Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm bệnh lý bệnh tiên mao trùng do trypanosoma evansi gây bệnh thực nghiệm trên chó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (19.5 MB, 74 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM





NGUYỄN THỊ HOÀI THU





NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM BỆNH LÝ BỆNH
TIÊN MAO TRÙNG DO TRYPANOSOMA EVANSI
GÂY BỆNH THỰC NGHIỆM TRÊN CHÓ








LUẬN VĂN THẠC SĨ








HÀ NỘI – 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM




NGUYỄN THỊ HOÀI THU





NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM BỆNH LÝ BỆNH
TIÊN MAO TRÙNG DO TRYPANOSOMA EVANSI
GÂY BỆNH THỰC NGHIỆM TRÊN CHÓ






CHUYÊN NGÀNH : THÚ Y
MÃ NGÀNH : 60.64.01.01


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :

PGS.TS. PHẠM NGỌC THẠCH



HÀ NỘI – 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ
rõ nguồn gốc. Mọi sự giúp đỡ đã được cảm ơn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014.

Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Hoài Thu






Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii


LỜI CẢM ƠN


Để hoàn thành luận văn này, trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
PGS.TS. Phạm Ngọc Thạch, Bộ môn Nội - Chẩn - Dược - Độc chất, Khoa Thú y, Học
viện Nông nghiệp Việt Nam, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình thực tập và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Chủ nhiệm Khoa Thú y, các thầy, các cô giảng
dạy và nghiên cứu trong Khoa Thú y; Bộ môn Nội - Chẩn - Dược - Độc chất, Khoa Thú
y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện
luận văn này.
Qua đây cho tôi được gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè và
đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề
tài.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn mọi sự giúp đỡ quý báu trên!
Hà Nội, ngày
tháng năm 2014.
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Hoài Thu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ii
LỜI CẢM ƠN iii
MỤC LỤC iv

DANH MỤC BẢNG vi
DANH MỤC HÌNH vii
DANH MỤC VIẾT TẮT………………………………………………………….viii
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu Tiên mao trùng 3
1.1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu Tiên mao trùng trên thế giới 3
1.1.2. Sơ lược lịch sử nghiên cứu Tiên mao trùng ở Việt Nam 4
1.2. Một số đặc điểm và phân loại Tiên mao trùng 5
1.2.1. Vị trí của Tiên mao trùng trong hệ thống phân loại động vật 5
1.2.2. Đặc điểm hình thái của Trypanosoma evansi 6
1.2.3. Một số đặc điểm sinh học của Trypanosoma evansi 8
1.2.4. Đặc điểm cấu trúc của Trypanosoma evansi 9
1.3. Những nghiên cứu về bệnh lý lâm sàng của trâu bò mắc bệnh Tiên mao trùng do
Trypanosoma evansi 10
1.3.1. Triệu chứng bệnh Tiên mao trùng do Trypanosoma evansi gây bệnh trên trâu bò 10
1.3.2. Bệnh tích bệnh Tiên mao trùng do Trypanosoma evansi gây bệnh trên trâu bò 12
1.4. Một số chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa trâu bò mắc bệnh Tiên mao trùng do Trypanosoma
evansi 13
1.5. Những nghiên cứu về miễn dịch của Trypanosoma evansi 15
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25
2.1. Địa điểm và đối tượng nghiên cứu 25
2.1.1. Địa điểm nghiên cứu 25
2.1.2. Đối tượng nghiên cứu 25
2.2. Nội dung nghiên cứu 25
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

2.3. Nguyên liệu nghiên cứu 25
2.3.1. Động vật thí nghiệm 25

2.3.2. Giống Trypanosoma evansi 26
2.4. Phương pháp nghiên cứu 26
2.4.1. Phương pháp gây nhiễm thực nghiệm Trypanosoma evansi trên động vật thí nghiệm 26
2.4.2. Phương pháp phát hiện Tiên mao trùng 26
2.5. Một số chỉ tiêu lâm sàng và huyết học 27
2.5.1. Các chỉ tiêu lâm sàng 27
2.5.2. Các chỉ tiêu huyết học 27
2.6. Phương pháp xử lý số liệu 28
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 30
3.1. Theo dõi đặc tính gây bệnh của Trypanosoma evansi trong máu chó được gây
nhiễm 30
3.2. Thân nhiệt của chó được gây nhiễm Trypanosoma evansi 32
3.3. Tần số hô hấp của chó được gây nhiễm Trypanosoma evansi 33
3.4. Tần số tim của chó được gây nhiễm Trypanosoma evansi 34
3.5. Biểu hiện lâm sàng của chó được gây nhiễm Trypanosoma evansi 35
3.6. Một số chỉ tiêu huyết học của chó được gây nhiễm Trypanosoma evansi 38
3.6.1. Số lượng hồng câu 39
3.6.2. Tỷ khối huyết cầu 40
3.6.3. Thể tích trung bình của hồng cầu 42
3.6.4.Hàm lượng huyết sắc tố 42
3.6.5. Lượng huyết sắc tố trung bình của hồng cầu 43
3.6.6. Số lượng bạch cầu 44
3.6.7. Công thức bạch cầu 45
3.6.8. Hàm lượng đường huyết 50
3.6.9. Độ dự trữ kiềm 52
3.6.10. Protein tổng số và các tiểu phần trong huyết thanh 53
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO 61
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi


DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1. Đặc tính gây bệnh của Tiên mao trùng do Trypanososma evansi trong
máu chó sau khi được gây nhiễm T.evansi 31
Bảng 3.2. Nhiệt độ, tần số hô hấp và tần số tim mạch của chó được gây nhiễm
Trypanosoma evansi (n=10) 33
Bảng 3.3. Biểu hiện lâm sàng ở chó được gây nhiễm Trypanosoma evansi (%) (n = 10) 36
Bảng 3.4. Số lượng hồng cầu, tỷ khối huyết cầu, thể tích bình quân của hồng cầu ở
chó được gây nhiễm T.evansi (n=10) 41
Bảng 3.5. Hàm lượng huyết sắc tố và lượng huyết sắc tố bình quân của hồng cầu ở
chó được gây nhiễm T.evansi (n=10) 44
Bảng 3.6. Số lượng bạch cầu của máu chó được gây nhiễm Trypanosoma evansi 47
Bảng 3.7. Hàm lượng đường huyết và độ dự trữ kiềm trong máu của chó được gây
nhiễm T.evansi (n=10) 51
Bảng 3.8. Protein tổng số và các tiểu phần protein trong huyết thanh của chó được
gây nhiễm T.evansi (n=10) 54
Bảng 3.9. Bệnh tích đại thể của chó được gây nhiễm Tiên mao trùng T.evansi (%)
(n=10) 56

