Website: Email : Tel : 0918.775.368
MA TUÝ - NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT
CHƯƠNG I: MA TUÝ LÀ GÌ?
I.Khái niệm về ma tuý :
- Từ Hán Việt. “ Ma” là làm cho tê liệt. “ Tuý” là làm cho say sưa.
- Theo định nghĩa của tổ chức Y tế Thế giới đã được Tổ chức Văn hoá
giáo dục của liên hiệp quốc công nhận thì :” Ma tuý là chất khi đưa vào
cơ thể sẽ làm thay đổi chức năng của cơ thể”
Tổ chức Y tế Thế giới (1982) đã phát triển định nghĩa sau: “Ma tuý
theo nghĩa rộng, nhất là mọi thực thể hoá học hoặc là những thực thể
hỗn hợp, khác với tất cả những cái được đòi hỏi để duy trì một sức khoẻ
bình thường, việc sử dụng những cái đó sẽ làm biến đổi chức năng sinh
học và có thể cả cấu trúc của vật .” Trong cách hiểu đơn giản, điều đó có
nghĩa là mọi vật chất khi đưa vào trong cơ thể người sẽ thay đổi chức
năng sinh lý học hoặc tâm lý học loại trừ thực phẩm ,nước và ôxy
- Định nghĩa khác với triển vọng khác là :” Mọi vật chất mà con người
cho là ma tuý thì được hiểu là nó sẽ thay đổi thừ nền văn hoá này sang
nền văn hoá khác, từ thời này đến thời khác “.
- Có thể hiểu ma tuý là những chất có nguồn gốc từ tự nhiên hay tổng
hợp khi ngấm vào cơ thể con người sẽ làm thay đổi trạng thái y thức , trí
tuệ, tâm trạng của người đó, gây ra hiện tượng quen rồi nhớ, không dễ
bỏ được.
- Đưa ra một định nghĩa rộng về ma tuý sẽ dẫn đến là hầu hết mọi
người sẽ dùng ma tuý và chúng ta sẽ sống trong một xã hội quen dùng
ma tuý. Có nhiều hậu quả cả tích cực lẫn tiêu cực do việc dùng và không
dùng ma tuý. Vấn đề được đặt ra là phải ngăn ngừa sự lạm dụng ma tuý
nói chung chư không phải là chỉ đối với thuốc phiện. ngăn ngừa sự lạm
dụng ma tuý trong trẻ em và thanh niên là trách nhiệm chung.
II. Nguồn gốc của ma tuý:
- 4000 năm trước công nguyênngười ta biết đến cây thuốc phiện (ả
phù dung, anh tử túc, á phiện) hay cây Thẩu. nhưng mãi đến thế kỉ 17,
người Châu Âu mới biết được tác dụng trị bênh của thuốc phiện( giảm
đau, giảm ho, cầm tiêu chảy…)
- 2700 năm trước công nguyên, Cấn Sa được mô tả trong “ Bản thảo
cương mục “ của Thần Nông ( Trung Quốc). Nhưng trước đó, người ta
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đã dùng làm thuốc hút, hít, uống để có được aỏ giác do Cần Sa gây ra. Y
học dân gian thì dùng cần sa để giảm đau, giảm ho, giảm cơn
suyễn,chống co giật.
- Từ xa xưa, người dân Nam Mỹ đã nhai lá Coca với vôi để cảm thấy
không đói, không mệt. Ngày nay,Tây y dùng cocain để làm thuốc tê tỏng
tai mũi họng. răng miệng.
III. Phân loại ma tuý :
Hiện nay trên thế giới có hàng trăm loại ma tuý. người ta phân loại ma
tuý theo các cách khác nhau :
Ví dụ:
- Phân loại theo nguồn gốc sản xuất
+ Ma tuý tự nhiên:VD:thuốc phiện,cần sa…
Nguồn gốc:từ nhựa cây thuốc phiện có trồng ở 12 tỉnh vùng núi phía Bắc
Việt Nam,từ hoa lá quả cần sa(còn gọi là bờ đà,cây gai dầu) được trồng
ở1 số tỉnh giáp ranh biên giới Việt Nam,Campuchia,Tây Nguyên.Từ lá
cây coca,chế ra chất cathinen có nhiều ở Nam Mỹ.
