LƯƠNG HỒNG THỦY
TIỂU THƯYÉT TRƯNG TRƯNG ĐỈNH NHÌN
TỪ THI PHÁP HOC
LUẬN VĂN THẠC sĩ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VỆT NAM
LƯƠNG HÒNG THỦY
TIỂU THƯYÉT TRƯNG TRƯNG ĐỈNH
NHÌN TỪ THI PHÁP HỌC
*
Chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số: 60 22 01 20
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
HÀ NỘI, 2013
LUẬN VÃN THẠC Sĩ NGÔN NGỮ VÀ VÃN HÓA VIỆT NAM * 1 .
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thanh Tú
Em xin tó lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy PGS.TS: NGUYỄN THANH TÚ, đã
tận tình hướng dẫn giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn trước sự dạy bảo, giúp đỡ và động viên về mọi mặt
của các Thầy, Cô trong khoa Ngữ Văn Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 .
Em chân thành cảm ơn nhà văn Trung Trung Đỉnh đã có những gợi mớ quý
báu và hữu ích; cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên em trong suốt quá trình học tập
và nghiên cứu.
Hà Nội, tháng 7 năm 2013 TÁC GIẢ
Lương Hồng Thủy
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự
giúp đỡ cho việc thực hiện luận vãn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn
trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc,
Hà Nội, ngày 15 tháng 7 năm 2013 TÁC GIẢ
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
HÀ NỘI, 2013
Lương Hồng Thủy
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
HÀ NỘI, 2013
MỤC LỤC
3.3.2.2
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
107
1
1
0
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sau ba mươi năm kiên cường đánh đuổi giặc ngoại xâm, đất nước ta được hoàn
toàn giải phóng. Từ đây sứ mệnh của văn học cũng khác trước nhằm đáp ứng kịp thời xu
hướng phát triển của thời đại mới. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ VI đã nhấn
mạnh văn học cần phái nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật.
Trên tinh thần đó, văn học sau 1975 đã có nhiều khởi sắc đặc biệt là the loại văn xuôi.
Có the nói chưa bao giờ văn xuôi phát triến mạnh mẽ như bây giờ và cũng chưa bao giờ,
nhà vãn được thành thật như bây giờ. Tinh thần tại đại hội Đảng lần thứ VI về văn hóa
văn nghệ đã thực sự cởi trói cho văn học.
Trước 1975, với cách viết và lối tư duy cũ hầu hểt các tác phấm vãn học đều
được sáng tác bởi khoảng cách sử thi cho nên con người cũng là con người sử thi, con
người cộng đồng với những phấm chất cao cả. Sau 1975, tư duy nghệ thuật mới cho
phép người viết trần thuật không khoảng cách. Nói cách khác đi, đó là sự trần thuật ở
điểm nhìn hiện tại, ở cái chưa hoàn thành. Và người ta phát hiện ra rằng thế giới không
phài là hiện thực khép kín, con người không phải ai cũng toàn bích. Trong con người
luôn có sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, cái cao cả và cái thẩp hèn, giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích cộng đồng. Con người phần lớn là làm chủ hoàn cảnh nhưng cũng không
ít lần bị hoàn cảnh xô đẩy, trở thành nạn nhân của hoàn cảnh. Trong đó cần nhắc đến
tiểu thuyết là thể loại quan trọng bậc nhất trong văn xuôi hiện đại, nó là mảnh đất lưu
giữ bóng hình cuộc đời và con người với năng lực khám phá cuộc sống ở chiều sâu lẫn
bề rộng, về lịch sử ra đời tương đổi trẻ nhưng nó lại dồi dào sức sống hơn so với các thể
loại khác.
Sự khởi sắc của văn xuôi thời kì tiền đổi mới và đối mới có sự đóng góp của
5
nhiều thể loại tiểu thuyết khác nhau: tiểu thuyết phóng sự, tiểu thuyết tâm lý xã hội, tiếu
thuyết triết luận với hàng loạt các tên tuổi như Bảo Ninh, Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh,
Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Xuân Khánh, Trung Trung Đỉnh ,Họ với
những nỗ lực của mình, đang ngày càng hoàn thiện và có những đóng góp quan trọng,
tạo nên diện mạo mới cho tiếu thuyết nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.
Trung Trung Đỉnh được xem là một gương mặt đáng chú ý và có nhiều đóng góp
trong việc đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Ông là thế hệ nhà văn trưởng thành
sau 1975. Có thể nói ông là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học Việt Nam
thời kỉ đổi mới. Khởi nghiệp bằng truyện ngắn đầu tay Những khấc coong chung (1972)
được in trên Tạp chí văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung Bộ. Nhưng Trung
Trung Đỉnh được biết đến nhiều hơn từ nhừng năm 80 với hàng loạt truyện ngắn Người
trong cuộc (1980) và Đêm nguyệt thực (1982).,.Trong lĩnh vực tiếu thuyết, mở màn với
tác phẩm Những người không chịu sống thiệt thòi (1982), đến cuối những năm 80 đầu
những năm 90 Trung Trung Đỉnh cho ra đời ba tiểu thuyết : Ngược chiều cái chết
(1989), Tiễn biệt những ngày buồn (1990) và Ngõ lỗ thủng (1990). Đó là khi ngọn gió
đổi mới thổi lên trong nước, đầu óc con người thoát khỏi vòng bao cấp và thân phận con
người hiện lên thật mong manh, đáng thương và đáng trân trọng nhưng cũng đáng buồn.
Năm 1999, tiếu thuyết Lạc rừng ra đời. Tác phẩm đã được giải thưởng của Bộ Quốc
phòng và giải chính thức của cuộc thi viết tiểu thuyết giai đoạn 1998-2000. Trung Trung
Đỉnh là người có công nối tiếp thành công của thế hệ các nhà văn đi trước khi viết về đề
tài Tây Nguyên, ngoài Lạc rừng ta còn thấy Đêm nguyệt thực, Đêm trắng, Chóp trên
đỉnh Khon Từng đều là những tác phẩm của ông viết về mảnh đất anh hùng này, bởi
Tây Nguyên đã là máu thịt của ông với tuổi trẻ hăm hở và biết bao kỉ niệm ở đó. Vài
năm gần đây, Trung Trung Đỉnh sáng tác không nhiều nhưng với ba tác phẩm, Lạc rừng
6
(1999), sổng khó hom là chết (2008) và Lính trận (2010) lại một lần nữa khẳng định chồ
đứng và sự riêng biệt trong ngòi bút của ông khi trăn trở và day dứt về chiến tranh ngay
cả khi chiến tranh đã kết thúc và con người đang phải đối mặt với bi kịch cuộc sổng
thường ngày.