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC HÌNH

Hình 3.1. Niêm mạc nhợt nhạt (chó nhiễm T.evansi) 37
Hình 3.2. Mắt bị viêm giác mạc (chó nhiễm T.evansi) 37
Hình 3.3. Chó nhiễm T.evansi mệt mỏi ủ rũ rũ, gầy gò, lông xù 37
Hình 3.4. Biểu hiện triệu chứng thần kinh (chó nhiễm T.evansi) 37
Hình 3.5. Chó nhiễm T.evansi có biểu hiện phù nề 38

Hình 3.6. Manh tràng xuất huyết………………………………………… ……59
Hình 3.7. Hạch màng treo treo ruột sưng 57
Hình 3.8. Hạch dưới hàm sưng …………………………………… …… ……….59
Hình 3.9. Những cục máu đông trong tim 57
Hình 3.10. Phổi xuất huyết ……………………………………………………….…59
Hình 3.11. Trong phế nang chứa đầy bọt khí 57
Hình 3.12. Thanh quản chứa đầy bọt khí…………………………………………….60
Hình 3.13. Xuất huyết rìa gan 58
Hình 3.14. Lách xuất huyết ……………………………………………… ……… 60
Hình 3.15. Thận xuất huyết, sưng to 58
Hình 3.16. Thận hoại tử …………………………………………………………….60
Hình 3.17. Xuất huyết ở trong thận 58


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


CATT Card Agglutination Test for
Trypanosomiasis
cs Cộng sự
EDTA Ethylenediaminetetraacetic acid
ELISA Enzyme Linked Immunosorbent
Assay
IFAT
Indirect Fluorescent Antibody Test

LATEX


Latex agglutination
test

MI Mouse
Inoculation

SAT Slide Agglutination
test

T. evansi Trypanosoma evansi
TMT Tiên mao trùng
VAT Variant Antigennic
Types


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Trong những năm qua Việt Nam đã tiến hành thực hiện nhiều chính sách, đổi
mới nhằm phát triển ngành nông nghiệp nước nhà. Trong đó ngành chăn nuôi ngày
càng có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt chăn nuôi trâu bò
được xác định là một trong những chương trình phát triển nông nghiệp trọng điểm
đem lại hiệu quả cao với các giá trị kinh tế đem lại từ sản phẩm như thịt, sữa, da,
sừng,…
Tuy nhiên, việc đẩy mạnh phát triển chăn nuôi đàn trâu bò ở nước ta vẫn còn
gặp nhiều khó khăn và một trong những thách thức của Việt Nam chính là tình hình
dịch bệnh phức tạp. Bên cạnh các bệnh truyền nhiễm vẫn luôn được chú ý thì thực

trạng bệnh ký sinh trùng tồn tại trên đàn trâu bò lại ít được quan tâm và gây tác
động xấu tới súc vật nuôi. Chúng thường làm giảm khả năng sinh trưởng và phát
triển, giảm chất lượng thực phẩm, phẩm chất da lông, giảm sức cày kéo, giảm sản
lượng sữa,
Phần lớn các ký sinh trùng gây bệnh cho vật nuôi ở thể mạn tính, tác hại của
chúng là âm thầm và dai dẳng nên ở nhiều địa phương, các cấp chính quyền cũng
như người chăn nuôi chưa quan tâm đúng mức tới việc phòng trị bệnh ký sinh trùng
cho gia súc.
Một trong những bệnh ký sinh trùng gây thiệt hại lớn trong chăn nuôi đó là
bệnh Tiên mao trùng trâu, bò (Trypanosomiasis). Đây là bệnh ký sinh trùng do loài
Trypanosoma evansi (T.evansi) gây ra. Chúng tiết độc tố Trypanotoxin vào máu.
Loài ruồi, mòng là các môi giới trung gian truyền mầm bệnh Trypanosoma evansi,
khi vào cơ thể gia súc chúng sinh sản nhanh, làm vỡ hồng cầu, con vật bị thiếu máu
trầm trọng, làm thay đổi một số chỉ tiêu huyết học, ảnh hưởng đến chức năng sinh
lý. Chúng làm mức tăng trưởng giảm, sức đề kháng của cơ thể yếu đi tạo cơ hội cho
một số bệnh truyền nhiễm kế phát.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

Trypanosoma evansi có khả năng gây nhiễm cao cho nhiều loài động vật, kể
cả các động vật thí nghiệm như thỏ, chuột nhắt trắng và chó.
Ở nước ta việc nghiên cứu sự biến đổi các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa trên cơ
thể động vật cảm nhiễm Trypanosoma evansi còn chưa được quan tâm nhiều bởi chi
phí thực hiện trên trâu, bò rất cao và khó kiểm soát.
Vì vậy, một yêu cầu khoa học bức thiết đặt ra là cần đánh giá các đặc điểm
sinh lý, sinh hóa máu và tác động của Trypanosoma evansi gây ra trên chó tại phòng
thí nghiệm nhằm bổ sung tư liệu khoa học về bệnh ký sinh trung đường máu do
Trypanosoma evansi gây ra. Qua đó đề xuất một số phương pháp nghiên cứu bệnh
ký sinh trung đường máu do Trypanosoma evansi lưu hành trên trâu, bò. Xuất phát

