1
TỔNG LUẬN PHÁP LUẬT QUÔC TẾ VÀ PHÁP LUẬT BIỂN
MỘT SỐ NƯỚC QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN QUA LẠI KHÔNG GÂY HẠI
Quyền đi qua không gây hại xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX và sau đó được đề cập đến trong hai công ước quốc tế nổi tiếng:
Công ước Giơnevơ năm 1958 về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp lãnh hải và Công
ước Luật biển nă
m 1982 (từ Điều 17 đến Điều 32). Quyền này đã trở thành một
chế định quan trọng trong quy chế pháp lý của lãnh hải, và trở thành nguyên tắc
lớn của Luật Quốc tế
1
. Tuy nhiên, ngay từ khi mới hình thành, nguyên tắc này
đã và đang gây ra nhiều cuộc tranh luận, kéo dài, chưa có sự thống nhất rõ ràng
giữa các quốc gia liên quan đến vấn đề: phạm vi áp dụng, hiệu lực pháp lý và
nội hàm của nguyên tắc “đi qua không gây hại”.
Điểm gây ra tranh luận nhiều nhất, thậm chí còn làm phát sinh các tranh
chấp quốc tế, đó là vấn đề quy chế đi qua không gây hại của tàu quân sự nước
ngoài trong lãnh hải của quốc gia ven bờ
. Mặc dù, hầu hết các quốc gia trên thế
giới đều đạt được sự đồng thuận cho quy định liên quan đến quyền qua lại vô
hại của tàu thương mại trong lãnh hải, nhưng vấn đề quyền qua lại vô hại của
tàu quân sự nước ngoài lại không đơn giản. Một số quốc gia (thường có ưu thế
về hải quân, như Hoa Kỳ, Anh quốc…) rất ủng hộ nguyên tắc quy
ền qua lại vô
hại của tàu quân sự không chỉ vì lợi ích hàng hải lợi mà còn vì đảm bảo chính
sách ngoại giao cũng như lợi ích chiến lược của mình
2
.Trái lại, rất nhiều quốc
gia ven biển lại muốn kiểm soát tàu quân sự nước ngoài khi đi vào lãnh hải của
mình vì những lý do bảo vệ an ninh quốc gia, tiêu biểu như: Trung Quốc, Ấn
Độ, Liên Bang Nga, Philippin, Iran, Libya, Hàn Quốc, Việt Nam,…Vì vậy,
trong pháp luật của các quốc gia này đều quy định tàu quân sự nước ngoài phải
thông báo trước hoặc phải được sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền trước khi
tiến vào lãnh hải của nh
ững quốc gia đó.
I. Quyền qua lại không gây hại trong luật pháp quốc tế
Là một trong những kết quả của cuộc đấu tranh giữa hai xu thế sử dụng
biển, tự do biển cả và chủ quyền quốc gia, “qua lại không gây hại” đã được ghi
nhận là một quyền, áp dụng một cách không phân biệt đối xử với tất cả các loại
tàu thuyền ra vào vùng lãnh hải tại đ
iều 14-20 của Công ước về lãnh hải và vùng
tiếp giáp lãnh hải năm 1958 và điều 17-26 của Công ước luật biển 1982. Quốc
gia ven biển khi áp dụng quyền qua lại không gây hại theo các quy định pháp
luật quốc tế có một số quyền và nghĩa vụ chính như sau:
1
Jin,S.'TheQuestionofInnocentPassageforWarships:AfterUNCLOSIII,'MarinePolicy,13(1989).Butterworths
2
Keyuan,Z.InnocentPassageforWarships:theChinesedoctrineandpractice',OceanDevelopmentandInternational
Law,29(1989).TaylorandFrancis
2
Thứ nhất, qua lại không gây hại là một quyền, không phải là một sự ưu
tiên được áp dụng với tất cả các loại tàu thuyền kể cả tàu quân sự và tàu chở
năng lượng hạt nhân. Do vậy, quốc gia ven biển phải có nghĩa vụ không được
cản trở quyền qua lại không gây hại của các tàu thuyền nước ngoài trong lãnh
hải, ngoại trừ các trường hợp mà Công ước đã trù định.
3
Đặc biệt, các quốc gia
ven biển không được áp đặt cho các tàu thuyền nước ngoài những nghĩa vụ dẫn
đến việc cản trở hay hạn chế việc thực hiện quyền qua lại không gây hại của tàu
thuyền. Đồng thời quốc gia ven biển không được phân biệt đối xử về mặt pháp
lý hay về mặt thực tế đối với các tàu thuyền chở hàng từ một quốc gia nhất đị
nh
hay đến quốc gia đó hoặc nhân danh một quốc gia nhất định
. Ngoài ra, để đảm
bảo cho quyền qua lại không gây hại, quốc gia ven biển còn có nghĩa vụ thông
báo thích đáng mọi nguy hiểm về hàng hải mình biết trong lãnh hải của mình.
4
Thứ hai, quốc gia ven biển có thể định ra các quy định phù hợp với Công
ước luật biển và các quy định khác của pháp luật quốc tế các luật và quy định
liên quan đến việc qua lại không gây hại trong lãnh hải của mình về các vấn đề
như an toàn hàng hải và điều phối giao thông đường biển, bảo vệ các thiết bị và
các hệ thống bảo đảm hàng hải và các thiết bị, công trình trên biển, bả
o vệ
đường dây cáp và ống dẫn ngầm, bảo tồn tài nguyên sinh vật biển, ngăn ngừa
những vi phạm pháp luật và quy định của quốc gia ven biển về đánh bắt cá, gìn
giữ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển và đo đạc thủy văn, ngăn ngừa
các vi phạm pháp luật về hải quan, thuế, y tế hay nhập cư của quốc gia ven
biển. Tuy nhiên, các quy định này của quốc gia ven biể
n không áp dụng với
cách thiết kế hoặc trang bị của tàu thuyền nước ngoài nếu chúng phù hợp với
các quy tắc quốc tế được chấp nhận chung. Quốc gia ven biển có nghĩa vụ công
bố các quy định pháp luật trong nước về quyền qua lại không gây hại.
5
Thứ ba, quốc gia ven biển có thể thi hành các biện pháp cần thiết trong
lãnh hải của mình để ngăn cản mọi việc đi qua có gây hại. Để đảm bảo an toàn
hàng hải, quốc gia ven biển có thể yêu cầu tàu thuyền nước ngoài qua lại không
gây hại theo các tuyến đường do mình quy định và phải tôn trọng các cách bố
trí phân chia các luồng giao thông do mình quy định nhằm điều phối việc qua
lại không gây hại. Khi ấn
định các tuyến đường và quy định cách bố trí phân
chia luồng giao thông, quốc gia ven biển cần lưu ý đến kiến nghị của tổ chức
quốc tế có thẩm quyền, các tuyến đường thường được sử dụng cho hàng hải
quốc tế, các đặc điểm riêng của một số tàu thuyền và luồng lạch và mật độ giao
thông. Quốc gia ven biển phải ghi rõ các tuyến đường và cách phân chia luồng
giao thông trên hải đồ và công b
ố theo đúng thủ tục quy định. Ngoài ra, trong
trường hợp cần thiết vì lý do an ninh, kể cả thử vũ khí, quốc gia ven biển có thể
tạm thời đình chỉ việc thực hiện quyền qua lại không gây hại của tàu thuyền
nước ngoài tại các khu vực nhất định trong lãnh hải của mình.
3
Thảoluậntạiphầntiếptheo.
4
Điều24Côngước luật biển 1982 và điều 15 Công ước Lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải năm 1958, Xem thêm tại Phụ lục
về nguyên văn điều khoản.
5
Điều21Côngước luật biển 1982, Xem thêm tại Phụ lục về nguyên văn điều khoản
3
Tuy nhiên, việc đình chỉ phải được thực hiện trong thời gian ngắn, trên
nguyên tắc không phân biệt đối xử về mặt pháp lý hay thực tế giữa các tàu
thuyền nước ngoài. Việc đình chỉ chỉ có hiệu lực khi đã được công bố theo đúng
thủ tục.
6
Ngoài ra, quốc gia ven biển có quyền yêu cầu tàu thuyền nước ngoài
cung cấp thông tin về việc qua lại không gây hại trong một số trường hợp đặc
biệt. Tàu thuyền nước ngoài có động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân cũng
như các tàu chuyên chở các chất phóng xạ hay các chất khác vốn nguy hiểm hay
độc hại, khi thực hiện quyền qua lại không gây hại phải có đầy đủ tài liệu và
phải thự
c hiện các biện pháp bảo vệ môi trường cần thiết.