Quan sát sự đổi mới của tiểu thuyết sau năm 1975 chúng tôi nhận thấy cần phải
đề cao và đi sâu hơn nữa về một số khía cạnh trong sáng tác của Trung Trung Đỉnh đê
thây được sự đòi mới trong cách nhìn cũng như nét độc đáo trong cách viết của ông dựa
trên cơ sở kế thừa tiểu thuyết truyền thống. Đây chính là lí do chúng tôi lựa chọn đề tài :
Tiêu thuyết Trung Trung Đỉnh - nhìn từ thi pháp học.
2. Lịch sử vấn đề
Trung Trung Đỉnh là nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, Với các
tiếu thuyết của mình, ông đế lại nhiều cảm xúc trong lòng bạn đọc. Khi viết về chiến
tranh Trung Trung Đỉnh đã không né tránh những mặt trái của cuộc chiến mà thể hiện
khá sâu sắc hiện thực chiển tranh, bởi chiến tranh không chỉ là cái đẹp đẽ, hào hùng mà
chiến tranh là đau thương, mất mát, chiến tranh với sức mạnh ghê gớm tàn khốc và hủy
diệt đã nhào nặn, chi phoi đển tận cùng số phận con người. Tuy nhiên, dưới cái nhìn của
mỗi nhà văn hiện thực chiến tranh lại được cảm nhận, khám phá và phản ánh dưới nhiều
góc độ và phương thức khác nhau. Trung Trung Đỉnh đă tạo ra một góc nhìn mới về
hiện thực chiến tranh, viết về “ nồi đau tinh thần” nhưng ông không dừng lại ở việc tổ
cáo chiến tranh mà nhìn thẳng vào sự thật đế thấy cái tâm của tác giả đó là nỗi căm ghét
cái ác, sự đòi hỏi về hòa bình và hạnh phúc cuộc sống.
Tuy được giới nghiên cứu chú ý nhưng vẫn còn chưa nhiều công trình nghiên cứu
về tiểu thuyết của ông, nhất là khi hai cuốn sách Tiền biệt những ngày buồn và Chuyện
tình Ngõ Lỗ Thúng được chuyển thể thành phim truyền hình.
7
Ọua việc tìm hiểu sự nghiệp của Trung Trung Đỉnh, chúng tôi thấy tuy được giới
nghiên cứu chú ý nhưng vẫn còn chưa nhiều công trình nghiên cứu về tiểu thuyết của
ông, các bài viết chỉ dừng lại ở dạng giới thiệu sách, trình bày cảm xúc, và đánh giá các
tác phẩm của ông nhất là khi hai cuốn sách Tiễn biệt những ngày buồn và Chuyện tình
ngõ Lỗ Thủng được chuyển thể thành phim truyền hình.
về công trình nghiên cứu tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh phải kể đến luận văn Tiểu
thuyết Trung Trung Đỉnh (Luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học sư phạm Hà Nội- 2009)
của Nguyễn Thị Anh, công trình nghiên cứu cua Hồ Thị Thái với đề tài Những đổi mới
của tiểu thuyết Việt Nam viết về đề tài chỉển tranh và người linh cách mạng từ thập kỉ
80 đến nay (Luận văn Thạc sỹ, Đại học Vinh- 2002), các tác giả đã đi sâu vào phân tích
quan niệm nghệ thuật về con người, thể giới nhân vật và nghệ thuật tổ chức trần thuật.
Đồng thời họ cũng đặt những nền móng ban đầu cho những nghiên cứu kế tiếp về nhà
văn.
Trong số các bài viết về tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh có thể kể đến một số ý
kiến về những tác phấm tiêu biếu sau:
Năm 1999, Trung Trung Đỉnh cho ra đời cuốn tiểu thuyết Lạc rừng và đoạt hai
giải của Bộ Quốc phòng và Hội nhà văn trong cuộc thi viết tiểu thuyết 1998-2000, tác
phẩm nhận được sự quan tâm của nhiều độc giả và giới phê bình.
Trên Báo Người Hà Nội nguyệt san số 5/2000, Hoàng Hoa YỚi bài viết Lạc rừng
giao thoa không cùng tần so đã cho rang: “ Lạc rừng — sự hội ngộ ỉạ lùng của văn
hóa : vãn hóa của người Bahnar, văn hóa của người Kinh với vãn hóa phương tây. Tác
phẩm mang chất của thể loại phiêu ỉiru. Sự phiêu lưu thể hiện ở sự va đập trong cách
ứng xử của người lính trẻ trước hoàn cảnh và bị hoàn cảnh số phận xô đẩy
“Lạc rừng mà tìm được hướng đi” là tiêu đề bài viết của Thanh Thảo in trên Báo
8
Văn Nghệ số 4/2000. Trong đây, tác giả đánh giá cao cách xây dựng tình huống truyện
và giai điệu của tác phẩm. “Sức mạnh và sức thuyết phục ỉớn của Lạc rừng là tác giả
không hề giấu diểm con người thật của nhân vật chỉnh xưng tôi ”
Lưu Khánh Thơ, trong bài giới thiệu tiểu thuyết Lạc rừng với nhan đề Lạc rừng
cuốn tiếu thuyết thành công của Trung Trung Đỉnh (Báo văn nghệ Quân đội, sổ 40), đã
khẳng định thành công của Trung Trung Đỉnh trên phương diện đề tài và nội dung phản
ánh, cổt truyện, ngôi trần thuật cũng như nghệ thuật ngôn từ. Theo Lưu Khánh Thơ
“Trung Trung Đinh đã đạt được những thành công đảng khích lệ. Anh tỏ ra là cây bút
phân tích tâm lí tinh tế va kín đáo, giản dị mà không lên gân, không cường điệu
Nguyễn Chí Hoan trong bài viêt Giông như chuyện cô tích xa xưa mà hiện đại in
trên Báo Văn hóa - Sự kiện - Thể thao số 62/2000 cũng đánh giá cao cách xây dựng tình
huống truyện, giai điệu cũng như cảm giác chân thật đem lại.
Bản thân Trung Trung Đỉnh cũng đã từng tâm sự: Lạc rừng chính là cuốn sách
viết về thân phận con người, về một phần tuổi trẻ, về vùng kỉ ức thường xuyên ám ảnh
ông, có lẽ vì thế khi đọc tác phấm của ông, ta luôn nhận thấy một tâm hồn lắng động, sự
hấp dẫn tù’ những tình huống cũng như tâm lí của nhân vật.