từ những yêu cầu khoa học nói trên, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu một số
đặc điểm bệnh lý bệnh Tiên mao trùng do Trypanosoma evansi gây bệnh thực
nghiệm trên chó”.
2. Mục tiêu của đề tài
- Xác định được đặc tính gây bệnh của Trypanosoma evansi trên chó gây
bệnh thực nghiệm.
- Xác định được sự biến đổi bệnh lý của chó được gây nhiễm T.evansi.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu Tiên mao trùng
1.1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu Tiên mao trùng trên thế giới
Trypanosoma đã được các nhà khoa học phát hiện rất sớm: năm 1837, Done
phát hiện một loài Trypanosoma trong ruột người, năm 1841 Valetin tìm ra trùng
roi (Trypanosoma) đầu tiên trong máu một loài cá. Sau đó nhiều loài Tiên mao
trùng khác đã được phát hiện trong máu nhiều loài động vật, trong các loài được
phát hiện thì loài Trypanosoma evansi ký sinh, gây bệnh cho động vật đóng vai trò
đặc biệt quan trọng.
Năm 1843, Gruby đã phát hiện thấy Tiên mao trùng trong máu ếch, đặt tên là
Eryganosoma sanguinis. Tiếp sau đó nhiều loài Tiên mao trùng khác thuộc giống
Trypanosoma Gruby lần lượt được phát hiện ký sinh, gây bệnh cho động vật có vú
và người.
Đến năm 1880, Griffilt Evans tìm thấy loài Tiên mao trùng gây bệnh trong
máu ngựa và lạc đà ở bang Punjap - Ấn Độ. Nó được xác định là một thủ phạm gây
ra bệnh chung cho ngựa, la, lạc đà, trâu ở Ấn Độ được gọi chung là bệnh "Sura".
Năm 1885, Steel phát hiện ra Trypanosoma trong máu la Miến Điện, mô tả
hình thái ký sinh trùng, đặt tên Spirochaete evansi sau đổi thành Trypanosoma

evansi (T.evansi).
Một năm sau (1886), Branchard cũng thông báo tìm thấy Tiên mao trùng trên
máu của loài la nhập nội vào Bắc bộ Việt Nam. Tác giả mô tả rất tỷ mỉ hình thái ký
sinh trùng và những biểu hiện lâm sàng trên vật mắc bệnh.
Năm 1906, Lavera và Mesnil trong tác phẩm kinh điển nói về Tiên mao
trùng, những bệnh do Tiên mao trùng (Trypanosoma và Trypanosomiasis - Paris
1911) đã trình bày về bệnh lý học do Trypanosoma evansi gây ra cho các loài động
vật, vai trò ký chủ trung gian của một loài ruồi hút máu họ Stomoxydinae, loài mòng
họ Tabanidae.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

Trong khoảng thời gian từ 1885 đến 1920, nhiều bệnh ở gia súc và dã thú
tương tự như bệnh "Sura" lưu hành ở nhiều nước trên thế giới với nhiều tên gọi
khác nhau như: bệnh "Eldebab:, bệnh "Tahaga" của lạc đà An-giê-ri và Ni-giê-nia,
bệnh "Zousifana" của ngựa, chó các nước ở nam sa mạc Sahara. Bệnh "Su-rusu"
của lạc đà ở tây nam Liên Xô. Bệnh " Muvina" của ngựa ở Trung Mỹ. Bệnh "Dịch
tả boba", bệnh "Desangadera" của ngựa, chó ở Vê-nê-zua-la. Bệnh đau mông " Mal
da cadera" ở ngựa, la các nước Nam Mỹ Đã được các nhà khoa học nghiên cứu,
tìm ra nguyên nhân. Đó là những Tiên mao trùng có hình thái, tính chất sinh học
gần giống như Trypanosoma evansi được đặt nhiều tên khác như Trypanosoma
hippicum, Trypanosoma equinum, Trypanosoma vietnamense, Trypanosoma
soudanense, Trypanosoma ninae Kohl-Yakimovi, Trypanosoma berberum,
Trypanosoma venezualense.
Mãi sau này, Hoare, nghiên cứu lịch sử phát triển, hình thái, tính chất sinh
vật học của Tiên mao trùng trên đã đi đến kết luận: " Tất cả các loài Tiên mao trùng
đều có những chủng gốc châu Âu, châu Phi, châu Á, châu Mỹ của một loài duy nhất
là Trypanosoma evansi".
Tổ chức dịch tễ thế giới (OIE) đã thông báo hiện nay có 7 loài Tiên mao

trùng gây bệnh cho động vật có vú và người là: Trypanosoma evansi, Trypanosoma
vivax, Trypanosoma brucei, Trypanosoma congolence, Trypanosoma gambiense,
Trypanosoma simiae, Trypanosoma cruzi. Trong số các loài kể trên thì
Trypanosoma evansi là loài phổ biến nhất, phân bố ở khắp nơi trên thế giới, gây
bệnh cho hầu hết các loài động vật có vú trừ người, chiếm ưu thế ở vùng cận đông,
châu Á và châu Mĩ la tinh.
1.1.2. Sơ lược lịch sử nghiên cứu Tiên mao trùng ở Việt Nam
Ở nước ta, bệnh Tiên mao trùng do Trypanosoma evansi gây nên được phát
hiện đầu tiên và sớm nhất trong số các bệnh do đơn bào gây ra cho gia súc ở nước
ta. Năm 1886, Blanchard phát hiện ra Tiên mao trùng đầu tiên trong máu của la
nhập nội vào miền Bắc Việt Nam và ông đặt tên cho loài này là Tannamese laveran,

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

sau đổi thành Trypanosoma evansi. Tiếp đó ở Nha Trang cũng tìm thấy Tiên mao
trùng, sau đó lần lượt cở các tỉnh như: Hà Tuyên, Vinh.
Năm 1906, Bodin thấy ngựa ở Nam Định bị mắc bệnh Trypanosoma evansi.
Cùng năm đó Brau nghiên cứu triệu chứng bệnh ở bò, ngựa vùng Sài gòn.
Năm 1911, một ổ dịch làm chết nhiều ngựa ở hang Hít (Thái Nguyên), nhiều
trường hợp ngựa chết tại chuồng của Công ty Khai thác rừng Hà Nội.
Từ năm 1922 – 1926 ở Nam bộ ngựa, chó mắc bệnh Tiên mao trùng đã chết
hàng trăm con.
Ở Việt Nam hiện nay, bệnh Tiên mao trùng do Trypanosoma evansi gây ra
rất phổ biến ở các tỉnh miền núi phía bắc như: Thái Nguyên, Bắc Cạn, Hòa Bình,
Cao Bằng, Ninh Bình,
1.2. Một số đặc điểm và phân loại Tiên mao trùng
1.2.1. Vị trí của Tiên mao trùng trong hệ thống phân loại động vật
Theo Trịnh Văn Thịnh (1982), hàng năm khi mùa đông tới trâu, bò ở các tỉnh
miền Bắc nước ta thường bị đổ ngã. Theo dõi đàn trâu bò ở các tỉnh miền núi tác giả