7
Việc quy định về tài
liệu cho thấy quốc gia ven biển có thể yêu cầu cung cấp thông tin nếu quốc gia
này quan ngại về an toàn hàng hải hay ô nhiễm môi trường. Quyền yêu cầu
cung cấp thông tin cũng có thể được giải thích từ quy định tại điều 25(2) trong
trường hợp tàu thuyền đi vào vùng nội thủy hay vào một công trình cảng ở bên
ngoài vùng nội thủy đó, quốc gia ven biển có quyền thi hành những biện pháp
c
ần thiết để ngăn ngừa mọi vi phạm bằng các điều kiện mà tàu thuyền buộc phải
tuân theo để được phép vào vùng nội thủy hay công trình cảng nói trên. Tương
tự như vậy, quyền yêu cầu cung cấp thông tin cũng có thể được quốc gia ven
biển áp dụng trong khuôn khổ hợp tác khu vực theo quy định của điều 211(3)
của Công ước luật biển 1982. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, việc yêu cầu
cung cấp thông tin phải được thực hiện vì mục đích đảm bảo an ninh, bảo vệ
môi trường chứ không phải là một yêu cầu nhằm hạn chế hay cản trở quyền qua
lại không gây hại của các tàu thuyền nước ngoài. Mục đích này được phát triển
và làm rõ trong hai Nghị quyết của Tổ chức Hàng hải quốc tế V/8-1 và V/8-2
thông qua trong khuôn khổ của Công ước SOLAR vào năm 1994. Hai nghị
quyết này đề ra hệ th
ống thông báo tàu thuyền (SRSs), theo đó, dưới sự giám sát
của IMO các quốc gia ven biển có quyền yêu cầu tàu thuyền cung cấp thông tin
về việc qua lại không gây hại nhằm đảm bảo sự an toàn và hiệu quả của giao
thông hàng hải và bảo vệ môi trường.
1.1. Quyền qua lại không gây hại nói chung
Quyền qua lại không gây hại của tàu nước ngoài trên vùng lãnh hải của
các quốc gia ven biển là vấn đề đã gây nhiều tranh cãi trước khi Công ước về
Luật biển ra đời. Có hai trường phái quan điểm đối lập về vấn đề này. Trường
phái thứ nhất cho rằng biển cả là tài sản chung của nhân loại vì vậy mọi người
đều có quyền sử dụng biể
n vào mục đích đi lại và các mục đích khác. Không ai
và không quốc gia nào có thể hạn chế cá nhân hoặc quốc gia khác sử dụng biển
vào những mục đích đó bằng cách đòi quyền sở hữu riêng đối với biển. Quan
điểm này xuất phát từ niềm tin vào bản chất địa vật lý của đại dương và không
đồng tình với bất cứ tuyên bố nào về quyền sở hữu biển, v
ới việc dương cao
6
Điều22và25Côngước luật biển 1982, Xem thêm tại Phụ lục về nguyên văn điều khoản
7
Điều23Côngước luật biển 1982, Xem thêm tại Phụ lục về nguyên văn điều khoản
4
khẩu hiệu “Tự do hàng hải”. Trường phái thứ hai dựa trên lập luận rằng biển cả
phải tuân phục quyền sở hữu và bất cứ quốc gia nào đem bất cứ vùng biển nào
đặt dưới sự thống trị của mình, đều có quyền hạn chế việc sử dụng vùng biển đó.
Sự đối đầu giữa hai trường phái quan điểm này đã dần hình thành nên sự phát
triển của luật biển.
Nguyên tắc qua lại không gây hại là sự thoả hiệp giữa hai trường phái
quan điểm đối lập nói trên và đã được kết tinh vào trong Công ước về Luật biển
1982. Điều 17 Công ước Luật biển quy định rõ: tàu của tất cả các nước, bất kể là
quốc gia ven biển hay quốc gia có lãnh thổ kín, đều được hưởng quyền qua lại
không gây hại trên lãnh hải của n
ước khác. Quyền qua lại không gây hại cho
phép tàu nước ngoài đi vào vùng nước ven biển của quốc gia khác nếu việc đi
qua đó mang tính hoà bình và không gây phiền toái cho quốc gia ven biển.
Quyền qua lại không gây hại là vấn đề cốt lõi của hàng hải và tới nay
chưa có quốc gia nào từ bỏ quyền năng này. Các quốc gia hàng hải coi quyền
năng này như một trong những bộ phận quan trọng của luật biển; trong khi đó,
các quốc gia ven bi
ển đã và đang phải thừa nhận quyền năng này của tàu nước
ngoài một cách bất đắc dĩ, coi đó như một hạn chế không thể tránh khỏi của chủ
quyền quốc gia đối với vùng lãnh hải của mình để duy trì sự kết nối giữa các
quốc gia về phương diện kinh tế, thương mại và thông tin. Bản thân cụm từ
“quyền qua lại không gây hại” đã ngụ
ý sự bất đắc dĩ mà các quốc gia ven biển
phải chấp nhận. Việc thừa nhận chủ quyền quốc gia đối với những vùng biển
nhất định đã làm cho các khái niệm “lãnh hải” và “qua lại không gây hại” trở
nên hết sức cần thiết. Từ Hội nghị pháp điển hoá Hague năm 1930, rồi Công ước
về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp lãnh hải năm 1958, đến Công ước về Luật bi
ển
1982, các quốc gia ven biển đã tán thành khái niệm “lãnh hải” như là một
nguyên lý vững chắc trong luật biển. Công ước Luật biển cho phép quốc gia ven
biển thực hiện chủ quyền đối với đáy biển và lòng đất dưới đáy biển tới 12 hải
lý tính từ đường cơ sở dọc bờ biển bao quanh quốc gia ven biển. Theo Điều 18
Công ước về Luật biển, cụm từ “qua l
ại” là việc tàu nước ngoài đi qua lãnh hải
mà không đi vào hoặc có mục đích vào hoặc rời khỏi vùng nội thuỷ của quốc gia
khác với điều kiện việc đi lại được thực hiện một cách liên tục và mau lẹ, trừ khi
tàu đó phải dừng chân hoặc thả neo theo thông lệ hàng hải, hoặc khi người hoặc
thuỷ thủ trên tàu đang gặp nguy hiểm, cần giúp đỡ. Và theo Điề
u 19 (1) của
Công ước, cụm từ “không gây hại” được hiểu là không làm ảnh hưởng tới hoà
bình, trật tự và an ninh của quốc gia ven biển. Như vậy có thể hiểu, qua lại
không gây hại là việc tàu nước ngoài đi qua một cách liên tục và mau lẹ trong
lãnh hải của quốc gia khác và không làm ảnh hưởng tới hoà bình, trật tự và an
ninh của quốc gia đó. Tuy nhiên, tính chung chung của cụm từ: “hoà bình, trật
tự và an ninh” đã gây không ít băn khoăn lo lắng cho các qu
ốc gia ven biển, vì
vậy, để tránh việc giải thích cụm từ trên theo cách hiểu chủ quan của mỗi quốc
gia thành viên, Điều 19 (2) của Công ước Luật biển đã liệt kê những hành động
được coi là “gây hại”. Và nhìn chung, Điều 19 Công ước đã tạo nên cơ sở pháp
5
lý để xác định nghĩa của cụm từ “qua lại không gây hại” nếu điều khoản này
được giải thích phù hợp với tập quán pháp quốc tế.
