Vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững
ở Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Huyền
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Khoa Khoa học Chính trị
Chuyên ngành: Chính trị học; Mã số: 60 31 20
Người hướng dẫn: TS. Lưu Minh Văn
Năm bảo vệ: 2011
Abstract. Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển bền vững (PTBV) và vai
trò của nhà nước với PTBV. Phân tích, đánh giá vai trò của nhà nước với PTBV qua
việc thực hiện các chính sách kinh tế, chính sách xã hội và chính sách môi trường.
Trình bày những khuyến nghị cơ bản để nâng cao hơn nữa vai trò của nhà nước với
PTBV ở Việt Nam hiện nay. Nghiên cứu sự PTBV bị quy định bởi nhiều yếu tố khác
nhau, vai trò của nhà nước và cụ thể hơn là của nhà nước ta hiện nay đối với PTBV,
tập trung vào phân tích các chính sách của nhà nước ta liên quan đến chủ đề PTBV
trong khoảng thời gian từ 1986 đến nay.
Keywords. Chính trị học; Hoàn cảnh chính trị; Nhà nước; Việt Nam; Phát triển bền
vững
Content.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển là vấn đề lớn và không dễ đối với các quốc gia, các dân tộc và ở mọi thời
đại. Trong suốt thế kỷ XX và những thập kỷ đầu thế kỷ XXI chúng ta đã chứng kiến sự thành
công và cả sự thất bại từ phạm vi quốc gia đến phạm vi toàn cầu trong tìm lời giải bài toán
phát triển.
Trong thời gian dài tư duy về phát triển không chỉ ở Việt Nam, mà cả trên phạm vi
toàn cầu bị chi phối bởi khuynh hướng duy kinh tế, về thực chất đó là kiểu quan niệm ngầm
ẩn đồng nhất phát triển xã hội với phát triển kinh tế, hay nói các khác là sẵn sàng hy sinh các
mặt khác của sự phát triển (xã hội và môi trường…) cho sự phát triển kinh tế. Đúng là không
thể nói đến phát triển nếu không giải được vấn đề nền tảng là phát triển kinh tế. Tuy nhiên
thực tiễn của thế kỷ XX cho thấy hệ bên cạnh những bước tiến bộ vượt bậc về kinh tế thì
những hệ quả xấu, ngoài dự tính của chính quá trình phát triển cũng ngày càng lộ rõ và trở
thành yếu tố đe dọa chính sự tồn tại và phát triển của mỗi xã hội và cả nhân loại. Chẳng hạn,
sự bùng nổ dân số, sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo, sự suy thoái môi trường, sự biến đổi
khí hậu v.v. Do đó, bài học lớn được rút ra là: trong quá trình phát triển, con người cần phải
giải quyết tốt mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên mà bản chất của nó là sự “đồng
tiến hóa” hay chính là phát triển bền vững (PTBV).
Kể từ “Báo cáo Tương lai chung của chúng ta” (năm 1987) đến Hội nghị Thượng đỉnh
Trái đất về Môi trường và Phát triển (năm 1992) và nhất là sau Hội nghị Thượng đỉnh Thế
giới về Phát triển bền vững (năm 2002), PTBV đã trở thành Chương trình nghị sự của thế kỷ
XXI, và thu hút được sự quan tâm sâu rộng của nhiều chính khách, nhà khoa học có uy tín
trên thế giới. Tuy nhiên, trong đời sống quốc tế, PTBV thực sự mới chỉ nhận được sự đồng
thuận trên những vấn đề chung, cơ bản có tính nguyên tắc. Do tính chất liên ngành, phức tạp,
nhiều vấn đề PTBV đến nay còn chưa được giải quyết thỏa đáng và nhận thức thống nhất từ
những vấn đề như bản chất, điều kiện đảm bảo, khả năng, mức độ áp dụng….đang cần tiếp
tục nghiên cứu làm rõ.
Ở Việt Nam, hơn 20 năm qua, thực hiện đường lối Đổi mới do Đảng ta khởi xướng,
lãnh đạo, Nhà nước ta cùng với nhân dân đã đạt được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực
kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Cùng với xu thế chung của thế giới, vấn đề PTBV được
đặt ra ngay từ khi bắt đầu công cuộc Đổi mới. Song đến khi tiến trình này đi vào chiều sâu thì
nó mới thực sự trở nên cấp bách, thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận xã hội. Từ thực tế
phát triển của đất nước, một vấn đề được quan tâm là sự nhận thức sâu sắc hơn về khả năng,
điều kiện đảm bảo PTBV ở Việt Nam, làm sao để có thể kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh
tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường trong quá trình phát triển.
Sự kết hợp hài hòa đó là yêu cầu khách quan từ thực tiễn song, không có nghĩa là sự
thống nhất đó tự nó sẽ diễn ra, mà rất cần đến vai trò của chủ thể, mà trước hết là vai trò của
Nhà nước trong việc tạo ra sự PTBV. Trong những năm qua, bằng các chính sách kinh tế, xã
hội, môi trường đúng đắn, Nhà nước ta đã tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam phát triển với cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
hiện đại, chất lượng cuộc sống của người dân ở các vùng miền được nâng lên, các vấn đề xã
hội từng bước được giải quyết, các nỗ lực nhằm phục hồi và bảo vệ tài nguyên và môi trường
đã đạt được những kết quả nhất định… Tuy nhiên, tình trạng phân hóa giàu nghèo giữa các
nhóm dân cư, giữa các vùng miền đang ngày càng doãng ra, nền kinh tế vẫn có nguy cơ tụt
hậu xa so với các nước, tình trạng tham nhũng, làm ăn phi pháp, ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng, thất nghiệp, tệ nạn xã hội…vẫn đang ngày càng tăng lên, đe dọa đến những thành tựu
PTBV mà Nhà nước và nhân dân ta đang nỗ lực đạt được. Những hạn chế đó có nhiều nguyên
nhân, trong đó có nguyên nhân thuộc về yếu tố chính sách, pháp luật PTBV còn thiếu đồng
bộ, chưa kết hợp hài hòa các nhân tố của PTBV trong quá trình hoạch định và thực thi chính
sách, việc thực hiện chính sách còn nhiều lúng túng, đặc biệt là tình trạng tham ô, tham nhũng
đang trở thành lực cản lớn trên con đường PTBV ở nước ta. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là
Nhà nước cần phải làm thế nào để vừa đạt được sự tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, lại vừa
đảm bảo được sự tiến bộ và công bằng xã hội, đồng thời bảo vệ môi trường trong sạch, sử
dụng tiết kiệm, hợp lý tài nguyên thiên nhiên đất nước. Đây thực sự là vấn đề khó khăn, cần
phải được giải quyết cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Với mong muốn góp phần làm
sáng tỏ hơn vấn đề trên, tác giả đã chọn đề tài “Vai trò của nhà nước với phát triển bền vững
ở Việt Nam” làm đề tài luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu vấn đề phát triển bền vững.
