Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Xây dựng đạo đức sinh thái ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 32 trang )

Xây dựng đạo đức sinh thái ở Việt Nam hiện
nay

Đoàn Thu Nguyệt


Trường Đại học KHXH&NV
Luận văn ThS. Chuyên ngành: Triết học; Mã số: 60 22 80
Người hướng dẫn: PGS.TS Dương Văn Thịnh
Năm bảo vệ: 2013




Abstract: Phân tích, làm rõ khái niệm đạo đức sinh thái và tầm quan trọng, nội dung của việc
xây dựng đạo đức sinh thái. Làm rõ những nhân tố tác động đến việc xây dựng đạo đức sinh thái
ở Việt Nam hiện nay. Đánh giá thực trạng xây dựng đạo đức sinh thái và kiến nghị một số giải
pháp xây dựng đạo đức sinh thái ở nước ta hiện nay.

Keywords: Triết học; Đạo đức sinh thái.

Content:



92
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1

NỘI DUNG


10

Chương 1: ĐẠO ĐỨC SINH THÁI VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI
VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC SINH THÁI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
10

1.1. Đạo đức sinh thái 10
1.1.1. Lược khảo một số quan điểm về đạo đức sinh thái 10
1.1.2.Khái niệm và đặc trưng cơ bản của đạo đức sinh thái 14
1.2. Xây dựng đạo đức sinh thái 24
1.2.1 Cơ sở lý luận để xây dựng đạo đức sinh thái 24
1.2.2 Nội dung cơ bản của xây dựng đạo đức sinh thái 28
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới việc xây dựng đạo đức sinh thái ở
Việt Nam hiện nay 33
1.3.1.Các giá trị đạo đức sinh thái truyền thống 33
1.3.2. Yêu cầu phát triển bền vững, phát triển khoa học công nghệ và
xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 38
1.3.3 Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng đạo đức sinh
thái ở Việt Nam 46
* Kết luận chương 1 49
Chương 2: XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC SINH THÁI TRONG QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
51

2.1. Thực trạng xây dựng đạo đức sinh thái ở Việt Nam hiện nay 51
2.1.1. Một số kết quả và hạn chế của quá trình xây dựng đạo đức sinh thái ở
Việt Nam hiện nay 51
2.1.2 Các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự suy giảm đạo đức sinh thái ở
Việt Nam 65
2.2 Một số giải pháp xây dựng đạo đức sinh thái mới ở Việt Nam

hiện nay 68
2.2.1. Giải pháp về xây dựng ý thức đạo đức sinh thái 69
2.2.2. Giải pháp về xây dựng quan hệ đạo đức sinh thái 78
2.2.3. Giải pháp về xây dựng hành vi đạo đức sinh thái 81
* Kết luận chương 2 82
KẾT LUẬN
84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
86




3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa
học – công nghệ hiện đại đã dẫn đến những biến đổi to lớn trên nhiều
lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, những thành công
kỳ diệu về kinh tế và khoa học công nghệ dẫn đến mặt trái là tình
trạng ô nhiễm môi trường sống bởi việc xả bừa bãi các chất thải công
nghiệp, lạm dụng các chất hóa học trong sử dụng nông nghiệp; nguồn
tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, thiên tai, hạn hán lũ lụt thường
xuyên xảy ra, khí hậu trái đất đang nóng dần lên… Nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến tình trạng này là do nhu cầu ngày càng tăng của nền sản
xuất xã hội, do sự chưa hoàn thiện của kỹ thuật và công nghệ khai
thác và chế biến, do sự hiểu biết hạn chế của con người đối với môi
trường thiên nhiên… Ngoài ra còn phải kể đến các yếu tố xã hội –
nhân văn như văn hóa, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán, luật

pháp, tâm lí…
Trong thực tế, những hành vi phá hoại môi trường thường lâu
nay chỉ bị quy về trách nhiệm pháp lý hình sự, và bị xét xử theo luật
định, chứ hầu như không bị lên án về phương diện đạo đức lối sống.
Điều đó chứng tỏ rằng từ trong quan niệm xã hội đã coi việc khai
thác, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi
trường chỉ là việc làm bắt buộc cưỡng chế chứ không phải là việc làm
tự giác, là thói quen tập quán xuất phát từ sự tự ý thức về nghĩa vụ,
trách nhiệm của mỗi công dân. Điều đó có nghĩa là vấn đề đạo đức
của con người đối với môi trường tự nhiên – đạo đức sinh thái hiện
nay cần được quan tâm hơn nữa.
Hiện nay, xã hội Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát
triển mới với việc tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường hướng tới mục tiêu không
chỉ đơn giản là tăng trưởng kinh tế mà còn là phát triển bền vững.
Việc thực hiện đồng loạt các mục tiêu đó không chỉ tác động toàn

4
diện, mạnh mẽ tới các quan hệ giữa con người với con người mà còn
tấn công sâu sắc tới các quan hệ giữa con người với tự nhiên bao gồm
cả mặt tích cực lẫn tiêu cực. Biểu hiện tiêu cực rõ nhất mà chúng ta
có thể thấy là những biến đổi nhanh chóng của môi trường sống theo
chiều hướng ngày càng xấu dần. Điều này gây nên những hậu quả
không thể lường trước được cho cả tự nhiên, xã hội và con người. Do
đó việc xây dựng đạo đức sinh thái là một yêu cầu cấp thiết mà thực
tiễn đặt ra cho Việt Nam.
Những điều đã nói ở trên cho thấy việc xây dựng đạo đức sinh
thái mới, tạo lập được mối quan hệ hài hòa, tốt đẹp giữa con người và
tự nhiên là một mắt xích quan trọng nhất của việc chống lại suy thoái
môi trường hiện nay. Triết học với tư cách là khoa học chỉ dẫn thế

giới quan và phương pháp luận cho hoạt động thực tiễn của con
người không thể đứng ngoài cuộc.
Xuất phát từ những lí do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Xây
dựng đạo đức sinh thái ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu
của luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu
Khi xem xét vấn đề đạo đức sinh thái, chúng ta cần đặc biệt
quan tâm đến các nghiên cứu sâu sắc, toàn diện của tác giả Phạm Thị
Ngọc Trầm. Các nghiên cứu của tác giả này cho thấy vấn đề đạo đức
sinh thái ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường, xu thế toàn cầu hóa
và các biện pháp khắc phục. Nổi bật là tác phẩm Môi trường sinh
thái- Vấn đề và giải pháp (1997) và rất nhiều bài báo trên các tạp chí
Triết học, Tạp chí Cộng sản như Tư tưởng của Ph. Ăng ghen về tính
thống nhất vật chất của thế giới và ý nghĩa của nó đối với việc giải
quyết vấn đề sinh thái hiện nay (1995); Đạo đức sinh thái: từ lí luận
đến thực tiễn (1999); Vấn đề xây dựng đạo đức sinh thái trong điều
kiện kinh tế thị trường (2002); Đạo đức sinh thái trong hoạt động
khai thác, sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường
vì sự phát triển bền vững (2005).