Mặc dù phán quyết của Toà án Quốc tế trong cả hai vụ eo biển Corfu
1 và
Nicaragua
2 đều coi trọng quyền hàng hải nhưng rõ ràng mỗi vụ đều có những
giới hạn nhất định về mức độ đề cao chế định hàng hải. Việc qua lại của tàu
ngầm dưới lãnh hải rõ ràng không được coi là qua lại không gây hại (Điều 20
Công ước), tuy nhiên, việc xác định tính không gây hại của tàu qua lại trên bề
mặt lãnh hải dường như khó khăn hơn nhiều và cần đánh giá một cách cẩ
n trọng
cả về cách thức lẫn mục đích của việc đi qua…
1. 2. Quyền qua lại không gây hại của tàu quân sự
Cuộc tranh luận về đảm bảo sự cân bằng bền vững giữa chủ quyền của quốc gia
ven biển và quyền đi lại trên biển lên đến cực điểm đối với vấn đề “qua lại
không gây hại” của tàu quân sự trên lãnh hải của nước khác. Trong vùng biển
này, xung đột giữa hai quyền đối lập nói trên thể hiện rõ nhấ
t, vì vậy, không
ngạc nhiên khi Toà án Quốc tế trong vụ eo biển Corfu đã cố gắng đưa ra những
chuẩn mực để quyết định tính hợp pháp của việc qua lại không gây hại. Tuy
nhiên, ngoài việc chính thức công bố rằng quyền qua lại không gây hại trên các
eo biển quốc tế là không thể chối bỏ, Toà hầu như không làm được gì để xác
định cụ thể bản chất cốt lõi của việc qua lại không gây hại và c
ũng tránh tuyên
bố một cách rõ ràng rằng quyền đó có áp dụng đối với tàu chiến hay không.
Những khúc mắc này đã phần nào được giải đáp vào đầu thập kỷ thứ VIII của
thế kỷ XX trong Công ước Luật biển.
Công ước 1982 đã đưa ra được một số quy định pháp luật điều chỉnh
những gì được coi là “qua lại không gây hại” và cũng khẳng định rõ tàu chiến
nước ngoài c
ũng được hưởng quyền hạn này trong lãnh hải của nước khác. Điều
32 của Công ước về luật biển quy định quyền miễn trừ cho tầu chiến và tầu
chính phủ vận hành không vì mục đích thương mại. Điều 29 của
1 Xem Corfu Channel case (case concerning the transit of British warships through the Corfu Channel in
1946): (UK vs. Albania), 1949 I.C.J. 4 (9 April).
2 Xem Nicaragua case (case concerning Military and Paramilitary Activities in and against Nicaragua):
(Nicaragua vs. US), 1986 I.C.J. 14 (27 June).
Công ước đưa ra định nghĩa tầu chiến khá hẹp: …là một con tầu thuộc lực lượng
vũ trang của một quốc gia, mang những dấu hiệu bên ngoài chỉ rõ quốc tịch của
tầu, dưới sự chỉ huy của một thuyền trưởng do chính phủ uỷ quyền, có tên trong
danh sách quân chủng thích hợp, và được toàn bộ thuỷ thủ điều khiển theo kỷ
luật của lực lượng v
ũ trang thông thường. Như vậy, tầu của quân khởi nghĩa, của
người theo chủ nghĩa dân tộc hoặc của phong trào chống đối chính quyền không
được coi là tàu chiến theo Công ước Luật biển. Lý do là những tầu này không
thuộc về nhà nước, không được điều khiển bởi thuỷ thủ đoàn theo kỷ luật của
6
lực lượng vũ trang thông thường, và không nằm dưới sự chỉ huy của một cán bộ
được chính phủ uỷ quyền có tên trong danh sách quân chủng.
Quốc gia ven biển không có quyền dân sự hoặc hình sự đối với tàu chiến
nước ngoài mà chỉ có quyền yêu cầu tàu rời lãnh hải của mình. Tuy nhiên, Công
ước không quy định rõ liệu quốc gia ven biển sẽ được hành động như thế nào
nếu tàu chiến đó không chịu tuân lệnh. Chỉ có
điều, theo Điều 31, quốc gia có cờ
cắm trên tàu phải chịu trách nhiệm bồi thường cho quốc gia ven biển bất kỳ mất
mát hay thiệt hại nào nảy sinh từ việc tàu chiến của mình không tuân lệnh của
quốc gia ven biển. Nếu tàu chiến nước ngoài có thái độ thù nghịch hay hành
động bạo lực, khi đó quốc gia ven biển có quyền tự vệ. Quyền qua lại không gây
hại của tàu nước ngoài không giống nhau trong mọ
i trường hợp. Bản chất và
mục đích đi lại của tàu sẽ quyết định quyền gắn liền cũng như đặc quyền và
trách nhiệm có liên quan. Công ước Luật biển cố gắng duy trì sự cân bằng giữa
quyền của quốc gia ven biển trong việc ban hành luật và quy chế thích hợp điều
chỉnh việc qua lại không gây hại với việc bảo vệ quyền qua lại không gây h
ại
trong những trường hợp pháp luật của quốc gia ven biển quá độc đoán. Tuy
nhiên, sự cân bằng này có xu hướng nghiêng về ủng hộ luật pháp của các quốc
gia ven biển
3 bởi lẽ bất cứ khi nào tàu nước ngoài có thể thực hiện quyền qua lại
không gây hại, nguy cơ gây hại đều tiềm ẩn, và điều đó gợi ý rằng trách nhiệm
chứng minh qua lại gây hại thuộc về quốc gia ven biển. Vì vậy quốc gia ven
biển phải ban hành các quy định pháp luật rõ ràng và khách quan điều chỉnh vấn
đề này.
2. Quyền qua lại không gây hại trong thực tiễn áp dụng của các quốc
gia
Liên quan đến (i) việc thừa nhận quyền qua lại không gây hại và (ii) xác
định khái niệm, nội hàm của quyền này (mà không liên quan đến yêu cầu về xin
phép và thông báo) có ba xu hướng chính trong thực tiễn của các quốc gia trên
thế giới
8
.
Nhóm thứ nhất là nhóm các quốc gia nội luật hóa các quy định có liên
quan của Công ước 1982 về quyền qua lại không gây hại. Theo đó, không chỉ
quy định về định nghĩa quyền qua lại không gây hại mà còn quy định chi tiết về
các hoạt động có hại, tuyến đường và các trường hợp có thể đình chỉ quyền qua
lại không gây hại như đã phân tích tại phần trên. Trong nhóm này, một số quốc
gia nội luật hóa lạ
i nguyên văn các quy định của Công ước luật biển 1982,
nhưng cũng có những quốc gia có điều chỉnh, quy định chi tiết hơn về các hành
động được coi là có hại, trong đó có thể dẫn chiếu đến các tiêu chuẩn kỹ thuật
chi tiết trong một số công ước của IMO như MARPOL để cụ thể hóa các quy
định về hành vi gây hại.
Nhóm thứ hai là các quốc gia nội luật hóa định nghĩa về quyền qua l
ại
không gây hại nhưng không nội luật hóa các quy định khác về quyền này. Theo
8
Không phụ thuộc vào việc các quốc gia đó có hay không phải là thành viên của Công ước 1982
7
hướng này, các quốc gia quy định về quyền qua lại không gây hại tương tự như
các quy định của Công ước về Lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải năm 1958.
Nhóm thứ ba là các quốc gia công nhận quyền qua lại không gây hại
nhưng không quy định chi tiết. Trong số này, có một số quốc gia dẫn chiếu đến
việc giải thích và hiểu quyền qua lại không gây hại phù hợp với các quy định
của Công ước luật biển 1982, m
ột số quốc gia khác không quy định gì thêm
ngoài sự thừa nhận chung hoặc một số quốc gia không trực tiếp sử dụng thuật
ngữ “qua lại không gây hại” nhưng các thuật ngữ khác được sử dụng có thể
được hiểu tương tự như qua lại không gây hại.