Cùng với xu thế phát triển chung của thế giới và yêu cầu của công cuộc Đổi mới đất
nước, trong nhiều năm trở lại đây vấn đề PTBV được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu. Bằng các công trình nghiên cứu của mình, họ đã có những đóng góp nhất định cho việc
hoàn thiện hệ thống quan điểm lý luận về PTBV ở nước ta.
Đã có hàng loạt công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề PTBV, trước tiên, phải kể
đến công trình do giới nghiên cứu môi trường tiến hành: “Tiến tới môi trường bền vững”
(1995) của Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Công trình này đã tiếp thu và thao tác hóa khái niệm PTBV theo Báo cáo Brundlantd, theo đó,
PTBV được quan niệm như một tiến trình đòi hỏi đồng thời trên bốn lĩnh vực: bền vững về
mặt kinh tế, bền vững về mặt nhân văn, bền vững về mặt môi trường, bền vững về mặt kỹ
thuật.
Công trình “Nghiên cứu xây dựng tiêu chí PTBV cấp quốc gia ở Việt Nam - giai đoạn
I” (2003) do Viện Môi trường và PTBV, Hội liên hiệp các hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam
thực hiện. Trên cơ sở tham khảo bộ tiêu chí PTBV của Bruntland và kinh nghiệm các nước,
các tác giả đã đưa ra các tiêu chí cụ thể về PTBV đối với một quốc gia là bền vững kinh tế,
bền vững xã hội và bền vững môi trường. Đồng thời, nhóm tác giả cũng đề xuất một số
phương án lựa chọn bộ tiêu chí PTBV cho Việt Nam.
Công trình nghiên cứu:“Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững” (2000) do
Lưu Đức Hải chủ biên đã trình bày hệ thống quan điểm lý thuyết và hành động quản lý môi
trường cho PTBV. Công trình này đã xác định PTBV qua các tiêu chí: bền vững kinh tế, bền
vững môi trường, bền vững văn hóa đồng thời tổng quan nhiều mô hình PTBV.
Đề tài cấp Bộ: “Phát triển bền vững từ quan niệm đến hành động” của PGS.TS Hà
Huy Thành (chủ biên), Viện Nghiên cứu Môi trường và PTBV là cơ quan chủ trì thực hiện.
Đề tài đã nghiên cứu những nội dung cơ bản, quá trình hình thành và phát triển của khái niệm,
khuôn khổ, chương trình hành động, chỉ tiêu PTBV của Liên Hợp Quốc và các quốc gia, khu
vực trên thế giới, trên cơ sở đó rút ra những bài học về PTBV phù hợp với điều kiện Việt
Nam.
Cuốn “Phát triển bền vững của Việt Nam: thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng”
(2007) của GS.TSKH Ngô Quang Thái và PGS.TS Ngô Thắng Lợi đã nghiên cứu, phân tích
thực trạng phát triển của kinh tế, xã hội và môi trường Việt Nam trong thời gian Đổi mới,
phân tích những yếu tố hay những điều kiện để có thể giúp Việt Nam đạt được những tiến bộ
khả quan để thực hiện PTBV.
2.2. Tình hình nghiên cứu vấn đề vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững
Thực tế thế kỷ XX chỉ ra rằng nếu đặt sự PTBV vào “bàn tay thị trường” thì không thể
đem lại hiệu quả như mong muốn, bởi những khuyết tật của cơ chế này. Những khuyết tật đó
là căn cứ luận chứng cho sự cần thiết phải có “bàn tay hữu hình” của nhà nước tham gia vào
điều tiết, quản lý xã hội. Song thực tế cũng chứng minh rằng nếu nhà nước can thiệp bất hợp
lý các quá trình phát triển cũng có thể trở thành trở ngại cho PTBV. Do đó, nhà nước can
thiệp đến mức độ nào, sử dụng công cụ như thế nào ở từng giai đoạn phát triển là vấn đề luôn
được quan tâm nghiên cứu.
Xung quanh vấn đề này, trước hết phải nói tới Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế:
“Chính trị và Phát triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế - Những
vấn đề lý luận và thực tiễn”, (2010) do Học viện Báo chí và Tuyên truyền cùng với Văn
phòng Viện Friedrich Ebert (Đức) đồng tổ chức. Cuốn Kỷ yếu này bao gồm rất nhiều bài viết
phong phú về mối quan hệ giữa chính trị với PTBV trong đó, có những bài nghiên cứu về vai
trò nhà nước đối với PTBV như bài: “Vai trò của nhà nước và các đảng phái chính trị đối với
sự phát triển bền vững” của GS.TS Thomas Meyer; bài: “Vai trò của nhà nước với việc phát
triển bền vững ở nước ta hiện nay” của PGS.TS Trần Thành….
Luận án Tiến sỹ Chính trị học: “Vai trò của nhà nước đối với việc thực hiện công bằng
xã hội” (2011) của Võ Thị Hoa. Trong luận án này, vai trò nhà nước được đề cập dưới góc độ
đảm bảo công bằng xã hội trên lĩnh vực kinh tế và xã hội thông qua các chính sách và pháp
luật. Dưới góc độ PTBV thì công bằng xã hội chính là điều kiện để đảm bảo sự kết hợp hài
hòa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội. Do đó, ở mức độ nhất định, các chính
sách nhằm thực hiện công bằng xã hội cũng là nhằm đem lại sự PTBV đất nước.
Luận án Tiến sỹ: “Vai trò của pháp luật đối với phát triển bền vững ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay” (2010) của Võ Hải Long, nghiên cứu vấn đề PTBV dưới góc độ luật
pháp, một công cụ quản lý của nhà nước. Trong luận án, tác giả đã phân tích, đánh giá vai trò
của pháp luật về PTBV kinh tế, xã hội và môi trường, đồng thời nêu lên những giải pháp để
phát huy vai trò của pháp luật đối với PTBV đất nước.
“Quản lý nhà nước đối với tài nguyên và môi trường vì sự phát triển bền vững” (2006)
của Phạm Thị Ngọc Trầm. Tác phẩm này đã phân tích vai trò của nhà nước thông qua việc
tổng quan luật pháp và chính sách về tài nguyên môi trường, đánh giá ưu điểm và hạn chế của
các chính sách đó đối với PTBV, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm bảo vệ bền vững tài
nguyên, môi trường.
Có thể thấy rằng những công trình trên đã đề cập đến ở một mức độ nhất định vai trò
của nhà nước với PTBV ở Việt Nam hiện nay, song chưa có công trình nào nghiên cứu hệ
thống, sâu sắc về vấn đề này dưới góc độ khoa học Chính trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Thông qua việc luận giải một số vấn đề lý luận về PTBV và vai trò nhà nước đối với
PTBV, luận văn tập trung đánh giá vai trò của nhà nước với PTBV ở Việt Nam qua việc thực
hiện các chính sách, pháp luật trên các mặt kinh tế, xã hội và môi trường, từ đó nêu lên những
khuyến nghị nhằm nâng cao hơn nữa vai trò nhà nước với PTBV ở Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện được những mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về PTBV và vai trò của nhà nước với PTBV.
