Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Trình bày các lý do dẫn đến thất thoát, lãng phí trong đầu tư ở Việt Nam, giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.8 KB, 22 trang )

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP NHÓM
Đề bài: Trình bày các lý do dẫn đến thất thoát, lãng phí trong đầu tư ở Việt Nam, giải
pháp.
THÀNH VIÊN NHÓM 8
STT Họ và tên Mã học viên Lớp
1 PHÙNG THỊ HUỆ CH23 0290 CH
2 NGUYỄN TRÍ HUY CH230188 CH
3 NGUYỄN NGỌC THÚY CH230200 CH
Hà Nội, tháng 06 năm 2015
2
Phần I: CÁC DẠNG THẤT THOÁT, LÃNG PHÍ TRONG ĐẦU TƯ
Tổng vốn đầu tư cho xã hội gồm có vốn đầu tư của Nhà nước, hiện nay chiếm tới
gần 50%, còn lại là vốn ngoài Nhà nước và nguồn vốn nước ngoài. Mà thất thoát và lãng
phí (TTLP) đang là một căn bệnh chỉ phổ biến trong đầu tư công của Nhà nước, một điều
dễ hiểu là tư nhân đầu tư rất có hiệu quả vì chính sự tồn tại và phát triển của chính họ.
Thất thoát và lãng phí có thể xảy ra trong tất cả các khâu của dự án đầu tư, và
trong bước quy hoạch ngay từ ban đầu.
1.1. TTLP trong quy hoạch
Quy hoạch là hoạch định trước những việc cần làm và đặt ra những mục tiêu cần
đạt đến trong dài hạn. Trong đầu tư, quy hoạch là sự sắp xếp, bố trí hợp lý giữa các yếu tố
của lực lượng sản xuất xã hội phải phân công lại lao động xã hội hợp lý trên các vùng
lãnh thổ đất nước. Quy hoạch không phải là phép cộng cơ học của những kế hoạch ngắn
hạn, chất lượng quy hoạch gắn với tầm nhìn hoạch định chính sách kinh tế - xã hội và gắn
với các dự báo.
Nghiên cứu về quy hoạch và kế hoạch không những là một trong những căn cứ
phát hiện cơ hội đầu tư mà còn có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến chất lượng và hiệu
quả của dự án đầu tư. Về nguyên tắc, trong hoạt động đầu tư, công tác quy hoạch cần đi
trước một bước làm cơ sở cho công tác lập dự án.
Quy hoạch sai sẽ dẫn đến những chủ trương đầu tư sai lầm, gây hệ lụy lâu dài về


sau. Hay nhiều dự án khi ra quyết định về đầu tư đã thoát ly quy hoạch nên thiếu chính
xác. Có những dự án trong quá trình triển khai thực hiện phải di dời gây tổn thất, lãng
phí, hiệu quả thấp.
1.2. TTLP trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư
Giai đoạn chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề và quyết định sự thành công hay thất bại của
hai giai đoạn sau, đặc biệt trong giai đoạn vận hành kết quả của dự án vì đầu tư đúng
hướng thì mới hiệu quả. Giai đoạn này sẽ xác định chủ trương đầu tư, đưa ra báo cáo
3
kinh tế kĩ thuật để thuyết phục chủ đầu tư ra quyết định đầu tư, cơ quan quản lí Nhà nước
cấp giấy phép đầu tư, và các ngân hàng cho vay vốn.
Các nguyên nhân dẫn tới giảm chất lượng chuẩn bị dự án vừa có tính chất chủ
quan bắt nguồn từ chính các chủ thể tham gia trong hoạt động xây dựng ở giai đoạn này
gồm chủ đầu tư, nhà thầu tư vấn, cơ quan quản lý nhà nước có liên quan và vừa có tính
chất khách quan phát sinh từ các bất cập trong quy trình quản lý đầu tư xây dựng, trong
các định mức kinh tế - kỹ thuật và trong hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn.
 Khâu lập dự án
Trước một hoạt động đầu tư, chúng ta cần chuẩn bị một cách khoa học, đầy đủ,
chính xác nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư. Việc chuẩn bị đó được thực hiện thông qua quá
trình lập dự án đầu tư. Việc lập dự án đầu tư đóng vai trò quan trọng trong hoạt động đầu tư
vì nó là tập hợp các hoạt động xem xét chuẩn bị, tính toán toàn diện các khía cạnh kinh tế kĩ
thuật, điều kiện tự nhiên, môi trường pháp lý Trên cơ sở đó xây dựng một kế hoạch hoạt
động phù hợp nhằm thực hiện một dự án đầu tư. Quá trình lập dự án đầu tư được coi là quá
trình phát triển vì nó là việc hình thành ý tưởng nhằm biến ý tưởng đó thành hiện thực. Dự
án đầu tư tốt nhất sẽ đem lại kết quả tốt khi thực hiện và tiết kiệm nhất. Tuy nhiên trong quá
trình lập dự án đầu tư vẫn còn tồn tại một số thực trạng dẫn đến TTLP.
Nghiên cứu cơ hội đầu tư nếu sai ngay từ lúc đầu mà vẫn tiếp tục tiến hành nghiên
cứu tiếp sẽ gây lãng phí một chi phí lớn cho việc phải tiến hành nghiên cứu tiền khả thi và
khả thi sau này rồi mới phát hiện ra tính không khả thi. Đây là hiện tượng phổ biến khi mà
xác định chủ trương đầu tư lúc đầu chỉ là theo “phong trào”, theo ý muốn chủ quan, chạy
theo thành tích.