Nhóm thứ nhất
(19 quốc gia)
Nhóm thứ hai
(16 quốc gia)
Nhóm thứ ba
(34 quốc gia)
Antigua và Barbuda
Bahamas
Babardos
Belize
Bungari
Guinea Xích đạo
Pháp
Grenada
Indonesia
Iran
Jamaica
Hàn Quốc
Phần Lan
Rumani
St. Kitts và Levis
St. Lucia
St. Vicent và Grenadines
Trinidad và Tobago
Yemen
Brazil
Trung Quốc
Cormoros
Djibouti
Dominica
Guyana
Ấn Độ
Maldives
Myanmar
Pakistan
Somali
Nam Phi
Sri Lanka
Sudan
Syria
Ucraina
Angola
Aghentina
Bangladesh
Cape Verde
Colombia
Costa Rica
Ai Cập
Estonia
Fiji
Guatamala
Honduras
Iraq
Bờ biển ngà
Kiribati
Litva
Đảo Mashall
Mauritania
Mauritius
Mexico
Nicaragua
Nauy
Oman
Qatar
Liên bang Nga
Senegal
Seychelles
Đảo Solomon
Thái Lan
Các tiểu vương quốc Arap
Anh
Mỹ
Uruguay
Tuvalu
Vanuatu
8
Liên quan đến các yêu cầu về xin phép và thông báo trước đối với quyền
qua lại của một số loại tàu đặc biệt như tàu chở hàng hóa nguy hiểm và tàu
chiến, thực tiễn của các quốc gia cho thấy một số xu hướng hạn chế hơn so với
quy định của Công ước 1982. Từ các quy định của Công ước 1982, tất cả các
loại tàu thuyền, kể cả tàu chiến và tàu chở các hàng hóa nguy hiểm đều phải
được hưởng quyền qua lại không gây h
ại. Tuy nhiên, một số quốc gia yêu cầu
các tàu này khi qua lại phải thông báo trước, hoặc xin phép trước. Các quốc gia
hiện nay yêu cầu thông báo trước việc qua lại không gây hại của tàu chiến gồm
có: Croatia, Đan Mạch, Ai Cập, Guyana, Ấn Độ, Indonesia, Hàn Quốc, Libya,
Malta, Mauritius, Seychelles (11 quốc gia). Các quốc gia yêu cầu việc qua lại
không gây hại của tàu chiến phải được xin phép trước gồm có: Albani, Algeri,
Antiqua và Barbuda, Bangladesh, Barbados, Campuchia, Trung Quốc, Congo,
Iran, Maldivies, Myanmar, Oman, Pakistan, Philippines, Phần Lan, St.Vincent
và Grenadines, Somali, Sri Lanka, Sudan, Syria, Các tiểu vương quốc Arap và
Yemen (22 quốc gia). Đối với tàu chở hàng hóa nguy hiểm, Canada, Djibouti,
Libya, Malta, Pakistan, Bồ Đào Nha và Các tiểu vương quốc Arap yêu cầu cần
thông báo trước, Ai Cập, Guinea, Iran, Malaysia, Oman, Arap Seut, Thổ Nhĩ
Kỳ, và Yemen yêu cầu xin phép trước và Argentina, Haiti, Bờ biển ngà, Nigeria
Philippines và Venezuela thậm chí cấm quyền qua lại không gây hại của tàu
chiến. Trong khi đó, một số quốc gia khác đã tuyên bố phản đối yêu cầu này vì
cho rằng việc yêu cầu thông báo hoặc xin phép trước vi phạm các quy định về
quyề
n qua lại không gây hại đã được ghi nhận tại Công ước 1982. Các quốc gia
hiện nay thường phản đối việc yêu cầu thông báo trước và xin phép trước gồm
có Đức, Pháp, Ý, Hà Lan, Liên bang Nga, Thái Lan, Anh và Mỹ (8 quốc gia).
Đa số các quốc gia này là những cường quốc về biển. Ngoài ra, xuất phát từ đặc
thù lợi ích quốc gia, Singapore và Nhật Bản cũng phản đối việc thông báo và xin
phép trước quyền qua lại không gây hại của tàu có chở hàng hóa nguy hiểm.
Như vậy, có thể thấy, thực tiễn của các quốc gia khá phân tán trong việc
yêu cầu xin phép trước và thông báo trước về việc qua lại không gây hại của
một số tàu thuyền đặc biệt. Số lượng 11 quốc gia yêu cầu thông báo trước và 22
quốc gia yêu cầu xin phép trước chưa đủ để tạo thành thực tiễn đa số và nhất
quán nhằm góp phần hình thành nên tập quán quốc tế về vấn đề này.
Cũng cần
lưu ý rằng đa phần các quốc gia yêu cầu xin phép trước đều đưa ra những quy
định này vào trước năm 1994 tức là trước thời điểm Công ước 1982 có hiệu lực.
Bên cạnh đó, đây cũng chỉ là một nhóm gồm 22 quốc gia trên tổng số 156 quốc
gia thành viên Công ước 1982. Hơn nữa, khi các quốc gia quy định về xin phép
và thông báo trước đều xuất phát từ nhu cầu an ninh quốc gia, chứ không phải
tin rằng đang thực hiện một nghĩa vụ quốc tế, nói cách khác trong lĩnh vực này
chưa tồn tại opninio juris để tạo thành tập quán quốc tế.
Vì vậy, việc phản đối qua lại không gây hại hoặc yêu cầu xin phép trước
có thể bị coi là không phù hợp với các quy định của Công ước 1982, vi phạm
quyền mà công ước đã trao một cách không phân biệt đối xử cho tất cả các loại
tàu thuyề
n. Việc yêu cầu thông báo trước còn có nhiều quan điểm tranh cãi.
9
Quan điểm của một số nước phản đối cho rằng việc yêu cầu xin phép trước cũng
vi phạm nghĩa vụ không được cản trở việc qua lại không gây hại của quốc gia
ven biển được quy định tại Công ước 1982 và bản thân Công ước không có quy
định này. Các quốc gia ủng hộ việc yêu cầu xin thông báo trước lại cho rằng
Công ước cũng không có quy định cấm yêu cầu thông báo trước. Bản thân việc
yêu c
ầu thông báo trước không đồng nghĩa với việc tàu thuyền chỉ được qua lại
khi đã được phép, nghĩa là việc thông báo khác với xin phép, không làm ảnh
hưởng đến quyền qua lại không gây hại của các tàu thuyền. Đồng thời, việc yêu
cầu thông báo có thể phù hợp với quyền mà Công ước 1982 đã trao cho các
quốc gia ven biển nhằm ngăn ngừa các hành động gây hại. Tuy nhiên, trong quá
trình soạn thảo Công ước 1982, Thụy Điển và Phần Lan khi ký kết Công
ước
1982 đã đưa kèm tuyên bố rằng việc yêu cầu thông báo trước về quyền qua lại
không gây hại của tàu chiến (và các tàu nhà nước khác) là không trái với các
quy định của Công ước 1982. Tuyên bố này đã bị Đức, Ý, Pháp, Hà Lan, Anh
và Mỹ phản đối. Sau này, Thụy Điển và Phần Lan đã không đưa quy định yêu
cầu thông báo trước vào nội luật của mình và không gia hạn tuyên bố trên. Điểm
2 của Thông cáo giải thích chung về các quy định của Công ướ
c 1982 về quyền
qua lại không gây hại giữa Mỹ và Liên Xô cũ năm 1989 cũng khẳng định rằng
tất cả các tàu thuyền, bao gồm cả tàu chiến, không phụ thuộc vào hàng hóa vận
chuyển, vũ khí được trang bị và năng lượng để di chuyển phải được hưởng
quyền qua lại không gây hại trong lãnh hải phù hợp với các quy định của luật
quốc tế mà không cần có sự xin phép trước hay thông báo trước.
Bằng việc trao quyền làm luật cho các quốc gia ven biển (Điều 21), Công
ước Luật biển đã giới hạn quyền qua lại không gây hại của tàu nước ngoài và
như vậy, quyền tự do hàng hải của tàu một nước trên lãnh hải của nước khác
không hoàn toàn tuyệt đối. Thông qua các quy định pháp luật của mình, các
quốc gia ven biển có thể bảo vệ một số lợi ích quốc gia trong vùng lãnh hải như:
an toàn hàng hải và đi
ều chỉnh giao thông trên biển; bảo vệ cáp ngầm, đường
ống ngầm dưới biển và các công cụ trợ giúp hàng hải; bảo tồn và bảo quản môi
trường, tài nguyên biển kể cả tài nguyên sống; điều chỉnh việc đánh bắt cá; ngăn
chặn, giảm thiểu và kiểm soát ô nhiễm; điều chỉnh việc nghiên cứu khoa học về
biển, và khảo sát thuỷ văn học Các quốc gia ven biển có quy
ền yêu cầu tàu
nước ngoài thực hiện quyền đi qua không gây hại phù hợp với các quy định
pháp luật của mình. Thêm vào đó, tàu nước ngoài không thể thực hiện quyền
qua lại không gây hại ở tất cả các khu vực của lãnh hải. Quốc gia ven biển phải
chỉ dẫn tàu nước ngoài đi qua lãnh hải của mình bằng cách sử dụng đường quy
định cho tàu biển và tàu nước ngoài phải tôn trọng quy định về phân luồng giao
thông
đang có hiệu lực.