- Phân tích, đánh giá vai trò của nhà nước với PTBV qua việc thực hiện các chính sách
kinh tế, chính sách xã hội và chính sách môi trường.
- Nêu lên những khuyến nghị cơ bản để nâng cao hơn nữa vai trò của nhà nước với
PTBV ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: sự PTBV bị quy định bởi nhiều yếu tố khác nhau, trong luận
văn này hướng vào nghiên cứu vai trò của nhà nước và cụ thể hơn là của nhà nước ta hiện nay
đối với PTBV.
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu của luận văn được giới hạn trong khoảng thời gian
từ 1986 đến nay và tập trung vào phân tích các chính sách của nhà nước ta liên quan đến chủ
đề PTBV.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
- Cơ sở lý luận:
+ Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, của tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển và
vai trò của nhân tố nhà nước đối với phát triển xã hội.
+ Đường lối phát triển đất nước của Đảng cộng sản Việt Nam.
+ Kế thừa thành tựu nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về vấn đề PTBV
và về vai trò của nhân tố nhà nước đối với PTBV.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn vận dụng tổng hợp những nguyên tắc, phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp như: hệ thống, logic - lịch sử,
phân tích, tổng hợp, và so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn đã phân tích lý luận vai trò nhà nước với PTBV.
- Luận văn đã đánh giá vai trò nhà nước đối với PTBV ở Việt Nam trên các phương
diện kinh tế, xã hội và môi trường.
- Luận văn đã đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa vai trò nhà nước đối với
PTBV ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, Luận văn gồm 3 chương và 11 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm phát triển bền vững.
1.1.1. Khái lược lịch sử nghiên cứu.
Sự phát triển của lịch sử nhân loại 300 năm qua cho thấy chính sự phát triển kinh tế
phiến diện, sự gia tăng dân số nhanh chóng nhất là ở các nước đang phát triển đã tiêu thụ một
lượng năng lượng lớn chưa kịp tái tạo, đã đem lại những hệ quả uy hiếp chính cuộc sống của
con người như hiện nay, và là sự cảnh báo rằng phương thức phát triển hiện tại của con người
vẫn chưa bền vững, chứa đựng nhiều rủi ro.
Vậy PTBV là gì? Để đưa ra một khái niệm như hiện nay, nhân loại đã phải trải qua một
quá trình nhận thức lâu dài. Có thể chia làm hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất (từ thế kỷ XVIII đến năm 1987): là quá trình tìm tòi và xác định nội
hàm khái niệm. Từ cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII đến sau Chiến tranh thế giới
thứ hai, ý tưởng PTBV đã hình thành, ban đầu chủ yếu là vấn đề bảo vệ môi trường. Sau các
thảm họa ở Bhopal (Ấn Độ) năm 1984 và Chernobyl năm 1986 thì những nhận thức sâu sắc
về nguy cơ môi trường do con người gây ra cũng như mối quan hệ giữa môi trường và phát
triển càng được quan tâm mạnh mẽ. Do đó, năm 1987, báo cáo “Tương lai chung của chúng
ta” (Báo cáo Bruntland), do Uỷ ban thế giới về Môi trường và phát triển (WCED) đưa ra, đã
xác định nội hàm của khái niệm PTBV, làm tiền đề cho nhận thức của con người.
Giai đoạn thứ hai, đây là giai đoạn hoàn thiện và đưa ý tưởng PTBV vào thực tiễn, với
hai mốc quan trọng:
+ Năm 1992, Hội nghị Thượng đỉnh trái đất về Môi trường và Phát triển do Liên hợp
quốc tổ chức tại Rio de Jannero (Braxin) với sự tham dự của 172 quốc gia trên thế giới. Hội
nghị đã thông qua một số văn kiện quan trọng, tiêu biểu là Tuyên ngôn Rio - 92 và Chương
trình nghị sự 21(Agenda 21).
+ Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh thế giới về PTBV được tổ chức tại Johannesburg
(Nam Phi) với 166 nước tham dự. Hội nghị đã thông qua Bản Tuyên bố Johannesburg và Bản
Kế hoạch thực hiện PTBV, khẳng định lại các nguyên tắc đã đề ra trước đây và tiếp tục cam
kết thực hiện Agenda 21.
Theo đó, “Phát triển bền vững là phát triển kinh tế - xã hội lành mạnh, dựa trên việc sử
dụng hợp lý tài nguyên và bền vững môi trường nhằm đáp ứng nhu cầu của con người hiện
nay và không ảnh hưởng bất lợi đối với các thế hệ tương lai trong việc thỏa mãn nhu cầu của
họ” [38, tr.3].
Khái niệm trên đã bao quát được hai vấn đề cơ bản của PTBV:
Thứ nhất, PTBV phải là sự phát triển kinh tế, xã hội lành mạnh trên cơ sở sử dụng hợp
lý tài nguyên môi trường.
Thứ hai, PTBV còn phải đảm bảo sự công bằng giữa các thế hệ trong việc sử dụng tài
nguyên môi trường. Điều đó có nghĩa là sự tăng trưởng kinh tế trên cơ sở sử dụng tài nguyên
thiên nhiên và bảo vệ môi trường sống vừa thỏa mãn được nhu cầu của thế hệ hôm nay nhưng
cũng không làm ảnh hưởng đến điều kiện thỏa mãn nhu cầu và môi trường sống của các thế
hệ mai sau.
1.1.2. Quan niệm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển bền vững.
Cùng với sự phát triển của thế giới, từ sau năm 1986, Việt Nam đã sớm tiếp thu tư
tưởng về PTBV. Đáng chú ý là năm 1991, Chính phủ đã thông qua “Kế hoạch quốc gia về
môi trường và phát triển bền vững giai đoạn 1991-2000”. Đây là một trong những kế hoạch
quốc gia đầu tiên được xây dựng theo quan điểm PTBV, tạo tiền đề cho quá trình PTBV ở
Việt Nam. Tiếp đó là Chỉ thị số 36-CT/TW về việc “Tăng cường công tác bảo vệ môi trường
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” ngày 25-6-1998 của Bộ Chính trị. Nắm
bắt được xu thế chung của thời đại và yêu cầu cấp thiết khi đẩy mạnh tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII lần đầu tiên
đã đưa vào trong Văn kiện thuật ngữ PTBV. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2001)
đã đánh dấu mốc quan trọng trong hiện thực hóa chủ trương PTBV của Việt nam thể hiện
trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010). Từ bài học về phát triển
nhanh và bền vững, tại Đại hội Đảng lần thứ XI (năm 2011), Đảng ta lại nhấn mạnh một lần
nữa và đã đưa thành quan điểm phát triển đầu tiên trong 5 quan điểm phát triển cho giai đoạn
2011-2015. Đảng ta nhấn mạnh: Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển
bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược.