5
Các nghiên cứu của PGS. TS Phạm Thị Ngọc Trầm đã mang
lại những chỉ dẩn bổ ích cho tác giả khi đi nghiên cứu đạo đức sinh
thái với tư cách là một trong những yếu tố đảm bảo cho sự phát triển
bền vững. Bởi vấn đề phát triển bền vững trong những năm gần đây
được đặc biệt quan tâm. Nổi bật là các tác phẩm: Không chỉ là tăng
trưởng về kinh tế - nhập môn phát triển bền vững (2005) do Lê Kim
Tiến dịch, Triết lí phát triển ở Việt Nam mấy vấn đề cốt yếu (2005)
của Phạm Xuân Nam, Phát triển bền vững ở Việt Nam: Thành tựu, cơ
hội thách thức và triển vọng (2007) của Nguyễn Quang Thái.

Bên cạnh đó, cũng có nhiều nghiên cứu đã vạch ra được quan
hệ giữa phát triển bền vững với việc cư xử hòa hợp với tự nhiên, môi
trường, đồng thời đưa ra được những biện pháp để bảo vệ môi
trường, xây dựng đạo đức sinh thái và hướng đến phát triển bền
vững: Phạm Văn Boong (2002): Xây dựng ý thức sinh thái – yếu tố
đảm bảo cho sự phát triển lâu bền; Nguyễn Văn Lũy, Phạm Thành
Nghị (2005): Nâng cao ý thức cộng đồng vì mục tiêu phát triển bền
vững; Phạm Quang Thao (1998): Thương mại - môi trường và phát
triển bền vững ở Việt Nam; Bùi Văn Dũng (2005): Cơ sở vật triết học
nghiên cứu mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa, chìa khóa cho sự
phát triển lâu bền của xã hội và gần đây nhất là tác phẩm Môi trường
và phát triển bền vững (2009) của Lê Văn Khoa.
Nhìn chung các công trình, bài viết được liệt kê ở trên chủ yếu
mang tính chất chung, chưa có một công trình tương đối hệ thống đi
sâu nghiên cứu vấn đề này. Hi vọng luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ
hơn vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề cơ bản về lí luận và
thực tiễn của đạo đức sinh thái, luận văn đi vào khảo sát thực trạng và
đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao việc xây dựng đạo
đức sinh thái ở Việt Nam hiện nay.

6
Nhiệm vụ:
 Phân tích, làm rõ khái niệm đạo đức sinh thái và tầm quan
trọng, nội dung của việc xây dựng đạo đức sinh thái.
 Phân tích làm rõ những nhân tố tác động đến việc xây dựng
đạo đức sinh thái ở Việt Nam hiện nay.
 Đánh giá thực trạng xây dựng đạo đức sinh thái và kiến
nghị một số giải pháp xây dựng đạo đức sinh thái ở nước ta hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
 Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề xây dựng đạo đức sinh
thái ở Việt Nam.
 Phạm vi nghiên cứu là khảo sát thực trạng xây dựng đạo
đức sinh thái ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay (trong bối cảnh toàn
cầu hóa, xây dựng kinh tế thị trường và yêu cầu phát triển bền vững).
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
 Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê nin,
quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về đạo đức, tăng
trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường là cơ sở lý luận cho việc giải quyết
nhiệm vụ của luận văn.
 Phương pháp nghiên cứu chủ yếu sử dụng trong luận văn là
kết hợp giữa logic – lịch sử, phân tích – tổng hợp, so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ thêm khái niệm, thực trang xây
dựng đạo đức sinh thái ở góc độ lý luận và thực tiễn.
Đồng thời bước đầu đề ra những giải pháp xây dựng đạo đức
sinh thái ở Việt Nam hiện nay
7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài
 Luận văn góp phần làm rõ khái niệm đạo đức sinh thái ở
góc độ lí luận và thực tiễn, làm rõ tầm quan trọng của việc xây dựng
đạo đức sinh thái đồng thời bước đầu đề ra những giải pháp xây dựng
đạo đức sinh thái mới ở nước ta.

7
 Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho chuyên
đề giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, đạo đức sinh thái, môi trường,
mối quan hệ giữa kinh tế và sinh thái.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,

luận văn gồm 2 chương và 5 tiết


NỘI DUNG

CHƢƠNG 1
ĐẠO ĐỨC SINH THÁI VÀ NHỮNG NHÂN TỐ
ẢNH HƢỞNG TỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC SINH THÁI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. Đạo đức sinh thái
1.1.1. Lược khảo một số quan điểm về đạo đức sinh thái
Cuối những năm bốn mươi của thế kỷ XX, trong việc giải quyết
vấn đề môi trường, ở phương Tây đã xuất hiện một lý thuyết đạo đức gọi
là đạo đức học sinh thái. Tiền bối trực tiếp của đạo đức học sinh thái là
Alado Leopold.
Thập kỷ 80 của thế kỷ XX được đánh dấu một bước ngoặt khi
xuất hiện quyển sách “Tôn trọng thiên nhiên” của Paul Taylor. Từ đó
đến nay, đạo đức học sinh thái đi theo hai dòng: đạo đức duy sinh vật
gắn với tên tuổi của Paul W.Taylor, và đạo đức duy sinh thái gắn liền
với tên tuổi của Arne Naiess.
Thời gian gần đây, do các vấn đề suy thoái môi trường nổi lên
như một vấn đề nghiêm trọng của xã hội hiện đại, khái niệm đạo đức
sinh thái hay đạo đức môi trường được sử dụng phổ biến hơn thay thế
cho các khái niệm đạo đức duy sinh thái hay đạo đức duy sinh vật đã
nói ở trên.