Tuy nhiên những quy định phân luồng này cần phải phản ánh được đề
xuất của Tổ chức hàng hải quốc tế cùng với mật độ giao thông, đặc điểm của tàu
và bất cứ kênh đào nào được sử dụng theo tập quán vào mục đích hàng hải quốc
tế. Công ước về Luật biển không quy định liệu việc tàu nước ngoài không tuân
thủ pháp luật của qu
ốc gia ven biển thì có bị coi là đi qua gây hại hay không.
10
Tuy nhiên, bằng cách định nghĩa đi qua gây hại có tham chiếu đến lợi ích của
quốc gia ven biển, việc vi phạm pháp luật do quốc gia ven biển ban hành sẽ
đồng nghĩa với việc đi qua gây hại vì sự vi phạm đó rõ ràng là “khiêu khích” và
“gây gổ” đối với quốc gia ven biển. Như vậy, Điều 19 (2) và Điều 21 của Công
ước đã trao cho các quốc gia ven biển một phạm vi quyền hạn rộng rãi để quy
định và phán xét vi
ệc đi qua có gây hại hay không. Các cụm từ: qua lại không
ảnh hưởng tới “hoà bình, trật tự, và an ninh” của quốc gia ven biển trong Điều
19 (1) của Công ước được áp dụng không dễ dàng, đặc biệt đối với tàu chiến.
Tới nay, vẫn còn nhiều ý kiến cho rằng bản thân việc đi lại của tàu chiến qua
lãnh hải của nước khác đã làm ảnh
hưởng tới hoà bình, trật tự và an ninh của quốc gia ven biể
n; rằng tàu chiến
không thể đi qua lãnh hải nước khác mà không được phép vì khác với tàu hoạt
động vì mục đích thương mại, bản thân sự hiện diện của tàu chiến đã là mối đe
doạ.
4 Mặc dù quan điểm trên không phải là quan điểm chiếm ưu thế nhưng trong
cả quãng thời gian dài, khái niệm “qua lại của tàu chiến” và “qua lại không gây
hại”, ở một mức độ nào đó, vẫn được xem là những khái niệm không đồng nhất.
Quan điểm này đã ảnh hưởng không nhỏ tới nội dung các điều khoản trong luật
biển của các quốc gia ven biển
Trên cơ sở các nguyên tắ
c của tập quán và luật pháp quốc tế, tàu quân sự
nước ngoài muốn vào lãnh hải của các quốc gia Croatia, Ai cập, Phần lan,
Guyana, Ấn độ, Hàn quốc, Libya, Malta, Mauritius, và Serbia phải tiến hành thủ
tục thông báo trước. Vì vậy, tàu quân sự nước ngoài muốn đi qua lãnh hải của
một quốc gia ven biển cần thông tin về ý định của mình cho quốc gia đó vào
thời điểm trước khi tiến hành việc đi qua trên thực tế. Hai quốc gia Croatia và
Serbia yêu cầu việc thông báo này phải được tiến hành trước 24 giờ, trong khi
Hàn quốc yêu cầu ít nhất là 3 ngày.
3
Xem F. D. Froman, “Uncharted Waters: Non-innocent Passage of Warships in the Territorial sea” 21 San
Diego Law Review 625, at 657 (1984).
Các quốc gia khác như Algeria, Antiqua và Barbuda, Bangladesh,
Barbados, Belarus, Burma, Bungary, Cambodia, Cape Verde, China, Congo
(Brazzaville), Czech, Grenada, Iran, Maldives, Lithuania, Oman, Pakistan,
Philippines, Myanma, Russia, Romania, St Vincent and Grenadines, Seychelles,
Slovakia, Somalia, Sri Lanka, Sudan, Syria, UAE, Ukraina, Vietnam và Yemen
đều yêu cầu các tàu quân sự nước ngoài muốn vào vùng lãnh hải phải xin phép
trước, trừ các trường hợp khẩn cấp không thể khắc phục được, các sự kiện bất
khả kháng (force majeure)
9
như gặp thiên tai, tai nạn uy hiếp đến an toàn của
con tàu và sinh mạng của những người đi trên tàu, hoặc trên tàu có chở các
nguyên thủ quốc gia (tổng thống, chủ tịch nước, thủ tướng, chủ tịch quốc hội…)
và những tàu hộ tống nó.
9
Limitsinthesea,1996
11
Theo Luật về các vùng biển và lãnh hải của Pakistan ngày 22/12/1976
“tàu quân sự, máy bay quân sự khi đi qua lãnh hải, bay phía trên vùng nước
thuộc lãnh hải phải được phép trước đó của chính phủ”
10
. Đan Mạch cũng là
quốc gia có quy định chặt chẽ về vấn đề tàu quân sự. Trong Quyết định về quản
lý hành chính tàu quân sự và máy bay quân sự vào thăm lãnh thổ Đan Mạch, đã
nêu tại phần II “Tàu quân sự nước ngoài sẽ không được phép dừng lại hoặc thả
neo trong lãnh hải nếu không được phép trước đó, trừ khi việc dừng lại hoặc thả
neo là vì lý do bất khả kháng”. Luật lãnh hả
i của Barbados năm 1977 và Luật
lãnh hải của Grenada năm 1978 có quy định tương đối giống nhau“tàu quân sự
nước ngoài sẽ không được phép đi qua lãnh hải của Barbados nếu không được
sự đồng ý trước đó của cơ quan có thẩm quyền”.
Myanma, một trong các quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á, đã quy
định trong luật của mình như sau: “Một tàu quân sự nước ngoài khi đi vào lãnh
hải mà không có sự đồng ý trước đó c
ủa Hội đồng Bộ trưởng sẽ bị yêu cầu rời
khỏi khu vực này ngay lập tức”
11
. Trung Quốc mặc dù là quốc gia có sức mạnh
hải quân, có khả năng kiểm soát tốt trên các vùng biển, song quốc gia này vẫn
yêu cầu tàu quân sự nước ngoài khi vào lãnh hải của mình phải xin phép, cụ thể:
“Tàu nước ngoài phục vụ mục đích quân sự phải có sự đồng ý của Chính phủ
cộng hòa nhân dân Trung Hoa khi tiến vào lãnh hải của CHND Trung Hoa”
12
.
Ngoài ra, một loạt các quốc gia Châu Á khác như Indonesia, Phlippines, Indian
cũng có chế độ tương tự
13
.
Như vậy, việc hàng loạt các nước đặt ra yêu cầu tàu chiến phải xin phép
hoặc thông báo với chính phủ quốc gia ven biển trước khi vào lãnh hải, hoặc tìm
cách đình chỉ, chấm dứt quyền qua lại không gây hại cho thấy xu hướng chung
là các nước này không thừa nhận quyền qua lại không gây hại của tàu chiến. Lý
do chủ yếu bào chữa cho hành động nói trên là các quốc gia đã và đang cố gắng
đấu tranh nhằm ngăn chặn quyề
n bá chủ trên biển đồng thời bảo vệ chủ quyền
và an ninh quốc gia. Tuy nhiên, việc đưa ra những giới hạn thái quá đối với
quyền qua lại không gây hại của tàu chiến nước ngoài đã cho thấy các quốc gia
nói trên phần nào xem nhẹ nguyên tắc pacta sunt servanda.
Xuất phát từ thực tiễn quy định trong luật quốc gia về vấn đề này đã góp
phần hình thành một nguyên tắc tập quán chung: tàu quân sự nước ngoài được
phép
đi qua không gây hại trong lãnh hải, song có thể bị ràng buộc bởi yêu cầu
phải thông báo hoặc xin phép trước của quốc gia ven biển.
II. Một số lựa chọn quy định về quyền qua lại không gây hại trong
Luật Các vùng biển của Việt Nam
10
Đim4LutvlãnhhivàcácvùngbincaPakistan
11
khon2Điu9LutvlãnhhivàcácvùngbincaMyanma1977
12
Điu6,LutcaCHNDTrungHoavlãnhhivàthmlcđa.
13
NguynNgcMinh,LutBin,HàNi1977.
12
Việt Nam là quốc gia có lợi thế và khả năng làm chủ biển, trở thành một
nước mạnh về biển như mục tiêu mà Nghị quyết số 27/NQ-CP, ngày 30/5/2007
về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đưa ra. Một trong những công cụ
quan trọng thực hiện chính sách biển trong tình hình mới là Luật Các vùng biển
Việt Nam, luật này xác định khung pháp lý cơ bản cho việc tiến ra biển của đất
nướ
c.