Năm 2004, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg về “Định hướng
chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam” (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Đây là
một chiến lược khung, bao gồm những định hướng lớn làm cơ sở pháp lý để các Bộ, ngành,
địa phương, các tổ chức và cá nhân có liên quan triển khai thực hiện và phối hợp hành động
nhằm đảm bảo PTBV đất nước trong thế kỷ XXI. Định hướng này nêu lên những thách thức
mà Việt Nam phải đối mặt, đề ra những chủ trương, chính sách, công cụ pháp luật và những
lĩnh vực hoạt động ưu tiên cần được thực hiện để PTBV.
1.2. Vai trò của nhà nước với phát triển bền vững.
1.2.1. Sự cần thiết của vai trò nhà nước trong phát triển bền vững.
Thứ nhất, do yêu cầu nội tại của PTBV.
Thứ hai, do những nhân tố khách quan ảnh hưởng đến PTBV.
Thứ ba, để thực hiện được mục tiêu PTBV, bên cạnh việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm
nguồn tài nguyên thiên nhiên đất nước thì giải pháp chiến lược phải là phát triển nền kinh tế
tri thức.
Thứ tư, kinh nghiệm thành công cũng như không thành công ở Việt Nam và các nước
khác cho thấy, sự thành bại của một quốc gia trước hết phụ thuộc vào chiến lược phát triển.
Thứ năm, PTBV không chỉ cần một chiến lược đúng đắn mà còn rất cần môi trường
thuận lợi, trước hết đó là sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội.
Cuối cùng, PTBV đất nước liên quan đến các ngành, các cấp, mọi cá nhân, tổ chức xã
hội…tức nó có tính xã hội hóa cao.
1.2.2. Nội dung vai trò của nhà nước với phát triển bền vững.
Thứ nhất, Nhà nước thực hiện sự kết hợp hài hòa, hợp lý giữa phát triển kinh tế, xã hội
và bảo vệ môi trường để thực hiện mục tiêu PTBV đất nước.
Thứ hai, Nhà nước tạo điều kiện để phát triển và điều tiết phân bổ các nguồn lực hợp
lý, phục vụ cho sự phát triển liên tục, lâu bền.
Thứ ba, Nhà nước tạo điều kiện để con người được phát triển toàn diện.
Thứ tư, nhà nước thực hiện việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế đồng thời duy trì và
bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa.
1.2.3. Điều kiện đảm bảo vai trò của nhà nước với phát triển bền vững.
Điều kiện về kinh tế - xã hội
Điều kiện về chính trị
Điều kiện về tư tưởng, văn hóa
Điều kiện về pháp lý
1.3. Kinh nghiệm giải quyết vấn đề phát triển bền vững ở một số nước.
1.3.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản
1.3.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc
1.3.3. Kinh nghiệm của Philipin
1.3.4. Một số bài học kinh nghiệm rút ra và ứng dụng cho Việt Nam
TIỂU KẾT
Trong một thời gian dài, con người đã tiến hành một phương thức phát triển không bền
vững. Đứng trước nguy cơ đó, Liên Hợp Quốc đã đưa ra một thuật ngữ mới như một sự bổ
sung, điều chỉnh cho cách thức phát triển hiện tại của con người đó là phương thức PTBV.
Phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới, ngay từ khi bắt đầu công cuộc Đổi mới toàn
diện đất nước, đường lối lãnh đạo của Đảng ta là đưa đất nước PTBV hướng tới mục tiêu
„„dân giàu, nước mạnh, xã hội cồng bằng, dân chủ, văn minh‟‟. Đến khi công cuộc Đổi mới
bước vào chiều sâu thì yêu cầu PTBV được đặt ra cấp thiết hơn bao giờ hết. Lần đầu tiên,
Đảng ta đã đưa thuật ngữ PTBV vào Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII (năm 1996). Sau đó,
trải qua các thời kỳ Đại hội IX, X và XI, tư duy về vấn đề PTBV của Đảng ngày càng có bước
phát triển sâu sắc và toàn diện hơn, phù hợp hơn với yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập
kinh tế quốc tế. Từ đường lối của Đảng về PTBV, Nhà nước đã xây dựng Chiến lược PTBV
của Việt Nam (CTNS 21), trong đó bao quát những vấn đề cơ bản của phát triển như định
hướng PTBV trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường; các nguyên tắc PTBV…Có thể
nói, về mặt lý thuyết, đường lối PTBV của Đảng cũng như CTNS 21 của Nhà nước đã xây
dựng nên khung khổ cho PTBV của Việt Nam trong thế kỷ XXI.
Để đảm bảo thực hiện mục tiêu PTBV đất nước hiện nay, nhân tố chủ quan, trước hết là
nhà nước đóng vai trò quyết định nhất. Chỉ có Nhà nước, bằng các công cụ, nhân tài, vật lực
của mình mới có thể đảm bảo sự kết hợp hài hòa các trụ cột kinh tế, xã hội và môi trường
trong phát triển, khắc phục những khuyết tật của thị trường, duy trì ổn định an ninh xã hội,
đảm bảo an sinh cho người dân, cung cấp các dịch vụ công, thực hiện phát triển văn hóa, giáo
dục, khoa học công nghệ, hợp tác quốc tế về PTBV…Để Nhà nước thực hiện tốt vai trò đó
của mình, cần phải có những những điều kiện nhất định về kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa
tư tưởng. Ở nước ta, tuy điều kiện kinh tế còn khó khăn, nhưng chế độ chính trị XHCN mà
nhân dân ta đang hướng tới cùng với sự tin tưởng của nhân dân vào đường lối của Đảng, Nhà
nước là điều kiện thuận lợi để chúng ta thực hiện PTBV đất nước.
Bên cạnh đó, việc tiếp thu những kinh nghiệm quý báu trong xây dựng và PTBV đất
nước của các nước bạn trong khu vực như Nhật Bản, Trung Quốc và Philippin, những nước
có nhiều điểm tương đồng về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội với Việt Nam cũng sẽ giúp
Nhà nước rút ngắn con đường tìm tòi, thử nghiệm khi thực hiện PTBV.
Chương 2
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Ở VIỆT NAM: THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ
2.1. Vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững về kinh tế
2.1.1. Thành tựu chủ yếu
Thứ nhất, Nhà nước xây dựng và từng bước hoàn thiện môi trường pháp lý cho quá
trình phát triển kinh tế.
Thứ hai, Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần.
Thứ ba, Nhà nước đã thực hiện chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
đẩy mạnh CNH, HĐH.
Thứ tư, Nhà nước đã xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển hệ thống thị
trường.
Thứ năm, Nhà nước thực hiện chính sách điều tiết, phân phối thu nhập để đảm bảo mọi
người dân được hưởng các thành quả kinh tế trong từng giai đoạn phát triển.