8
1.1.2.Khái niệm và đặc trưng cơ bản của đạo đức sinh thái
 Khái niệm

Đạo đức sinh thái được hình thành trong quá trình con người
tác động vào tự nhiên, lấy từ nó những vật phẩm cần thiết cho sự tồn
tại và phát triển của mình. Đây là một quá trình hiện thực, xuất hiện
từ khi con người thoát ra khỏi thế giới động vật và tiếp diễn theo tiến
trình lịch sử, được thực hiện trong sự phát triển, thay thế lẫn nhau
giữa các hình thái kinh tế xã hội cụ thể. Theo chúng tôi, đạo đức sinh
thái chính là một phần của đạo đức xã hội nói chung. Do đó, đạo đức
sinh thái cũng bao gồm một hệ thống những quan điểm, quan niệm,
tư tưởng, tình cảm, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực… quy định,
điều chỉnh hành vi của con người trong quá trình biến đổi và cải tạo tự
nhiên nhằm phục vụ cho sự sống của con người nhung vẫn phải đảm
bảo cho sự cân bằng, tôn trọng khả năng có thể phục hồi của tự nhiên.
Để xây dựng đạo đức mới đó, các nhà đạo đức học sinh thái cho
rằng, cần thiết phải phê phán và đoạn tuyệt với cơ sở nhận thức của đạo
đức truyền thống về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Theo họ,
quan hệ giữa con người và tự nhiên trong truyền thống được xây dựng
trên 3 quan niệm căn bản là: chủ nghĩa nhân bản của Hi Lạp cổ đại,
Thuyết sáng thế của Thiên chúa giáo và chủ nghĩa duy lý thời Khai sáng.
Như vậy, nhận thức sai lầm về quan hệ giữa con người và tự nhiên
đã dẫn đến hành động sai lầm và vô đạo đức của con người đối với tự
nhiên. Để bảo vệ tự nhiên và bảo vệ chính con người, cần xây dựng một
nền đạo đức mới: đạo đức sinh thái với những đặc trưng cơ bản sau:
 Đặc trưng cơ bản của đạo đức sinh thái
Là một hình thức của đạo đức xã hội, đạo đức sinh thái ngoài
những đặc trưng chung của đạo đức xã hội còn có nhiều nét đặc trưng
riêng của mình.
Thứ nhất, đạo đức sinh thái không chỉ giới hạn trong mối quan
hệ trực tiếp giữa con người với môi trường tự nhiên mà con được thể
hiện trong quan hệ giữa con người với con người.


9
Thứ hai, đạo đức sinh thái là một dạng thức đặc biệt của đạo
đức xã hội. Nói đến đạo đức là phải nói đến quan hệ giữa chủ thể và
khách thể đạo đức. Trong quan hệ đạo đức xã hội nói chung con
người có thể vừa là chủ thể, vừa là khách thể. Nhưng trong quan hệ
đạo đức sinh thái, con người bao giờ cũng là chủ thể đạo đức, tác
động lên tự nhiên một cách có ý thức, có mục đích để mang lại lợi
ích về cho mình, còn tự nhiên chỉ là khách thể.
Thứ ba, đạo đức sinh thái đòi hỏi tính tự giác cao độ của con người.
Thứ tư, cũng như đạo đức xã hội, đạo đức sinh thái cũng được
biểu hiện trước tiên thông qua quan hệ lợi ích và giá trị. Tuy nhiên lợi
ích và giá trị trong đạo đức sinh thái mang tính đặc thù.
Thứ năm, đạo đức sinh thái cũng như đạo đức xã hội xét về
mặt cấu trúc cũng bao gồm ba yếu tố: ý thức đạo đức sinh thái, quan
hệ đạo đức sinh thái và hành vi đạo đức sinh thái.
Thứ sáu, về bản chất đạo đức sinh thái mang tính xã hội
Thứ bảy, ngoài những đặc trưng kể trên, đạo đức sinh thái còn
mang tính lịch sử cụ thể.
Từ những đặc trưng kể trên, có thể nhận thấy điểm khác biệt
căn bản giữa đạo đức xã hội và đạo đức sinh thái là ở chỗ: nếu ở đạo
đức xã hội, mối quan hệ giữa con người với con người được điều
chỉnh bởi hành vi của con người đối với con người, con người với xã
hội thông qua cơ chế lợi ích và được thực hiện bằng sự tự ý thức và
dư luận xã hội, nghĩa là sự tác động diễn ra theo hai chiều, từ chủ thể
đến khách thể và ngược lại, thì ở đạo đức sinh thái, mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên được điều chỉnh bởi hành vi của con người
thông qua lợi ích, song sự tác động đó chỉ diễn ra theo một chiều từ
chủ thể (con người) đến khách thể (tự nhiên), còn chiều ngược lại,
tức là sự tác động của tự nhiên đến con người chỉ nhận biết được sau
tất cả những hậu quả mà con người gây ra cho tự nhiên.


10
1.2. Xây dựng đạo đức sinh thái
1.2.1 Cơ sở lý luận để xây dựng đạo đức sinh thái
Với luận điểm nổi tiếng là triết học không chỉ giải thích thế
giới mà còn cải tạo thế giới – triết học Mác cũng không nằm ngoài
truyền thống con người chinh phục tự nhiên của văn hóa Châu Âu.
Tuy nhiên, cái triết lí con người cải tạo thế giới và chinh phục tự
nhiên của C.Mác khác hẳn với những quan niệm trước đó. C.Mác và
Ăngghen một mặt khẳng định con người với năng lực và sự sáng tạo
phi thường của mình – có thể cải tạo thế giới, trong đó có giới tự
nhiên; mặt khác lại cho rằng sự tác động của con người vào giới tự
nhiên có thể gây nên những hậu quả môi sinh nghiêm trọng không
lường trước được. Quan điểm của C.Mác phản ánh chính logic nội tại
của thực tiễn. Bởi hoạt động lao động nhằm cải tạo tự nhiên là tiền
đề, điều kiện cần thiết để con người duy trì sự tồn tại và phát triển
của mình.
Tuy nhiên, con người cũng chỉ là một bộ phận của giới tự
nhiên nên nó không thể đối xử với tự nhiên bằng thái độ và hành
động của kẻ đứng ngoài, bất chấp các quy luật của tự nhiên. Do vậy,
để tạo nên quan hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên – nền tảng cho
sự phát triển bền vững của xã hội, con người phải thay đổi nhận thức
về vai trò của giới tự nhiên, về vị trí của con người trong hệ thống tự
nhiên – xã hội – con người, cần phải nâng cao hiểu biết của con
người về cái thân thể vô cơ, đồng thời tự giác điều chỉnh hành động
của mình phù hợp với quy luật của giới tự nhiên.
Như vậy, có thể nói khi nhấn mạnh năng lực chinh phục giới tự
nhiên của con người, C.Mác và Ăngghen chỉ hàm ý đề cập đến hoạt
động mang tính tự giác của con người – hoạt động tiến hành trên cơ sở
nhận thức những quy luật của tự nhiên, chứ không phải là những hành

động mù quáng theo kiểu “thống trị”, “cưỡng đoạt”, bất chấp quy luật
nội tại, khách quan của giới tự nhiên. Triết lý của các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên đã chỉ rõ cơ sở