Trong lập dự án còn có một quyết định quan trọng đó là: “chọn địa điểm đầu tư”.
Chọn địa điểm đầu tư mà sai, không đáp ứng được các yêu cầu như: Gần nguồn nguyên
liệu, gần nơi tiêu thụ sản phẩm, phù hợp với đặc điểm tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý,
khí hậu,… thì sẽ có tác động trực tiếp và gián tiếp đến hiệu quả hoạt động của dự án đầu
tư cả trước mắt và lâu dài. Mỗi lần di chuyển địa điểm nhà máy không chỉ tốn kém chi
4
phí về mặt vật chất, chi phí bảo quản, chi phí chạy thử, mà còn phải chi phí lớn cho công
tác chuẩn bị mặt bằng…Xác định quy mô dự án không chính xác, không phù hợp với đặc
điểm, điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của đất nước, của vùng, của địa điểm xây
dựng dự án sẽ gây thất thoát, lãng phí như: dự án hoạt động không hết công suất, chi phí
cho sản phẩm cao, càng hoạt động càng lỗ, thậm chí có dây chuyền thiết bị không phát
huy hiệu quả do đầu tư không đồng bộ…Trong các dự án xây dựng một số công trình
phục vụ cho giao thông cũng đã có một số dự án do chọn sai vị trí xây dựng mà nó đã
không phát huy được hiệu quả thực sự của nó, gây lãng phí rất nhiều. Hoặc chẳng hạn,
đối với các dự án có thể gây ô nhiễm môi trường (sản xuất phân bón hay thuốc trừ sâu…)
khi chọn địa điểm nếu đặt ở gần khu dân cư đông đúc, đến lúc đưa dự án vào hoạt động
mới phát hiện và xử lý ô nhiễm thì quá tốn kém, đưa chi phí đầu tư vượt quá dự kiến ban
đầu có khi rất lớn, gây lãng phí rất nhiều tiền của.
Trong công tác khảo sát và thiết kế: Lập phương án đầu tư không chính xác dẫn
tới thừa vốn gây căng thẳng giả tạo khi sắp xếp bố trí kế hoạch vốn chung cho toàn
ngành, toàn quốc. Việc thừa vốn ở dự án này đôi khi không thể chuyển sang dự án khác
nên nhiều chủ đầu tư phải tìm cách sử dụng cho hết vốn, công trình sinh ra chắp vá, tốn
kém. Do bước khảo sát, thiết kế trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư không tốt làm phát sinh
khối lượng, phát sinh chi phí tư vấn giám sát, quản lý trong giai đoạn thi công. Vì dự án
đã thực hiện nên phải bám lấy phương án đang tiến hành do vậy phải bổ sung vốn đầu tư
để xử lý khối lượng phát sinh.
Việc nghiên cứu các khía cạnh tổ chức quản lí và nhân sự cho dự án không tốt sẽ
gây lãng phí trong giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. Thường thì trong những năm hoạt
động đầu tiên do phải điều chỉnh máy, do công nhân chưa thạo việc,… nên công suất thực
tế còn đạt thấp (50-75% công suất thiết kế) nếu tuyển dụng không hợp lí, quá nhiều sẽ

gây lãng phí nguồn nhân lực và chi phí cho trả lương công nhân, còn nếu tuyển quá ít sẽ
gây lãng phí máy móc, dự án hoạt động không hiệu quả.
 Khâu thẩm định và phê duyệt dự án
5
Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét, đánh giá một cách khách quan,
khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thực hiện
và hiệu quả của dự án để từ đó ra quyết định của đầu tư, cho phép đầu tư hoặc tài trợ vốn
cho dự án. Đây là một quá trình kiểm tra đánh giá các nội dung cơ bản của dự án một
cách độc lập tách biệt với quá trình lập dự án. Hoạt động đầu tư có hiệu quả hay không
phụ thuộc rất lớn vào công tác thẩm định dự án. Thực tế vẫn lọt lưới nhiều dự án lớn
không có hiệu quả gây nên tình trạng lãng phí trong xây dựng cơ bản. Liên đới trách
nhiệm trong vấn đề này là của cả người quyết định đầu tư.
1.3. TTLP trong giai đoạn thực hiện đầu tư
90-98% vốn đầu tư được chia ra và huy động trong suốt giai đoạn thực hiện đầu
tư. Lượng vốn của dự án tập trung chủ yếu ở giai đoạn này cộng với thời hạn thực hiện
đầu tư kéo dài, do đó nếu buông lỏng công tác quản lí thì thất thoát lãng phí trong giai
đoạn này sẽ lớn nhất đối với một dự án đầu tư.
 Trong giải phóng mặt bằng (GPMB)
Để có thể thực hiện được các dự án đầu tư xây dựng thì trước hết cần phải có mặt
bằng để thi công do đó giải phóng mặt bằng là một trong những công việc trọng tâm và
hết sức quan trọng. Nhưng nó mang tính chất phức tạp, tốn kém nhiều thời gian, công sức
và tiền của; ngày nay công việc này ngày càng trở nên khó khăn hơn do đất đai ngày càng
có giá trị và khan hiếm. Bên cạnh đó công tác GPMB liên quan đến lợi ích của nhiều cá
nhân, tập thể và của toàn xã hội. Ở các địa phương khác nhau thì công tác GPMB cũng có
nhiều đặc điểm khác nhau do vai trò và giá trị của đất đai là khác nhau.
GPMB chậm chễ gây thiệt hại to lớn cho nhà thầu về mặt tiền của và thời gian, ứ
đọng vốn, bên cạnh đó còn phải chi trả lãi suất cho những khoản vốn vay, phát sinh nhiều
chi phí khác.
Thất thoát trong công tác giải phóng mặt bằng xuất phát từ những nguyên nhân
như cơ quan, cán bộ làm công tác giải phóng mặt bằng cắt xén tiền đền bù, đền bù không

thỏa đáng cho người dân; khai khống số hộ đươc đền bù và chi phí đền bù như diện tích,
6
giá đền bù,… hoặc móc ngoặc với các hộ được đền bù đòi nâng giá đền bù để bòn rút tiền
của nhà nước, tham ô, tham nhũng từ các dự án.
Lãng phí trong công tác giải phóng mặt bằng xuất phát từ những bất cập trong
quản lí, sự không thỏa thuận được giữa người dân và đơn vị làm công tác giải phóng mặt
bằng dẫn đến chậm tiến độ, không bàn giao mặt bằng đúng thời hạn, phải bồi thường nhà
thầu, gây lãng phí trong xây dựng.
 Trong đấu thầu
Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của đôi bên mời thầu
để thực hiện gói thầu thuộc các dự án trên cơ sở bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng,
minh bạch và hiệu quả kinh tế.
Thât thoát lãng phí xảy ra do chất lượng công tác thiết kế, lập, thẩm định, phê
duyệt dự toán (giá gói thầu) chưa tốt làm giá gói thầu tăng vượt giá trị thực tế như:
- Về hồ sơ thiết kế: Tính toán xác định khối lượng giữa các hạng mục không chính
xác làm tăng giá ở một số gói thầu.
- Về lập hồ sơ mời thầu: do mời hạng mục công việc quá tổng hợp như không phân
các loại đất, đá theo từng cấp riêng biệt dẫn đến trong quá trình thi công không
quản lý và nghiệm thu khối lượng theo thực tế.
- Về công tác lập dự toán: nhiều gói thầu do vô tình hoặc cố ý các nhà tư vấn áp
dụng định mức, đơn giá, giá vật liệu không phù hợp làm tăng giá gói thầu lên
nhiều so với giá trị thật làm thất thoát vốn đầu tư.
- Về công tác đánh giá hồ sơ dự thầu: do những sai sót của tổ chuyên gia giúp việc
đấu thầu, của chủ đầu tư đã bỏ qua những lỗi tiên quyết (đối với nhà thầu được
trúng thầu) mà theo quy định nếu nhà thầu nào không đạt bị loại ngay khi đánh giá
sơ tuyển.
Công tác đấu thầu, chỉ định thầu vi phạm các quy định hiện hành. Hạ giá thầu thấp
không có căn cứ để trúng thầu hoặc trúng thầu với giá rất thấp nhưng vẫn làm được,
chứng tỏ khâu lập thiết kế dự toán không đúng; hiện tượng thông thầu, tiêu cực, tham
nhũng để chọn nhà thầu sai dẫn đến những hậu quả rất nghiêm trọng.