2.1.2. Hạn chế chủ yếu
- Việc xây dựng và ban hành một số văn bản pháp luật liên quan đến kinh tế vừa chậm,
vừa thiếu đồng bộ so với kế hoạch, chất lượng chưa cao.
- Chất lượng một số chính sách kinh tế vĩ mô chưa thực sự đảm bảo điều tiết được sự
phát triển các ngành, các thành phần, các lĩnh vực kinh tế theo mục tiêu, chiến lược phát triển
kinh tế đã xác định.
- Chủ trương, quan điểm của Đảng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế là đúng đắn song các
chính sách đảm bảo thực hiện tốt chủ trương đó còn nhiều điểm hạn chế.
- Quá trình hoạch định một số chính sách kinh tế vĩ mô chưa thực sự gắn liền với quá
trình hoạch định chính sách xã hội, thậm chí có điểm của chính sách kinh tế vĩ mô chưa phù
hợp với chính sách xã hội
2.2. Vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững về xã hội
2.2.1. Thành tựu chủ yếu
- Hệ thống chính sách xã hội được xây dựng khá đồng bộ, có chất lượng và phù hợp với
điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội đất nước. Hệ thống chính sách ấy được xây dựng trên cơ sở
quan điểm lấy con người làm trung tâm, coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của
công cuộc Đổi mới, nhờ đó đã khơi dậy và phát huy tiềm năng của mỗi cá nhân và toàn thể
cộng đồng dân tộc trong giải quyết những vấn đề xã hội.
- Theo đó, Nhà nước xác định, giáo dục đào tạo và y tế là hai lĩnh vực rất quan trọng để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, vì thế trong những năm qua, Nhà nước đã đề ra chính
sách đầu tư thỏa đáng cho 2 lĩnh vực này. Các chủ trương, chính sách đổi mới, nâng cao chất
lượng giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước được ban hành, triển khai thực
hiện, tạo bước chuyển biến quan trọng về chất lượng giáo dục, đào tạo và y tế.
- Năm 1992, Chính phủ ban hành Nghị quyết về Chủ trương và biện pháp giải quyết
việc làm. Năm 1998, Chính phủ đã phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và
lập quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm cho các đối tượng không có nhiều cơ hội thuận lợi trong việc
tự tìm kiếm việc làm.
- Chính sách xóa đói giảm nghèo luôn được Nhà nước chú ý quan tâm và coi đây là
việc làm thường xuyên trong suốt quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều chính sách xóa
đói giảm nghèo đã được triển khai từ những năm 1990 (thế kỷ XX) và ngày càng được tăng
cường thực hiện, trở thành cuộc vận động lớn trong nhân dân.
- Chính sách bảo trợ xã hội, chăm sóc người có công với cách mạng cũng được Nhà
nước hết sức chú ý.
- Cùng với việc thực hiện hệ thống chính sách xã hội, Nhà nước ta còn chú trọng đến
việc xây dựng một nền chính trị ổn định, tạo điều kiện cho người dân được phát huy quyền
dân chủ của mình.
2.2.2. Hạn chế chủ yếu
Chính sách mở rộng hệ thống giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục còn chưa đồng
bộ, việc ban hành một số chủ trương, chính sách còn chưa được chuẩn bị chu đáo, gây ảnh
hưởng đến chất lượng giáo dục. Chính sách phát triển y tế nhìn tổng thể còn chưa đồng bộ, có
một vài chính sách chưa thực sự chú ý đến vùng núi, vùng sâu, vùng xa, người đặc biệt khó
khăn, chưa thể hiện thật rõ việc ưu tiên đầu tư đủ mạnh cho vùng này. Chính sách bảo hiểm
xã hội còn trong diện hẹp, mới chủ yếu đề cập đến những người hưởng lương từ ngân sách
Nhà nước.
Trên phương diện chính trị: nhận thức về vấn đề dân chủ còn hạn chế, chưa thấy hết
được tầm quan trọng, ý nghĩa sâu sắc của việc mở rộng dân chủ và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, nhất là nông dân. Trên phương diện văn hóa, chính sách phát triển văn hóa
chưa đồng bộ, chất lượng một số chính sách còn thấp, nhất là chính sách bảo tồn, bảo tàng,
trùng tu các di tích văn hóa, nên trong một số trường hợp đã gây nên tranh luận khá phức tạp.
2.3. Vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững về tài nguyên môi trường
2.3.1. Thành tựu chủ yếu
Về nhận thức, chúng ta đã xác định và thực hiện quan điểm mới về sự phát triển, trong
đó, phát triển kinh tế gắn liền với bảo vệ tài nguyên môi trường trong các chính sách phát
triển. Về thể chế, luật pháp và các chính sách tài nguyên môi trường. Có thể nói, thành tựu
nổi bật trong quản lý Nhà nước đối với tài nguyên môi trường là nhà nước ta đã xây dựng,
thông qua các khuôn khổ thể chế, luật pháp và chính sách môi trường. Về thiết chế, Nhà nước
ta đã hình thành hệ thống các cơ quan quản lý về môi trường từ Trung ương đến các tỉnh,
thành phố.
2.3.2. Hạn chế chủ yếu
Mặc dù vấn đề bảo vệ môi trường ở nước ta trong thời gian qua đã được Nhà nước thể
chế hóa, tổ chức thực hiện và ngày càng được quan tâm, coi trọng song vẫn còn không ít hạn
chế.
Xét về phương diện kinh tế, chưa có sự gắn kết chặt chẽ, hữu cơ giữa các chính sách về
phát triển kinh tế với chính sách bảo vệ môi trường, các chính sách công nghệ chưa thực sự
gắn bó với yêu cầu bảo vệ môi trường.
Hệ thống chính sách, luật pháp về bảo vệ môi trường chưa đồng bộ, hoàn chỉnh. Nhà
nước ta chưa có quy hoạch tổng thể đối với việc khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên môi
trường. Thêm vào đó, ý thức chấp hành và thực hiện đúng pháp luật bảo vệ môi trường của
nhiều đơn vị, cá nhân còn kém. Trong lĩnh vực tổ chức bộ máy, những bất cập được thể hiện
ở chỗ: tổ chức cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường ở Trung ương chưa tương xứng với
nhiệm vụ đặt ra.
2.4. Những vấn đề đặt ra về vai trò của nhà nước với phát triển bền vững ở Việt Nam.
2.4.1. Về chính sách
2.4.2. Sự yếu kém của thành phần kinh tế Nhà nước.
2.4.3. Tham nhũng, lãng phí tác động tiêu cực đến thực hiện vai trò của Nhà nước
với phát triển bền vững.