11
hiện thực của chiến lược phát triển bền vững mà ngày nay con người
đang hướng tới.
1.2.2 Nội dung cơ bản của xây dựng đạo đức sinh thái
Xây dựng đạo đức sinh thái là quá trình xây dựng mối quan hệ
hài hòa giữa con người với môi trường sống xung quanh, nhận thức
đúng đắn mối quan hệ hữu cơ giữa con người và tự nhiên, đảm bảo
tính chỉnh thể toàn vẹn của hệ thống tự nhiên - con người - xã hội,
thực hiện một cách có ý thức tích cực các hoạt động phù hợp với các
quy luật của tự nhiên, bảo vệ tự nhiện. Như thế, con người cần phải
nắm được bản chất, quy luật tồn tại, vận hành của tự nhiên cùng với
những hiện tượng, biểu hiện cụ thể, đa dạng của nó. Đồng thời, điều
chủ yếu là con người cần có năng lực vận dụng đúng đắn các quy luật
của tự nhiên vào mọi hoạt động thực tiễn của mình, cũng như cần tạo
ra một cuộc sống hài hòa, hòa hợp với tự nhiên.
Có thể nói xây dựng đạo đức sinh thái là quá trình phức tạp,
lâu dài, liên quan đến cấu trúc của đạo đức sinh thái. Khi phân tích
cấu trúc của đạo đức sinh thái người ta xem nó dưới nhiều góc độ.
Mỗi góc độ cho phép chúng ta nhìn ra một lớp cấu trúc xác định.
Trong khuôn khổ nghiên cứu, luận văn này xem việc xây dựng đạo
đức sinh thái là quá trình tiến hành xây dựng đồng bộ ý thức đạo đức
sinh thái và hành vi đạo đức sinh thái, quan hệ đạo đức sinh thái.
Tóm lại, xây dựng đạo đức sinh thái mới là quá trình thiết lập
quan hệ đạo đức đúng đắn, tạo sự thống nhất hữu cơ giữa lợi ích của
tự nhiên và lợi ích của con người, để mỗi cá nhân đều có ý thức sử
dụng hợp lý tài nguyên, tôn trọng môi trường sinh thái đồng thời có

những hành động cụ thể, kịp thời bảo vệ môi trường, sao cho phát
triển xã hội hiện tại nhưng không làm ảnh hưởng đến nhu cầu của thế
hệ tương lai. Cụ thể hơn là ta phải xây dựng tình yêu thiên nhiên,
sống thân thiện với môi trường thiên nhiên, bồi dưỡng lòng yêu
thương con người, đảm bảo sự hài hòa giữa quyền lợi của chính mình
với quyền lợi của người khác và cộng đồng. Muốn thế, con người cần

12
phải nắm được bản chất, quy luật tồn tại, vận hành của tự nhiên cùng
với những hiện tượng, biểu hiện cụ thể, đa dạng của nó. Đồng thời,
con người cần có năng lực vận dụng đúng đắn các quy luật của tự
nhiên vào mọi hoạt động thực tiễn của mình, cũng như cần tạo ra một
cuộc sống hài hòa, hòa hợp với tự nhiên. Hơn nữa, không chỉ thiết
lập đạo đức sinh thái ở từng cá nhân mà còn phải tạo dựng nó ở trên
diện rộng, trên mỗi dân tộc, quốc gia và rộng hơn là cả nhân loại.
1.3. Những nhân tố ảnh hƣởng tới việc xây dựng đạo đức
sinh thái ở Việt Nam hiện nay
1.3.1.Các giá trị đạo đức sinh thái truyền thống
Những giá trị đạo đức sinh thái truyền thống của người Việt
Nam kể trên được hình thành trên cơ sở những quan niệm, triết lý
nhân gian và chịu ảnh hưởng của những tư tưởng đạo đức Nho giáo,
Phật giáo, Lão giáo. Trong giai đoạn hiện nay, cần phải kế thừa, phát
triển những giá trị đạo đức truyền thống cho phù hợp với thực tiễn
đất nước, xây dựng những giá trị đạo đức sinh thái theo hướng gắn
truyền thống với hiện đại, dân tộc với quốc tế, cá nhân với xã hội,
con người với tự nhiên.
Trước đây, trong quan hệ ứng xử của con người với giới tự
nhiên mới chỉ thể hiện ở trình độ thấp, theo cách thụ động khai thác,
sử dụng tự nhiên dựa vào kinh nghiệm và quan niệm “Thiên – Địa –
Nhân hòa đồng”, “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Điều đó làm

cho con người mất tính năng động, sáng tạo, kìm hãm sự phát triển
của xã hội. Trong xã hội hiện nay, điều này không còn phù hợp mà
đòi hỏi cần phải có một chuẩn mực đạo đức sinh thái mới định hướng
cho hành vi đạo đức sinh thái của con người.
1.3.2. Yêu cầu phát triển bền vững, phát triển khoa học công
nghệ và xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
 Phát triển khoa học và công nghệ
Ở Việt Nam, Việc phát triển khoa học và công nghệ được
Đảng và nhà nước hết sức quan tâm. Chiến lược phát triển khoa học

13
và công nghệ giai đoạn 2011 – 2020 xác định rõ quan điểm, mục tiêu,
định hướng nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu phát triển khoa học và
công nghệ. Chiến lược nhấn mạnh mục tiêu phát triển đồng bộ khoa
học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công
nghệ; đưa khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực then
chốt, đáp ứng các yêu cầu cơ bản của một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại; đến năm 2020, khoa học và công nghệ Việt Nam có
một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến, hiện đại của khu vực ASEAN
và thế giới. Tuy nhiên, thực trạng phát triển khoa học công nghệ ở
nước ta còn lạc hậu nên khi được ứng dụng trong sản xuất hay khai
thác tài nguyên thiên nhiên còn nhiều hạn chế, dễ gây ô nhiễm môi
trường, gây lãng phí và cạn kiệt các nguồn tài nguyên.
 Yêu cầu phát triển bền vững
Định hướng chiến lược về phát triển bền vững ở Việt Nam là
một chiến lược khung, bao gồm những định hướng to lớn trên cơ sở
hài hòa giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi
trường. Có thể nói, phát triển bền vững dưới quan điểm sinh thái học
đó là sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Vì
mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, cần phải hướng vào việc khai

thác có hiệu quả đối với môi trường tự nhiên, trong khi vẫn tránh
được sự huỷ hoại và khả năng tái tạo lâu dài của giới tự nhiên.
Để có thể phát triển bền vững, con người cần phải quan tâm
đến sự bền vững cả về mặt sinh thái lẫn về mặt xã hội. Bền vững về
mặt sinh thái là cần phải tận dụng và tái tạo các nguồn tài nguyên có
thể tái sinh; cần phải khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên sao cho
có hiệu quả cao mà vẫn đảm bảo được sự cân bằng sinh thái, tránh
được sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên và sự suy thoái về
môi trường đồng thời giảm đến mức tối thiểu về ô nhiễm môi trường.
Bền vững về mặt xã hội là phải làm thế nào để vừa đạt được tăng
trưởng kinh tế, vừa đảm bảo được những vấn đề xã hội, xây dựng
được một cuộc sống lành mạnh và giữ vững được ổn định xã hội.

14
Chúng ta chỉ có thể thực hiện được điều đó khi ý thức đạo đức sinh
thái được đề cao, hành vi đạo đức sinh thái được thực hiện, trở thành
nếp sống thường nhật trong mỗi chúng ta.
Do vậy, dưới yêu cầu của việc phát triển bền vững việc xây
dựng đạo đức sinh thái là một yêu cầu tất yếu. Thậm chí, xây dựng
đạo đức sinh thái là một trong những yếu tố đảm bảo cho quá trình
phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay.

 Xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam bước vào nền kinh tế thị trường đã hơn 20 năm. So
với lịch sử hàng nghìn năm tồn tại và phát triển của kinh tế thị trường
thì khoảng thời gian đó là quá ít, nhưng cũng đủ để chúng ta có thể
nhận ra cả những tác động tích cực, lẫn tiêu cực của nó. Kinh tế thị
trường với quy luật giá trị, nguyên tắc lợi nhuận tối đa, quan hệ cung
cầu và sự cạnh tranh đã luôn kích thích mạnh mẽ việc tìm kiếm lợi ích,
đặc biệt là lợi ích kinh tế. Vì lợi ích kinh tế trước mắt, người ta dễ dàng

bỏ qua vấn đề đạo đức và trách nhiệm, nhất là trong mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên. Khi đó, con người sẵn sang bất chấp thủ đoạn,
bất chấp pháp luật, lương tâm để đạt được lợi ích của mình, làm cho
việc xây dựng đạo đức mới gặp nhiều khó khăn. Có thể dễ dàng nhận
thấy những giá trị đạo đức sinh thái truyền thống tích cực, tốt đẹp của
dân tộc có nguy cơ bị bào mòn. Nếu như trước đây dân ta sống hòa
thuận với thiên nhiên thì nay dưới những tác động của lợi ích kinh tế,
của tính toán cá nhân đã làm mai một đi những quan niệm tốt đẹp
truyền thống về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong lịch sử.
1.3.3 Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng
đạo đức sinh thái ở Việt Nam
Hội Nghị Liên hợp quốc về Môi trường và Con người tại
Stốckholm, năm 1972 đã tuyên bố: “Bảo vệ và cải thiện môi trường
con người là một vấn đề lớn có ảnh hưởng đến phúc lợi của mọi dân

15
tộc và phát triển kinh tế trên toàn thế giới” [10,18]. Ở nước ta, vấn đề
này đã được Đảng và Nhà nước rất quan tâm.
Ngày 21-1-2009, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số
29-CT/W về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW
của Bộ Chính trị khóa IX "Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Chỉ thị của Ban Bí
thư đã đặt ra nhiều nhiệm vụ mới, nhấn mạnh nhiều quan điểm mới,
sâu sắc, có ý nghĩa chỉ đạo công tác bảo vệ môi trường trong suốt
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


CHƢƠNG 2
XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC SINH THÁI TRONG
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY:

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

2.1.Hiện trạng xây dựng đạo đức sinh thái ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Thực trạng quá trình xây dựng đạo đức sinh thái ở Việt
Nam hiện nay
 Thực trạng xây dựng ý thức đạo đức sinh thái
Từ năm 2004 đến nay, ban thường trực uỷ ban trung ương mặt
trận Tổ quốc Việt Nam liên tục lớp tập huấn nâng cao nhận thức về
môi trường và bồi dưỡng nghiệp vụ tuyên truyền, vận động, giám sát
thực hiện bảo vệ môi trường cho cán bộ chủ chốt của mặt trận các
cấp trong cả nước. Đến nay, đã hoàn thành việc tập huấn về môi
trường cho cán bộ chủ chốt của Mặt trận cấp tỉnh trong cả nước.
Thông qua các lớp huấn luyện và bồi dưỡng nghiệp vụ nói
trên, đội ngũ cán bộ của mặt trận đã được trang bị những kiến thức cơ
bản, có hệ thống về chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước về nhiệm vụ bảo vệ môi trường cũng như các kỹ năng,

16
nghiệp vụ của công tác tuyên truyền, vận động, giám sát bảo vệ môi
trường ở cơ sở, địa bàn dân cư.
Để có thể mở rộng tuyên truyền cho người dân, ban thường
trực Uỷ ban mặt trận tổ quốc Việt Nam đã chỉ đạo mở các chuyên
mục về bảo vệ môi trường trên các phương tiện thông tin đại chúng
như: Chuyên mục “Môi trường quanh ta”, chuyên mục “Toàn dân
tham gia bảo vệ môi trường”, “chương trình 327 về phủ xanh đất
trống, đồi núi trọc”, “chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường
nông thôn”
Vào dịp kỷ niệm ngày Môi trường thế giới (5/6) hàng năm, Uỷ
ban mặt trận tổ quốc các tỉnh, thành phố trên toàn quốc tổ chức các
hoạt động như mít - tinh hưởng ứng phong trào Toàn dân tham gia

bảo vệ môi trường bằng các hoạt động làm vệ sinh đường làng ngõ
xóm, các khu vực công cộng; trồng và chăm sóc cây xanh; trồng rừng
phủ xanh đất trống đồi núi trọc, xây dựng các công trình vệ sinh.
Ngoài ra, Ủy ban mặt trận tổ quốc còn tập trung vào công tác
tuyên truyền, nâng cao nhận thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường cho
nhân dân ở các vùng dân tộc thiểu số, vùng có đông đồng bào là tín đồ
các tôn giáo. Nổi bật là sự kiện chúng ta hưởng ứng tổ chức sự kiện
“Giờ trái đất” hàng năm với khẩu hiệu "Tắt đèn 60 phút, hành động 365
ngày vì biến đổi khí hậu".
Chúng ta đặc biệt hướng tới việc xây dựng, tạo lập ý thức đạo
đức sinh thái cho học sinh, sinh viên – những chủ nhân tương lai của
đất nước. Một trong những hoạt động bổ ích, thiết thực được tiến
hành trong thời gian qua là chương trình "Đại sứ môi trường”.
Tuy là trong những năm gần đây nhận thức của cộng đồng dân
cư về bảo vệ môi trường tuy đã được nâng cao nhưng vẫn còn nhiều
hạn chế. Bởi vậy trong thời gian qua, một trong những vấn đề sinh
thái nhân văn gay cấn và bức xúc nhất ở nước ta hiện nay là sự nhận
thức về môi trường và bảo vệ môi trường của người dân, thậm chí
của cả những nhà quản lý xã hội các cấp đều còn thấp, hay nói một