Năm 2007, Trung Trung Đỉnh cho ra đời tiểu thuyết sống khó hơn ỉà chết, tác
phầm cũng đã nhận được sự phản hồi tích cực của độc giả. Tâm An, Dương Bình
Nguyên đã đi sâu vào phân tích khoảng trổng nghệ thuật ở cuối tiểu thuyết này. Dương
Bình Nguyên nhận định khái quát về tác phẩm: "Sống khó hem ỉà chết đi vào sự tinh
giản, tưởng nhẹ mà rất buồn, tưởng đơn giản mà không phải vậy. Như cuộc sống, cái
chết có thể ỉà sự giải thoát, cắt đứt mình với thế giới còn lại. Chết là đi vào cõi vĩnh
hằng, nhưng sống như thể nào, sống sao cho ra sổng, mới là khó ỉẳm thay Gần ba chục
năm cho một cuốn sách chưa đầy 200 trang, có the thay sự đứt đoạn trong sáng tác của
9
nhà văn với đứa con tinh thần này. Nhưng nó không phải là sự rời rạc trong cảm xúc.
Trung Trung Đỉnh vẫn đau đáu về Tây Nguyên và những năm tháng chiến tranh thuộc
về ông đã không bao giờ rời bỏ những trang giấy mà ông viết, dù ông không cố tình.
Đây không phải là một thành công cỡ Lạc rừng, cũng khác nhiều so với Ngược chiều
cái chết, Ngõ ỉô thủng, Tiên biệt những ngày buồn.
Đề cập đến tiểu thuyết Sổng khó hơn là chết Nguyễn Chí Hoan, trong bài viết Khi
đồng tiền kể chuyện (Báo Văn nghệ, số 28/2008) đã có cái nhìn sâu sắc về nghệ thuật
biểu hiện trong tiểu thuyết này: “Điều lạ lùng đầu tiên, ở đây ngay lập tức xuất hiện
nhân vật kể chuyện tự giới thiệu về mình.,.Điều lạ thứ hai đó là cảm nhận về chất thơ
ẩn trng một câu chuyện ngốn ngang, chất thơ của sự nghiệt ngã mà với nhiều người, khỉ
thấy tuổi đời của mình đứng bóng đỉnh đầu thốt gọi So phận
Bản thân nhà văn cũng đã từng tâm sự về tác phẩm này: “7oỉ ỉuôn cảm thay cõi
thực của hôm nay chỉnh là cải kho quả khứ mà con người ta phải è co ra mang vác nó”,
không những thể “Song khó hơn ỉà chết” mang đầy tính triết lý, ở đó tác giả đã để cho
nhân vật tự nói lên những tiếng nói day dút, tiếng nói của nhũng phận người chịu nhiều
đau xót và cay đắng.
Năm 2010 tiểu thuyết Lính trận ra mắt bạn đọc với nhiều ý kiến khác nhau,nhưng
nhìn chung tác phẩm này lại một lần nữa khẳng định chỗ đứng của Trung Trung Đỉnh
khi viết về Tây nguyên.
Nhà văn Đỗ Bích Thúy đã rất tinh tế khi nhận xét rằng : “Tôi từng nói với ông
ngay sau khi đọc xong cuôn sách: gọi Lính trận ỉà tiêu thuyết cũng được mà gọi là tự
truyện, hồi kí cũng được. Vì cỏ cảm giác cuốn sách đã được xuyên suốt băng những
điêu gan ruột nhât, những hình ảnh sâu sảc nhát, những trạng thái tình cảm, tâm lý đã
được đấy lên đỉnh cao nhất của chính tác giá ” - người mà nhà văn Nguyên Ngọc đã
1
0
viết: "Đoi với Trung Trung Đỉnh, Tây Nguyên là tất cả. Là cuộc đời anh. Là nôi ám
ảnh, là sự mê hoặc, là sự rơi chìm, nhân chìm, trùm lên toàn bộ cuộc đời anh, mê mân
suốt đời, không cách gì rút ra, thoát ra được, cho đến chết.,.", Và người đọc đã bị cuốn
trôi đi từ dòng đầu tiên cho tới những chữ cuối cùng. Hai tiểu thuyết Lạc rừng và Lính
trận ra đời cách nhau khá xa nhưng cả hai cuổn có thể xem như một tiểu thuyết liên
hoàn của Trung Trung Đỉnh về số phận của một người trẻ vào lính, ra trận và gắn bó với
đồng bào rừng núi Tây Nguyên. Đọc Lỉnh trận để thấy nhà văn vẫn luôn khao khát tìm
lại quá khứ để chiêm nghiệm, vẫn luôn tìm cách nói sao cho sát đúng nhất với hiện thực
chiến tranh. Cuốn tiểu thuyết cuốn hút ở giọng kế mộc mạc, chân thực nhung được nhà
tiểu thuyết dàn dụng khéo nên số trang không nhiều mà đọc vẫn thay bộn bề, sống động
và lắng đọng.
Hơn thế, đọc văn Trung Trung Đỉnh người ta dễ bị thu hút bởi câu chuyện giản
đơn nhưng rất tò mò và gây thích thú, ranh giới của hiện thực và mơ ước, của sự sống
chết .với cách kể chuyện rất đỗi bình dị, tạo nên nhà văn Trung Trung Đỉnh - một cây
bút có bản sắc.
Trong toàn bộ sáng tác cúa Trung Trung Đỉnh thì thể loại tiểu thuyết đã góp phần
rất lớn trong việc khẳng định tên tuổi của nhà văn trên diễn đàn văn học Việt Nam thời
kì đôi mới. Chính vỉ vậy trong đê tài nghiên cứu của mình, chúng tôi cố gắng tìm hiếu
một cách bao quát tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh cả về nội dung lẫn hỉnh thức.
3. Mục đích nghiên cứu
3.1 Dưới góc nhìn thi pháp học, chúng tôi muốn tìm hiếu sâu hơn,có hệ thống
hơn những nét đặc sắc trong tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh và từ đó có cải
nhìn cụ thể hơn về thế loại tiếu thuyết, một thế loại đã chiếm lĩnh được vị trí
quan trọng trong đời sổng văn học Việt Nam.
1
1
3.2 Qua việc phân tích, đánh giá những đỏng góp của Trung Trung Đỉnh chúng
tôi muốn đưa ra những nhận xét ban đầu về sự vận động của ngòi bút Trung
Trung Đỉnh và sự vận động của thể loại tiểu thuyết Việt Nam trong mấy chục
năm qua.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh từ góc nhìn thi pháp thể loại
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Chủng tôi chủ yếu khảo sát dựa vào ba tiểu thuyết mới nhất của Trrung Trung
Đỉnh là : Lạc rừng, Song khó hơn là chết, Lỉnh trận. Tuy nhiên, đề làm nổi bật hơn đặc
điểm tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh chúng tôi sẽ tiến hành so sánh với các nhà văn khác
cùng thời trước và sau Trung Trung Đinh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi sứ dụng các phương pháp nghiên cứu
sau :
5.1 Phương pháp hệ thong
Phương pháp hệ thống giúp cho việc nghiên cửu tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh
hiện lên trong tính chỉnh thể chú không phải là những tác phẩm đơn lẻ. Việc sử dụng
phương pháp hệ thống còn giúp ta nhìn thấy sự vận động của tiểu thuyết Trung Trung
Đỉnh trong những năm qua.