Trong quá trình xây dựng Luật các vùng biển Việt Nam, vấn đề về hoạt
động của tàu thuyền quân sự nước ngoài trong vùng biển thuộc quốc gia ven
biển, nhất là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam luôn là một vấn đề nhạy
cảm có ảnh hưởng trực tiếp đến độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Một số học giả cho rằng “Nghị định số 30/NNĐ
-CP ngày 29/1/1980 của
Chính phủ về hoạt động của tàu thuyền nước ngoài trong các vùng biển Việt
Nam quy định, tàu thuyền quân sự nước ngoài khi đi vào vùng tiếp giáp và lãnh
hải Việt Nam phải xin phép. Quy định này được ban hành trước khi Việt Nam
phê chuẩn Công ước Luật biển 1982 và không phù hợp với nội dung của Công
ước, vì vậy chúng ta nên điều chỉnh tàu thuyền quân sự nước ngoài được hưởng
quyền qua lại không gây hại trong lãnh hải Việt Nam không phải xin phép để
tạo quan hệ tốt với các nước”
14
. Khẳng định này chưa hẳn đã chính xác. Như
phần 3.1 đã phân tích, mặc dù, Việt Nam quy định tàu thuyền quân sự nước
ngoài phải xin phép trước khi vào vùng tiếp giáp lãnh hải …thoạt nhìn là “có
vẻ” trái với quy định của Công ước Luật biển 1982. Tuy nhiên, nếu xem xét
từng câu chữ trong quy định của Công ước Luật biển năm 1982 thì việc yêu cầu
tàu quân sự nước ngoài phải xin phép trước khi vào lãnh hải là không trái với
Công ước Luật bienr năm 1982 bởi v
ề vấn đề này Công ước chưa quy định rõ
ràng.
Một vấn đề được đặt ra là liệu trong Luật các vùng biển Việt Nam chúng
ta có nên quy định cho phép tàu quân sự nước ngoài được đi qua không gây hại
trong lãnh hải mà không phải xin phép hay không? Nếu chấp nhận điều này thì
Việt Nam phải có những biện pháp gì để kiểm soát các tàu quân sự trong khi cơ
sở hạ tầng, kỹ thuật cũng như các lực lượng kiểm tra, giám sát trên biển, kể
cả
lực lượng hải quân của ta còn mỏng, yếu? Hơn nữa, theo thực tiễn lập pháp của
nhiều nước, kể cả những cường quốc như Trung Quốc, Liên bang Nga, đều quy
định tàu quân sự nước ngoài muồn đi ngang qua lãnh hải của mình đều phải xin
phép?!
Lãnh hải được coi như một bộ phận hữu cơ của lãnh thổ quốc gia, là vùng
biển thuộc chủ quyền quố
c gia. Tại vùng biển này, quốc gia ven biển thực hiện
thẩm quyền riêng biệt về phòng thủ quốc gia, về cảnh sát, thuế quan, đánh cá,
14
NguynHngThao,LutcácvùngbinVitNam:Côngcthchinchínhsáchbintrongtìnhhìnhmi,Tpchí
Nghiênculutphápđint.
13
khai thác tài nguyên thiên nhiên, đấu tranh chống ô nhiễm như đối với lãnh thổ
đất liền. Đây cũng là vùng tiếp giáp với nội thủy nên có vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ an ninh, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia ven biển. Do đó
mọi hoạt động
của tàu thuyền diễn ra trên vùng lãnh hải cần phải được kiểm soát
chặt chẽ. Công ước luật biển 1982 không có bất kỳ một quy định riêng nào đề
cập đến việc tàu quân sự nước ngoài có quyền qua lại vô hại trong lãnh hải mà
không phải xin phép. Hơn nữa thực tế pháp luật của nhiều quốc gia đã quy định
về việc tàu quân sự nước ngoài phải xin phép khi đi vào lãnh hải. Vì vậy, Việt
Nam cũ
ng có thể đưa ra những quy định vừa không trái với Công ước, đồng thời
bảo vệ tốt hơn lợi ích quốc gia. Trong bối cảnh hiện nay, khi nền kinh tế biển
của chúng ta còn chưa thực sự phát triển, lực lượng hải quân, cảnh sát biển còn
yếu, Việt Nam vẫn nên giữ quy định tàu quân sự nước ngoài khi vào lãnh hải
phải xin phép trước. Tuy nhiên, để thể hiện tinh thần thiện chí và mong muốn
mở
rộng mối quan hệ hợp tác với các quốc gia, chúng ta có thể đưa ra những
quy định mang tính chất mềm mỏng hơn, bằng việc cho phép tàu quân sự nước
ngoài đi qua không gây hại trong lãnh hải mà chỉ cần đăng ký/ thông báo trước.
Trước đây, quy định của pháp luật Việt Nam yêu cầu tàu chiến qua lại
không gây hại trong lãnh hải Việt Nam phải xin phép trước. Yêu cầu này có thể
bị coi là vi phạm nghĩa vụ điều ướ
c của Việt Nam theo Công ước luật biển 1982.
Vì vậy, tiếp tục phương án yêu cầu xin phép trước không phải là lựa chọn tối ưu
cho quy định tại Luật các vùng biển của Việt Nam.
1. Phương án thứ nhất là Việt Nam có thể quy định về quyền qua lại không
gây hại phù hợp theo Công ước luật biển 1982. Trong phương án này, có một số
lựa chọn nhỏ như sau:
- 1.a. Quy định như
thực tiễn các quốc gia nội luật hóa nguyên văn Công
ước 1982 và giải thích cụ thể về các hành vi gây hại. Khi quy định về các
hành vi gây hại có thể căn cứ theo các tiêu chuẩn khách quan của các hiệp
định và Công ước của IMO.
- 1.b. Quy định như thực tiễn các quốc gia về việc thừa nhận chung chung
quyền qua lại không gây hại và dẫn chiếu đến việc giải thích và áp dụng
như quy định của Công ước 1982.
Việ
c sử dụng phương án này có lợi thế là phù hợp với nghĩa vụ điều ước của
Việt Nam, không tạo ra các cơ hội cho các quốc gia có liên quan có thể phê
phán và chỉ trích việc không tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế của
Việt Nam. Trong bối cảnh Việt Nam đang tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng
quốc tế về một hình ảnh Việt Nam thực thi tốt các quy
định của pháp luật quốc
tế từ đó tăng sức mạnh trong việc gải quyết tranh chấp biển Đông thì việc lựa
chọn phương án này có thể củng cố cho việc thực hiện chiến lược này. Việc hạn
chế các nguy cơ có thể có cho an ninh quốc gia có thể được thực hiện thông qua
việc quy định cụ thể các hành vi gây hại theo các tiêu chuẩn khách quan của các
14
hiệp định quốc tế và khu vực. Đồng thời, quyền qua lại không gây hại của tàu
chiến, tàu có động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân, tàu chuyên chở các chất
phóng xạ và các chất nguy hiểm hay độc hại có thể được kiểm soát bằng việc
quy định cụ thể các tuyến đường hàng hải được sử dụng cho việc qua lại của các
loại tàu này và công bố công khai trên hải đồ để các qu
ốc gia cùng thực hiện.
Việc quy định này hoàn toàn phù hợp với quyền và nghĩa vụ mà Công ước luật
biển 1982 đã trao cho các quốc gia ven biển nhằm bảo vệ lợi ích an ninh và môi
trường. Nếu nội dung này được đưa vào Luật các vùng biển hoặc các văn bản
dưới luật, phần giải thích cho lợi ích an ninh và môi trường cần phải được nhấn
mạnh.
`2. Phương án thứ hai là Việt Nam có thể yêu cầu thông báo tr
ước về quyền
qua lại không gây hại của tàu chiến. Xét thực tiễn thực hiện của các quốc gia,
việc quy định về yêu cầu thông báo trước đã có tiền lệ. Hơn nữa, đây cũng là
vấn đề còn gây tranh cãi mà chưa có kết luận chính thức. Như đã phân tích tại
phần trên, quy định này có nhiều khả năng sẽ gặp phải sự phản đối của Đức, Ý,
Hà Lan, Thái Lan, Anh, Mỹ và Pháp. Tuy nhiên, m
ột số quốc gia trong khu vực
như Ấn Độ, Indonesia và Hàn Quốc cũng có quy định như vậy. Trung Quốc,
Campuchia và Philippines thậm chí còn yêu cầu xin phép trước. Vì vậy, Việt
Nam yêu cầu thông báo trước cũng không phải là một yêu cầu mới và quá cao
trong khu vực. Đây cũng là một bước chỉnh sửa theo hướng tích cực hơn so với
quy định của pháp luật Việt Nam trước đây. Đồng thời với việc quy định về
thông báo trước, Việt Nam có thể quy định các tuyến và luồng đường dành cho
tàu chiến, tàu có động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân, tàu chuyên chở các
chất phóng xạ và các chất nguy hiểm hay độc hại và công bố cụ thể trên hải đồ
để các quốc gia có tàu thuyền đi qua tuân thủ.