+ Ma tuý bán tổng hợp :heroin
+ Ma tuý tổng hợp:VD: ectasy
Nguồn gốc:Các loại ma tuý tổng hợp từ hoá chất độc hại thuộc
nhóm:amphatamin,methamphetamine…
Cلc chất ma tu hướng thần độc hại hơn thuốc phiện 500 lần.
- Phân loại theo mối quan hệ xã hội.
+ Ma tuý hợp pháp: Ma tuý y học( thuốc ngủ, thuốc an thần, thuốc
giảm đau)
+ Ma tuý thông dụng: cà phê, thuốc lá, rượu.
+ Ma tuý không hợp pháp: Hê rôin, thuốc phiện, cần sa.
-Phân loại theo tác động tâm sinh lý người sử dụng:
+Các chất an thần
+Các chất kích thích
+Các chất gây ảo giác
Các Chất Kích Thích:
a. Những chất ức chế thần kinh:
Thuốc phiện và những chất chiết xuất từ thuốc phiện; các loại thuốc ngủ
thuộc barbituric như Gardenal, Cortidasmyl, Phenobacbitan (của Việt
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nam); thuốc an thần, thường dùng nhất là méprobamate, có các tên:
Andaxin (Hungary), Anthraxin (Nhật), Cyrpon (Ðức), Deprol (Mỹ),
Equanil (Mỹ) Equasic (Mỹ), Lenactos (Pháp), Pertanquil (Ý). Dược
phẩm Diazépam dẫn xuất từ Benzodiazépine, có nhiều tên biệt dược
khác: Valium, Séducène, thuộc bảng A (tức là thuốc độc) theo dược điển
Pháp, uống quá liều sẽ gây sảng khoái, chếnh choáng như say.
b. Những chất thuốc kích thích thần kinh:
Cocain, Amphétamine. Amphétamine sulfate là dược phẩm có nhiều tên
biệt dược khác: Phetanin (Nga), Benzedrine (Mỹ), Psychedrine (Ba
Lan), Ortenal (Pháp), Maxiton (Pháp), Psychoton (Tiệp Khắc), ghiền
trước đây gọi Mác hoặc Xì cọt. Doping vận động viên hay dùng.
Học sinh, sinh viên cũng dùng Amphétamine (Maxiton, Phêtamin) để
tăng sức học vì thuốc này kích thích thần kinh, tăng huyết áp, tim đập
nhanh, con người nở ra, độ đường huyết tăng, óc suy tư dễ dàng, tăng
sáng suốt, hoạt bát, dễ dàng cởi mở với người khác.
Tuy nhiên, lạm dụng thuốc này sẽ đưa tới nghiện. Dân nghiện chích
thuốc này vào tĩnh mạch, tạo ra cho con người một cảm giác phi (phê):
sảng khoái, bay bổng.
Amphétamine được bào chế ở độ mạnh gấp mười lần, gấp năm chục lần
thành độc dược có tên là MDM, MPPP, gọi là thuốc "lắc". Chúng tạo
nên cơn hưng phấn quá độ, say sưa quá độ, quay cuồng quá độ, lệch về
thị giác, cơ thịt ở đầu và cổ co thắt, khô miếng, miệng khó chịu, con
người quay đầu, lắc lư trong ba, bốn giờ.
c. Những chất kích thích làm rối loạn hoạt động của thần kinh.
Cần sa (cannabis), chất THC (Tetrahydrocanabinol), chiết xuất từ cần sa.
Chất LSD (acid lysergic) gây ảo giác, chất mescalin chiết xuất từ loại
xương rồng peyote, Psilocybin chiết xuất từ một loại nấm đều gây ảo
giác.
d. Bữa ăn ma túy tổng hợp
Trước năm 1975, dân nhà giàu ghiền ma túy dùng một bữa ăn ma túy
theo thứ tự như sau:
- Uống thuốc kích thích quá liều (họ sẽ bị ngộ độc)
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Hút cần sa, thuốc phiện (có tác dụng giải độc lượng thuốc kích thích
quá độ đương sự đã uống vào).
- Uống thuốc ngủ (Vénoral, Gardénal, Binoctal, Imménoctal v.v...) có
tác dụng kéo dài ảo giác "phi" (phê) thêm một thời gian nữa.