5.2 Phương pháp so sánh đổi chiểu
Phương pháp này nhằm làm rõ những nét đặc trưng khác biệt của tiểu thuyết
Trung Trung Đỉnh so với các tác giả tiểu thuyết khác, giữa văn học thời kì đổi mới và
văn học trước đó.
1
2
5.3 Phương pháp phân tích, tông hợp
Đe cho vấn đề được sáng rõ, có tính thuyết phục và thay được một cách cụ thể,
sâu sắc, toàn diện những sáng tạo nghệ thuật của nhà văn qua thế giới của họ chúng tôi
sử dụng phương pháp phân tích, tông hợp.
5.4 Đặc biệt chúng tôi áp dụng lí thuyết thi pháp học, cổ gang vận dụng quan
điểm của M.Bakhtin vào đôi tượng nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu sáng tác của nhà văn Trung Trung Đỉnh nhìn
từ góc nhìn thi pháp thể loại. Thông qua quá trình nghiên cứu chúng tôi muốn ghi nhận
sự đóng góp của nhà vãn đối với sự phát triển của nền văn học Việt Nam đương đại.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết Luận và Tài liệu tham khảo, cấu trúc luận vãn
gồm 3 chương:
Chương 1: Tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh trong sự vận động của tiểu thuyết
Việt Nam sau năm 1975
Chương 2: Kểt cấu và nhân vật trong tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh
Chưo’ng 3: Tô chức trân thuật KÉT LUẬN
TÀi LIỆU THAM KHẢO
CHƯƠNG 1:
TIẺU THUYÉT TRUNG TRUNG ĐỈNH TRONG sụ VẶN ĐỘNG CỦA TIỂU
THUYẾT VIỆT NAM SAU NĂM 1975
1.1. VÃN HỌC VIỆT NAM THỜI KỲ ĐÒI MỞI - MỘT CÁI NHÌN TỐNG QUÁT.
1.1.1 Chuyển mình theo hưóìig đa dạng hóa
Năm 1975 lịch sử nước ta bước sang một trang mới với tự do, độc lập thống nhẩt
trên dải đất hình chữ s, cùng với nó biết bao sự đổi thay về mọi mặt chính trị, kinh tế,
1
3
văn hóa, xã hội. Nhưng văn học lại không nằm trong dòng chảy đó, nhiều nhà nghiên
cứu văn học đã thống nhất cho rằng vãn học Việt Nam những năm 1975-1980 vẫn tiếp
tục vận động và phát triển theo tập quán cũ, nghĩa là các nhà văn vẫn sáng tác theo
những khuynh hướng thẩm mỹ, thi pháp và lối tư duy cũ đã định hình từ trước. Nhưng
cuộc sống hôm nay với thị hiếu thẩm mỹ cúa độc giả đã khác biệt và có tính đòi hỏi cao
hon rất nhiều nếu văn học không chịu thay đổi thì có lẽ sẽ có kểt cục không như mong
muốn. Cho nên thời kì này có thể thấy rằng văn học nước nhà đang ở trong một tình
trạng đáng buồn khi nội dung của các tác phẩm xa lạ với cuộc sống, khiến độc giả quay
lưng đế kiếm tìm các tác phẩm văn học nước ngoài hoặc họ tìm về với văn học của quá
khứ để thấy họ còn phần nào trong đó.
Nhà văn Nguyên Ngọc đã phải thổt lên rằng tình trạng văn học nước ta những
năm ỉ970- 1980 đúng là tình trạng khôi hài ” Khi cuộc sống này cần sự đổi mới về tư
duy nhưng lại nhận được sự cứng nhắc của quá khứ, nói như thể không phài không có
những tia sáng trên bầu trời ảm đảm đó, tuy không sáng rực rỡ nhưng nó cũng xoa dịu
phần nào sự bí bách của văn học lúc bấy giờ. Ta có thể kể ra đây những dấu hiệu đổi
mới đầu tiên mở màn cho công cuộc đổi mới như: Hai người trở lại trung đoàn (Thái
Bá Lợi), Bức tranh (Nguyễn Minh
Châu), Cha và con ( Nguyễn Khải) .những tác phẩm này không những đổi mới về con
người mà còn xuất hiện những nhân vật với tính cách đa dạng và phức tạp, ở đó có sự
lẫn lộn giữa cái cao cả và cái thấp hèn. Ngoài ra, cách tiếp cận nhân vật cũng có nhiều
thay đối, thay cho cái nhìn sử thi thì các nhà văn đã nhìn nhận nhân vật qua cái nhìn thể
sự, đời tư, cá nhân, tập thể. Bên cạnh đỏ còn có một số phương diện đổi mới khác về
nghệ thuật như: cốt truyện, ngôn ngữ, giọng điệu., .có thể nói đây là những dấu hiệu đầu
tiên đầy ý nghĩa đối với sự đổi mới và phát triến văn học.
1
4
Vào khoảng những năm 80, đổi mới văn xuôi diễn ra sôi nổi hơn vói sự xuất hiện
và thành công trở lại cúa thể loại phóng sự, một thể loại đặc biệt có khà năng bám sát
đời sống tức thỉ phanh phui những sự thực ngổn ngang của đời sổng xã hội, Sự phục hồi
và phát triển nở rộ của thể loại này đã chứng tỏ văn học nước ta đã khám phá ra một
nguồn hiện thực mới, hiện thực bề bộn ngổn ngang của cuộc sống thường ngày. Nhưng
điều quan trọng hơn là nhờ đó mà tiểu thuyết phóng sự được phục hồi và phát triển. Tiêu
biểu như : Đúng trước biển, Cù lao chàm (Nguyễn Mạnh Tuấn), Hạt mùa sau (Nguyễn
Thị Ngọc Tú) Nhũng tác phẩm này giống như thiên phóng sự dài, đầy ắp sự kiện và
được viết một cách hối hả, hăm hở nhưng thật sự vẫn chưa cỏ được những kết tinh văn
học. Tuy nhiên chúng vẫn hấp dẫn người đọc bởi khối lượng thông tin chất lượng và giá
trị hiện thực của những thông tin ấy. Ở đẩy cũng có những dấu hiệu đổi mới về tư duy
nghệ thuật, về thi pháp sáng tác, trong chất liệu sáng tác đã không còn những chất liệu
cũ, những sự kiện, biến cố quan trọng trong đời sống sản xuất và chiến đẩu mà là cuộc
sống đời thường, cuộc sống mưu sinh hôm nay với những khó khăn thử thách. Cũng
không còn cái nhìn đơn giản, dễ dãi về hiện thực và con người. Hiện thực đã có sự mở
rộng về dung lượng, phản ánh chỉnh xác những mặt tiêu cực và hạn chế. Nhân vật cũng
được nhìn tù' nhiều chiều, mỗi nhân vật là một phần nhân cách với cá tính sinh động,
không còn cái nhìn tiêu cực, phân tuyến như trong thời kì kháng chiến.