TIỂU KẾT
Vai trò Nhà nước đối với PTBV được thể hiện qua các chính sách phát triển kinh tế,
xã hội và môi trường. Trong chính sách phát triển kinh tế bền vững, Nhà nước đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn. Việc thực hiện các chính sách kinh tế đã góp phần đem lại tốc độ tăng
trưởng kinh tế khá cao và ổn định, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, ta có điều
kiện vật chất để phát triển các lĩnh vực xã hội và bảo vệ tài nguyên môi trường. Tuy nhiên,
bên cạnh đó, chính sách phát triển kinh tế còn có một số hạn chế, như các văn bản pháp luật
kinh tế còn thiếu và chưa đáp ứng được yêu cầu hiện tại; chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách
chuyển dịch cơ cấu còn đạt kết quả chưa cao; việc điều tiết, phân phối thu nhập còn chưa đủ
mạnh…những hạn chế này khiến cho những thành quả nền kinh tế đạt được còn chưa tương
xứng với tiềm năng của nó.
Trong chính sách phát triển xã hội bền vững, Nhà nước ta rất chú trọng đến các chính
sách giáo dục đào tạo, xóa đói giảm nghèo, chính sách y tế, chính sách bảo hiểm xã hội, chính
sách văn hóa, phát huy quyền dân chủ nhân dân nhằm tạo điều kiện cho mọi người đều được
tiếp cận với các dịch vụ xã hội, được chăm sóc và phát triển toàn diện, được tham gia vào giải
quyết các vấn đề của địa phương và đất nước. Các chính sách đó đều hướng tới mục tiêu xây
dựng một xã hội tiến bộ và công bằng, tạo ra động lực để PTBV đất nước. Những thành tựu
đó đã giúp Việt Nam nâng cao chỉ số phát triển con người xếp thứ 100/177 quốc gia và trở
thành nước thuộc nhóm trung bình cao. Bên cạnh đó, chính sách xã hội còn có những hạn chế
nhất định như: chính sách giáo dục, y tế, văn hóa còn chưa đồng bộ; chính sách bảo hiểm xã
hội còn trong diện hẹp; chính sách giải quyết việc làm còn chưa đáp ứng được nhu cầu về việc
làm trong nhân dân, nhất là lực lượng lao động trẻ tuổi; nhận thức và thực hiện vấn đề dân
chủ vẫn còn hạn chế trong nhân dân và chính quyền địa phương…
Trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên và môi trường, Nhà nước ta đã phản ánh quan điểm
phát triển kinh tế gắn với môi trường trong các chính sách phát triển; bước đầu ta đã xây dựng
và thể chế hóa các luật pháp, chính sách về tài nguyên và môi trường; hình thành được hệ
thống các cơ quan quản lý môi trường từ Trung ương đến địa phương. Nhờ vậy, chúng ta đã
đạt được những tiến bộ nhất định trong bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tuy nhiên, trong
thời gian qua, vấn đề môi trường ở nước ta còn chưa có được sự chuyển biến tích cực mang
tính căn bản, môi trường ở nhiều nơi vẫn tiếp tục bị xuống cấp, nhiều nơi đã đến mức báo
động. Nguyên nhân chủ yếu do việc xây dựng pháp luật và thực hiện chính sách bảo vệ môi
trường còn chậm, thực hiện chưa nghiêm pháp luật bảo vệ môi trường, chưa có sự gắn kết
chặt chẽ chính sách môi trường với các chính sách kinh tế, chính sách khoa học công nghệ; tổ
chức bộ máy Nhà nước trong lĩnh vực này còn thiếu và yếu về lực lượng, trang thiết bị…
Từ những hạn chế trên, có nhiều vấn đề đang đặt ra đòi hỏi Nhà nước phải quan tâm
giải quyết để tạo nên những bước đột phá trong PTBV.
Chương 3
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NÂNG CAO VAI TRÒ
NHÀ NƯỚC VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
3.1. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững.
Thực tiễn Đổi mới ở nước ta cho thấy, để nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển
cần phải đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, nhằm giải phóng và phát
huy mọi tiềm năng và thế mạnh của đất nước. Để cho các thành phần kinh tế phát triển theo
định hướng XHCN, đảm bảo thành quả kinh tế phục vụ cho xã hội và bảo vệ môi trường, Nhà
nước cần có những chủ trương, giải pháp đúng đắn để kinh tế Nhà nước thực sự trở thành chủ
đạo, trở thành công cụ điều tiết vĩ mô hiệu quả của Nhà nước nhằm khắc phục những khuyết
tật của thị trường, đảm bảo công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
3.2. Xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý về phát triển bền vững.
Để tạo khuôn khổ pháp lý cho PTBV, cần nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng và
ban hành các văn bản pháp luật.
Thứ hai, cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong các cơ quan chuyên trách xây
dựng và ban hành văn bản pháp luật.
3.3. Phát triển đồng bộ hệ thống chính sách kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường.
Việc hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế, xã hội và môi trường cần phải được tiến
hành đồng thời và kết hợp theo hướng mỗi chính sách phát triển kinh gắn với mục tiêu xã hội,
bảo vệ môi trường; mỗi chính sách xã hội, môi trường cần phải dựa trên tiền đề vật chất của
quá trình tăng trưởng kinh tế và phải tạo động lực cho quá trình phát triển kinh tế. Tránh tình
trạng thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhưng lại gây ảnh hưởng xấu đến giải quyết các
vấn đề xã hội, làm cho bất bình đẳng xã hội tăng lên, môi trường bị suy thoái, cũng như triển
khai các chính sách xã hội, môi trường lại làm cản trở đến quá trình tăng trưởng kinh tế.
3.4 Xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh và hiệu quả
Nhà nước cần tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, làm rõ chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền của từng cơ quan trong hệ thống hành chính.
Nhà nước cần đẩy nhanh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý hành chính, hình
thành từng bước Chinh phủ điện tử nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý.
Nhà nước tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cả về năng
lực và phẩm chất nhằm đáp ứng yêu cầu thực thi công việc hiệu quả.
Tăng cường công tác thanh tra, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh những hành vi tiêu
cực như thói hách dịch, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân, thái độ nhũng nhiễu gây phiền
hà…phải cương quyết xử lý và xử lý kịp thời những cán bộ vi phạm, kiểm điểm đồng thời
đưa ra khỏi bộ máy của Đảng, chính quyền những người không đủ năng lực, phẩm chất, mất
đoàn kết nội bộ, bị suy thoái đạo đức.
Nhà nước cần mở rộng và phát huy hơn nữa dân chủ phải đảm bảo các thể chế dân chủ
được chế định bằng nguyên tắc, luật pháp và chuẩn mực văn hóa đạo đức.