7
 Trong khâu khảo sát, thiết kế
Thất thoát lãng phí trong khảo sát thiết kế một phần xuất phát từ chất lượng của
công tác khảo sát: khảo sát sơ sài, không đúng quy chuẩn; ngoài ra còn do sử dụng các
tiêu chuẩn thiết kế không đúng các quy phạm, quy chuẩn của nhà nước dẫn đến tình trạng
thiết kế sai, công trình không đảm bảo chất lượng, không phát huy được hiệu quả, chi phí
xử lý tốn kém, thậm chí không thể sử dụng.
Do thiết kế không tính toán chính xác và không kiểm tra tính toán một cách cụ thể
nên người thiết kế đã đưa ra các yêu cầu vật liệu cao hơn mức an toàn cần thiết, trường
hợp phổ biến nhất là bê tông, cốt thép gây lãng phí lớn.
 Khâu thi công và theo dõi, kiểm tra việc thực hiện đầu tư.
Trong quá trình thi công có thể xảy ra hiện tượng bớt xén nguyên vật liêu, trao đổi
lấy vật liệu chất lượng thấp hơn, hay làm sai thiết kế gây thất thoát lớn.
Công tác theo dõi, giám sát, kiểm tra việc thực hiện đầu tư của chủ đầu tư, ban
quản lý dự án, của tư vấn giám sát không chặt chẽ, thậm chí mang tính hình thức đã
không phát hiện ra các sai xót, hay nhiều khi thông đồng với nhau chuộc lợi cá nhân làm
giảm sút chất lượng dự án nghiệm trọng.
 Nghiệm thu và thanh quyết toán công trình
Lập và quản lý dự toán của dự án thực chất là quản lý giá trong hoạt động đầu tư,
đây là khâu không chỉ gây thất thoát lãng phí về vốn đầu tư mà còn là khâu nhạy cảm
gây ra sơ hở dẫn đến phát sinh tiêu cực trong hoạt động đầu tư, vì nó bao gồm các việc
tính toán khối lượng từng loại công việc, vật tư theo thiết kế kỹ thuật, thiết kế tổ chức thi
công làm cơ sở cho việc lập tổng dự toán, dự toán công trình, áp dụng giá chủng loại vật
tư, thiết bị đã đươc cơ quan chức năng thông báo theo thực tế tại thời điểm tính toán,
nghiệm thu thanh toán, sử dụng những định mức kinh tế- kỹ thuật của nhà nước ban hành
cho từng loại dự án đầu tư theo quy phạm và quy chuẩn.
Thất thoát lãng phí trong khâu này xuất phát từ những nguyên nhân sau: Công tác
nghiệm thu chưa tuân thủ đúng quy trình dẫn đến nhiều sai sót, công trình không đạt chất
8
lượng yêu cầu. Lập quyết toán sai so với thực tế thi công do tính toán nhầm lẫn; quên loại

trừ những khối lượng phải trừ ra; tính thừa thành phần công việc; tính sai chênh lệch giá
vật tư thực tế thị trường so với giá vật tư quyết toán công trình Có sai sót này là do trình
độ của người lập quyêt toán còn yếu kém hoặc thái độ làm việc không nghiêm túc, thiếu
trách nhiệm. Hiện tượng quyết toán khống để trục lợi như là không làm vẫn khai, khai sai
chủng loại vật tư, cố tình tính toán sai, không áp dụng đúng đơn giá.
1.4. TTLP trong giai đoạn vận hành kết quả đầu tư
Đây là giai đoạn cuối của một dự án đầu tư, nó cũng có một vai trò rất quan trọng
trong việc quyết định sự thành công của dự án vừa thực hiện. Việc bố trí triển khai các kế
hoạch để đưa dự án vào khai thác, sử dụng cũng là khâu mà dễ gây ra lãng phí và thất
thoát. Cụ thể với từng dự án có quy mô khác nhau mà áp dụng chi phí vận hành khác
nhau, tuy nhiên trên thực tế có nhiều dự án đã sử dụng lượng chi phí vận hành quá lớn
vượt quá mức cần thiết so với giá trị thực của nó, hoặc là các kế hoạch áp dụng không
hợp với các dụ án và không khả thi nên đã dẫn tới tình trạng dự án đưa vào sử dụng
không đạt hiệu quả kinh tế cũng như xã hội mong muốn, thậm chí hoàn toàn không có
hiệu quả… Bên cạnh đó còn do cán bộ không đủ năng lực quản lý vận hành, thiếu trách
nhiệm, buông lỏng giám sát, vi phạm pháp luật, hành vi trục lợi cho bản thân khiến cho
dự án hoạt động không hiệu quả. Đây là một lãng phí to lớn sau khi đã hoàn thành dự án.
PHẦN 2: NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN THẤT THOÁT, LÃNG PHÍ TRONG ĐẦU

2.1. Con người
Công tác cán bộ là cốt lõi để giải quyết mọi vấn đề. Trong hoạt động đầu tư có
nhiều chức danh cán bộ như: khảo sát, tư vấn, thiết kế, soát, kiểm tra, giám sát, thẩm
định, kiểm định, phản biện, quản lý doanh nghiệp tư vấn, người có thẩm quyền quyết
định phê chuẩn, quản lý dự án, quản lý thi công,… Mỗi chức danh nhiều khi không có
các nhân nào chịu trách nhiệm chính, cá nhân nào liên đới trách nhiệm, vậy nên đã xảy ra
tình trạng “rất nhiều người có quyền, song rất ít người chịu trách nhiệm cụ thể” tồn tại
9
trong quản lý điều hành và triển khai dự án nên thất thoát dễ dàng xảy ra. Vậy nguyên
nhân là do đâu?
 Phẩm chất đạo đức của cán bộ quản lý con người yếu kém