Cùng thời gian này còn có sự xuất hiện vô cùng quan trọng của một loạt các tiểu
thuyết, truyện ngắn với những dấu hiệu đổi mới khá rõ rệt. Trong đó, tiểu thuyết đã
khẳng định được vị trí then chốt của mình bằng việc tái hiện những bức tranh hiện thực
đời sống với một quy mô lớn, bao quát được những vấn đề cơ bản của đời sống xã hội
và con người.
Đặc biệt vào thời kỳ đổi mới với nhiều biến động phức tạp, thực sự là "vùng trời,
1
5
vùng đất" thích hợp, nếu không muốn nói là lý tướng cho sự sáng tạo tiểu thuyết. Chính
Nguyễn Khải, một trong những cây bút sớm có tư tưởng đổi mới đã thừa nhận: "Thời
nay rộng cửa, gợi được rât nhiêu thử đê viêt. Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngôn
ngang, bề bộn, bóng tối và ảnh sáng, màu đỏ với màu đen, đầy rẫy những biến động,
những bất ngờ, mới thật là một mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thả sức khai vỡ",
vẫn còn đó âm hướng hào hùng của sức mạnh và số phận cộng đồng, tiểu thuyết sau
1975 đã có thêm một cuộc hành hương tìm về với cội nguồn đặc trưng thể loại: đi sâu
tìm hiếu, khám phá những vấn đề thuộc về sổ phận cá nhân.
Neu thừa nhận cảm hứng về con người với những bước thăng trầm của số phận là
đặc trưng nồi bật của tư duy tiểu thuyết thì rõ ràng tiểu thuyết thời kỳ đổi mới đã khơi
đúng, khơi sâu vào mạch chính của thể loại. Không gian tiểu thuyết trờ nên chân thực và
nhân đạo hơn với "Thời xa vẳng" (Lê Lựu),"Chim én bay” (Nguyễn Trí Huân), "Lời
nguyền hai trăm năm" (Khôi Vũ), ''Ben không chồng" (Dương Hướng), "Mảnh đất lẳm
người nhiều ma" (Nguyễn Khắc Trường), "Thân phận tình yêu" (Bảo Ninh), "Đám cưới
không có giấy giá thủ" (Ma Văn
Kháng), "Góc tăm tối cuối cùng" (Khuất Quang Thụy), "Tiễn biệt những ngày buồn"
(Trung Trung Đỉnh), "Thuỷ hoả đạo tặc" (Hoàng Minh Tường), "Hành ỉang phía đông"
(Bùi Bình Thi), "Nang quái" (Trầm Hương) Đất nước chuyến mình sang một giai
đoạn mới, tâm lý và nhịp sống thời đại đổi thay. Con người trong tông hoà của nhừng
mối quan hệ xã hội trở nên phức tạp hơn. Không phải ngẫu nhiên mà đề tài thế sự, đời
tư nổi lên như một vấn đề trung tâm của mọi "nỗ lực sảng tạo" trong tiểu thuyết đương
đại. Ngay cả những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh, đề tài nông thôn với quy mô
hiện thực rộng lớn, nhiều tầng, nhiều mảng, nhà văn vẫn xoáy sâu vào những vấn đề cốt
yếu của đời sổng thông qua tâm điểm nhân vật. Những vui buồn, sướng khổ, được mất
1
6
của con người đã đi vào văn chương một cách chân thực, nhân bản và giàu tính hướng
thiện. Tuy nhiên đến năm 1986 khi có sự gặp gỡ giữa nhu cầu đổi mới của tự thân văn
học và khả năng khơi đúng mạch đối mới của Đảng thì sự đối mới văn xuôi mới có
những bước đi mạnh mẽ, táo bạo và gặt hái nhiều thành công, tù’ đó tạo nên một gương
mặt mới cho giai đoạn văn học.
Cũng phải nói rằng trong thời kì đổi mới văn học, truyện ngắn là thể loại đi tiên
phong và đạt được nhiều thành tựu và phátt triển mạnh mẽ, có thể gọi là rực rỡ. Không
phải ngẫu nhiên mà người ta gọi đây là thời kỳ "lên ngôi" của truyện ngắn. Điều này
hoàn toàn có thể cắt nghĩa được bởi trong nhịp độ của đời sống công nghiệp hiện đại,
dưới sức ép từ phía các phương tiện nghe nhìn truyện ngắn đã phát huy dược un thế của
mình một cách hiệu quả. Thêm vào đó là sự xuất hiện đồng loạt các cây bút nữ ngỡ có
lúc họ làm chủ văn đàn cũng tó rất "vừa tay" với thể loại này. Với một khuôn khố có thế
gọi là nhỏ bé, với sự tước bô những chi tiết rườm rà, với sự dồn nén của yếu tố không -
thời gian, yếu tố tâm lý nhân vật Truyện ngắn có khả năng khai thác sâu những bước
ngoặt của sổ phận, Cùng nằm trong hệ tư duy của phương thức tự sự, song nếu ví tiểu
thuyết như một cây đại thụ với đầy đủ gốc, thân, cành, lá xum xuê thì truyện ngắn chỉ là
một lát cắt ngang của thân cây đó. Điều quan trọng là trên mặt cắt ấy phải nổi rõ những
đường vân hiện thực, đó là hướng tiếp cận của thể loại này.
Nói chung tiểu thuyết sau 1975 đã đạt được những thành tựu xuất sẳc và cả số
lượng lẫn chất lượng tác phẩm. Dưới đây chúng ta sẽ tìm hiểu một số phương diện đôi
mới cơ bản của thế loại tiểu thuyết trong sự thay đối của văn xuôi sau 1975.
1.1.2. Quan niệm mói về hiện thực
Hiện thực đa dạng và phức tạp của cuộc sống luôn là đối tượng phán ánh của văn
học. Nhưng mỗi nền văn học lại có một quan niệm riêng về hiện thực. Bởi văn học bao
1
7
giờ cũng thể hiện mối quan hệ giữa hiện thực khách quan và ý thức chủ quan, bao giờ
cũng là kết quả của sự nhào nặn những chất liệu cuộc sống qua cái nhìn riêng biệt của
nhà văn.