thấy hàng năm trâu, bò vẫn bị chết, tỷ lệ chết phụ thuộc vào thời tiết năm đó, giá rét
kéo dài trâu, bò chết càng nhiều, làm ảnh hưởng đến sức cày kéo, thiệt hại to lớn về
kinh tế cho nông dân. Để hạn chế, tiến tới ngăn chặn được bệnh Tiên mao trùng, các
nhà nghiên cứu ký sinh trùng phải tìm hiểu nguyên nhân gây chết ở trâu, bò. Đàn
trâu, bò ở miền núi có mang trùng, trong điều kiện thức ăn đầy đủ chúng vẫn khỏe
mạnh. Khi chuyển về các tỉnh đồng bằng do làm việc nặng nhọc, thức ăn quá thiếu
thốn, gặp thời tiết giá rét, thể trạng suy yếu dần, dẫn đến sức đề kháng giảm, vì thế
T.evansi có điều kiện phát triển, làm cho trâu từ thời kì mang bệnh T.evansi trở
thành thời kì phát bệnh, chết hàng loạt. Với triệu chứng cước chân, có hiện tượng
trâu tiêu chảy, trâu ngã nước có liên quan đến bệnh Tiên mao trùng. Khi xét nghiệm
bệnh Tiên mao trùng ở những hợp tác xã có trâu, bò chết nhiều, tác giả thấy tỷ lệ
nhiễm từ 3,5 – 7%. Tác giả kết luận: nguyên nhân trâu chết trong vụ đông xuân ở
vùng đồng bằng sông Hồng là do thức ăn thiếu nghiêm trọng, chế độ dinh dưỡng

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

quá kém, làm việc nhiều, giá rét là điều kiện để Tiên mao trùng phát triển gây tác
hại cho trâu, bò.
Qua quá trình nghiên cứu bệnh Tiên mao trùng, Trịnh Văn Thịnh (1982),
Đoàn Văn Phúc (1965), Phạm Sỹ Lăng (1982) đã đi đến kết luận: Trypanosoma
evansi là tác nhân gây bệnh Tiên mao trùng, là một trong những tác nhân gây thiệt
hại cho đàn trâu, bò ở nước ta. Trypanosoma evansi là nguyên nhân chủ yếu gây
bệnh, kết hợp với một số nguyên nhân khác như các bệnh truyền nhiễm, sán lá gan,
thức ăn thiếu nghiêm trọng, làm quá nặng nhọc, giá rét kéo dài đã làm cho trâu đổ
ngã hàng loạt trong vụ đông xuân.
1.2.2. Đặc điểm hình thái của Trypanosoma evansi
Chen Qijun (1992), cho biết T.evansi được xếp vào loại đơn hình thái.
T. evansi hình suốt chỉ hay hình thoi, ở giữa có nhân, không có Cytochrome. Cuối
thân có Kinetoplast và Kinetosome, màng rung động rộng, gấp nếp rõ. Trong

nguyên sinh chất có những hạt nhỏ bắt màu.
Vickerman, K. (1996) cho biết: về cơ bản cấu tạo của các loài Tiên
mao
trùng của họ Trypanosomatidae giống nhau. Tế bào có hình con suốt là
nhờ
các
vi ống xếp song song nằm dọc theo chiều dài dưới màng tế bào.
Chuyển
động liên tục
của Tiên mao trùng được hoạt hoá bởi một cái roi bắt nguồn
từ
thể cơ động. Ở chỗ cái
roi nhập vào thân tế bào có một chỗ lõm trên bề mặt
tế
bào gọi là túi roi. Chính phần
này của màng tế bào là nơi thực hiện chủ
yếu
các quá trình bài tiết, quá trình hấp
thu các chất dinh dưỡng của Tiên
mao trùng.
Vickerman, K. (1996) và Gill, B. S. (1965), khi quan sát cấu trúc của roi
cũng
cho
biết: cấu trúc của roi, lông tương tự nhau, bao gồm một trục chính, 9
cặp
vi
ống xung quanh với 2 ống riêng rẽ ở trung tâm, cấu trúc bọc song song
kéo

dài.


Theo Vickerman, K. (1996), lớp vỏ bề mặt là
một
lớp protein bao bên ngoài
TMT kể cả roi.
Patel, N. M. (1986), đã mô tả Tiên mao trùng là thể cơ động ty lạp thể liên

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

kết tạo ra DNA ở ngoài
nhân.
Mức độ phát triển ty lạp thể có liên quan đến khả
năng trao đổi chất,
phụ
thuộc nhiều hay ít vào điều kiện cần thiết của môi
trường ký sinh. Các
thể
Tiên mao trùng ở trong máu có ty lạp thể nhỏ, các thể
TMT
được
nuôi dưỡng, ở trong ống tiêu hoá ký chủ trung gian có ty lạp thể phát
triển.
Về
cấu trúc của Tiên mao trùng nói chung, cấu trúc của T.evansi nói riêng
cho
đến nay nước ta chưa có tác giả nào nghiên
cứu.
Theo kết quả nghiên cứu của Phạm Văn Khuê và cs (1996)
,

T.evansi là loại
ký sinh trùng ký sinh ngoài hồng cầu, có
hình
thoi, dài 18 – 34
µm

giữa thân có
một roi bắt nguồn là thể hình roi, cách đuôi
T. evansi
khoảng 1,5
µm.
Roi này chạy
dọc thân, tạo thành nhiều màng
rung
động, cuối cùng roi này lơ lửng ở phần
đầu thành roi tự do dài 6
µm.
Nhờ

roi, màng rung động mà T.evansi chuyển
động được trong máu động
vật.
Tiêu bản máu nhuộm Giemsa, nguyên sinh chất
của T. evansi bắt màu
xanh
nhạt. Nhân bắt màu hồng. Tiên mao trùng ký sinh trong
máu hoặc ở một số
tổ
chức của động vật có xương sống, được truyền từ động vật
này sang động

vật
khác theo phương thức cơ giới nhờ những côn trùng hút máu
thuộc họ
mòng
Tabanidae, họ ruồi Stomoxydinae.
Một số loài Tiên mao trùng có thể quan sát thấy nhiều hình thái trong
quá
trình phát triển ở ký chủ trung gian, ký chủ cuối cùng. Hình thái Tiên
mao
trùng thường gặp
là:

1. Thể Crithidia: thể cơ động ở trước, gần thân, từ thể cơ động xuất
phát
một roi, giới hạn một màng rung động ngắn, roi tự do ở phía
trước.

2. Thể Leptomonas: thể cơ động hoàn toàn ở phía trước, từ thể cơ
động
xuất hiện một roi tự do, không có màng rung
động.

3. Thể Leishmania: hình bầu dục hay hình cầu có một nhân to, một
bào
tử thể
hình gậy, từ đó xuất phát một cái roi chưa thành hình kết thúc ở
giữa

thân.