TIỂU KẾT
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, PTBV trở thành phương thức
phát triển mới của các nước trên thế giới. Đảng ta đã khẳng định quan điểm phát triển trong
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI là phát triển nhanh, bền vững đất nước, đồng thời nâng cao
hiệu quả quản lý của Nhà nước. Trong bối cảnh hiện nay, vai trò Nhà nước không những
không suy giảm mà còn cần thiết hơn bao giờ hết để quản lý sự phát triển. Do vậy, việc nâng
cao vai trò Nhà nước hiện nay cần tập trung vào thực hiện những giải pháp cơ bản là:
Thứ nhất, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN làm nền
tảng vật chất để Nhà nước phát huy vai trò đối với PTBV. Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện cơ
sở pháp lý cho sự PTBV. Thứ ba, Nhà nước cần kết hợp chặt chẽ chính sách kinh tế, chính
sách xã hội và chính sách môi trường trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách, các
dự án, kế hoạch phát triển, sao cho chính sách kinh tế cần gắn với mục tiêu xã hội và bảo vệ
môi trường; đồng thời chính sách xã hội và chính sách môi trường cần dựa trên tiền đề vật
chất của nền kinh tế và tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế. Thứ tư, cần xây dựng một bộ
máy nhà nước trong sạch, vững mạnh và nâng cao hiệu quả quản lý. Muốn vậy, cần phải kiểm
soát quyển lực Nhà nước về mặt thể chế, đơn giản các hoạt động tổ chức bộ máy Nhà nước để
xây dựng một Nhà nước dân chủ và tự chịu trách nhiệm.
Các giải pháp trên đây mang tính cơ bản và toàn diện về kinh tế, chính sách, con
người, tổ chức và hoạt động bộ máy quản lý lãnh đạo nhằm nâng cao hơn nữa vai trò Nhà
nước đối với PTBV ở Việt Nam hiện nay. Việc thực hiện các giải pháp này cần thời gian và
trên hết là cần sự nỗ lực, quyết tâm, ham học hỏi, sự linh hoạt, nhạy bén, biết dựa vào dân của
đội ngũ lãnh đạo đất nước.
KẾT LUẬN
Sự phát triển của các quốc gia luôn là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu nhằm tìm ra những lý thuyết để cắt nghĩa sự thịnh vượng và phát triển. Đã có giai đoạn,
sự phát triển được đồng nhất với tăng trưởng kinh tế về khía cạnh số lượng thông qua các chỉ
số GDP hay GNP, sự giàu có của một quốc gia được đo bằng mức độ giàu có và phong phú
của nguồn tài nguyên thiên nhiên. Những quan niệm đó đã dẫn dắt con người đến một cách
thức tăng trưởng bằng mọi giá, ra sức khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên hiện có. Hậu
quả cho những quốc gia phát triển theo mô hình trên là khủng hoảng môi trường tự nhiên, tài
nguyên cạn kiệt không thể tái tạo được, đói nghèo, gia tăng khác biệt xã hội, mất ổn định
chính trị…điều đó đã đe dọa sự sống còn của nhân loại và tước đi cơ hội phát triển của các thế
hệ mai sau.
Ý thức được vấn đề đó, vào nửa cuối thế kỷ XX, Liên Hợp Quốc đã đưa ra ý tưởng
phát PTBV như là một sự điều chỉnh, bổ sung cần thiết và hữu ích cho quan niệm phát triển
truyền thống. Tuy nhiên, ngay sau khi được thừa nhận chính thức vào năm 1992, vấn đề này
đã gây ra nhiều tranh luận. Trên quan điểm chung nhất, PTBV được hiểu là sự đồng tiến hóa
của tự nhiên và xã hội, bao gồm 3 mặt cơ bản là kinh tế, môi trường và xã hội. Và nguyên tắc
đầu tiên, quan trọng nhất đó là con người là trung tâm của sự phát triển. Có thể nói rằng,
PTBV là thuật ngữ mới trong xã hội hiện đại, nó bao quát nhiều vấn đề về phát triển đang đặt
ra nhưng đồng thời nó cũng kế thừa những giá trị trong quan niệm về phát triển trước đó.
Dưới góc độ Chính trị học, chúng ta thấy rằng muốn phát triển các trụ cột PTBV cần
phải có sự tác động của quyền lực chính trị, cơ bản là quyền lực nhà nước. Sự tác động của
nhà nước đóng vai trò là nhân tố chủ quan, bằng nghệ thuật lãnh đạo, quản lý, nhà nước đảm
bảo sự phát triển đồng bộ, tương thích hài hòa ba trụ cột chính của PTBV.
Là một nước đang phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nước ta
đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp. Trong tiến trình đó, toàn Đảng, toàn dân ra sức đẩy mạnh sản xuất, nhờ
vậy, nền kinh tế đạy được tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện
đại, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, các dịch vụ y tế, giáo dục, bảo hiểm xã
hội ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu nhân dân. Tuy nhiên, kinh tế thị trường đã không thể
tự khắc phục được những mâu thuẫn trong quá trình phát triển như những cuộc khủng hoảng
kinh tế, buôn lậu, hàng giả, làm ăn phi pháp, phân hóa giàu nghèo, tài nguyên cạn kiệt, môi
trường bị suy thoái, tham nhũng…
Để khắc phục những hạn chế đó đồng thời đảm bảo đất nước phát triển theo đúng định
hướng chính trị mà Đảng và nhân dân đã lựa chọn, Nhà nước đã thể chế hóa chính sách PTBV
trên cơ sở đường lối PTBV của Đảng qua các thời kỳ phát triển. Đặc biệt, khi công cuộc Đổi
mới đi vào chiều sâu, Nhà nước càng quan tâm chú ý thể chế hóa các quan điểm về PTBV của
Đảng thành các quy định pháp luật, thành các chính sách cụ thể, nhằm PTBV kinh tế, xã hội
và môi trường. Để PTBV về kinh tế, Nhà nước đã có các chính sách như chính sách phát triển
các thành phần kinh tế, chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chính sách phân phối…Để
PTBV về xã hội, Nhà nước chú trọng xây dựng và thực hiện các chính sách về văn hóa, giáo
dục, y tế, bảo hiểm xã hội, chính sách xóa đói giảm nghèo Để PTBV về môi trường, Nhà
nước thực hiện các chính sách về phát triển và bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tài
nguyên khoáng sản, chống ô nhiễm môi trường, chống biến đổi khí hậu…Trên từng trụ cột
chính của PTBV, Nhà nước đều có các chính sách cụ thể nhằm đảm bảo sự phát triển đồng bộ
các lĩnh vực trong quá trình phát triển đất nước. Và trong bản thân mỗi chính sách lại là một
tổng thể hài hòa các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường. Chính sách xóa đói giảm nghèo
không chỉ nhằm mục tiêu xã hội là cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân, giúp họ có
cơ hội được tiếp cận với các dịch vụ công, không chỉ thể hiện mục tiêu kinh tế rõ rệt là tăng
thu nhập cho người dân, giúp họ thoát nghèo đói mà còn có ý nghĩa bảo vệ môi trường sống,
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên rừng đang bị xâm hại bởi sự nghèo đói, đồng
thời góp phần giữ vững ổn định chính trị và tăng cường lòng tin của nhân dân vào chính sách
của Nhà nước.