Nen văn học chân chính nào cũng gắn liền với thời đại của mình, với đông đảo
quần chủng cua thời đại ẩy. Văn học 1945 - 1975 cũng vậy, nó nhận rõ sứ mệnh lịch sử
của bản thân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc nên tự nguyện trở thành vũ khí đẩu
tranh đắc lực cho công nông binh, phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng. Chính vì vậy
“Thước đo giá trị của một nền văn học là nó phục vụ được bao nhiêu cho sự nghiệp
cách mạng”[\ 1]. Từ định hướng giá trị trên, tiếu thuyêt trong những năm chiến tranh đề
cao nhiệm vụ cổ vũ chiến đẩu, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng, thể hiện niềm tin vào thang
lợi. Cũng bởi vậy hiện thực phản ánh thường là những biến cổ lớn lao, những sự kiện
quan trọng trong sản xuất hoặc ừong chiến đấu. ít đề cập đến nhũng vấn đề đời tư, cá
nhân và nểu có cũng chỉ sơ lược hoặc chỉ đề làm nổi bật ý nghĩa của cuộc cách mạng,
kháng chiến, số phận và con đường đi của mỗi cả nhân thường được thể hiện thống nhất
với vận mệnh của giai cấp và dân tộc.
Các vãn nghệ sĩ thời kì này thường đem hết tài năng, trí tuệ và cuộc đời minh để
phục vụ cho chiến đẩu, tất cả cho tiền tuyển. Cảm hứng chủ đạo là chủ nghĩa yêu nước,
khát vọng tự do độc lập, là niềm tự hào về sự nghiệp cứu nước vĩ đại của nhân dân Việt
Nam anh hùng. Thời kì này ra đời nhiều tiểu thuyết hay như Hòn đất của Anh Đức,
Rừng ư Minh của Trần Hiểu Minh, Đất Quảng của Nguyên Ngọc ơ đây các nhà tiếu
thuyết đã khám phá và lí giải hiện thực cuộc chiến đấu một cách rõ nhất. Nhân vật trang
tâm là người lính - những con người tiêu biểu cho khát vọng và ý chí chiến đấu quyểt
thắng của dân tộc. sứ mệnh phục vụ kháng chiến đã hướng các nhà văn tập trung thể
hiện con người quần chúng, những người thuộc ba thành phần cơ bản: công - nông -
1
8
binh, Nhân vật mang phẩm chất của nhân vật sử thi, nó đại diện cho sức mạnh cộng
đồng, tầm vóc của núi sông, của lịch sử, luôn luôn chiến thắng hoàn cảnh. Các nhà văn
trở thành người chép sử của thế hệ mình, thời đại mình với thái độ ngợi ca, ngưỡng mộ.
Những người lính trong tiểu thuyết Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu đã ỷ
thức sâu sắc về cuộc kháng chiến chống Mĩ cún nước và trách nhiệm cao cả của mình.
Hay nhân vật Thiêm trong Man và tồi của Phan Tứ lại hiếu rằng loài người đang đánh
để quốc ở mọi nơi, giành cho người anh hùng những lời tổt đẹp nhất. Cuộc chiển đã
đánh thức tất cả mọi người ý thức được hành động của mình là phải xả thân vì nước,
mỗi người dân đều là những anh hùng trong chiến đấu và trong lao động sản xuất, Vì
vậy, các nhân vật thường được lý tường hóa một chiều, người đọc ít gặp những số phận
hay những cảnh đòi riêng tư vì mọi cảm xúc của họ đều gắn với vận mệnh dân tộc.
Những chiều kích của con người luôn luôn được phát hiện trong hoàn cảnh nghiệt ngã
của chiến tranh.
Con người trong tiểu thuyết thời kì này là con người của ý chí, của chủ nghĩa anh
hùng cách mạng. Nhiều tác phấm đã đật con người trước sự lựa chọn nghiệt ngã của sự
sống và cái chết để khẳng định ý nghĩa cao cả của sự hy sinh. Những con người, những
tỉnh yêu chiến công và cả thiên nhiên nữa đều nhuốm màu sắc sử thi, chính màu sắc này
đã khiển cho tiểu thuyết có ánh hào quang mới, tất cả đẹp như trong huyền thoại, bất
chấp khói lửa đạn bom của cuộc chiến tranh. Anh Phi trong Vùng trời của Hữu Mai ngồi
trong máy bay mà vẫn nhận thấy thiên nhiên thật huyền diệu, bởi trên đầu anh có một
trời sao và dưới chân anh cũng là một trời sao của đất nước. Khi đó con người đã gắn
liền cái riêng và cái chung, hòa mình vào cái chung của dân tộc.
Tiểu thuyết giai đoạn 1945- 1975 đã phản ánh kịp thời, nhanh nhạy, động viên
cuộc chiến đấu của dân tộc. Các tiểu thuyết gia đã tái hiện bức tranh hiện thực một cách
1
9
sâu sắc, từ đó người đọc hình dung cuộc kháng chiến vừa gay cẩn, quyết liệt của dân
tộc. Con người được khám phá không phải từ khía cạnh cá nhân mà là con người tập
thể, con người anh hùng với những chuẩn mực đạo đức xã hội chủ nghTa. Tiểu thuyết
giai đoạn này đã làm tròn nhiệm vụ của mình, góp phần to lớn vào chiến lược xây dựng
con người mới và tăng sức mạnh tinh thần động viên cổ vũ dân tộc suốt chặng đường
chống giặc ngoại xâm. Cảm hứng chủ đạo xuyên suốt toàn bộ giai đoạn sáng tác này là
cảm hứng sử thi, là âm hưởng hào hùng, ngợi ca. Đó là những thành tựu quan trọng mà
tiểu thuyết đạt được.
Tuy nhiên, thể loại tiểu thuyết vốn được xem là “bách khoa toàn thư” của cuộc
sống phát triển trong điều kiện chiến tranh kéo dài sẽ không thể tránh khỏi những hạn
chế tất yếu. Nhận định của Đảng trong thư gửi Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ tư
(1968) đã đánh giá chính xác tỉnh hình lúc đó qua nhận định như sau: “Trước Ỉ945, môi
thê loại có thế chửa đựng bên trong rât nhiều nội dung thê loại. Sau 1945, tât cả mọi
thê loại vãn học đêu tập trung thê hiện một loại hình nội sung cơ bản, ấy là trạng thải
sử thi của thể giới ". Như vậy có thế thấy rằng dế đáp ứng nhu cầu lịch sử, các tiếu
thuyết đã thiên về cái đẹp, ca ngợi chiến công, né tránh mất mát đau thương Cả chất
trừ tình trong tiểu thuyết nhiều khi cũng được lí tưởng hóa. Bởi vì chiến tranh được
miêu tả qua cái nhìn chính nghĩa, khẳng định chiến thắng cúa toàn dân tộc. Chính điều
đó đã làm hạn chế khả năng sáng tạo cúa nhà văn. Các nhà văn chưa tập trung xây dựng
số phận của mỗi con người, chưa khai thác hết bộ mặt tàn khốc đáng lên án của chiến
tranh.