Thân thể họ tàn tạ và mỗi ngày họ tàn tạ thêm vì khi họ nốc cả một liều
thuốc kích thích thừa sức giết chết mấy mạng người, rồi lại đi hút, đi hít
một thứ độc dược khác để tạo thế "độc giải độc", tiếp đến lại dùng thuốc
ngủ quá độ?
Hiện nay, một nhóm thanh niên mê say ma túy sử dụng thuốc "lắc".
Uống xong mười mấy phút, họ đứng lắc đầu, không còn biết gì ngoài
việc lắc rồi uống nước do tác dụng của thuốc, quay cuồng, xốc áo, vén
quần, tự bôi nhọ nhân cách của mình!
Có loại tân dược tiêm (chích) chứa trong ống tiêm, chỉ cần mở hộp thuốc
lấy ống tiêm là có thể tiêm thuốc vào cơ thể. Phải đề phòng loại "mì ăn
liền" này vì có loại thuốc gây nghiện.
IV. Một số chất ma tuý chủ yếu hiện nay và tính
năng tác dụng của nó.
IV.1.Cần sa:
Cây cần sa tiếng Anh gọi là cannabis, tiếng Pháp gọi là chanvre indien, còn
có những tên địa phương như marijuana, ganjale v.v... là nhựa của loại hoa
cannabis hay loại gai. Cây cần sa thường được trồng để lấy sợi, nhưng nếu
trồng ở khí hậu nhiệt đới (nắng nhiều) như ở miền Ấn-độ, Mễ-tây-cơ v.v...
cây cần sa sẽ cho nhựa. Từ nhựa này người ta tạo ra một thứ chế phẩm để hút.
Chất cần sa gây ra tình trạng hưng phấn nơi người hút, giải tỏa sự ức chế
của thần kinh, con người trở thành cởi mở với người khác, cử chỉ lanh lợi,
nhìn màu sắc thấy tươi sáng khác thường, mọi âm thanh nghe du dương, tự
tin, sảng khoái, ăn nói lưu loát. Nhưng đi theo tình trạng sảng khoái đó là
giảm trí phán đoán, ý chí lụn bại, tình trạng quên sót, đang nói tự nhiên quên,
không nhớ là nói gì, thụ động, lười biếng. Cơn say cần sa kéo dài từ hai giờ
đến mười giờ, mất khả năng định hướng nên rất nguy hiểm khi say cần sa mà
lái xe.
Người hút cần sa sẽ trở thành người ghiền cần sa, bị cần sa điều khiển, họ
trở thành một người nghiện ngập, lười biếng, bạc nhược.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
IV.2. Cocain (Cocaine):
Ðây là hóa chất từ lá cây coca, là chất bột trắng hòa tan trong nước. Y học
dùng làm thuốc tê. Dân ghiền hòa bột cocain trong nước để uống hoặc để
chích vào tĩnh mạch. Nó gây cảm giác sảng khoái vì nó là một chất kích thích
thần kinh: tim đập nhanh, vận động cơ thể dễ dàng, sảng khoái. Dùng lâu và
dùng nhiều con người rơi vào nghiện ngập cocain, cơ thể suy yếu, ý chí lụn
bại, sống cô độc vì không muốn tiếp xúc với ai, xuất hiện những ảo giác và
mê sảng, dễ rơi vào tình cảm rối loạn và hung dữ.
IV.3. Thuốc phiện và ancalốit của thuốc phiện.
Thuốc phiện là nhựa được lấy từ quả của cây thuốc phiện. Thuốc
phiện sống là nhựa được phơi khô, đóng gói. Thuốc phiện chín là khi
dùng nước nóng để chiết xuất thuốc phiện sống, lọc lấy dịch lọc, nấu sôi
cho cô đặc lại. Sái thuốc phiện là tàn còn sót lại sau khi hút . Người
nghiện cho vào nước nấu sôi để chích. Trên thị trường, thuốc phiện được
đóng gói, bánh màu nâu đen đặc cánh gián hoặc dạng nước, vô bao ni
lon. Cây thuốc phiện còn có tên là: Ả phù dung, Anh tử túc, A phiến,
Anh túc( anh túc xác là quả thuốc phiện sau khi lấy hạt, nhựa và đã được
làm khô)
Toàn thân cây thuốc phiện bấm chỗ nào cũng có nhựa( mủ ) màu trắng
dể lâu chuyển thành đen. quả chín chứa nhiều ancaloit hơn quả non.