Chiến lược PTBV đã đem lại nhiều thành tựu về kinh tế, xã hội, môi trường trong sự
phát triển đất nước. Đến nay Việt Nam đã thoát khỏi một nước nghèo và vươn lên đến trình
độ trung bình trong phát triển. Những thành tựu đó là sự ghi nhận những cố gắng lớn lao của
Nhà nước và nhân dân trong việc xây dựng và thực hiện mục tiêu PTBV, mặc dù trong quá
trình phát triển, vẫn còn nhiều thách thức về kinh tế, xã hội và môi trường đang đặt ra trước
mắt buộc các nhà quản lý phải giải quyết để tạo đà cho sự phát triển. Muốn vậy, trước hết Nhà
nước phải trở thành một Nhà nước pháp quyền XHCN trong sạch, vững mạnh, đảm bảo phát
huy dân chủ trong quản lý đời sống xã hội, xây dựng được một đội ngũ cán bộ vừa tài năng
vừa nhiệt tình, tâm huyết, các chính sách phát triển cần kết hợp hợp lý, hài hòa các mục tiêu
kinh tế, xã hội và môi trường.
References.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật gia Thy An (2010), Chính sách hỗ trợ của nhà nước cho người dân ở vùng khó
khăn, Nxb Dân trí, Hà Nội.
2. Ban Tuyên giáo tư tưởng (2011), Tài liệu học tập các văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng (Dùng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Phạm Thị Thanh Bình (2004), Vai trò của nhà nước trong phát triển kinh tế ở Philipin,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Nguyễn Đức Chiện (2005), “Phát triển bền vững - tiền đề lịch sử và nội dung khái
niệm”, tạp chí nghiên cứu con người, số 1, tr. 32-36.
5. Nguyễn Cúc (1997), Tác động của nhà nước nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
6. Trần Văn Chử (2004), Tài nguyên thiên nhiên môi trường với tăng trưởng và phát triển
bền vững ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (2009), Nhà nước là những con số cộng giản đơn, Nxb
Lao động, Hà Nội.
9. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập
(Đại hội VI, VII, VIII, IX, X), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Lê Minh Đức (2004), “Về định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam:
Chương trình nghị sự 21”, tạp chí Tư tưởng văn hóa, số 9, tr.55-57,61.
11. Lê Minh Đức (2005), “Qua một năm thực hiện định hướng Chiến lược phát triển bền
vững”, tư tưởng văn hóa, số 2, tr. 51-54.
12. Đoàn Thị Thu Hà (2007), Giáo trình Chính sách kinh tế xã hội, Nxb Khoa học kỹ thuật,
Hà Nội.
13. Lưu Đức Hải (2005), Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
14. Võ Thị Hoa (2011), Vai trò của nhà nước đối với việc thực hiện công bằng xã hội, Luận
án Tiến sĩ Chính trị học, Học viện báo chí và tuyên truyền, Hà Nội.
15. Học viện báo chí và tuyên truyền (2009), Chính trị và Phát triển bền vững trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học quốc tế, Nxb Chính trị - hành chính, Hà Nội.
16. PGS.TS Nguyễn Thị Hồi (2010), Những nội dung căn bản của môn học Lý luận nhà
nước và pháp luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
17. Jared Diamond (2007), Sụp đổ - Các xã hội đã thành công hay thất bại như thế nào?,
Nxb Tri thức, Hà Nội.
18. Nguyễn Đức Khiên (2010), Thực thi luật và chính sách bảo vệ môi trường của Việt Nam
giai đoạn 2001 - 2010, Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội.
19. Võ Hải Long (2010), Vai trò của pháp luật đối với phát triển bền vững ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
20. Ngô Thắng Lợi (2008), Kinh tế phát triển, Nxb Lao động, Hà Nội.
21. Ngân hàng thế giới (1997), Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Báo cáo tình
hình phát triển thế giới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Ngân hàng thế giới ( 2008), Phân tích Xã hội Quốc gia Dân tộc và Phát triển ở Việt
Nam, báo cáo vắn tắt, Nxb Thế giới, Hà Nội.
23. Ngân hàng thế giới (Nhóm IEG) (2008), Xây dựng hệ thống giám sát và Đánh giá như
thế nào để hoàn thiện công tác quản lý của nhà nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
24. Ngân hàng thế giới (2010), Báo cáo phát triển Việt Nam 2010: Các thể chế hiện đại, Kỷ
yếu Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam.
25. Đặng Kim Sơn (2007), Ba bàn tay thị trường, nhà nước và cộng đồng ứng dụng cho Việt
Nam, Nxb Trẻ, Hà Nội.
26. Lê Anh Sơn, Nguyễn Công Mỹ (2005), “Xác định bộ tiêu chí và cơ chế xây dựng cơ sở
dữ liệu phát triển bền vững ở Việt Nam”, tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 9, tr.35 37,40.
27. GS.TSKH Ngô Quang Thái và PGS.TS Ngô Thắng Lợi (2007),
Phát triển bền vững của Việt Nam: thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng, Nxb Lao
động xã hội, Hà Nội.
28. Thaddeus C.Thzyna (2001), Thế giới bền vững: Định nghĩa và trắc lượng phát triển bền
vững, Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách khoa học và công nghệ, Hà Nội.
29. Hà Huy Thành (2009), Phát triển bền vững - từ quan niệm đến hành động, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
30. Bùi Tất Thắng (2010), Phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế Việt Nam thời kỳ 2011-
2020, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
31. PGS.TS Trần Đình Thiên (2009), Đột phá phát triển: gợi ý từ kinh nghiệm, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
32. Thủ tướng Chính phủ (2004), „„Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 153/2004/QĐ-
TTG ngày 17/8/2004 về việc ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở
Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam)‟‟, công báo, số 33-34.
33. Phạm Thị Ngọc Trầm (2006), Quản lý nhà nước đối với tài nguyên và môi trường vì sự
phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội, nhân văn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
34. Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Tổng hợp Hà Nội (1995), Tiến
tới môi trường bền vững, Hà Nội.
35. Đinh Thị Minh Tuyết (2004), “Vai trò của nhà nước trong mục tiêu giảm đói nghèo ở
Việt Nam”, tạp chí Quản lý nhà nước, số 12, tr.18-22.
36. Mai Hữu Trực (2004), Vai trò của nhà nước trong phân phối thu nhập ở nước ta hiện
nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
37. TS. Lưu Minh Văn (2009), Các lý thuyết phát triển xã hội, Khoa Chính trị học, Trường
Đại học Khoa học xã hội và nhân văn.
38. Viện Nghiên cứu Môi trường và Phát triển bền vững (2006), Báo cáo hội thảo khoa học
về môi trường và phát triển bền vững, Hà Nội.
39. Phạm Thái Việt (2008), Vấn đề điều chỉnh chức năng và thể chế của nhà nước dưới
tác động của toàn cầu hóa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.