17
cách khác, ý thức sinh thái và lối tư duy sinh thái của người Việt
Nam cho đến nay vẫn còn ở trình độ thấp – trình độ của người sản
xuất tiểu nông và chưa được phổ biến trong toàn xã hội. Đó là thực
trạng và cũng là nguyên nhân quan trọng đưa đến những hậu quả tiêu
cực cho môi trường sống. Người dân chưa thực sự có ý thức bảo vệ
môi trường, vẫn còn tư tưởng “cha chung không ai khóc”, “sạch
mình, bẩn người”, vẫn có thái độ thờ ơ trước những hành động phá
hoại môi trường, gây ô nhiễm môi trường…
Vấn đề thiếu hụt những tri thức và thông tin về môi trường và

bảo vệ môi trường cũng là điều bức xúc.
 Thực trạng xây dựng quan hệ đạo đức sinh thái:
Đạo đức và lối sống văn hóa sinh thái truyền thống của người
Việt Nam được hình thành trên cơ sở của nền văn minh nông nghiệp
lúa nước còn ở trình độ phát triển thấp. Có thể gọi là lối sống văn hóa
sinh thái tiểu nông với đặc trưng cơ bản tích cực là sống hài hòa với
thiên nhiên, thuận theo thiên nhiên, nhưng lại chưa biết khai thác
thiên nhiên một cách khoa học, hợp lý để phát triển xã hội. Các thói
quen, phong tục, tập quán, lối sống tiểu nông đó, ngoài mặt tích cực
như đã nói, còn chứa đựng những nét chưa đẹp, không phù hợp và
bất cập so với sự phát triển của xã hội hiện đại, nhất là trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường, như sự tự do, tùy tiện, “được chăng hay chớ”, “lợi
bất cập hại”, “tham thúng bỏ nia”, thiển cận… Lối sống văn hóa sinh
thái tiểu nông còn không thích ứng với lối sống công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, thị trường hóa, đô thị hóa hiện nay.
Có thể dễ dàng nhận thấy những giá trị đạo đức sinh thái
truyền thống tích cực, tốt đẹp của dân tộc có nguy cơ bị bào mòn.
Nếu như trước đây dân ta sống hòa thuận với thiên nhiên thì nay dưới
những tác động của lợi ích kinh tế, của tính toán cá nhân đã làm mai
một đi những quan niệm tốt đẹp truyền thống về mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên trong lịch sử. Nền kinh tế thị trường ít nhiều
đã tạo ra những con người chỉ vì lợi nhuận, lợi ích cá nhân của mình

18
mà xâm hại tới lợi ích của cộng đồng xã hội, theo kiểu mạnh ai người
nấy sống. Do đó, người ta xem nhẹ các giá trị tự thân và coi nhẹ pháp
luật về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên môi trường. Trước đây, con
người quý trọng thiên nhiên bởi vẻ đẹp và lợi ích vốn có hay giá trị tự
thân của nó thì ngày nay, ngược lại, vì lợi ích của mình con người ta
chỉ thấy giá trị thực dụng của tự nhiên, nhiều danh lam, thắng cảnh

đẹp đẽ, mộng mơ như Non nước, chùa Hương, đền Hùng, Hương
Sơn…nay bị những kẻ buôn thần, bán thánh lợi dụng kiếm lời. Một
khi giá trị kinh tế được đặt lên hàng đầu thì giá trị nội tại của thiên
nhiên phải lùi lại phía sau, con người chỉ biết khai thác thiên nhiên để
đem lại lợi ích cho mình. Và như vậy, đạo đức sinh thái đã bị con
người vi phạm một cách nghiêm trọng.
Một số cá nhân chỉ biết đến lợi ích trước mắt mà không biết
đến lợi ích lâu dài, chỉ biết lợi ích cục bộ mà không biết đến lợi ích
toàn cục: khai thác rừng không đi đôi với trồng và bảo vệ rừng, làm
mất cân bằng sinh thái, xói mòn đất, làm cạn kiệt nguồn nước ngầm,
làm sa mạc hóa và hoang mạc hóa đất đai… vẫn còn tình trạng người
dân coi nhẹ các giá trị tự nhiên, phá hoại rừng, phá hoại đa dạng sinh
học thông qua việc khai thác quá giới hạn các loại tài nguyên thiên
nhiên; thái độ, tinh thần thiếu trách nhiệm của một số cán bộ thuộc
lĩnh vực quản lý tài nguyên môi trường thiên nhiên. Pháp luật về bảo
vệ môi trường còn xa lạ với người dân, do đó họ coi nhẹ pháp luật về
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên môi trường.
 Thực trạng xây dựng hành vi đạo đức sinh thái:
Về mặt xã hội, các chuẩn mực hành vi đạo đức sinh thái được
biểu hiện cụ thể ở chất lượng sinh thái của các sản phẩm sản xuất và
tiêu dùng trên thị trường. Hiện nay, bộ tiêu chuẩn quốc tế ISO 1400 đã
được nhiều nước trên thế giới sử dụng trong lĩnh vực quản lý chất lượng
môi trường, nhằm đánh giá chất lượng sinh thái của các sản phẩm.
Trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức sinh thái nêu trên,
trong những năm vừa qua, nước ta đã có nhiều công tác thiết thực để

19
bảo vệ môi trường, nổi bật là trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp.
Nhiều hội thảo, nhiều chương trình giao lưu hợp tác để kêu gọi ứng
dụng công nghệ xanh vào sản xuất nhằm cho ra mắt nhiều sản phẩm

với tiêu chí thân thiện với môi trường, đảm bảo an toàn cho cuộc
sống và tiết kiệm năng lượng. Bên cạnh đó, chúng ta khuyến khích
những hoạt động nghiên cứu khoa học để có thể ứng dụng vào sản
xuất. Ngày Trái đất tổ chức hàng năm vào 22/4 với mục đích nâng
cao nhận thức và vận động toàn dân hành động nhằm bảo vệ giá trị
của môi trường tự nhiên toàn cầu. Năm 2013, Việt Nam đã kêu gọi
mọi người cùng hành động để dừng ngay việc gây ô nhiễm sông hồ,
bảo vệ nguồn nước với khẩu hiệu: “Hãy dừng ngay các hoạt động
làm ô nhiễm nguồn nước” nhằm hưởng ứng Ngày Trái đất. Bên cạnh
đó, người dân còn tích cực tham gia hưởng ứng Giờ Trái đất, sự kiện
nhằm kêu gọi tiết kiệm điện và chống biến đổi khí hậu.
Hòa mình với xu hướng mới của thế giới, Việt Nam tiến hành
phát triển công nghệ xanh trong hoạt động sản xuất công nghiệp tạo ra
những bước phát triển mới cho sự cân bằng giữa môi trường và nhu cầu
phát triển nhanh tại Việt Nam. Đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông
tin và xây dựng, công nghệ xanh là mối quan tâm hàng đầu. Cụ thể,
chúng ta hướng đến việc sản xuất ra nhiều sản phẩm với tiêu chí thân
thiện với môi trường, cũng như những giải pháp mang tính hệ thống tối
ưu cho việc đảm bảo an toàn cuộc sống và tiết kiệm năng lượng tại thị
trường Việt Nam.
Tuy nhiên, bởi xuất phát từ thái độ, ý thức coi trọng lợi ích
của cá nhân, lợi ích cục bộ mà con người có những hành vi thiếu tinh
thần cộng đồng, khai thác trái phép tài nguyên thiên nhiên: rừng, kim
loại quý, than đá…xả nước thải công nghiệp, rác thải công nghiệp,
khí C0
2
vào môi trường không qua xử lý; xây dựng các nhà máy,
bệnh viện, khu công nghiệp, khu chế xuất gần cộng đồng dân cư sinh
sống, làm cho môi trường sống bị ô nhiễm nghiêm trọng, gây ra
nhiều loại bệnh tật hiểm nghèo…