4. Thể Trypanosoma: trong côn trùng có hình dạng bình thường,
nhưng

roi dính vào thân, chạy thẳng lên phía trước, không tạo thành màng
rung.


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

Theo Well (1982), hiện nay người ta đã đưa ra những khái niệm để
phân
biệt hình thái của Tiên mao trùng theo 6
dạng:

1. Trypamastigote: Tiên mao trùng có hình dạng bình
thường.

2. Spimastigote: Tiên mao trùng có hình thái như
Crithidia.

3. Chosnomastigote: Tiên mao trùng có roi chạy thẳng theo thân,
không
tạo
thành màng rung động, không có những nếp gấp
khúc.

4. Promastigote: Tiên mao trùng có hình thái giống như
Leptomonas.


5. Amastigote: Tiên mao trùng có hình thái giống như
Leishmanian.

6. Phaeromastigote: Tiên mao trùng có hình thái giống như
Leishmania
nhưng
có roi có một đoạn tự do ngoài thân. Giống Trypanosoma bao gồm
rất
nhiều loài đã
được phát hiện ở động vật có xương sống thuộc lớp cá, lớp

sát.
1.2.3. Một số đặc điểm sinh học của Trypanosoma evansi
Theo Lương Văn Huấn và cs (1997), T.evansi ký sinh trong máu, đôi khi
trong tổ chức nhiều loại động vật có vú, trong quá trình tiến hoá đi vào ống tiêu hoá
của những loài động vật không xương sống khác, chúng tự nuôi dưỡng bằng cách
thẩm thấu các chất dinh dưỡng có trong huyết thanh của máu hay dịch thể mà
chúng sống trong đó. T.evansi ký sinh trong máu nhiều loại động vật, chúng sinh
sản bằng cách trực phân theo chiều dọc. Đầu tiên T.evansi tăng thể tích, thể cơ
động phân chia, nhân cũng phân chia theo. Tuỳ theo sự phân chia T.evansi có thể
phân thành hai hoặc bốn T.evansi mới, hình thành một cái roi mới. Sau đó nguyên
sinh chất sẽ phân chia, bắt đầu từ phía trước giữa cái roi, sự phân chia tiếp tục
cho đến phía sau thân thể. Hai cơ thể mới sinh còn dính với nhau một thời gian ở
phía sau thân của chúng, rồi tách hẳn nhau ra. Bình thường hai cơ thể này bằng
nhau, nhưng cũng có khi một bé một lớn. Sự phân chia này chỉ thực hiện trong máu
động vật có vú.
Trong
thời
gian sống trong máu nó tiết ra độc tố Trypanotoxin tác động vào
các cơ

quan
nội tạng của con vật và gây những biến đổi bệnh
lý.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

Theo Trịnh Văn Thịnh (1967), T.evansi được truyền từ động vật này sang
động vật khác bằng phương thức cơ giới, chủ yếu nhờ các loài ruồi họ
Stomoxydinae, các loài mòng họ Tabanidae. Trong chu kỳ phát triển của T.evansi
không có giai đoạn phát triển trong ký chủ trung gian như một số TMT khác. Ở ruồi
mòng, Tiên mao trùng sau khi theo máu vào cơ thể ruồi
mòng,
nó vẫn sống và
hoạt động đến giờ thứ 53, thời gian hoạt động mạnh nhất
từ
giờ thứ nhất đến giờ
thứ 34, trung bình là 24 giờ, sự hoạt động của Tiên
mao
trùng yếu và giảm dần từ
giờ thứ 35 đến giờ thứ 42. Từ 46 - 53 giờ sau
thì
TMT ngừng hoạt
động.

Ở bê, sau khi bị mòng đốt 24 ngày, do trong máu có TMT, bê phát
bệnh kéo dài 90 ngày với các triệu trứng: sốt cao gián
đoạn,
suy nhược cơ
thể.


Ngoài ra TMT có thể nuôi cấy trong bào thai gà, môi
trường
dịch tổ chức,
T. evansi rất khó nuôi cấy trong môi trường, trong một số đ
iều
kiện đặc biệt
chúng có thể phát triển trong môi trường, nhưng nó thay đổi
tính
kháng nguyên,
mất độc lực, không gây bệnh cho các động vật dị cảm, đặc
tính
đã được dùng để
phân biệt với loài Trypannosoma bruicei, đây là loài rất
khó
phân biệt với T.evansi
về hình thái và khả năng gây
bệnh.
1.2.4. Đặc điểm cấu trúc của Trypanosoma evansi
Cấu trúc của T.evansi cũng giống như các loài Tiên mao trùng khác thuộc họ
Trypanosomadiae, từ ngoài vào trong được chia thành 3 phần chính:
• Vỏ: ngoài cùng là lớp vỏ dày 10 - 15 nm, vỏ được chia làm 3 lớp (lớp ngoài
và lớp trong cùng tiếp giáp với nguyên sinh chất dầy hơn lớp giữa). Lớp vỏ ngoài
cùng được cấu tạo từ các phân tử glycoprotein luôn biến đổi (Vanant Glycoprotein
Surface - VGS). Tiếp giáp với lớp trong cùng là 9 cặp vi ống xếp song song dọc
theo chiều dài thân Tiên mao trùng. Chính nhờ sự sắp xếp của các cặp vi ống nên
Tiên mao trùng có dạng hình suốt chỉ mảnh (Hoare, 1972; Phạm Sỹ Lăng, 1982;
Nguyễn Quốc Doanh,1999)
• Nguyên sinh chất: gồm lớp trong và lớp ngoài. Trong nguyên sinh chất có
chứa các nội quan: ribosome có màu thẫm xen kẽ vùng không bào màu sáng,


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

kinetoplast 244 (thề cơ động), mitochrondno, reticulum (lưới nội bào) và mạng lưới
golgi.
• Nhân: nhân Tiên mao trùng có chứa ADN, hình bầu dục hoặc hình trứng.
Nhân thường nằm ở vị trí trung tâm hoặc gần vị trí trung tâm cơ thể. Ngoài nhân,vế
phải cuối thân còn có thể kinetoplast chứa AND (KADN). Từ kinetoplast có một roi
chạy vòng quanh thân lên đầu và ra phía ngoài cơ thể thành một roi tự do. Roi của
Tiên mao trùng có lớp vỏ ngoài cùng giống lớp vỏ của thân. Trong roi có 9 cặp vi
ống ở xung quanh và một cặp ở trung tâm, xếp song song dọc chiều dài roi (Hoa re,
1972; Nguyễn Quốc Doanh, 1999).