Phẩm chất đạo đức là yếu tố cơ bản đầu tiên của người cán bộ. Cán bộ có giỏi
nhưng phẩm chất kém cũng không mang đến hiệu quả trong công tác. Đó là sự sa sút,
biến chất về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận cán bộ, công nhân, viên
chức, lợi dụng cương vị được giao cố ý làm trái, thông đồng, móc ngoặc với nhau để làm
ăn phi pháp trong đầu tư XDCB, coi việc nhận dự án công trình XDCB như một cơ hội
làm ăn để tăng thu nhập, làm giàu bất chính và thăng tiến, làm giảm hiệu lực của các
nguyên tắc pháp lý, phá vỡ các quy trình quy phạm trong ĐTXD, gây nên những hậu quả
đáng tiếc. Điển hình nhất là vụ PMU18 ở Bộ GTVT.
Hiện nay, tình trạng thiếu trách nhiệm, không sâu sát thực tế, vì lợi ích cục bộ của
ngành, địa phương và vì thành tích đã có những quyết định chủ trương đầu tư sai là
nguyên nhân quan trọng gây ra dàn trải, TTLP không nhỏ, ảnh hưởng về lâu dài. Tuy
chưa có số liệu đầy đủ nhưng nhiều chuyên gia cho rằng trong đầu tư và xây dựng, lãng
phí ở các khâu do các quyết định không sát, không đúng chiếm khoảng 60-70% tổng số
TTLP. Chưa kể tình trạng cố ý làm sai, vi phạm pháp luật, vụ lợi trong đầu tư XDCB còn
diễn ra ở nhiều dự án.
 Trình độ chuyên môn thấp
Ngoài việc một số chủ thể tham gia quá trình triển khai các dự án cố ý vi phạm các
quy định quản lý dự án thì ở nhiều trường hợp khác, năng lực hạn chế, trình độ chuyên
môn yếu, thiếu tính chuyên nghiệp của các chủ thể cũng ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ,
chất lượng, giá thành của dự án. Tại Hội thảo toàn quốc về nguồn nhân lực ngành xây
dựng mới đây đã thống nhất nhận định: nguồn nhân lực trong XDCB vừa thiếu vừa yếu ở
tất cả các khâu, các chủ thể tham gia quản lý triển khai (chủ đầu tư, Ban quản lý dự án, tư
vấn khảo sát, thiết kế, giám sát, đến nhà thầu xây lắp). Thực tế này cũng đã được Đoàn
giám sát của UBTVQH ghi nhận trong quá trình làm việc với các bộ, ngành địa phương.
Báo cáo của Đoàn giám sát cho biết: Một số Ban quản lý dự án không có kỹ sư xây dựng;
10
Việc phân cấp mạnh cho huyện, xã trong XDCB tỏ ra vượt quá khả năng chuyên môn của
cán bộ thuộc các cấp này
2.2. Cơ chế chính sách
 Hệ thống văn bản pháp luật chưa hoàn chỉnh

Hệ thống văn bản pháp luật từ qui hoạch, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản đến đấu
thầu, giải phóng mặt bằng, nghiệm thu, quyết toán chưa đầy đủ, nhiều nội dung không
còn phù hợp với thực tế, thiếu cụ thể, không đồng bộ, hay thay đổi và thiếu chế tài
nghiêm minh.
Mặc dù nước ta đã có Pháp lệnh, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nhưng
vẫn chưa có cơ chế phòng ngừa, đấu tranh một cách cụ thể, đồng bộ, thống nhất chặt chẽ.
Những nội dung pháp luật chưa thật sự tuyên truyền sâu rộng đến với dân, chưa thấm
nhuần vào nhận thức, hành động của mọi người; chưa có chế tài xử lý nghiêm minh, kịp
thời những người vi phạm. Việc thực hiện cải cách hành chính vừa chậm vừa lúng túng,
chưa tạo ra tác động tích cực cho phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
 Cơ chế quản lý, thanh tra giám sát không hiệu quả
Tổ chức bộ máy quản lý điều hành các dự án đầu tư còn nhiều yếu kém, nhiều đầu
mối, nhiều tầng nấc. Vẫn còn tình trạng các cơ quan quản lý nhà nước can thiệp sâu vào
công việc của đơn vị kinh doanh. Cơ chế quản lý nhiều khi chưa được xác lập rõ ràng,
minh bạch. Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát đã tiến hành và đạt được
một số kết quả nhưng vẫn còn bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu chống quan liêu, lãng phí,
chưa phối hợp chặt chẽ, thường xuyên, đồng bộ giữa những cơ quan, tổ chức cùng ngăn
chặn, chống lãng phí. Chưa thật sự huy động đông đảo nhân dân tham gia chống lãng phí.
Chưa có cơ chế bảo vệ những người phát hiện, lên án các hành vi lãng phí. Trong bộ máy
nhà nước, ở không ít nơi chưa thiết lập chế độ kiểm tra, giám sát quyền lực một cách chặt
chẽ, cụ thể. Chính sách tài chính vẫn còn biểu hiện cơ chế "xin - cho". Việc thực hành
dân chủ còn nhiều hạn chế, do độc đoán chuyên quyền dẫn đến những quyết định không
chuẩn xác, làm lãng phí tiền của, thời gian, công sức, làm giảm sút niềm tin của quần
chúng nhân dân.
11
 Cơ chế phân công, phân cấp, phối hợp yếu kém
Cơ chế phân công, phân cấp, phối hợp nhiều chồng chéo, không qui rõ trách
nhiệm, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát sinh tình trạng cục bộ, bản vị và khép kín.
Trách nhiệm của chủ đầu tư, từ chủ đầu tư cao nhất là Nhà nước đến các bộ ngành và
chính quyền các cấp, chưa được thực thi đúng mức thể hiện qua công tác thanh tra, kiểm

tra, giám sát thực hiện không đầy đủ và chưa nghiêm túc, việc xử lý vi phạm thiếu kiên
quyết và nghiêm minh, lề lối làm việc trong nhiều dự án rất thiếu khoa học.
5.3. TTLP xuất phát từ đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển
 Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển
thường rất lớn có thể dẫn đến TTLP
Vốn đầu tư lớn nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Như vậy,
nếu không có giải pháp tạo vốn và huy động vốn hợp lý, xây dựng các chính sách, quy
hoạch, kế hoạch đầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư, bố trí vốn theo tiến
độ đầu tư, thực hiện đầu tư trọng tâm trọng điểm rất dễ gây ra TTLP.
Với nguồn vốn đầu tư lớn như thế, nhưng quyết định đầu tư chủ yếu vẫn chạy theo
số lượng mà chưa tính đến khả năng bố trí nguồn vốn, chưa chú trọng đúng mức đến hiệu
quả đầu tư. Chính điều đó đã dẫn đến những lãng phí nguồn vốn ĐTPT.
Lao động cần sử dụng cho các dự án là rất lớn, đặc biệt đối với các dự án trọng
điểm quốc gia. Tuy nhiên, công tác tuyển dụng, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ không tuân
thủ một kế hoạch định trước và không hợp lý đã làm chậm tiến độ của dự án và bị ảnh
hưởng tiêu cực do vấn đề “hậu dự án” tạo ra như việc bố trí lại lao động, giải quyết lao
động dôi dư… tạo ra TTLP
 Thời kỳ đầu tư kéo dài gây TTLP các nguồn lực
Thời kì đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và
đưa vào hoạt động. Nhiều công trình ĐTPT có thời gian đầu tư kéo dài hàng chục năm.
Trên thực tế việc đầu tư dàn trải đã dẫn đến tình trạng kéo dài thời gian thi công các công
trình, dự án; nguồn vốn ngân sách lại phải phân tán, “rải mành mành” làm nhiều dự án
12
cùng dở dang, chậm đưa vào sử dụng nên không phát huy hiệu quả đồng vốn đầu tư, gây
TTLP các nguồn lực.
 TTLP do thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài
Thời gian vận hành các kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động
cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình. Trong suốt quá trình vận hành,
các thành quả đầu tư chịu sự tác động 2 mặt, cả tích cực và tiêu cực của nhiều yếu tố tự
nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội… Trong quá trình đầu tư, quản lý quá trình vận hành kết