Cụ thể, có thể điều chỉnh các điều khoản của Dự thảo Luật theo các phương
án sau để đ
áp ứng yêu cầu tàu quân sự nước ngoài phải thông báo trước khi
vào lãnh hải Việt Nam, tuy nhiên cần lưu ý rằng các quy định hạn chế quyền đi
qua không gây hại của tàu chiến trong Luật của Việt Nam có thể khiến Việt
Nam bị đưa vào thế khó trong quan hệ quốc tế và trong việc giải quyết các vấn
đề Biển Đông:
- Sửa Điều 11, khoản 2:
“Tàu thuyền c
ủa tất cả các quốc gia được hưởng quyền đi qua không gây
hại trong lãnh hải Việt Nam. Việc đi qua không gây hại phải được thực hiện
trên cơ sở tôn trọng hoà bình, độc lập, chủ quyền và pháp luật Việt Nam và
điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên.”
- Đồng thời bỏ Điều 2 khoản 2 trong Dự thảo Luật: “Trường hợp quy định
của Luật này khác với quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên thì áp dụng quy định của điều
ước quốc tế đó”. Nội dung của Điều 2 khoản 2 đã được quy định trong
15
luật ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế năm 2005 và
không nên nhắc lại trong điều khoản này vì có thể làm mất tác dụng của
các chỉnh sửa tại Điều 11 khoản 2 nêu trên và các chỉnh sửa bổ sung có
liên quan khác dưới đây.
- Xem xét bổ sung các quy định của luật hoặc văn bản dưới luật về thông
báo trước và tuyến đường hàng hải dành riêng cho tàu quân sự và các tàu
thuyền đặc biệt khác:
o Phương án 1:
Các quy định về thông báo trước và về tuyến đường hàng hải dành
riêng cho tàu quân sự và các tàu thuyền đặc biệt khác sẽ được quy định
trong các văn bản dưới luật (các nghị định, thông tư của chính phủ
và các bộ ngành).
o Phương án 2: (Lưu ý, phương án này có thể gây ra các tác động
tiêu cực trong quan hệ của Việt Nam với các nước) :
Quy định trực tiếp trong Luật, bổ sung vào Điều 23 khoản 2 và thêm
Điều 23 khoản 3 như sau:
* Bổ sung thêm mục mới, mục đầu tiên vào khoản 2 Điều 23:
“Thông báo X ngày (hoặc X giờ) trước khi tàu thuyền thực hiện quyền
đi qua không gây hại tại lãnh hải Việt Nam nhằm đả
m bảo an toàn
hàng hải và phòng tránh ô nhiễm môi trường.”
* Bổ sung thêm khoản 3 Điều 23: “Tàu chiến có trách nhiệm thông
báo X ngày (hoặc X giờ) trước khi thực hiện quyền đi qua không gây
hại tại lãnh hải Việt Nam nhằm đảm bảo an ninh và an toàn hàng hải
.”
* Bổ sung thêm từ “tàu chiến” vào khoản 2 Điều 24 như sau: “Tàu
chiến, tàu thuyền nước ngoài chở dầu hoặc chạy bằng năng lượng hạt
nhân ”
Bất kể quyền qua lại không gây hại được ghi nhận trong Công ước Luật
biển 1982, trừ các cường quốc hàng hải, hầu hết các quốc gia ven biển đều có xu
hướng hạn chế, kiểm soát, thậm chí phủ nhận quyền năng này của tàu nước
ngoài nói chung và tàu chiến nước ngoài nói riêng vì lý do chủ quyền và an ninh
quốc gia… Trước th
ực tế đó, việc lựa chọn một hướng đi thích hợp cho mình
khi xây dựng luật biển ở Việt Nam là việc làm thiết thực, đặc biệt cần xử lý hài
hoà mối quan hệ giữa yêu cầu tôn trọng quyền qua lại không gây hại được ghi
nhận trong Công ước Luật biển với yêu cầu gìn giữ chủ quyền, an ninh và các
lợi ích khác của quốc gia. Giải quyết tốt mối quan hệ nói trên mà không vi phạ
m
pháp luật quốc tế là bài toán khó đặt ra cho các quốc gia ven biển nói chung và
Việt Nam nói riêng. Xây dựng các quy định nội luật điều chỉnh các vùng biển
phù hợp với pháp luật quốc tế theo hướng tận dụng triệt để quyền lập pháp,
quyền giải thích luật và các quyền năng khác mà Công ước 1982 trao cho các
quốc gia ven biển đồng thời không xem nhẹ kinh nghiệm lập pháp có liên quan
16
của các nước có thể xem là một trong những lựa chọn không ngoan để giải bài
toán khó này.
17
QUY ĐỊNH TRONG CÔNG ƯỚC VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982
CỦA LIÊN HỢP QUỐC
18
19
20
21
I. QUY ĐỊNH TRONG PHÁP LUẬT VỀ BIỂN CỦA MỘT SỐ
QUỐC GIA YÊU CẦU TÀU QUÂN SỰ NƯỚC NGOÀI PHẢI
THÔNG BÁO TRƯỚC KHI ĐI QUA LÃNH HẢI
15
1. Các quốc gia yêu cầu phải thông báo trước khi vào lãnh hải:
Croatia, Ai Cập, Phần Lan, Guyana, Ấn Độ, Hàn Quốc, Libya, Malta,
Mauritius, Nam Tư cũ (Serbia và Montenegro), Thụy Điển (trước 1995)
Số
T
T
Tên
nước
Tên văn bản Điều khoản cụ thể
1 Ấn độ Luật số 80 ngày
28/5/1976 về
vùng lãnh hải,
thềm lục địa,
khu đặc quyền
kinh tế và các
khu vực biển
khác
The Territorial
Waters,
Continental
Shelf,
Exclusive
Economic Zone
and other
Maritime Zones
Act, 1976, Act
No. 80 of 28
May 1976
Tàu quân sự nước ngoài, bao gồm tàu ngầm và
các phương tiện đi ngầm khác có thể đi vào và đi
qua lãnh hải sau khi thông báo cho Chính phủ
Trung ương.
4. (1) Không liên hệ tới các luật khác đang có hiệu
lực tại thời điểm hiện tại, tất cả
mọi tàu thuyền
nước ngoài (trừ tàu quân sự bao gồm tàu ngầm và
các phương tiện đi ngầm khác) có quyền đi qua
không gây hại qua vùng lãnh hải của Ấn độ. Giải
thích với mục đích của điều này, đi qua không
không gây hại là không gây tổn hại cho hòa bình,
trật tự và an ninh của Ấn độ.
(2) Tàu chiến nước ngoài bao gồm cả tàu ngầm và
các phương tiện đi ngầm khác chỉ có thể đi vào
hoặc đi qua vùng lãnh hải của Ấn độ sau khi đã có
thông báo trước cho Chính phủ Ấn độ.
Foreign warships including submarines and other
underwater vehicles may enter or pass through the
territorial waters after giving prior notice to the
Central Government
4. (1) Without prejudice to the provisions of any
other law for the time being in force, all foreign
ships (other than warships including submarines
and other underwater vehicles) shall enjoy the
right of innocent passage through the territorial
waters. Explanation - For the purposes of this
section, passage is innocent so long as it is not
prejudicial to the peace, good order or security of
India.
(2) Foreign warships including submarines and
15
Danhsáchcácnướcyêucầutàuquânsựdiquaphảithôngbáohoặcxinphéptrước.TrungtâmThôngtinkhoahọc‐
ViệnNCLP
22
other underwater vehicles may enter or pass
through the territorial waters after giving prior
notice to the Central Government
2 Indonesi
a
Luật số 6 ngày
8/8/1996 về các
vùng lãnh hải
của Indonesia
Act No. 6 of 8
August 1996
regarding
Indonesian
Waters
Điều 17. Các quy định khác liên quan đến quyền
và nghĩa vụ của tàu buôn, tàu quân sự và tàu của
chính phủ nước ngoài hoạt động vì mục đích
thương mại hay phi thương mại khi thực hiện
quyền đi lại một cách hòa bình qua vùng lãnh hải
của Indonesia sẽ được điều chỉnh bằng quy định
của Chính phủ.