Hình 1.1 . Cấu tạo của Trypanosoma
A. Roi; B. tổ hợp cytoskeleton; C. Nhân; D. Mitochondrion; E. Thể cơ
động kinetoplast; F. Thể đặc; G. túi tiên mao; H. phần thân chính; 1. Golgi; J. Lưới
nội sinh chất; K. màng rung; L. Chỗ tiếp xúc roi với màng rung; M. chỗ tiếp xúc
roi với thân.
1.3. Những nghiên cứu về bệnh lý lâm sàng của trâu bò mắc bệnh Tiên mao
trùng do Trypanosoma evansi
1.3.1. Triệu chứng bệnh Tiên mao trùng do Trypanosoma evansi gây bệnh trên
trâu bò
Theo Phạm Sỹ Lăng (1982), đã có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm theo dõi
các triệu chứng lâm sàng của bệnh Tiên mao trùng trên trâu, bò. Khi quan sát triệu
chứng lâm sàng của bò nhiễm T.evansi thể cấp tính cho thấy trâu bò mắc bệnh

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 11

thường có biểu hiện như sau: sốt cao, gián đoạn, thiếu máu, suy nhược, chảy nước
mắt, bại liệt chân sau, thủy thũng dưới mõm ức, phần bụng sau, đôi khi bệnh kéo
dài tới 6 tháng. Một số trường hợp bò nhiễm Trypanosoma evansi thể cấp tính chết
nhanh, chỉ trong vòng vài ngày.
Theo Verma, B.B. Gautam, O.P (1988), cho biết trâu, bò nhiễm
Trypanosoma evansi thể hiện rất rõ trạng thái bệnh lý, trâu bò thường chết trong
khoảng 22 – 96 ngày sau khi gây nhiễm. Một số bò lại khỏi bệnh tự nhiên trở thành
vật mang trùng.
Cũng theo tác giả trên, khi theo dõi triệu chứng lâm sàng của nghé 6 tuổi
nhiễm Trypanosoma evansi ở Ấn Độ, ông thấy nghé có biểu hiện: sốt 39
o
C – 40
o
C,
bỏ ăn, đau đớn. Khi lấy máu nghé bị bệnh tiêm truyền cho chuột bạch đã phát hiện
thấy Trypanosoma evansi .
Ở nước ta, các tác giả Phạm Sỹ Lăng (1982), Hồ Văn Nam (1963), Đoàn
Văn Phúc (1985), Trịnh Văn Thịnh (1982), cũng đã phát hiện thấy trâu bị bệnh cấp
tính có biểu hiện lâm sàng rất nặng, như sốt cao, bỏ ăn, điên loạn, chết nhanh. Trâu
nhiễm bệnh thể mãn tính thường sốt gián đoạn, gầy còm, thiếu máu kéo dài, viêm
giác mạc, phù thũng ở bụng, liệt chân sau, chết do kiệt sức. Đối với bệnh Tiên mao
trùng ở bò có những biểu hiện lâm sàng gần giống như ở trâu, ít thấy các trường
hợp cấp tính, con vật sốt gián đoạn, chậm chạp, hạch lâm ba trước đùi sưng, một số
con thủy thũng ở vùng hàm, vùng cổ nhưng không đau, gần chết thì bại liệt.
Nguyễn Văn Duệ và cộng sự (1995), khi quan sát triệu chứng lâm sàng của
bò nhiễm bệnh Tiên mao trùng cho thấy: một số bò nhiễm bệnh Tiên mao trùng cơ
thể gầy còm, tiêu chảy dai dẳng, niêm mạc nhợt nhạt, chảy nước mắt, nước mũi liên
tục, viêm kết mạc, giác mạc, có hiện tượng thủy thũng toàn thân, bại liệt chân sau.

Bò thường sốt ngắt quãng, sốt rất cao vào buổi sáng, niêm mạc nhợt nhạt, lông xù,
đi khập khiễng đôi lúc còn có triệu chứng thần kinh, run rẩy, sẩy thai, lồng lên trước
khi chết. Ở ngựa bệnh thường thể hiện cấp tính, biểu hiện bệnh rất nặng so với trâu,
bò, như sốt cao, phù thũng ở dịch hoàn, trước ngực, chân bại liệt nặng nhưng vẫn ăn
cho đến khi chết.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

Bùi Quý Huy, Trần Ngọc Thắng, Đặng Khánh Vân (1988), cũng cho biết: ở
nông trường trâu sữa Phùng Thượng tỉnh Ninh Bình, đàn trâu nái Mura nhập từ Ấn
Độ có tỷ lệ sảy thai chiếm 43%, trong đó nguyên nhân chính là do T.evansi.
Theo Lê Ngọc Mỹ, Lương Tố Thu, Vũ Đình Hưng, năm 1992, đàn trâu
chửa ở huyện Kỳ Sơn, huyện Đà Bắc tỉnh Hòa Bình trâu chửa bị sảy thai nhiều.
Huyện Kỳ Sơn có 63 trâu bị sảy thai, các tác giả đã lấy máu những trâu này tiêm
truyền cho 21 chuột bạch thì 9 con dương tính; huyện Đà Bắc có 35 trâu bị sảy
thai, các tác giả cũng lấy máu những trâu này tiêm truyền cho 31 chuột bạch thì
6 con dương tính.
Như vậy, qua các kết quả nghiên cứu của các tác giả trên về các biểu hiện
lâm sàng của trâu bò mắc bệnh do Trypanosoma evnasi cho thấy: khi trâu bò
mắc bệnh Tiên mao trùng do T.evansi thường có các biểu hiện lâm sàng là: sốt
cao, sốt gián đoạn, con vật mệt mỏi, ủ rũ, giảm ăn hoặc bỏ ăn, điên loạn và chết
nhanh (khi trâu bò mắc bệnh ở thể cấp tính). Ở thể mãn tính, trâu bò còn có biểu
hiện sốt cao kéo dài, sốt gián đoạn, cơ thể suy nhược, tiêu chảy kéo dài, niêm
mạc mắt nhợt nhạt và hoàng đản; con vật bị viêm kết mạc, giác mạc, viêm hạch
lâm ba trước đùi và trước vai, một số trường hợp có hiện tượng thủy thũng ở
vùng hầu và bại liệt 2 chân sau.
1.3.2. Bệnh tích bệnh Tiên mao trùng do Trypanosoma evansi gây bệnh trên
trâu bò


Trypanosoma evansi ký sinh trong máu gây cho gia súc một thể bệnh
toàn thân. Trong quá trình ký sinh, T.evansi lấy các chất dinh dưỡng trong máu, thải ra
các chất cặn bã, các chất này là độc tố cho cơ thể, khi T.evansi bị tiêu tan cũng là
những chất độc, những chất độc do T.evansi thải ra các tác giả gọi là Trypanotoxin.
Độc tố theo máu đi khắp cơ thể, tác động lên các nội quan của vật bệnh, đặc biệt là hệ
thống tuần hoàn, gây ra một số bệnh tích đặc
biệt.