Trong nhựa khô quả cây thuốc phiện có hơn 25 ancaloit, trong đó
moocphin 10%, côdein 0,5%, nacsêin 0,3%, têbain 0,2%, pa pave rin
0,8%, na rcotin 6%
IV.3.1. Moóc phin.
a) Tính chất
Là hoạt chất chính của cây thuốc phiện. Dạng bột kết tinh trắng ,
không mùi, vị đắng và chua dễ chuyển màu xám dưới ánh sáng và không
khí . Dạng nước: không màu có mùi khai của amoniac. Dạng viên thực
chất là thuốc tây trị đau ở người bệnh ung thư
b) tác dụng của mooc phin lên cơ thể người:
Moocphin ức chế vỏ não va những trung tâm ở gian não, ức chế cảm
giác đau rất đặc hiệu. khi dùng thuốc ngủ tất cả các trung tâm ở vỏ não
bị ức chế, khi người bệnh ngủ mới hết đau. nếu dùng mo ocphin, những
trung tâm ở vỏ não vẫn hoạt động, nhưng cảm giác đau đã mất, chứng tỏ
tác dụng của mo ocpin là chọn lọc. do thuốc làm giảm đau nên người
bệnh ngủ được. tác dụng giảm đau này được tăng cường bằng thuốc an
thần kinh. Moocphin làm tăng tác dụng của thuốc tê.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Gây ngủ:
Moocpin còn gây ngủ và làm giảm hoạt động của tinh thần. liều cao có
thể gây mê, làm mất tri giác . đặc biệt liều thấp có thể gây hưng phấn : 1-
3 mg làm cho mất ngủ, nôn, phản xạ tuỷ tăng , ý nghĩ đến nhanh nhưng
lộn xộn.
- Gây sảng khoái:
Với liều điều trị, làm thay đổi tư thế, làm tăng trí tưởng tượng: mất
buồn rầu, mất sợ hãi, trạng thái lạc quan, nhìn màu sắc thấy đẹp, nghe
tiếng động thấy dễ chịu, mất cảm giác đói.
- Tác dụng lên hô hấp:
Liều thấp kích thích hô hấp, liều cao hơn ức chế trung tâm này. Trong
trạng thái khó thở nhanh, nông thì Moocphin làm nhịp thở chậm lại và
sâu hơn. Liều cao Moocphin gây nhịp thở Cheyne-Stokes, có khi liệt
hoàn toàn trung tâm hô hấp. Ở trẻ mới sinh và trẻ còn bú, trung tâm này
rất nhạy cảm với Moocphin. Moocphin qua được hàng rào nhau thai,
hàng rào máu-não. Vì lý do trên, người có thai hoặc trẻ em tuyệt đối cấm
dùng Moocphin. Moocphin dùng cho người có thai có tác hại đến sức
khoẻ, sự trưởng thành, sự thích nghi của trẻ sơ sinh: trẻ bị suy dinh
dưỡng, nhẹ cân, thường đẻ non, do thuốc gây trục trặc ở trục dưới đồi-
tuyến yên, trẻ có rối loạn về hành vi tăng hưng phấn, tăng phản xạ, tẳng
trương lực, mất ngủ, nôn, đi lỏng, giống như hội chứng cai Moocphin.
b) Hai nhóm có ảnh hưởng nhiều đến tác dụng của moócphin:
- Nhóm phenol ở vị trí 3, nếu alkyl hoá nhóm này như codein(methy
lmoócphin), dionin ( ethylm orphin) thì tác dụng giảm đau, gây nghiện
giảm đi. Nếu nhóm phenol này bị hoá este, ví dụ acety hoá
( acetylmoócphin), tác động của mo óc phin sẽ tăng cường
- Nhóm rượu ở vị trí 6: Nếu bị khử H để cho nhóm ceton, như hydro
moocphin, hoặc bị ête, hoá este thì tác dụng giảm đau và độc tính tăng
lên, nhưng thời gian tác dụng giảm đi.