Sau 1975, hưởng ứng chủ trương của Đáng “Đố/ mới tư duy, nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật” văn xuôi nói chung và tiểu thuyết nói riêng đã có những
chuyển biến rõ rệt về quan niệm hiện thực.
2
0
Tiểu thuyết hôm nay đã đi từ chủ nghĩa thực dân đậm đà chất lãng mạn cách
mạng và cảm hứng sử thi sang chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo. Khía cạnh đời tư cá nhân
được đề cập đến một cách sâu sắc đặc biệt vào thời kỳ đổi mới với nhiều biển động
phức tạp, thực sự là "vùng trời, vùng đất" thích hợp, nểu không muốn nói là lý tưởng
cho sự sáng tạo tiểu thuyết. Sau 1975 thể loại này đã có thêm một cuộc hành hương tìm
về với cội nguồn đặc trưng thể loại: đi sâu tìm hiểu, khám phá những vấn đề về số phận
cá nhân.
Đất nước chuyển mình sang một giai đoạn mới, tâm lý và nhịp sống thời đại đổi
thay. Con người trong tổng hoà của những mối quan hệ xã hội trở nên phức tạp hơn.
Không phải ngẫu nhiên mà đề tài thế sự, đời tư noi lên như một vấn đề trung tâm của
mọi "nỗ lực sáng tạo” trong tiểu thuyết đương đại. Ngay cả những tác phẩm viết về đề
tài chiển tranh, đề tài nông thôn với quy mô hiện thực rộng lớn, nhiều tầng, nhiều mảng,
nhà văn vẫn xoáy sâu vào những vấn đề cốt yếu của đời sổng thông qua tâm điểm nhân
vật.
Bên cạnh giá trị hiện thực lớn lao mà "tẩm gương lớn" tiểu thuyết phản chiếu lại,
một trong những thành tựu nổi bật của tiểu thuyết thời kỳ đổi mới là đã khắc họa thành
công những số phận cá nhân. Cũng vẫn là người lính, người mẹ, người vợ, nghệ sĩ, trí
thức, nông dân nhưng giờ đây họ được soi rọi từ nhiều góc độ khác nhau, được đật
vào trong nhiều vòng quay của cuộc đời, kế cả những vòng xoáy nghiệt ngã nhất. Bằng
cách ấy, các nhà tiểu thuyết đã gửi gắm được nhiều thông điệp nghệ thuật mang ý nghĩa
triết lý nhân sinh, mờ ra nhiều khuynh hướng đối thoại đa chiều Không thỏa hiệp,
không khoan nhượng với cách nhỉn nhận con người bằng cái nhìn đơn giản, một chiều,
chỉ thấy mặt tổt đẹp, mặt lý tưởng, các nhà tiểu thuyết đương đại đã đặt nhân vật vào
vòng xoay nghiệt ngã của cuộc đời với đầy đủ các sắc màu, các cực đối lập: nhân tính và
2
1
phi nhân, đạo lý và thất đức, bản ngã và phi bản ngã và cũng không né tránh những
mặt khuất lấp của cuộc đời.
Cùng với việc mở rộng phạm vi phản ánh, tiểu thuyết ngày càng đi tới một quan
niệm biện chứng và toàn vẹn về hiện thực, Hiện thực không còn giản đơn, xuôi chiều và
có thế biết trước mà chứa đầy những yếu tố ngẫu nhiên, yếu tố phi lí, tốt đẹp và xấu xa.
Chúng tác động sâu sắc đến cuộc sống con người. Không phải lúc nào con người cũng
chiến thắng cũng vượt lên hoàn cảnh và ngược lại.
1.1.3. Quan niệm nghệ thuật mới về con ngưòi
Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lí giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con
người đã được hóa thân thành những nguyên tắc, phương tiện biện pháp thể hiện con
người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mĩ cho các hình tượng nghệ
thuật. Quả là sự vận động của thực tế làm nảy sinh con người mới và miêu tả những con
người thực tể sẽ làm văn học đổi mới. Phát hiện lớn nhất trong văn xuôi 1945-1975
chính là quan niệm con người quần chúng, con người tập thế. Sau 1975 với sự thức tỉnh
của con người cá nhân, quan niệm con người cá nhân, cá thể trở lại trong văn học nhưng
phát triển lên một tầm cao mới so với giai đoạn trước.
Tiểu thuyết thời kì kháng chiến chủ yếu quan tâm đến con người công dân, rất ít
để ý đến đời sống riêng tư của mỗi cá nhân nếu có cũng chỉ là thái độ của cá nhân đối
với sự nghiệp chung, đổi với đồng bào, đồng chí. Con người tự giải quyểt mọi bi kịch,
mọi vướng mắc cá nhân là hướng về cách mạng và cộng đồng, chính con người cộng
đồng ấy đang tồn tại song song trong con người cá nhân, giai đoạn này nhà văn nhìn con
người chủ yểu như một ý thức chính trị vận động hợp quy luật lịch sủ. Cảm hứng sử thi
và khuynh hướng lãng mạn tạo dựng nên những con người đẹp đẽ và hoàn hảo, trưởng
thành hơn và đầy đặn hơn nhưng do chiến tranh kéo dài đã hạn chể khả năng sáng tạo
2
2
văn học trong đó có quan niệm về con người.
Các nhân vật trong tiểu thuyểt trước ] 975 được “tắm rửa sạch sẽ” và được bao
bọc trong một bầu không khí vò trùng, đó là nhân vật tích cực đến mức lí tưởng và cao
cả, họ quên cái tôi để hy sinh cho cái chung một cách thanh thản và nhẹ nhàng, con
người nhiều khát vọng cổng hiến và ít có nhu cầu hưởng thụ. Cho nên các tiếu thuyết
trong giai đoạn này có phần nặng nề, có hơi hướng bi kịch hoặc mang tâm trạng buồn
thương, day dứt, phức tạp và ít nhận được sự đồng tình ủng hộ. Chú ý tới biển cố lịch sử
hơn là sự quan tâm đến con người, coi trọng con người tập the, con người của sự nghiệp
chung hon là con người cá nhân với những vấn đề riêng tư của nó. Tất cả nhừng ngộ
nhận, ấu trĩ dẫn đến một quan điểm đơn giản, dễ dãi về con người, nhìn con người vừa
công thức vừa lí tưởng hóa sẽ được thay đôi mạnh mẽ ở giai đoạn văn học sau 1975.