Ikede, B. O. (1975), đã thấy ở những nơi thuỷ thũng của bò bệnh có
chất keo vàng lầy nhầy. Theo tác giả thì T.evansi sinh sản nhiều trong quá trình di
hành trong máu đã làm tắc các động mạch nhỏ dưới da, gây ra hiện tượng tụ

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

huyết chân sau. Bò thường sốt ngắt quãng, sốt rất cao vào buổi sáng, niêm mạc nhợt
nhạt, lông xù, đi khập khiễng đôi lúc còn có triệu chứng thần kinh, run rẫy, sẩy
thai, lồng lên trước khi chết. Ở ngựa, bệnh thường thể hiện cấp tính, rất nặng so
với trâu, bò, sốt cao, phù thũng ở dịch hoàn, trước ngực, chân bị bại liệt nặng,
nhưng vẫn ăn đến khi chết.
Morales, G. A., Caresaure (1976), đã quan sát thấy động vật mắc bệnh
TMT có các bệnh tích như thể trạng gầy, bao tim có dịch vàng, tràn dịch màng
phổi, lách, gan sưng to, màu nhạt hoặc tụ huyết tuỳ theo giai đoạn phát triển của
bệnh.
Hồ Văn Nam (1963), cùng các tác giả khác cũng thấy những bệnh tích đặc
trưng trên đàn trâu bệnh ở nước ta, theo các tác giả: trâu, bò mắc bệnh TMT
thường có bệnh tích thủy thũng ở ức ( có dịch màu vàng lầy nhầy), thịt nhão
chứa nhiều nước, trong xoang bụng, xoang ngực có dịch màu vàng chanh, gan
sưng to, có khi cứng lại, có màu xám nhạt, cơ tim nhão, đáy tim thuỷ thũng.
1.4. Một số chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa trâu bò mắc bệnh Tiên mao trùng do

Trypanosoma evansi
Trypanosoma evansi ký sinh trong máu đã làm biến đổi chỉ tiêu sinh lý, sinh
hóa máu của trâu, bò nói riêng, động vật nuôi và động vật hoang dã nói chung.
Khi nghiên cứu thành phần hữu hình trong máu, Tarkhede M. L, patel M. R.
and Pandey S. K. (1993), cho biết: số lượng hồng cầu của trâu trưởng thành bình
quân 6,7 triệu/mm
3
, hàm lượng hemoglobin 9,5 g%, số lượng bạch cầu 13 – 15
nghìn/mm
3
. Công thức bạch cầu: bạch cầu ái kiềm 0,5%, bạch cầu ái toan 4,5%,
bạch cầu đa nhân trung tính 40%, lâm ba cầu 52%, bạch cầu đơn nhân 3%. Số
lượng bạch cầu thay đổi theo điều kiện địa lý, khí hậu, giống, tuổi, tính biệt, mùa vụ
trong năm.
Tốc độ huyết trầm của máu trâu trung bình 3,58 ± 0,12, mùa hè tốc độ lắng
máu nhanh hơn mùa đông. Sức đề kháng tối đa, tối thiểu của hồng cầu 0,438 ±
0,003 và 0,637 ± 0,003% NaCl.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

Protein huyết thanh ở trâu tăng theo tuổi, cao nhất giai đoạn 8 – 10 tuổi: 6,26
– 8,12. Bằng điện di trên giấy phân tích protein huyết thanh thành 4 thành phần:
albumin, α-globulin, β-globulin, γ-globulin ở một số trường hợp khác α-globulin lại
tách ra làm hai phần nhỏ khác nhau về tốc độ nhuộm màu.
Theo Lê Doãn Diên và cộng sự (1978), lượng Protein huyết thanh theo các
khoảng thời gian trong ngày là tương đối ổn định.
Theo Đái Duy Ban (1980), sự thay đổi các chỉ tiêu sinh lý, huyết học, đặc
biệt là các chỉ tiêu về số lượng và chất lượng hồng cầu, các chỉ tiêu protein huyết
thanh là triệu chứng của suy dinh dưỡng, thiếu máu và tổn thương gan do các bệnh

truyền nhiễm, ký sinh trùng gây ra cho động vật.
Hồ Văn Nam (1984), Nguyễn Thị Đào Nguyên (1993), đã nghiên cứu hàm
lượng các chất vô cơ: canxi, photpho, natri, kali, clo trong máu trâu, tỷ khối hồng
cầu biến động khi trâu, bò bị Tiên mao trùng, các chỉ tiêu về chất lượng hồng cầu
đều thay đổi tương tự, sức kháng hồng cầu giảm, hàm lượng protein huyết thanh
trâu bệnh rất thấp, hàm lượng đường huyết thấp, albumin và tỷ lệ A/G giảm, β-
globulin, γ-globulin tăng, hàm lượng bilirubin toàn phần trong huyết thanh tăng.
Những số liệu trên nói lên tình trạng gan bị rối loạn do tác động của nguyên nhân
gây bệnh.
Takarhede M.L, Patel M. R and Pandey S. K. (1993), đã cho biết: súc vật
nhiễm Trypanosoma evansi thì số lượng hồng cầu, hàm lượng huyết sắc tố, lympho,
bạch cầu kiềm tính giảm, nhưng lại tăng bạch cầu toan tính, bạch cầu đơn nhân,
bạch cầu trung tính.
Kriiger, F. (1985), đã tiêm Trypanosoma evansi cho bốn ngựa, ông thấy hai
con sau khi nhiễm ba ngày đã sản sinh interferon, hai con còn lại sau sáu đến bảy
ngày mới sinh interferon. Ở ngựa non mức sản sinh interferon cao nhất là 25 – 27
ngày sau gây nhiễm, ở ngựa già thì tới ngày thứ 29 – 43 sau gây nhiễm.
Cũng theo ông ở ngựa khi gây nhiễm Trypanosoma evansi có tỷ lệ albumin,
globulin giảm từ 14 – 49%. Không có sự thay đổi về acid lactic, protein toàn phần,