- Nếu cả hai nhóm phenol và rượu đều bị acetyl hoá, tác dụng giảm
đau gây nghiện sẽ tăng mạnh, ví dụ hêrôin( diacetylmoócphin) là chất
ma tuý mạnh.
c) Dược độc học.
Moócphin hấp thụ dễ qua đường tiêu hoá: một phần qua dạ dày, phần
lớn thấm qua ruột. Dễ phân phối vào các tổ chức.
Có tác dụng mạnh nhất sau khi uống 30-60 phút. bị N khử metyl và
glucuro liên hợp ở microsôm gan(ở chức phenol của thuốc), để cho mo
óc phin-3 monoglucuronld. Có thể bị sulfo- hợp.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Một phần trăm liều dùng qua được hàng rào thần kinh trung ương. thải
30% qua thận, một lượng nhỏ thải qua dịch dạ dày, qua mặt và theo
phân, một phần theo mồ hôi, qua sữa, nước bọt. thải nhanh trong 6 giờ
đầu. có thể co chu kì ruột gan, gây tích luỹ thuốc.
IV.3.2. Dẫn xuất của moócphin.
Những dẫn xuất của moócphin như; têbain, dionnin, dicedid…. Cũng
có tác dụng như moócphin có thể dùng những thuốc ở bảng này để thay
thế. Không có ưu điểm gì hơn moocphin.
Đặc biệt cần chú ý hêrôin. Hêrôin còn gọi là hàng trắng, bạch phiến,
xì ke. được tổng hợp từ moocphin. Hê roin có dạng bột trắng, dễ hút
nước, được gói trong giấy bạc thành viên nhỏ vô túi nilon nhỏ thành tép
hàn kín. Hê ro in được sử dụng hút trộn với thuốc lá, hoặc hít(để trên tờ
giấy bạc hơ lửa để bộc khói và hít) nặng hơn thí hít trực tiếp vào mũi.
Hêroin gây nghiện mạnh hơn hẳn những dẫn xuất khác, không dùng làm
thuốc( hêrôin là một loại ma tuý). Không cai hêrôin được, thường dùng
liên tục những liều cao mathadon để “ cai hêrôin”, nhưng người bệnh lại
phụ thuộc vào mathadon.
IV.3.3. Thuốc phiện toàn phần( omnoponum, pantoponum).
Chữa ỉa chảy. trong thuốc phiện, tác dụng morpin được hiệp đồng vượt
mức bởi ancalôit nhân bon syi- Isoquinolein như papavonrin, làm giảm
cường kiện ruột, làm mềm cơ trơn ống tiêu hoá , còn dùng giảm đau.
IV.4. Opiat tổng hợp.
Gọi là Opiat ( opium- thuốc phiện) vì tác dụng gần giống
moócphin( làm liệt trung tâm hô hấp, gây sảng khoái). Không có ưu
điểm gì hơn moócphin. chữa ngộ độc cấp và mãn như ở moócphin. Có
hiện tượng quen thuộc chéo: người nghiện moócphin có thể dùng thuốc
này để thay thế hoặc ngược lại .
Các thuốc:
a) Pethidin( meperidin, dolosal, lydol, dolantin, dolargan)
- Giảm đau kém mo ócphin 6-10 lần, ít gây nôn, ít gây táo, không giảm
ho. Ba lần ít độc hơn moócphin. Phethi din chống co thắt ruột và cơ trơn
như atropin và papaverin.
- Huỷ phó giao cảm: Làm tê liệt vagus và giãn đồng tử. pethi din vẫn
làm co cơ thất oddi; khi đau đường mật, phải dùng thêm atropin.
- áp dụng điều trị như moócpin, ngoài ra còn giảm đau khi đẻ, vì ức chế
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các sợi cơ tử cung. rất hay dùng gây tiền mê.
- Làm giảm huyết áp, nhất là ở tư thế đứng, do là giảm sức kháng ngoại
như là giãn mạch do cơ chế trung ương như ở moócphin, chứ không liên
quan gì đến tác dụng là tăng tiết histamin của pethidin. Gây hạ huyết áp,
còn do pethidin làm giảm hoạt động hệ giao cảm. pethidin làm tăng lưu
lượn tim, gây chứng tim đập nhanh, có khi nguy hiểm ở người bệnh tim.