20
Nếu chỉ tính sự hủy diệt môi trường sống do xả chất thải không
qua xử lý và nguồn nước, đất và không khí năm 2008 thì chỉ sau một
thời gian không lâu nữa , chính nhiều tộc người Việ t Nam đang sống
nơi ô nhiễm sẽ bị biến mất khỏi danh sách các dân tộc Việ t Nam .
Một trong những căn bệnh quái ác của nhân loại hiện nay là ung thư
thì ở Việ t Nam hiện có hẳn “những làng ung thư” , một căn bệnh
được công nhận là có nguồn gốc từ sự tác động của môi trường sống.
Trong lĩnh vực sản xuất, nhất là các khu chế xuất, khu công
nghiệp và làng nghề truyền thống, tình hình ô nhiễm khá trầm trọng.
Theo số liệu đánh giá của Bộ tài nguyên và Môi trường, hiện nay ở
nước ta có khoảng 40% khu công nghiệp không có hệ thống xử lý
nước thải, 90% cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không xử lý nước
thải trước khi thải ra môi trường. Hơn 70% các khu công nghiệp, hơn
90% các khu đô thị, dân cư không có hệ thống xử lý nước thải tập
trung. Hầu hết các làng nghề đang trong tình trạng báo động về ô
nhiễm môi trường.
Có một thực tế là khoảng 80% doanh nghiệp hiện nay còn thờ ơ
với nhiệm vụ này. Việt Nam thiếu những chính sách và quy định bảo
vệ môi trường nghiêm ngặt và do đang thu hút mạnh các nguồn vốn
đầu tư để phát triển nên dễ mắc vào “cạm bẫy”: trở thành nơi tiếp nhận
nhiều ngành công nghiệp “bẩn”. Ví như, ngành cán thép làm tốn nhiều
tài nguyên như đất, nước, năng lượng… nguy hại đến môi trường.
Trong khi lĩnh vực này lại không mang lại giá trị gia tăng cao, chuyển
giao công nghệ hiện đại, môi trường làm việc gây nhiều độc hại cho
người lao động. Tương tự như vậy, vừa qua các nhà máy sản xuất xi
măng cũng ồ ạt ra đời, dư thừa lớn, sử dụng lãng phí nguồn tài nguyên
đá vôi, trong khi đá vôi là phễu lọc cho nguồn nước ngầm
Ngoài các trường hợp rác thải , chất thải độc hại do các cơ sở

sản xuất của các doanh nghiệp trong nước đổ vào môi trường , còn có
lượng rác thải cực độc và cực lớn đang ồ ạt đổ vào Việ t Nam . Chỉ
trong vòng chưa đầy hai tuần, từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 5 năm

21
2008, một lượng rác thải khổng lồ với số lượng 68 container đã ồ ạt
đổ bộ vào cảng Hải Phòng, mặc dù vận đơn ghi là giấy phế liệu
Trong những hoạt động sinh hoạt thường ngày, chúng ta cũng
có thể thấy đạo đức môi trường Việt Nam còn nhiều hạn chế. Có lẽ
cũng chưa bao giờ vấn đề an toàn thực phẩm trở nên nhức nhối như
hiện nay. Vì đồng tiền, con người bất chấp mọi giá trị đạo đức, sử
dụng trái phép thuốc bảo quản thực phẩm, thuốc trừ sâu thậm chí
buôn bán hàng giả, hàng nhái kém chất lượng gây ảnh hưởng không
nhỏ đến môi trường và sức khỏe của cộng đồng. Hiện nay những hiện
tượng trên rất phổ biến trong xã hội. Vấn đề nằm ở chỗ, nếu có bị cơ
quan chức năng bắt thì hầu như chỉ dừng lại ở xử phạt hành chính.
Dư luận xã hội, ý thức đạo đức chưa thực sự đóng vai trò quan trọng
trong việc ngăn chặn những hiện tượng trên.
Đi sâu hơn nữa vào đời sống, ta thấy tình trạng bẻ cành cây,
ngắt hoa lá nơi công cộng, thản nhiên dẫm lên thảm cỏ nơi công viên
và phố xá…tuy có giảm song phần lớn là do sợ bị phạt chứ chưa thực
sự xuất phát từ ý thức bảo vệ môi trường. Tệ xả rác bừa bãi, thậm chí
cả rác thải bệnh viện, tình trạng mất vệ sinh nơi công cộng, tình trạng
ô nhiễm ở các làng nghề, mất an toàn vệ sinh thực phẩm… đều là
những hiện tượng thuộc về đạo đức môi trường.
Lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên, chọi trâu ở Đồ Sơn…được
nhiều người mô tả như những giá trị văn hóa. “Đương nhiên, phê
phán những tập tục này thật khó, song liệu có nên ca ngợi những lễ
hội này như một thứ “giá trị tinh thần” ở người Việt?” [53, 45]. Tác
giả Hồ Sỹ Quý còn đưa ra ý kiến cho rằng so với châu Âu, mức độ

yêu quý súc vật của người Việt Nam hình như kém hơn khi người ta
thản nhiên hành hạ thú vật, duy trì thói quen ăn tiết canh, uống rượu
tiết thú vật, nuốt tim, mật một số con vật (chim, rắn) hoặc tập quán ăn
thịt chó, mèo… Đó là những hiện tượng vi phạm đạo đức môi
trường, cho thấy ý thức đạo đức sinh thái của người dân Việt Nam
hiện nay còn rất thấp, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường.

22
Hiện trạng xây dựng đạo đức sinh thái ở nước ta còn nhiều hạn
chế, tất yếu dẫn đến tình trạng ngày càng xấu đi của môi trường sinh
thái. Nổi bật nhất là nguy cơ khan hiếm và cạn kiệt dần các nguồn tài
nguyên thiên nhiên cùng với sự gia tăng nạn ô nhiễm môi trường
sống. Sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở nước ta hiện
nay là vấn đề đã lên đến mức báo động, đặc biệt là rừng, đất đai,
nước ngọt và sạch, tài nguyên khoáng sản và đa dạng sinh học.
Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng môi trường sinh thái ở nước ta
hiện nay, ta có thể nhận thấy ở Việt Nam, vấn đề đạo đức môi
trường, đạo đức sinh học, đạo đức y học tới thời điểm hiện nay, vẫn
chưa thực sự được quan tâm như một vấn đề bức xúc. Đạo đức sinh
thái ở nước ta là vấn đề tồn tại nhiều hạn chế do ý thức bảo vệ môi
trường của người dân, các cơ quan, các doanh nghiệp còn thấp. Việc
tìm ra các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là một vấn đề
cấp thiết để có thể khắc phục tình trạng ngày càng xấu đi của môi
trường sống quanh ta.
2.1.2 Các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự suy giảm đạo đức sinh
thái ở Việt Nam.
 Nguyên nhân khách quan:
Xuất phát từ đặc điểm Việt Nam là nước vừa trải qua những
cuộc chiến tranh khốc liệt, kéo dài đến nay vẫn chưa thoát khỏi tình
trạng của nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu nên hậu quả của nó để lại

cho môi trường và xã hội còn rất nặng nề, phải thời gian dài mới khắc
phục được.
Mặt trái của kinh tế thị trường là một tác nhân dẫn đến sự suy
giảm chất lượng môi trường. Bên cạnh đó, nền kinh tế của Việt Nam
là nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ, ý thức bảo vệ môi trường
của người dân không cao.
 Nguyên nhân chủ quan
Do nhận thức không đầy đủ về quy luật tự nhiên và ý thức bảo vệ
môi trường của người dân còn bị hạn chế. Nhận thức của cộng đồng về