quả đầu tư không tốt, không nhanh chóng đưa thành quả đầu tư vào sử dụng đã làm cho
công trình không hoạt động tối đa được công suất, chậm thu hồi vốn và dẫn đến các hao
mòn vô hình.
Ngoài ra cần chú ý đúng mức đến yếu tố độ trễ thời gian trong đầu tư. Đầu tư
trong năm nhưng thành quả đầu tư chưa chắc đã phát huy tác dụng ngay trong năm đómà
từ những năm sau và kéo dài trong nhiều năm. Đây là đặc điểm rất riêng của lĩnh vực đầu
tư, ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý hoạt động đầu tư và rất dễ dẫn đến thất thoát lãng
phí.
 Quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư bị thất
thoát do ảnh hưởng của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế xã hội vùng
Các thành quả của hoạt động ĐTPT mà là các công trình xây dựng thường phát
huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên. Không thể dễ dàng di chuyển các công
trình đã đầu tư từ nơi này sang nơi khác. Do đó việc chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư
nếu sai lầm sẽ gây hậu quả nghiêm trọng. Đối tượng đầu tư và quy mô đầu tư không thích
hợp làm cho dự án đầu tư đó không hiệu quả. Thứ hai là vấn đề lựa chọn địa điểm đầu tư.
Không đảm bảo xây dựng một bộ tiêu chí khác nhau và nhiều phương án so sánh để lựa
chọn vùng lãnh thổ và địa điểm đầu tư cụ thể hợp lý nhất đã không thể khai thác được tối
đa lợi thế vùng và không gian đầu tư cụ thể, không tạo điều kiện phát huy hiệu quả vốn
đầu tư gây TTLP.
 ĐTPT có độ rủi ro cao
13
Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kì đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các kết
quả đầu tư cũng kéo dài… nên mức độ rủi ro của hoạt động ĐTPT thường cao. Rủi ro
đầu tư do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà đầu tư như
quản lý kém, chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu… có nguyên nhân khách quan như
giá nguyên liệu tăng, giá bán sản phẩm giảm, công suất sản phẩm không đạt công suất
thiết kế… gây ra những tổn thất về vốn đầu tư.
PHẦN 3: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ THẤT THOÁT LÃNG PHÍ TRONG ĐẦU TƯ
3.1. Giaỉ pháp từ con người
Hiện nay, tình trạng thiếu trách nhiệm, không sâu sát thực tế, vì lợi ích cục bộ của

ngành, địa phương và vì thành tích đã có những quyết định chủ trương đầu tư sai là
nguyên nhân quan trọng gây ra dàn trải, TTLP không nhỏ, ảnh hưởng về lâu dài. Tuy
chưa có số liệu đầy đủ nhưng nhiều chuyên gia cho rằng trong đầu tư và xây dựng, lãng
phí ở các khâu do các quyết định không sát, không đúng chiếm khoảng 60-70% tổng số
TTLP. Chưa kể tình trạng cố ý làm sai, vi phạm pháp luật, vụ lợi trong đầu tư XDCB còn
diễn ra ở nhiều dự án.
Ngoài việc một số chủ thể tham gia quá trình triển khai các dự án cố ý vi phạm các
quy định quản lý dự án thì ở nhiều trường hợp khác, năng lực hạn chế, trình độ chuyên
môn yếu, thiếu tính chuyên nghiệp của các chủ thể cũng ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ,
chất lượng, giá thành của dự án.
Cán bộ không đủ năng lực, thiếu phẩm chất đạo đức là nhân tố trực tiếp tạo ra các TTLP,
ngày càng kìm hãm nền kinh tế nước nhà. Vì vậy, vấn đề con người luôn là vấn đề nhức
nhối trong việc chống thất thoát lãng phí trong tất cả các khâu của dự án đầu tư trong đó
khâu vận hành kết quả đầu tư cũng bị ảnh hưởng không nhỏ. Việc các cán bộ thiếu trách
nhiệm, tìm mọi cách thu lợi ích riêng đã làm thất thoát cho Nhà nước khoản tiền khổng
lồ, cần đưa ra những giải pháp cải thiện con người, đào tạo năng lực cũng như phẩm chất
đạo đức của con người.
14
Để hạn chế TTLP phải trị bằng pháp luật nghiêm minh, không thể chỉ bằng rút kinh
nghiệm, những phê bình- tự phê bình. Đòi hỏi phải giải quyết triệt để ở tầm gốc gác, đi từ
những cán bộ lớn nhất tới những công nhân viên nhỏ nhất.
3.1.1. Nâng cao phẩm chất đạo đức
Như Bác Hồ đã nói: “người có tài mà không có đức thì cũng trở thành người vô
dụng”. Một cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt thì mới làm gương cho đội ngũ nhân viên
dưới quyền, không tham ô, tham nhũng, không kí liều, nhận hối lộ. Một cán bộ có phẩm
chất đạo đức tốt thì cần có một tinh thần trách nhiệm với công việc cao. Tinh thần này
cần được quán triệt rõ ràng, sâu sắc trong công tác giáo dục các cấp, các ngành nghề.
3.1.2. Nâng cao trình độ chuyên môn
Trình độ chuyên môn cao: một người phải có trình độ chuyên môn cao thì mới đủ
tư cách lãnh đạo cả một bộ máy nguồn nhân lực, có đủ ủy quyền khiến cho cấp dưới nể