Hay gây ngứa mặt mũi.
b) Methadon (dolophin, amidone, phenadon)
An thần, giảm ho, giảm đau( mạnh hơn pethidin), ít gây tác hại. dễ gây
buồn nôn( hay dùng cùng với aropin). Dùng chữa ngộ độc hêroin, vì nếu
nghiện methadon, sẽ ít bị ràng buộc, ít bị làm suy yếu hơn hêrôin
c) dextromoramind :
Là dẫn xuất của me tha don, tác dụng giảm đau mạnh hơn mo ócphin
nhưng chóng hết hơn mo ocphin.còn có thể lmà hạ huyết áp. dễ gây
nghiện.
d) Evarphanol:
Hữu tuyền, giảm đau mạnh. loại tả tuyền là dextrophan, không gây ngủ,
không giảm đau, không gây nghiện nhưng giảm ho mạnh
g) Fentanyl
Mạnh hơn mo óc phin 100 lần: tác dụng giảm đau đạt mức cao
nhất sau khi tiêm tĩnh mạch 0,1-0,5 mg fentanyl 2-3 phút, tác
dụng kéo dài 30 phút
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II: TÁC HẠI CỦA MA TUÝ
I. Sự lạm dụng ma tuý:
I.1. Nguyên nhân dẫn đến sự lạm dụng ma tuý:
Sự lạm dụng ma tuý là hiện tượng sử dụng ma tuý quá ngưỡng về liều
lượng và thời gian nó sẽ có hậu quả là nghiện ma tuý. sự lạm dụng ma
tuý và nghiện ma tuý do nhiều nguyên nhân khác nhau. Nó tập trung chủ
yếu ở 3 lĩnh vực: sinh học, tâm lý và xã hội. sau đây là 10 nguyên nhân
cơ bản dẫn đến sử dụng ma tuý rồi tiếp nối là sử dụng ma tuý và nghiện
ma tuý.
1bạn bè lôi cuốn, rủ rê
2thích tìm cảm giác lạ.
3lối sống ăn chơi đua đòi, thích tìm khoái lạc
4buồn chán, căng thẳng
5không có giải pháp đúng đắn khi bị thất nghiệp họăc bi quan trước
tiền đồ và cuộc sống
6phong tục tập quán(đồng bào dân tộc ít người cho rằng hút tuhốc
phiện là một thú vui).
7Trình độ nhận thức thấp.
8Các thành viên trong gia đình thiếu sự quan tâm lẫn nhau.
9sự quan tâm của cộng đồng và xã hội tới người nghiện còn ít
10 nạn sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán và sử dụng ma tuý
chưa được nghiêm trị mọi lúc, mọi nơi.
I.2. Sự lạm dụng ma tuý:
Người dùng ma tuý nhiều lần, ma tuý tác đông liên tục vào cơ quan thụ
cảm, gây ức và giảm chất truyền tin nên tế bào đáp ứng lại bằng cách
tăng sụ tổng hợp( hoặc ức chế phân huỷ). Như vậy, khi có ma tuý, nhờ
cơ chế bài trừ mà cơ thể giữ được cân bằng, xuất hiện trạng thái
quen( tức là nghiện)
Khi dừng không dùng ma tuý nữa thì cơ quan thụ cảm vẫn quen đáp
ứng với nồng độ cao của ma tuý nhưng không đáp ứng được nhu cầu của
cơ quan cảm thụ, xuất hiện tình trạng khích thích bất thường ở người
“đói thuốc phiện”. ta có thể nói rằng sự sử dụng ma tuý ( kể cả hợp pháp
và không hợp pháp) vượt quy định về thời gian và khối lượng đó là sự
lạm dụng ma tuý .
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
I.3. Người sử dụng ma tuý có những dấu hiệu sinh học gì?
a) Hội chứng nghiện:
- Theo Tổ chức Y Tế Thế Giới(ƯHO) định nghĩa từ năm 1957, nghiện là
“ trạng thái ngộ độckinh niên hay từng thời kì do sử dụng lập đi lập lại
một hay nhiều lần một chất tự nhiên hay tổng hợp . Nó làm cho người
nghiện ham muốn không tự kiềm chế được mà bằng mọi giá phải tiếp
tục sử dụng. Nó gây xu hướng tăng dần liều lượng, gây ra sự lệ thuộc về
tâm lí và thường thường cả thể chất và có hại cho chính người nghiện và
xã hội .