Đường dẫn vào quy định của Chính phủ:
/>f
Article 17
The further provisions concerning the rights and
obligations of foreign merchant ships, warships
and Government vessels operated for commercial
and non-commercial purposes in conducting a
peaceful crossing right through the Indonesian
waters, shall be regulated by Government
Regulation.
INDONESIAN GOVERNMENT REGULATION
NO. 37 OF 2002
/>df
3 Hàn
Quốc
Luật số 3037
ban hành ngày
31/12/1977
được sửa đổi bổ
sung bằng Luật
số 4986 ban
hành ngày
6/12/1995 về
Lãnh hải và các
vùng tiếp giáp
Territorial Sea
and Contiguous
Zone Act Law
No. 3037,
Promulgated
on 31
December
1977Amended
by Law No.
4986, which
was
promulgated on
Điều 5.
Quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền
nước ngoài
Tàu thuyền nước ngoài được hưởng quyền đi
qua không gây hại trong lãnh hải của nước Đại Hàn
Dân Quốc. Trong thời gian thực hiện việc đi qua,
các tàu này không được làm ph
ương hại đến hòa
bình, trật tự công cộng và an ninh của nước Đại
Hàn Dân Quốc.
Trong trường hợp tàu quân sự nước ngoài có ý
định đi qua lãnh hải, tàu đó phải thông báo trước
cho cơ quan có thẩm quyền liên quan đến các điều
kiện được quy định trong Nghị định của Tổng
thống.
Foreign ships enjoy the right of innocent
passage through the territorial sea of the Republic
of Korea so long as the passage is not prejudicial
to the peace, public order or security of the
Republic of Korea. When a foreign warship or a
government ship operated for non-commercial
23
6 December
1995
purposes intends to pass through the territorial
sea, it shall give a prior notice to the authorities
concerned under the conditions as provided for by
the Presidential Decree.
4 Cộng hòa
Croatia
Luật Hàng hải
năm 1994
The Maritime
Code, 1994
Điều 23
Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Croatia yêu cầu
nước có tàu quân sự phải thông báo qua đường
ngoại giao về ý định đi qua không gây hại của tàu
quân sự nước ngoài không muộn hơn 24 tiếng
trước khi tàu đi vào vùng lãnh hải của nước Cộng
hòa Croatia .
Article 23
The Ministry of Foreign Affairs of the Republic of
Croatia shall be informed through diplomatic
channels by the State to which the warship belongs
about the intention of innocent passage of the
foreign warship through the territorial sea of the
Republic of Croatia not later than 24 hours before
the ship's entering the territorial sea of the
Republic of Croatia.
5 Đan
mạch
Pháp lệnh điều
chỉnh việc cho
phép tàu hoặc
máy bay quân
sự nước ngoài
đi qua lãnh hải
hoặc không
phận của Đan
mạch trong thời
bình
Ordinance
Governing the
Admission of
Foreign
Warships and
Military
Aircraft to
Danish
Territory in
Time of Peace
(4) Khi có yêu cầu thông báo trước về việc đi qua,
thông báo đó phải được gửi cho cơ quan có thẩm
quyền của Đan mạch không muộn hơn 3 tuần trước
khi đi qua.
(4) Where prior notification of passage is required,
such notification shall be given not less than three
weekdays in advance of the proposed passage.
6 Guyana
Luật về biên
giới trên biển
số 10 ngày
6.(1) Không liên hệ tới các luật khác đang có hiệu
lực tại thời điểm hiện tại, tất cả mọi tàu thuyền
nước ngoài (trừ tàu quân sự bao gồm cả tàu ngầm
24
30/6/1977
Maritime
Boundaries
Act, 1977, Act
No. 10 of 30
June 1977
và các phương tiện đi ngầm) được hưởng quyền đi
qua không gây hại.
(2) Phục vụ cho mục đích của điều này, việc đi qua
không gây hại là khi không ảnh hưởng đến hòa
bình, trật tự và an ninh của Guyana.
(3) Tàu quân sự nước ngoài bao gồm tàu ngầm và
các phương tiện đi ngầm có thể đi vào hoặc đi qua
lãnh hải của Guyana sau khi đã có thông báo trước
cho Chính phủ Guyana.
6. (1) Without prejudice to any other written law
for the time being in force, all foreign ships (other
than warships including submarines and other
underwater vehicles) shall enjoy the right of
innocent passage.
(2) For the purposes of this section, passage is
innocent so long as it is not prejudicial to the
peace, good order or security of Guyana.
(3) Foreign warships including submarines and
other underwater vehicles may enter or pass
through the territorial sea after giving prior notice
to the Government of Guyana
7 Mauritan
i
Luật về các
vùng biển số 13
ngày 13/6/1977
Maritime Zones
Act 1977 (Act
No. 13 of 3
June 1977)
4.(1) Không liên hệ tới bất kỳ luật khác đang có
hiệu lực tại thời điểm hiện tại, nhưng theo quy định
của điều (2), (3) và (4), tất cả tàu nước ngoài (trừ
tàu quân sự bao gồm cả tàu ngầm) đều được
hưởng quyền đi qua không gây hại khi đi vào vùng
lãnh hải của Mauritani.
(2) Tàu quân sự bao gồm cả tàu ng
ầm có thể đi vào
hoặc đi qua lãnh hải sau khi có thông báo cho
Chánh Văn phòng Thủ tướng.
4. (1) Without prejudice to any other enactment in
force, but subject to subsections (2), (3) and (4), all
foreign ships (other than warships, including
submarines) shall enjoy the right of innocent
passage through the territorial waters.
(2) Foreign warships, including submarines, may
enter or pass through the territorial waters after
giving
notice to the Permanent Secretary, Prime
Minister's Office.
8 Cộng hòa
Malta
Chương 226
Luật về vùng
tiếp giáp và
lãnh hải để mở
rộng vùng lãnh
hải và xây dựng
7.(2) Khi áp dụng bất kỳ quy định nào theo tinh
thần của khoản 1 đối với tàu quân sự hoặc tàu chạy
bằng năng lượng hạt nhân, tàu chở chất phóng xạ
hoặc chất độc hại, nguy hiểm, thì theo tinh thần của
quy định trên, việc đi qua của tàu đó bắt bu
ộc phải
có ý kiến đồng ý trước, hoặc thông báo trước cho
25
quy định cho
vùng tiếp giáp
ngày
10/12/1977 (1)
Chapter 226
TERRITORIA
L WATERS
AND
CONTIGUOU
S ZONE ACT
To extend the
territorial
waters of Malta
and to make
provision for a
contiguous
zone. 10th
December,
1971(1)
cơ quan có thẩm quyền được quy định trong luật.
7.(2) In the application of any regulation made
under subarticle (1) to warships or to nuclear
powered ships or to ships carrying nuclear or other
inherently dangerous or noxious substances, their
passage through territorial waters may, by any
such regulation, be made subject to the prior
consent of, or prior notification to, such authority
as may be specified therein.
9 Cộng hòa
Seychell
e
Luật hàng hải
số 2 năm 1999
Maritime Zones
Act, 1999 (Act
No. 2 of 1999)
15.(2) Tàu quân sự nước ngoài chỉ có thể đi vào
hoặc đi qua vùng lãnh hải hoặc vùng nước thuộc
quần đảo sau khi đã thông báo và được Cơ quan
cảng biển của Seychelle cho phép trước.
15.(2) Foreign warships may only enter or pass
through the territorial sea or archipelagic waters
after giving notice to, and obtaining prior
authorization of, the Port Authorities of Seychelles
10 Thụy
điển
Tuyên bố ngày
3 tháng 6 năm
1966 về các
quy định áp
dụng cho tàu
hải quân và
máy bay quân
sự nước ngoài
tới Lãnh hải
Thụy Điển
Điều 4:
Một phương tiện hải quân nước ngoài có thể đi
qua lãnh hải sau khi đã thông báo qua đường ngoại
giao
Article 4
A naval vessel of a foreign Power shall be admitted
to pass through the territorial sea after notification
through diplomatic channels.