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

potasium trong huyết thanh. Tỷ lệ huyết thanh trầm lắng 35 – 54%. Giảm tỷ khối
hồng cầu, tổng số hồng cầu, bạch cầu trung tính giảm, nhưng tăng tế bào lympho so
với trước khi gây nhiễm.
Ở nước ta việc nghiên cứu sự biến đổi các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa cơ thể
động vật nhiễm Trypanosoma evansi còn ít. Phạm Sỹ Lăng, Lê Ngọc Mỹ, Trương
Quốc Thùy (1974 – 1984), xét nghiệm máu đàn trâu, bò nhiễm T.evansi tự nhiên
hay thực nghiệm thấy số lượng hồng cầu, hàm lượng huyết sắc tố đều giảm. Số

lượng bạch cầu của trâu, bò bệnh tăng dần trong quá trình bệnh, nhưng tăng cao
nhất vào tháng thứ hai sau gây nhiễm. Thành phần các loại bạch cầu tăng không
đều. Ở trâu, bò bệnh, lympho bào, bạch cầu ái toan đều tăng, bạch cầu đa nhân
trung tính giảm. Khảo sát các tiểu phần protein trong huyết thanh thấy lượng protein
tổng số, albumin giảm rõ rệt, ngược lại α, β, γ-globulin đều tăng, chỉ số A/G < 0,5.
Theo Nguyễn Quốc Doanh (1998), ở trâu nhiễm Tiên mao trùng có số lượng
hồng cầu giảm còn 4,12 triệu/mm
3
, hàm lượng huyết sắc tố giảm 8,24 g%, ở bò mắc
bệnh Tiên mao trùng số lượng hồng cầu giảm còn 4,04 triệu/mm
3
, hàm lượng huyết
sắc tố giảm 8,08 g%, mức độ giảm còn phụ thuộc vào chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng,
quá trình tiến triển của bệnh, nhưng số lượng bạch cầu tăng cao.
1.5. Những nghiên cứu về miễn dịch của Trypanosoma evansi
Theo Đặng Đức Trạch, Nguyễn Đình Hường và cs (1987), khi có bất kỳ
virus, ký sinh trùng xâm nhập vào cơ thể có thể chống lại chất lạ tạo ra miễn dịch
cho cơ thể khi chất lạ xâm nhập lần sau. Thể hiện dưới hai hình thức đáp ứng miễn
dịch: miễn dịch dịch thể và miễn dịch qua trung gian tế bào.
Vũ Triệu An (1997), cho biết: đáp ứng miễn dịch dịch thể (humoral
immunorseponse) giữ vai trò bảo vệ cơ thể thông qua những kháng thể hòa tan có
trong mọi dịch sinh học của cơ thể. Kháng thể có bản chất là globulin, nên còn gọi
là globulin miễn dịch (Immunoglobulin - Ig). Đó là sản phẩm của các tương bào
Plasma ở giai đoạn cuối cùng của quá trình biệt hóa tế bào lympho B. khi kháng
nguyên tiếp xúc với globulin miễn dịch có trên bề mặt tế bào lympho B thì được

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16

hoạt hóa thông qua tế bào lympho T hỗ trợ (T.help - Th). Tế bào B được hoạt hóa

sản xuất ra kháng thể dịch thể tương ứng với tứng kháng nguyên.
Theo Nguyễn Như Thanh (1996), trong các loại Ig thì IgG chiếm 75% và
thường được truyền qua nhau thai, nên con non sinh ra đã được miễn dịch. Đối với
trâu, bò do nhau thai có 6 lớp màng nên IgG không truyền qua nhau thai được, mà
truyền qua sữa đầu. Vì vậy, việc cho bê, nghé bú sữa đầu sớm là rất quan trọng để
tạo ra miễn dịch cho con non. Đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào. Thông qua
các cơ quan tiếp nhận (recepter) mà đại thực bào trình diễn kháng nguyên cho
lympho T. Sự kết hợp kháng nguyên ngay trên bề mặt làm chúng được hoạt hóa,
kích thích tế bào tiết ra lymphokin đóng vai trò tương tác, điều hòa miễn dịch. Khi
tế bào lympho T trở thành những tế bào hoạt hóa thành các tế bào như tế bào T quá
muộn, T độc, T cảm ứng. Các lympho T tăng lên nhanh chóng, nhanh chóng hoạt
hóa đại thực bào, bạch cầu để tiêu diệt kháng nguyên. Nhóm tế bào T là một quần
thể hỗn tạp, nên được phân biệt theo chức năng, trong đó chức năng điều hòa đáp
ứng miễn dịch là thế bào T hỗ trợ, T ức chế. Tuy nhiên, miễn dịch của đơn bào khác
với miễn dịch của virus, vi khuẩn. Với đơn bào, chúng có đặc tính chung là luôn
luôn thay đổi kháng nguyên bề mặt. Do vậy, khi cơ thể sản xuất kháng thể tương
ứng đủ để trung hòa kháng nguyên thì kháng nguyên bề mặt lại biến đổi tạo ra loại
kháng nguyên khác, làm cho cơ thể rất khó tạo ra miễn dịch hoàn toàn bền vững,
chống lại đơn bào.
Thành phần C3 và C19 sinh ra từ nhiều biểu mô phế quản gốc của thỏ được
phân bổ dọc theo niêm mạc, IgG có ở tổ chức trên. Kháng nguyên T.evansi không
tìm thấy ở mũi, mắt chứng tỏ ở đó có kháng thể kháng T.evansi.
Weir. C và cộng sự (1986), đã nhận thấy những động vật mẫn cảm, thời gian
sinh kháng thể kháng Tiên mao trùng chậm hơn những động vật ít mẫn cảm, tới khi
Tiên mao trùng đã xuất hiện khắp nơi trên cơ thể mà vẫn chưa xuất hiện kháng thể
Tiên mao trùng, khi gây nhiễm Trypanosoma brucei, lần thứ nhất chỉ xuất hiện IgG,
gây nhiễm lần thứ hai mới thấy xuất hiện IgG1, IgG2. Các yếu tố vật lý cũng có vai
trò trong kháng bệnh tự nhiên. Hàm lượng kẽm trong huyết thanh của loài động vật

×