôi thu được kết quả như sau:
3.3.1. Thời điểm bắt đầu xuất hiện hoa.
Thời điểm tỉa cành tuốt lá có ảnh hưởng rất lớn đến thời điểm xuất hiện
mầm và ra hoa của cây na. Thời gian tuốt lá tỉa cành sớm thì thời gian bật chồi,
xuất hiện nụ và nở hoa sẽ sớm hơn, tuy nhiên nếu thời gian tỉa cành muộn thì
thời gian ra hoa sẽ tập trung và thời gian nở hoa rộ gọn hơn. Mặt khác thời điểm
ra mầm, xuất hiện nụ và nở hoa cũng chịu ảnh hượng rất lớn của điều kiện thời
tiết. Để xác định cụ thể mức độ và đánh giá tác động thời điểm tỉa cành, tuốt lá
ảnh hưởng đến thời điểm bắt đầu ra hoa, thời điểm ra hoa rộ và thời điểm kết
thúc nở hoa chúng tôi tiến hành theo dõi ở 5 công thức thí nghiệm trên từ ngày
15/3 đến ngày 10/6.
Kết quả thí nghiệm thu được thể hiện qua bảng 1 và bảng 2 như sau:




CT1

CT1


CT4 CT2
CT5
CT3

CT2
CT5
CT3
CT3 CT1 CT4
CT2 CT
5

CT4
21

Bảng 1: Tỷ lệ bật chồi các công thức điều tra (%)
CT
Ngày điều tra
CT1 CT2 CT3 CT4 CT5
26/3/2011 3,0 5,0 4,0 7,0 0,0
31/3/2011 17,1 20,7 15,1 25,1 8,9
5/4/2011 60,2 85,3 81,4 86,8 44,9
10/4/2011 88,9 95,3 90,3 95,7 75,3
Tỷ lệ bật chồi của các công thức điều tra
0
20
40
60
80
100
120

26/3/2011 31/3/2011 5/4/2011 10/4/2011
Ngày điều tra
Tỷ lệ (%)
CT1
CT2
CT3
CT4
CT5

Theo bảng số liệu và đồ thị trên chúng tôi nhận thấy các công thức 1, 2, 3,
4 có thời gian xuất hiện lộc tương đối đồng đều vào ngày 26/3/2011.
Cụ thể:
+ Công thức 1: Ngày 26/3 tỷ lệ bật chồi đạt 3%, sau đó tăng dần từ ngày
31/3 đến ngày 10/4 đạt 89% số chồi.
+ Công thức 2: Ngày 26/3 tỷ lệ bật chồi đạt 5%, sau đó tăng dần đến ngày
10/4 đạt 95% số chồi.
22

+ Công thức 3: Ngày 26/3 tỷ lệ bật chồi đạt 4%, sau đó tăng dần đến ngày
10/4 đạt 91% số chồi.
+ Công thức 4: Ngày 26/3 tỷ lệ bật chồi đạt 7%, sau đó tăng dần ngày
10/4 đạt 96% số chồi.
+ Công thức 5: Có thời gian bật chồi chậm nhất được xác định khoảng
ngày 30 - 31/3 và đến ngày 10/4 tỷ lệ đạt 75%.
Như vậy tỷ lệ bật chồi ngày 10/4 ở công thức 4 và công thức 2 là cao nhất
đạt tương ứng là 96% và 95% tiếp đến là các công thức 3 là 91%, công thức 1 là
89%, thấp nhất là công thức 5 với tỷ lệ là 75%.
3.3.2. Thời điểm ra hoa và tổng số lượng hoa/cây.
Thông thường sau khi các mầm ngủ trải qua một thời gian dài “ngủ
đông”, đến mùa xuân khi thời tiết ấm lên, lượng mưa tăng và lượng chất dinh

dưỡng đã tích lũy trong suốt mùa đông sẽ bật chồi nảy lộc để chuẩn bị cho mùa
quả mới. Sau khi ra chồi khoảng 10 - 15 ngày sẽ xuất hiện những nụ hoa đầu
tiên. Hoa na thường nở tập trung trong khoảng 1 - 1,5 tháng. Chúng tôi đã tiến
hành theo dõi để xác định thời điểm xuất hiện nụ, nở hoa rộ của cây na. Kết quả
được thể hiện ở bảng 3.
Bảng 2: Thời điểm ra hoa của cây na của các công thức
STT CT
Thời gian xuất
hiện nụ
Thời gian nở
hoa
Thời gian ra
hoa rộ
1 CT1 11/4 29/4 11-21/5
2 CT2 10/4 28/4 11-21/5
3 CT3 10/4 29/4 11-21/5
4 CT4 08/4 28/4 10-21/5
5 CT5 14/4 30/4 16-21/5
23