23
lợi ích bảo vệ môi trường còn hạn chế. Chế tài thực hiện và việc thực
hiện chức năng bảo vệ môi trường của một số cơ quan liên quan còn
nhiều bất cập.
Thêm vào đó, hệ thống chính sách pháp luật chưa hoàn thiện
thậm chí luật pháp về bảo vệ môi trường và nhiều văn bản pháp lý
dưới luật đã được công bố nhưng chưa được thực thi một cách
nghiêm minh.
Quan điểm phát triển bền vững của Đảng chưa được nhận
thức, tiếp thu và coi trọng. Các chính sách xã hội trong lĩnh vực môi
trường và bảo vệ môi trường chưa thực sự cập nhật và phù hợp. Ở
Việt Nam, nạn nghèo đói và giảm tốc độ dân số tăng quá nhanh. Đây
là hai vấn đề to lớn, mang tính đặc thù của các nước đang phát triển.
Việc giáo dục, truyền thông, trang bị những tri thức về môi
trường và bảo vệ môi trường, một mặt, tiến hành còn chậm chạp và
không hiệu quả.
Việc giáo dục và đào tạo chính quy về môi trường và sinh thái
tiến hành không đồng bộ.
Những nguyên nhân trên cần phải được khắc phục bằng những
giải pháp cụ thể, đồng bộ và mang tính khả thi để có thể xây dựng

được ý thức đạo đức sinh thái đúng đắn, đáp ứng được yêu cầu phát
triển bền vững. Việc xác định được nguyên nhân cũng chính là một
trong những cơ sở để đề ra giải pháp đúng đắn.
2.2 Một số giải pháp xây dựng đạo đức sinh thái mới ở Việt Nam
hiện nay
Việc xây dựng đạo đức sinh thái mới cần phải được tiến hành bằng
những biện pháp cụ thể, mang tính khả thi cao và đem lại hiệu quả thiết
thực trong thực tiễn.
2.2.1. Giải pháp về xây dựng ý thức đạo đức sinh thái
Các giải pháp xây dựng ý thức đạo đức sinh thái có thể chia
thành ba nhóm cơ bản:
Nhóm giải pháp thứ nhất: Đổi mới nhận thức của người dân
và hoàn thiện cơ chế tổ chức quản lý của Đảng và Nhà nước sẽ

24
góp phần hình thành và xây dựng ý thức đạo đức sinh thái mới
một cách rộng rãi.
Nhóm giải pháp thứ hai: Xây dựng ý thức đạo đức sinh thái
theo các hình thức biểu hiện của nó như khía cạnh chính trị, khía
cạnh pháp luật, khía cạnh đạo đức, khía cạnh thẩm mỹ, khía cạnh
văn hóa…
Nhóm giải pháp thứ ba: Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo
dục, đào tạo góp phần xây dựng ý thức sinh thái.
2.2.2. Giải pháp về xây dựng quan hệ đạo đức sinh thái
Trong xã hội, lợi ích được điều chỉnh bằng các biện pháp kinh
tế, luật pháp và đạo đức (sự tự ý thức của con người). Các biện pháp
này gắn bó chặt chẽ với nhau, đặc biệt là biện pháp kinh tế và luật
pháp. Bởi vậy, trước hết cần phải có một “Bộ luật về môi trường và
bảo vệ môi trường” một cách hoàn chỉnh, toàn diện, sát thực, các
điều luật phải rõ ràng, cụ thể. Bộ luật này cùng với những văn bản

dưới luật vè môi trường sẽ là hành lang pháp lý cho hoạt động bảo vệ
môi trường. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là phải làm cho bộ luật
đó có hiệu lực và thực thi một cách nghiêm minh. Ở đây, phải cần
đến các biện pháp kinh tế như một công cụ vừa thúc đẩy các hoạt
động tích cực, vừa trừng phạt, ngăn chặn các hoạt động tiêu cực của
con người trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Từ đây, có thể rút ra một số giải pháp sau đây: Cần có sự cân
nhắc giữa chi phí và lợi ích; cần có sự phối hợp hài hòa giữa lợi ích
trước mắt và lợi ích lâu dài; cần có sự phối hợp hài hòa giữa lợi ích
cục bộ với lợi ích toàn cục. Mục đích của nó là đảm bảo sao cho toàn
bộ sự phát triển không dẫn đến sự suy thoái về môi trường và cân
bằng sinh thái, đảo bảo đa dạng sinh học và tính lâu bền.
2.2.3. Giải pháp về xây dựng hành vi đạo đức sinh thái
Bảo vệ môi trường phải gắn với những hành động thiết thực.
Thay vì chỉ quảng cáo và trình chiếu các loại hình giải trí, các nhà
mạng có thể gửi thêm thông điệp xanh, hình ảnh kêu cứu của trái đất
và viễn cảnh tương lai sẽ xảy ra. Báo chí và các đài phát thanh cũng

25
nên tuyên truyền không ngừng chiến dịch này, nhanh chóng dựng các
áp phích, băng rôn, cũng như bảng hiệu kêu gọi người dân một cách
rộng rãi.
Trong học đường, chúng ta nên đưa vào giáo trình những bài học,
kiến thức bảo vệ môi trường, giáo dục các em một cách khoa học và
thiết thực hơn so với những bài học lý thuyết xa vời với trẻ nhỏ.
Trong tổ chức đoàn thể, theo tôi, bảo vệ môi trường phải được
lấy làm một trong những tiêu chí hoạt động và phát triển. Ý thức phải
được nâng lên thành hành động cụ thể, và chúng ta cần phải hỗ trợ,
động viên, thúc đẩy nhau hướng đến hành trình giải cứu trái đất bằng
những hành động thiết thực: chốt đèn xanh đèn đỏ nên lắp thêm bảng

hiệu báo người đang điều khiển phương tiện lưu thông nhanh chóng
tắt máy
Rác thải là một vấn đề lớn vì vậy các cụm dân cư, phường xã
cần thực hiện nghiêm chỉnh việc phân loại rác tại nhà.
Trên đây, tác giả mới chỉ nêu lên một số biện pháp xây dựng
hành vi đạo đức sinh thái có ý nghĩa thiết thực, dễ áp dụng vào thực
tiễn để có thể điều chỉnh hành vi của con người trong quá trình khai
thác, sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.

×