phục, và đủ tầm hiểu biết kiểm soát tiến độ công việc, và mới có đủ khả năng thực hiện
vận hành kết quả đầu tư. Cán bộ có kiến thức, hiểu biết thì việc sử dụng nhưng trang thiết
bị hiện đại mới đúng mục đích, không bị bỏ không, sử dụng đạt hiệu quả cao, tránh gây
một tổn thất, lãng phí khá lớn. Họ sẽ biết cách sử dụng lao động đúng cách, làm cho năng
suất công việc cao mà không khiến nguồn lực làm việc quá sức. Và muốn đào tạo được
đội ngũ có trình độ chuyên môn cao, ta phải rà soát lại hệ thống giáo dục nước nhà, đầu
tư lớn cho hệ thống giáo dục. Đồng thời vừa khuyến khích đầu tư cho giáo dục, vừa đưa
ra những cơ chế, chính sách, hệ thống giám sát chặt chẽ để tránh tiêu cực, tránh việc có
bằng cấp mà kiến thức sáo rỗng, tốn them khoản chi phí đào tạo lại. Mà chi phí này lại
không hề nhỏ.
- Đào tạo, tuyển dụng đội ngũ cán bộ quản lí và công nhân viên có đủ năng lực và
trình độ. Tránh tình trạng làm ẩu, tuyển những người dân đen, không rõ nguồn gốc,
không đủ sức khỏe làm những việc họ không có “tay nghề”, dẫn đến tình trạng
“làm liều, làm ẩu, như một con rô bốt”, khiến cho công trình vừa hoàn thành lại
phải sửa lại, tốn một nguồn kinh phí vô cùng lớn… Muốn làm được điều đó thì cần
phải có một đội ngũ giám sát công trình có đủ năng lực cả về đạo đức và trình độ…
15
- Đồng thời, phải có cách thu hút được những người tài, khâu thu hút phải có nhiều
chế độ đãi ngộ, đặc biệt là cải cách chế độ tiền lương, tạo môi trường làm việc cạnh
tranh lành mạnh. Mạnh dạn loại bỏ những người không đủ năng lực. Có hình phạt
thích đáng đối với những tiêu cực,kiên quyết xử lý hành vi vi phạm, công việc phải
có tính minh bạch dễ kiểm tra.
3.2. Giải pháp từ cơ chế chính sách của Nhà nước
3.2.1. Phân cấp quản lý và định rõ trách nhiệm
Công tác quản lý là một trong những yếu tố quyết định trong hoạt động đầu tư.
Tuy nhiên trên thực tế, các cấp quản lý còn chồng chéo, chưa phân định rõ ràng trách
nhiệm ràng buộc dẫn đến tình trạng “ quyền thì nhiều, mà trách nhiệm thì ít”, hậu quả là
tình trạng thất thoát và lãng phí trong quá trình đầu tư.Để khắc phục tình trạng trên,
chúng tôi có đưa ra một số biện pháp giải quyết như sau:
- Phải có chế tài quy định chặt chẽ, rõ ràng trách nhiệm của các thành viên tham gia

hoạt động đầu tư. Cần xác định rõ theo nguyên tắc tập trung dân chủ thì người
quyết định là người chịu trách nhiệm, không có tập thể quyết định chuyên môn.
Chủ dự án có trách nhiệm toàn diện, liên tục về quản lý và sử dụng các nguồn vốn
đầu tư từ khi chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và đưa chương trình, dự án vào
khai thác sử dụng, thu hồi và hoàn trả vốn vay. Đồng thời chủ dự án cũng phải
chịu trách nhiệm toàn diện về những sai phạm xảy ra trong quá trình quản lý
chương trình, dự án và các hậu quả do ảnh hưởng của chương trình, dự án đến
kinh tế, xã hội, môi sinh, môi trường và uy tín quốc gia. Mặt khác, Nhà nước cần
phân định rõ vai trò của các bộ liên quan đến quản lý nguồn vốn, từ vai trò và
trách nhiệm của Bộ KH&ĐT cho đến Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Văn
phòng Chính phủ Qui định cụ thể sẽ không có chuyện “trách nhiệm chung”
được.
- Cần trả thù lao hợp lý, tương xứng với mỗi trách nhiệm. Có chế độ khuyến khích,
thưởng phạt phân minh.
16
- Kiên quyết xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm quy định quản lý
đầu tư, xây dựng và chi tiêu. Không bao che, dung túng, nể nang, né tránh đối với
bất kể cán bộ nào làm sai để giữ vững kỷ cương, kỷ luật.
- Những cán bộ có trách nhiệm trực tiếp quản lý dự án, trước khi được giao nhiệm
vụ phải khai báo tài sản và thu nhập cá nhân.
- Phải xây dựng và thực hiện tiêu chuẩn hoá chức danh với các công việc quản lý dự
án, tư vấn, quản lý kinh doanh tư vấn và xây dựng. Phải bố trí cán bộ có đủ trình
độ và kinh nghiệm, đúng chuyên môn và có phẩm chất phù vợp với chức danh
công việc được giao. Nghiêm cấm và xử phạt nghiêm mọi trường hợp mượn danh,
mua danh để hành nghề.
3.2.2. Hệ thống pháp luật:
- Tích cực hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là luật đầu tư, gắn pháp luật với
thực tế của hoạt động đầu tư.
- Phải có văn bản hướng dẫn luật cụ thể, ban hành, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức
thực hiện các chính sách, pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư; xây dựng các

tiêu chuẩn quy phạm kỹ thuật liên quan đến hoạt động đầu tư; giám sát việc ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đầu tư.
- Tổng hợp, kiến nghị hoặc huỷ bỏ các văn bản pháp luật không còn phù hợp hoặc
do các cấp ban hành không đúng thẩm quyền hoặc có nội dung không phù hợp.
- Một vấn đề khó khăn nữa là việc cấp giấy phép, thủ tục đăng ký hoạt động đầu tư
vẫn còn rườm rà, rắc rối, cần phải chấn chỉnh lại, quản lý thống nhất và đẩy nhanh
tiến độ xét duyệt các thủ tục.
- Hạn chế sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào trong các dự án đầu tư, nên giảm
bớt các thủ tục đăng ký/cấp phép đầu tư; chuyển từ cơ chế “tiền kiểm” sang cơ chế
“hậu kiểm” nhằm giảm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp; giảm bớt các cơ
quan tham gia thẩm định dự án…
- Luật vẫn còn sự phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước và luật đầu tư nước
ngoài, cần có sự đối xử công bằng tạo môi trường cạnh tranh hoàn hảo cho tất cả
các thành phần kinh tế tham gia hoạt động, buộc các doanh nghiệp Nhà nước phải
tự thân vận động, tự chịu trách nhiệm với các quyết định của mình, xóa bỏ chế độ
bao cấp các DNNN.
17
3.2.3. Công tác quy hoạch:
Trong công tác quy hoạch dự án vẫn còn rất nhiều sai phạm, mang tính bị động,
chưa làm cơ sở, kế hoạch cho sự phát triển của dự án, dẫn đến những quyết định sai lầm,
gây thất thoát và lãng phí về vốn và nguồn lực.Việc đổi mới công tác quy hoạch là rất cần
thiết:
- Nâng cao chất lượng quy hoạch, đổi mới nội dung, phương pháp lập quy hoạch
phù hợp với điều kiện kinh tế đất nước và xu hướng hội nhập quốc tế.
- Quy hoạch phải có sự gắn kết với quy hoạch tổng thể KT-XH một cách hiệu quả,
rà soát, bổ sung, điều chỉnh thường xuyên các quy hoạch tránh tình trạng lạc hậu,
làm tốt công tác giải phóng mặt bằng kết hợp quy hoạch phát triển KT-XH.
- Quy hoạch phải có sự đồng bộ giữa các ngành, các địa phương, phù hợp với sự
phát triển chung của toàn xã hội, đảm bảo lợi ích của cá nhân và của toàn xã
hội:khắc phục tư tưởng cục bộ trong quy hoạch,loại bỏ cơ chế xin- cho, cần tạo ra