Biểu hiện:
- Thèm muốn mãnh liệt trong việc dùng chất ma tuý mà khó cưỡng lại
được.
- Khuynh hướng ngày càng tăng liều lượng ma tuý để thoả mãn trạng
thái “đói ma tuý” ở hệ thần kinh trung ương.
- Xuất hiện hội chứng cai rất khó chịu khi ngừng dùng.
Người nghiện Moocphin có rối loạn về tâm lý, nói điêu, lười biếng, ít
chú ý vệ sinh thân thể. Có những triệu chứng thực thể như: táo bón, co
đồng tử, thiếu máu, chán ăn nên sút cân, mất ngủ, già trước tuổi, run.
Người nghiện chống nhiễm khuẩn kém, dễ chết vì những bệnh truyền
nhiễm.
Người nghiện luôn luôn “đói Moophin”. Khi cai thuốc có những triệu
chứng đặc biệt: đi lỏng, rối loạn tuần hoàn, nôn, vã mồ hôi, chảy nước
mắt, đau thắt ngực, trầm cảm, có khi kích thích thần kinh.
b) Dấu hiệu phát hiện người nghiện ma tuý:
11 Miệng, gáy tóc, cổ áo có mùi khét rất khó ngửi, mắt thường xuyên
đỏ
12 Thường vắng mặt những giờ cố định, bất kể công việc đang làm hay
sự ngăn cản của bất kì ai
13 Vào nhà vệ sinh lâu do táo bón, tiểu gắt.
14 Tụ tập, đàn đúm với những người có đời sống sinh hoạt buông thả
15 Khả năng học tập và làm việc sa sút thấy rõ, nhu cầu tiêu xài tăng
lên
16 Tâm tính thay đổi: ít tiếp xúc với người trong nhà, dễ cáu gắt, hung
hãn, có lúc nói nhiều, vui vẻ quá mức, có lúc tìm một góc riêng yên
tĩnh không muốn ai quấy rầy.
17 Buổi sáng thường hay dây muộn do thức khuya dù không phải do
bận học hay công việc.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
II. Tác hại của ma tuý:
a) Đối với cá nhân và sức khoẻ:
- Đối với hệ hô hấp: Các chất ma tuý khích thích hô hấp gây tăng tần
số thở trong thời gian ngắn, sau đó sẽ gây ức chế hô hấp, nhất là khi
dùng quá liều. nhiều trường hợp ngưng thở nếu không cấp cứu kịp thời
sẽ dẫn đến tử vọng, đôi khi ngưng thở rất đột ngột.
Nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả Mỹ đã cho thấy mối liên
quan giữa hút ma tuý với ung thư phổi.
- Đối với hệ tim mạch :các chất ma tuý sẽ kích thích làm tăng nhịp
tim , ảnh hưởng trực tiếp lên tim , gây co thắt mạch vành tạo nên cơn
đau thắt ngực , nặng hơn có thể gây nhồi máu cơ tim . Chúng cũng là
nguyên nhân của các rối loạn nhịp đe doạ tính mạng người dùng ma tuý.
Ngoài ra còn gây nên tình trạng co mạch làm tăng huyết áp.
- Đối với hệ thần kinh: Ngoài tác dụng kích thích thần kinh giai đoạn
đầu gây hưng phấn, sảng khoái, lệ thuộc thuốc…., cũng có thể gây các
tai biến như co giật, xuất huyết , đột quỵ. Tinh thần luôn căng thẳng,
giấc ngủ hay giật mình, rối loạn tâm thần.
- Đối với hệ sinh dục: khi mới nghiện , tình dục bị kích thích nên sẽ
có quan hệ buông thả. Khi nghiện lâu sẽ xảy ra tình trạng bất lực ở nam,
còn nữ thì rối loạn kinh nguyệt, vô sinh hoặc hư thai ,sinh non,sinh con
nghiện bẩm sinh.