Theo kết quả điều tra thời gian xuất hiện nụ ở công thức 4 (tỉa cành tuốt lá
vào cuối tháng 1) thời gian xuất hiện nụ sớm nhất vào 08/4, các công thức 1, 2, 3
có thời gian xuất hiện nụ tương đương vào ngày 10 - 11/4, riêng công thức 5
(công thức đối chứng không áp dụng biện pháp tỉa cành tuốt lá) có thời gian xuất
hiện nụ muộn nhất vào ngày 14/4. Từ đó chúng tôi thấy rằng thời gian bắt đầu
xuất hiện nụ đầu tiên ở công thức 4 chênh lệch 06 ngày so với công thức đối
chứng, công 2 và 3 chênh lệch là 04 ngày và công thức 1 là 03 ngày so với công
thức đối chứng.
Về thời gian nở hoa: Ở công thức 4 và công thức 2 nở hoa sớm nhất vào
ngày 28/4; công thức 1 và công thức 3 là vào ngày 29/4, nở hoa muộn nhất là

công thức 5 được xác định vào ngày 30/4. Như vậy, thời gian bắt đầu nở hoa của
cả 5 công thức không có sự chênh lệch nhau đáng kể.
Nhìn chung, ở tất cả các vườn na, thời gian xuất hiện nụ năm 2011 muộn
hơn năm 2010 khoảng 20 - 25 ngày do thời tiết năm 2011 có thời gian rét đậm,
rét hại kéo dài làm chậm lại quá trình sinh trưởng của cây na chậm lại, nhiệt độ
thấp nên kìm hãm các mầm ngủ không thể bật chồi sớm, vì vậy quá trình sinh
trưởng sinh dưỡng cũng bị kéo dài.
3.3.3. Số lượng hoa/cây.
Để xác định tác động của biện pháp tỉa cành tuốt lá có ảnh hưởng đến số
lượng hoa, quả/cây không để từ đó đánh giá năng suất và hiệu quả kinh tế của
biện pháp, chúng tôi đã tiến hành điều tra trên các công thức thí nghiệm 5
ngày/lần đếm số lượng hoa/cây từ ngày 10/5 đến 04/6 kết quả thu được thể hiện
ở bảng 4 như sau:





24

Bảng 3: Số lượng hoa/cây qua các lần điều tra
CT

Ngày ĐT
CT1 CT2 CT3 CT4 CT5
01/5
23,7

35,3


30,7

42,3

20,1

06/5
44,6

54,4

50,4

64,7

31,7

11/5
102,0

115,1

110,5

121,7

63,8

16/5
120,6


127,6

124,5

133,0

95,4

21/5
135,2

144,0

140,1

149,3

122,8

26/5
79,5

93,8

88,4

97,5

67,9


Tổng
505,5

570,2

544,6

608,5

401,8

LSD
5%
1,02
CV (%)
0,1
Số lượng hoa/cây từ 01/5 - 26/5
0,0
20,0
40,0
60,0
80,0
100,0
120,0
140,0
160,0
01/5 06/5 11/5 16/5 21/5 26/5
Ngày điều tra
Số hoa/cây

CT1
CT2
CT3
CT4
CT5

25

Tổng số lượng hoa/cây trong suốt thời gian điều tra ở mỗi công thức khác
nhau có sự chênh lệch tương đối lớn. Ở công thức 4 có số lượng hoa trong thời
gian theo dõi nhiều nhất là 608,5 hoa. Tiếp đến là công thức 2 với tổng số hoa
điều tra được là 570,2 hoa/cây, ở công thức 2 là 544,6 hoa/cây, công thức 3 là
505,6 hoa/cây và công thức 5 (đối chứng) là 401,8 hoa/cây. Nhìn chung ở các
công thức số lượng hoa nở tăng dần từ 01/5 - 21/5 và chủ yếu nở tập trung từ
ngày 11/5 - 21/5, sau đó số lượng hoa giảm dần.
Trong đó:
+ Công thức 1: Số lượng hoa ngày 01/5 là 23,7 hoa/cây chiếm 4,7% tổng
số lượng hoa điều tra. Số lượng hoa nở tăng dần và nở tập trung chủ yếu từ ngày
11 - 21/5 với tổng số hoa là 357,8 hoa/cây chiếm 70,8% tổng số lượng hoa điều
tra. Sau đó số lượng hoa giảm dần, đến ngày 26/5 số hoa là 79,5 hoa chiếm
15,7% tổng số lượng hoa điều tra được. Tổng số hoa/cây điều tra ở công thức 1
hơn công thức đối chứng là 103,8 hoa (bằng 128,8%).
+ Công thức 2: Số lượng hoa ngày 01/5 là 35,3 hoa/cây chiếm 6,2% tổng
số lượng hoa điều tra. Số lượng hoa nở cũng tập trung từ ngày 11 - 21/5 với tổng
số hoa là 386,7 hoa/cây chiếm 67,8 % tổng số lượng hoa điều tra. Số lượng hoa
giảm dần, đến ngày 26/5 số hoa là 93,8 hoa/cây chiếm 16,4% tổng số lượng hoa
điều tra được. Tổng số hoa/cây điều tra ở công thức 2 hơn công thức đối chứng
là 168,5 hoa (bằng 141,9%).
+ Công thức 3: Số lượng hoa ngày 01/5 là 30,7 hoa/cây chiếm 5,6% tổng
số lượng hoa điều tra. Số lượng hoa nở tập trung từ ngày 11 - 21/5 với tổng số

hoa là 375,2 hoa/cây chiếm 68,9% tổng số lượng hoa điều tra. Số lượng hoa
giảm dần, đến ngày 04/6 số hoa là 93,8 hoa/cây chiếm 16,2% tổng số lượng hoa
điều tra được. Tổng số hoa/cây điều tra ở công thức 3 hơn công thức đối chứng
là 142,8 hoa (bằng 135,5%).
+ Công thức 4: Số lượng hoa ngày 01/5 là 42,3 hoa/cây chiếm 6,9% tổng
số lượng hoa điều tra. Số lượng hoa nở tập trung từ ngày 11 - 21/5 với tổng số
hoa là 405 hoa/cây chiếm 66,5% tổng số lượng hoa điều tra. Số lượng hoa giảm

×