sự tích cực, độc lập, dựa vào nội lực của từng vùng, từng ngành.
- Tăng cường công tác nghiên cứu dự báo,khảo sát thực trạng điều kiện tự nhiên, vị
trí địa lý, yếu tố thị trường khó khăn và thuận lợi để công tác quy hoạch có tính
thực tiễn cao.
- Phải có những dự án trọng tâm, trọng điểm chú trọng đến hiệu quả của dự án, sự
phát triển KT-XH sau này, khắc phục tình trạng dàn trải nguồn vốn.
3.2.4. Cơ chế thanh tra giám sát:
Hiện nay, hoạt động thanh tra dự án đầu tư vẫn còn sự chồng chéo, trùng lặp, thiếu
cơ sở pháp lý cho sự phối hợp chặt chẽ, không phát huy được sức mạnh tổng hợp của
toàn ngành Thanh tra và hậu quả chung là vừa lãng phí nguồn lực công, vừa gây khó
khăn cho các chủ đầu tư và doanh nghiệp, nhưng cũng dễ bỏ sót đối tượng, bỏ sót sai
phạm. Do đó, để góp phần khắc phục tình trạng này, xin đưa ra một số giải pháp sau đây:
- Cần quy định rõ và cụ thể hóa nội hàm khái niệm thanh tra hành chính và thanh tra
chuyên ngành theo tinh thần của Luật Thanh tra (sửa đổi) vừa được Quốc hội
thông qua và chính thức có hiệu lực từ 1/7/2011, sao cho phù hợp với thực tiễn và
yêu cầu cải cách hành chính, tạo cơ sở pháp lý để xác định mục tiêu, nội dung, đối
tượng và phân cấp thẩm quyền trong hoạt động thanh tra.
18
- Cần sửa đổi cơ chế này theo hướng: Các cơ quan thanh tra thành lập theo cấp hành
chính chỉ tập trung vào nhiệm vụ giám sát hành chính (giám sát sự tuân thủ pháp
luật) đối với các cơ quan hành chính nhà nước thuộc phạm vi quản lý trực tiếp của
thủ trưởng cấp hành chính cùng cấp; thực hiện chức năng thanh tra hành chính
hướng vào xem xét việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của các cơ quan thuộc
phạm vi quản lý trực tiếp của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cầp. Khi
đó, nhiệm vụ thanh tra dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước nên giao cho các cơ
quan thanh tra chuyên ngành. Do chức năng quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng
ở nước ta hiện nay chủ yếu liên quan đến ngành Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư,
Xây dựng; nên nhiệm vụ thanh tra tài chính dự án đầu tư xây dựng cần tập trung
cho cơ quan thanh tra thuộc các ngành này thực hiện. Tuy nhiên, để có cơ sở xác
định rõ hơn nhiệm vụ, nội dung thanh tra của các cơ quan thanh tra chuyên ngành

đối với dự án đầu tư xây dựng, cần thiết phân định rõ hơn thẩm quyền quản lý nhà
nước về đầu tư xây dựng của các bộ, ngành chức năng liên quan (Xây dựng, Tài
chính và Kế hoạch và Đầu tư). Thanh tra các ngành này cần bám sát chức năng,
nhiệm vụ quản lý nhà nước của Bộ được pháp luật quy định để xác định nội dung
thanh tra cho phù hợp, vừa phục vụ thiết thực cho công tác quản lý nhà nước của
Bộ, vừa hạn chế được sự chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động.
- Bổ sung thêm nhiều cán bộ “có năng lực ,trình độ” vào lực lượng thanh tra, điều
tra.
- Trang bị thêm trang thiết bị kỹ thuật và tăng kinh phí cho lực lượng thanh tra, điều
tra.
- Lực lượng thanh tra, điều tra phải độc lập để đảm bảo tính khách quan, công bằng.
- Có sự thưởng, phạt phân minh với những thành tích và sai phạm trong công tác.
- Cần áp dụng “các giải pháp liên quan đến cá nhân” ở trên đối với lực lượng thanh
tra, điều tra như đánh vào thu nhập, chức vụ…ràng buộc trách nhiệm với nhiệm vụ
được giao.
- Xác định rõ trách nhiệm của lực lượng này đối với sự gia tăng số vụ và mức độ
thất thoát.
- Nhà nước cần mở tài khoản kế toán riêng để theo dõi và quản lý tập trung tất cả tài
sản bị thất thoát thu hồi qua kết quả kiểm tra, thanh tra và điều tra. Số tiền thất
19
thoát là rất lớn vì vậy số tiền thu hồi sẽ rất lớn, Nhà nước có thể dùng một phần số
tiền thu hồi để chi cho việc đầu tư nâng cao năng lực lực lượng thanh tra, điều tra,
chi cho việc bảo vệ nhân chứng, bổ sung kinh phí cho hoạt động thanh tra, điều
tra Vì thế có thể sẽ phát hiện nhiều hơn những dự án có thất thoát và thu hồi được
nhiều hơn số tiền bị thất thoát.
- Tập trung giám sát đầu tư với tất cả các dự án đang ở giai đoạn chuẩn bị triển khai
hoặc đã triển khai để đánh giá hiệu quả đầu tư, phát hiện những sai sót trong tính
toán có thể dẫn đến lãng phí từ đó có biện pháp điều chỉnh kịp thời làm giảm hoặc
tránh xảy ra lãng phí.
- Tập trung thanh tra tất cả các dự án đang và đã triển khai để phát hiện những sai