- Ngoài ra, người dùng ma tuý còn phải chịu những tác hại như hoại tử
tế bào gan, ảo thính, ảo thị…
Năng lực học tập, làm việc sa sút. Nhân cách thay đổi, trở nên nhu
nhược, yếu đuối, ý chí suy sụp, nghị lực kém. Khi no thuốc dành tất cả
thời gian để tận hưởng, người lớn tuổi tìm chỗ yên tĩnh nằm, người trẻ
tuổi dễ bị kích động, lao vào những cuộc chơi nguy hiểm, đốt da tay,
rạch da chân, gây sự đánh nhau, đua xe…khi đói thuốc sẵn sàng làm bất
cứ điều gì kể cả tội ác như buôn bán ma tuý ,trộm cắp, cướp giật, mại
dâm…
- Nghiện chích thì sẽ tiêm chích chung kim óng không khử trùng, đưa
tới việc bị nhiễm trùng: viêm gan siêu vi, sốt rét tắc tĩnh mạch, HIV-
AIDS….
b) Đối với gia đình và xã hội:
- Đối với gia đình, sẽ gây tình trạng xáo trộn, hạnh phúc tan vỡ, li tán
dẫn đến tình trạng tan gia bại sản.
- Đối với xã hội hàng trăm tỷ đồng cho ma tuý, cho cai ma tuý. Riêng
cai ma tuý năm 1996 đã ngốn hết 20 tỷ. An ninh trật tự bất ổn, tội phạm
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
gia tăng. Hư hỏng nhiều thế hệ, ảnh hưởng đến phát triển đất nước về
mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, quốc phòng…
III. HIV- AIDS:
III.1. Định nghĩa HIV- AIDS:
- HIV( tên viết tắt của từ tiếng anh : Human Immunodeficiency Virut)
là tên gọi một loại vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người . Vi rút này tấn
công các tế bào miễn dịch làm suy giảm ngay chính các hệ thống miễn
dịch ( hay hệ thống phòng thủ) chống lại các mầm bệnh để bảo vệ cơ
thể.
- AIDS ( viết tắt của cụm từ tiếng anh :Aquired Immuno Deficiency
Syndrom)- trước đây gọi là SIDA – là hội chứng suy giảm miễn dịch
mắc phải, dung để chỉ giai đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV. ở giai
đoạn này hệ thống miễn dịch phòng thủ của cơ thể đã bị suy yếu làm các
mầm bệnh sẽ nhân cơ hội tấn công gây nhiều chứng bệnh nguy hiểm dẫn
đến tử vong.
-Cấu tạo vi rút HIV:
III.2. Sự khác nhau giữa nhiễm HIV và AIDS:
- HIV lá tên thường gọi của vi rut gây ra bệnh AIDS. người mang HIV
trong máu gọi là người nhiễm HIV
- AIDS là chỉ tình trạng cơ thể ở giai đoạn cuối của quá trình nhiễm
HIV. Do hệ thống miễn dịch tổn thương trầm trọng, cơ thể người bệnh
không tự bảo vệ chống lại các bệnh nhiễm trùng và ung thư mà ở người
bình thường có thể chống đỡ được. những người ở giai đoạn AIDS gọi là
những người sống chung với HIV/AIDS.
III.3. Các giai đoạn của nhiễm HIV:
III.3.1.Giai đoạn mới nhiễm HIV: ( Giai đoạn cửa sổ)
- Khi một người bắt đầu bị nhiễm HIV có thể có những biểu hiện như
sốt nhẹ, mệt mỏi… nhủ các bệnh thông thường khác nên họ có thể nghĩ
rằng mình bị cảm cúm. một só người khác hoàn toàn không có biểu hiện
gì.
- Trong giai đoạn này kháng thể có thể vẫn chưa có mặt trong máu do
cơ thể cần có thời gian để tạo ra kháng thể chống lại vi rut. Vì vậy giai
đoạn này gọi là giai đoạn “cửa sổ” có nghĩa là không thể phát hiện
người nhiễm HIV qua xét nghiệm máu thông thường ( tìm kháng thể
kháng vi rut), mặc dù họ thật sự bị nhiễm HIV. thời gian này họ đã có
khả năng truyền bệnh cho người khác.
12