Sau 1975 đất nước giành được độc lập, nền hòa bình được lập lại, cả nước bước
vào thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội, lịch sứ dân tộc bước sang một trang mới. Đặc
biệt sau nãm 1986 với Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI cả nước tiến hành công cuộc
đổi mới đất nước và đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong mọi lĩnh vực. Trong đó
văn học cũng có hướng đi mới đặc biệt là thế loại tiếu thuyết. Các nhà văn đã có cái
nhìn khách quan sâu sắc hơn về hiện thực cuộc chiến tranh đã qua và cách thể hiện con
người cũng khác.
Nếu như giai đoạn trước tiểu thuyết chỉ tập trung miêu tả những gì liên quan đến
vận mệnh dân tộc và mang âm hưởng sử thi thì ở giai đoạn sau đã có sự thay đổi rõ
ràng. Tiểu thuyết đì từ chủ nghĩa thực dân đậm đà chất lãng mạn và cảm hứng sử thi
sang chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo, nhân vật trong tâm là người lính được phản ánh trên
nhiều bình diện, trong nhiều mối quan hệ của đời sống. Khía cạnh đời tư cá nhân được
đề cập đến một cách sắc nét, mỗi cá nhân lại có quan niệm sống khác nhau. Sự mâu
2
3
thuẫn giũa cá nhân và cộng đồng nhiều khi trở thành bi kịch, nhà văn đã tìm thẩy những
miền khuất lấp của chiến tranh và tâm hồn con người.
Theo thời gian, hình ảnh con người công dân, con người cộng đồng dần được
thay thế nhường chỗ cho con người bình thường trong cuộc sống. Đây đồng thời cũng là
thời kì đột phá của văn xuôi trong đó tiểu thuyết là một thể loại giữ vai trò quan trọng
trong nền văn học, nó bao quát hiện thực ở cả chiều sâu và bề rộng, do vậy không ít
những cây bút tiêu biêu trong văn học đã có những sáng tạo về giọng điệu và con người
“mới” như Thời xa vắng của Lê Lựu, Thân phận tình yêu của Bảo Ninh, Ben không
chồng của Dương Hướng, Đảm cưới không có giẩy giá thủ của Ma Văn Kháng Các
nhà văn đã nhận diện con người đích thực với nhiều kiểu dáng đa dạng trong sự hòa hợp
giữa con người và thiên nhiên, con người tâm linh, con người xã hội, con người lịch sử,
con người với gia đình và với chính mình. Con người được soi chiếu và khám phá ở
nhiều tầng bậc, thể hiện tính chất muôn màu muôn vẻ của vũ trụ của thế giới bao quanh
con người và ngay trong nội tâm của con người như Ba lần và một ỉần của Chu Lai,
Chim én bay của Nguyễn Trí Huân, Dẩu chân người lỉnh của Nguyễn Minh Châu
Phát hiện ra con người phức tạp, con người lưỡng diện, con người không nhất
quán với mình, tiểu thuyết thời kì này đã phá vỡ cái nhìn đơn phiến, tĩnh tại để tạo ra cái
nhìn đa chiều hơn và sâu sắc hon. Và trong thể giới này, con người trần thế hiện lên sinh
động với tất cả chất người tự nhiên của nó: ánh sáng và bóng tối, cao cả và thấp hèn, ý
thức và vô thức .Đồng thời khắc họa chân dung những con người luôn khao khát cái
đẹp và hướng tới cái thiện. Đó là những nét nổi bật mang đậm chất nhân văn khi nhìn
nhận con người Việt Nam sau 1975.
1.1.4. Đổi mói về thi pháp
Theo triết học Mác, giữa nội dung và hình thức luôn có mối quan hệ chặt chẽ.
2
4
Nội dung luôn quyết định hình thức, và hình thức cũng tác đông trở lại với nội dung.
Khi nội dung thay đổi thì hình thức cũng thay đổi cho phù họp. Ở văn học cũng vậy,
cùng với sự biến đối về nội dung sáng tác và tư duy nghệ thuật thì tiểu thuyết sau 1975
cũng có sự chuyển biến mạnh mẽ về hình thức nghệ thuật. Dưới đây người viết xin trình
bày một so phương diện đổi mới nổi bật như đổi mới về điểm nhìn trần thuật, giọng
điệu, ngôn ngữ, cốt truyện và kết cẩu cúa tác phẩm.
Ở tiểu thuyết 1945 - 1975, điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm thường là một
chiều, duy nhất đó là điểm nhìn trần thuật của tác giả. Nhà văn sáng tác trên lập trường
tư tưởng của Đảng nên điểm nhìn của họ là luôn luôn và duy nhất đúng. Cũng chính vì
vậy mà nhà văn luôn là người độc quyền phán xét chân lí, người đọc chỉ tiếp nhận thụ
động, tác phẩm cũng có nhiều nhân vật, có các ý kiến khác nhau nhưng cuối cùng cũng
chỉ để khẳng định điểm nhìn của nhà văn, Sau năm 1975 cùng với sự thay đối quan niệm
hiện thực, quan niệm con người, quan hệ giữa công chúng và nhà văn có sự thay đối nên
các tác phấm tiếu thuyết không còn tính độc thoạt mà chuyển dần sang tính đa thanh,
các nhân vật không còn là sự hóa thân khác nhau của tác giả mà là những nhân cách có
lập trường, tư tưởng, ý kiến và quan niệm riêng, chúng bình đẳng với nhau và bình đẳng
trong quan hệ với nhà văn. Trong tiểu thuyết hôm nay có nhiều điểm nhìn trần thuật:
điểm nhìn của nhà văn, điểm nhìn nhân vật, mồi người đọc lại có điểm nhìn riêng. Tuy
nhiên theo nhận xét của tiến sĩ Nguyễn Thị Bình: “Sự đoi thoại trong các tác phâm văn
học hôm nay chủ yêu mới trên bình diện quan niệm tư tưởng, còn việc to chức đối thoại
có sự tham gia của nhiếu ỷ thức độc lập thông qua hình tượng nhân vật thì chưa nhiêu
”[7].
Nhưng không thể chối bỏ một điều rằng nhân vật tiểu thuyết thời kì này không
còn mờ nhạt, đơn điệu mà có sự kết họp giữa hình dạng và nội tâm, giữa ý thức và vô
2
5