phạm quy định, thủ tục triển khai, những sơ hở trong quản lý có thể dẫn đến lãng
phí, thất thoát từ đó có biện pháp điều chỉnh, xử lý kịp thời ngăn chặn hoặc tránh
xảy ra lãng phí, thất thoát.
- Cần chấn chỉnh lại phong trào đua nhau thi công xây dựng, lãng phí tiền ngân
sách, cơ chế bao cấp vẫn còn tồn tại.
3.2.5. Phát huy tính dân chủ trong quần chúng, nâng cao tinh thần trách
nhiệm của người dân trong công cuộc chống thất thoát và lãng phí.
Khi có những vụ thất thoát được phát hiện và xử lý kịp thời sẽ là bài học cho tất cả
những người đang làm thất thoát, là bài học răn đe để những người sau sẽ không dám làm
thế nữa.
Những vụ việc thất thoát mà thanh tra, điều tra phát hiện được là dựa vào đơn thư
tố giác của dân. Thực tế tình hình thất thoát tiền đầu tư hiện nay là phổ biến, nhưng số vụ
việc mà lực lượng thanh tra, điều tra đưa ra ánh sáng được còn rất ít, rất ít vì có ít đơn thư
tố cáo, rất ít vì dân còn chưa giám nói, dân chưa giám nói vì tư tưởng, vì dân chưa tin vào
quyết tâm chống thất thoát của lãnh đạo. Tài sản công là tài sản của dân, nghĩa là dân là
“người chủ” nhưng tinh thần làm chủ của “người chủ” chưa được phát huy. Quyền làm
chủ chưa được phát huy vì thiếu cơ chế thực hiện quyền làm chủ cụ thể trong xây dựng
cơ bản, hoặc có mà chưa được coi trọng, hoặc vì “người chủ” thiếu thông tin. Do vậy
20
những việc cần làm ngay là: phát huy tinh thần làm chủ của “người chủ ” trong phòng và
chống thất thoát tiền đầu tư của “người chủ ”. Các biện pháp cụ thể như sau:
- Tuyên truyền phổ biến về hậu quả nghiêm trọng của thất thoát, lãng phí; các hệ
thống pháp luật về Thực hành tiết kiệm trống lãng phí của Nhà nước, nâng cao ý
thức trách nhiệm, tinh thần phê bình và tự phê bình trong các cán bộ quản lí và
trong nhân dân.
- Xây dựng hoàn chỉnh cơ chế để người dân thực hiện quyền làm chủ của mình
trong quản lý dự án, có chế tài để đảm bảo cơ chế này được tôn trọng.
- Có cơ chế đảm bảo sự công khai, minh bạch trong công tác đấu thầu, trong xây
dựng, mua sắm, trong thanh, quyết toán để người dân có thể giám sát quá trình đầu
tư tốt hơn.

- Phải có chính sách, biện pháp cụ thể bảo vệ có hiệu quả những cá nhân đứng ra tố
giác những hành vi cố tình làm trái các quy định quản lý, pháp luật, tố giác những
cán bộ tham ô, nhận và đưa hối lộ. Đồng thời kiên quyết xử lý theo đúng pháp luật
mọi cá nhân cố tình vu khống, tố cáo sai sự thật để phục vụ mục đích xấu.
- Phải có khen thưởng và bảo vệ an toàn cho những người đứng ra tố giác.
2. Phát huy vai trò của thông tin đại chúng
Dư luận xã hội, ý kiến của các chuyên gia, của những người trong cuộc, của các
đại biểu Quốc hội đánh giá tình trạng thất thoát và lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản
là “kinh khủng”, là “rất phổ biến đối với đầu tư xây dựng của nhà nước ” …thế nhưng số
những dự án được phát hiện có lãng phí, thất thoát; được xử lý và đưa ra công luận còn
rất ít có thể đếm trên đầu ngón tay – vậy tại sao? Có ý kiến cho rằng đưa ra báo chí nhiều
quá làm bôi đen xã hội ta, làm mất uy tín của cán bộ …nhưng chúng ta cần phải nhìn
thẳng vào sự thật, nhìn ra vấn đề để kiên quyết xử lý nghiêm minh và đưa ra công luận
nhiều hơn nữa những dự án đầu tư có thất thoát và lãng phí để thu hồi tiền bị thất thoát;
để răn đe từ đó ngăn chặn sự phát triển của tình trạng lãng phí, thất thoát hiện nay; để
chứng minh bằng hành động quyết tâm chống thất thoát, lãng phí của Chính phủ.
4. Các giải pháp hạn chế TTLP do đặc điểm của đầu tư phát triển
4.1. Bố trí vốn hợp lý
21
Để khắc phục tình trạng bố trí kế hoạch đầu tư dàn trải (hàng năm tổng số dự án
do các ngành, các địa phương bố trí vào kế hoạch đầu tư khoảng trên, dưới 1000 dự án),
thiếu điều kiện, làm chậm tiến độ cấp phát vốn đầu tư cho dự án như đã xảy ra trong
nhiều năm qua. Các dự án đầu tư phải có quyết định đầu tư của các cấp có thẩm quyền tại
thời điểm trước tháng 10 của năm làm kế hoạch. Đây là điều kiện tiên quyết để được ghi
kế hoạch đầu tư, cũng là điều kiện tiên quyết không được phép châm trước khi cấp phát
vốn đầu tư. Đồng thời phải bố trí, điều hành kế hoạch đầu tư kết hợp giữa ngắn hạn và
dài hạn cho phù hợp, bố trí kế hoạch tập trung, sát với tiến độ dự án được phê duyệt,
những dự án phải có đủ điều kiện ghi kế hoạch mới bố trí vào kế hoạch đầu tư hàng năm,
để từ đó triển khai kế hoạch đấu thầu.
4.2. Tiến hành phân kỳ đầu tư

Do vốn lớn lại nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư nên để nâng
cao hiệu quả vốn đầu tư, giảm khả năng TTLP cần tiến hành phân kì đầu tư, bố trí vốn và
các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, từ đó có thể sớm
đưa vào sử dụng các hạng mục đó, tránh lãng phí.
4.3. Giảm rủi ro trong đầu tư
Các yếu tố làm thất thoát lãng phí khác còn là các điều kiện tự nhiên, xã hội bất lợi
làm giảm hiệu quả của dự án. Do đó công tác dự báo rất quan trọng, để có thế tính trước
những biến cố có thể xảy ra, không chỉ những thay đổi bất ngờ của điều kiện tự nhiên mà
còn cả các tác động xã hội, thay đổi trong thị hiếu của khách hàng làm thay đổi xu hướng
tiêu dùng, Để khắc phục điều này, chúng tôi đưa ra một số giải pháp sau:
- Đa dạng các nguồn cung cấp nguyên liệu, có các phương án dự trữ nguyên liệu để
phòng trừ các trường hợp bất lợi của tự nhiên làm mất nguồn cung cấp đầu vào,
ảnh hưởng tới sản xuất.
- Làm tốt công tác nghiên cứu thị trường, và dự báo trước các xu hướng tiêu dùng
của khách hàng, xu hướng biến động giả cả hàng hóa trong nước và trên thế giới
để có chiến lược cạnh tranh, chiến lược giá cả phù hợp.

×